 
                                                    Bộ trưởng Nguyễn Văn Thể cho biết một số dự án cao tốc Bắc – Nam hiện đạt tiến độ khoảng 20-35%. Ông cam kết sẽ đưa dự án về đích đúng hẹn vào năm 2023.
- 
Bộ trưởng Nguyễn Văn Thể cam kết cao tốc Bắc – Nam về đích đúng hẹnTrả lời những thắc mắc của đại biểu Quốc hội, Bộ trưởng GTVT 
 Nguyễn Văn Thể cho biết đến hết tháng 9/2021, bình quân giải ngân vốn đầu tư cả
 nước là 47.8% nhưng ngành GTVT đã giải ngân 61,2%.“Điều này thể hiện sự quyết tâm của Bộ GTVT, tuy nhiên trong 
 đó còn có 2 dự án trọng điểm còn triển khai chậm là dự án sân bay Long Thanh và
 cao tốc Bắc – Nam phía đông với nhiều nguyên nhân”, ông Thể nói.Đối với dự án cao tốc Bắc – Nam, Bộ trưởng GTVT cho biết tại 
 Nghị quyết 52 có quyết định 3 dự án đầu tư công và 8 dự án đối tác công – tư. Với
 3 dự án đầu tư công, đến thời điểm này đã bám sát theo Nghị quyết của Quốc hội
 và dự kiến hoàn thành đúng tiến độ. Đến cuối năm nay sẽ hoàn thành 2 dự án là
 Cao Bồ – Mai Sơn và Cam Lộ – La Sơn. Riêng dự án cầu Mỹ Thuận 2 là dự án cầu
 dây văng lớn, Quốc hội đã cho phép hoàn thành cuối năm 2023. Dự án này đến nay
 đã đạt tiến độ khoảng 70%.Tháng 6/2020, chúng ta đấu thầu các dự án đối tác công – tư 
 gồm cả đầu thầu quốc tế và trong nước. Tuy nhiên, việc tổ chức đấu thầu gặp nhiều
 khó khăn do các nhà đầu tư lớn về tài chính ít tham gia, trong khi đó lại có
 nhiều nhà đầu tư tham gia là các nhà thầu.Sau đó, dưới tác động của dịch Covid-19, Chính phủ đã đề xuất 
 Quốc hội chuyến một số dự án sang đầu tư công để kích cầu và đẩy nhanh tiến độ.
 Quốc hội sau đó đã ban hành Nghị quyết 117 chuyển 3 dự án sang đầu tư công và
 cho phép đến năm 2022 sẽ hoàn thành.Đến nay, 3 dự án này đã đạt tiến độ khoảng 20-35%. Với khó 
 khăn lớn nhất về đất sét đắp nền, vừa qua Chính phủ đã ban hành 2 Nghị quyết 60
 và 133, đến nay thủ tục mở các mỏ đất đã đáp ứng được yêu cầu. Bộ trưởng GTVT
 cam kết sẽ tập trung tiến độ để hoàn thành 3 dự án này vào cuối năm 2022.Đến tháng 2, Quốc hội tiếp tục ban hành Nghị quyết chuyển 2 
 dự án sang đầu tư công và cho phép Bộ GTVT hoàn thành 2 dự án này vào cuối năm
 2023. Đến nay cả 2 dự án đã được triển khai toàn bộ các gói thầu xây lắp và đạt
 tiến độ 2-5%. Ông Thể tiếp tục cam kết hoàn thành 2 dự án này đúng theo Nghị
 quyết được Quốc hội giao.Bộ trưởng Nguyễn Văn Thể cho biết một số dự án cao tốc Bắc – 
 Nam hiện đạt tiến độ khoảng 20-35%. Ông cam kết sẽ đưa dự án về đích đúng hẹn
 vào năm 2023.
- 
Tiềm năng của kinh tế sáng tạo tại Việt Nam?Đặt câu hỏi với Bộ trưởng KHĐT, đại biểu Nguyễn Hải Anh (Đồng 
 Tháp) cho biết ngành kinh tế sáng tạo với trụ cột chính là công nghiệp sáng tạo
 hiện nay được nhiều quốc gia quan tâm và coi là động lực quan trọng thúc đẩy
 tăng trưởng, bảo vệ môi trường, gìn giữ và phát huy các giá trị văn hóa.Theo báo cáo của UNESCO năm 2015, kinh tế sáng tạo đóng góp 
 khoảng 3% GDP của thế giới với doanh thu 2.250 tỷ USD, dự báo đến năm 2030 sẽ
 đóng góp 10% GDP thế giới. Theo hãng tư vấn PwC, trong khi nhiều nền kinh tế lớn
 trên thế giới gặp khó khăn do tác động của đại dịch Covid-19, ngành kinh tế
 sáng tạo dự báo vẫn sẽ đạt tăng trưởng tích cực 4,6% trong năm 2021.“Đánh giá của Bộ trưởng KHĐT về quy mô và tiềm năng của 
 ngành kinh tế sáng tạo tại Việt Nam như thế nào và giải pháp để thúc đẩy ngành
 kinh tế sáng tạo này”, ông chất vấn.Trả lời câu hỏi, Bộ trưởng KHĐT cho biết hiện nay, khái niệm 
 về kinh tế sáng tạo hay cụ thể hơn là kinh tế số chưa có một nghiên cứu đầy đủ
 về khái niệm cụ thể là như thế nào, hiện nay sử dụng nhiều thuật ngữ khác nhau.Theo nghiên cứu mới thì tiềm năng tăng trưởng nền kinh tế 
 sáng tạo của Việt Nam có thể đạt 29-30%/năm. Như vậy, Việt Nam đang rất có tiềm
 năng phát triển lĩnh vực này.Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng cho biết tại Nghị quyết của Đại hội 
 Đảng cũng đưa ra mục tiêu đến năm 2025, kinh tế số sẽ chiếm 20% GDP cả nước, đến
 năm 2030 chiếm 30% GDP.Những vấn đề này đã được Chính phủ giao cho Bộ Thông tin và 
 Truyền thông xây dựng chương trình chuyển đổi số quốc gia và xây dựng chiến lược
 phát triển kinh tế số của Việt Nam.Chiến lược này trước hết tập trung vào xây dựng hạ tầng số 
 trong nước, hỗ trợ chuyển đổi số của các cơ quan quản lý Nhà nước, xây dựng có
 sở dữ liệu, để xây dựng nền tảng, mang lại lợi ích hiệu quả hơn cho doanh nghiệp
 và người dân. Ngoài ra, các chính sách về hỗ trợ chuyển đổi số nhanh cho các
 doanh nghiệp của Việt Nam cũng đang được thực hiện.  
- 
Chưa nên đặt vấn đề sửa Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừaĐại biểu Nguyễn Văn Thân (Thái Bình) hỏi suy nghĩ của Bộ trưởng 
 về những quy định không còn phù hợp trong Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa
 cũng như việc kéo dài thời hạn giảm 30% thuế thu nhập cho doanh nghiệp nhỏ và vừa
 đến năm 2023.Trả lời, Bộ trưởng KHĐT Nguyễn Chí Dũng chia sẻ Luật Hỗ trợ 
 doanh nghiệp nhỏ và vừa rất quan trọng nhưng mới ban hành, Chính phủ mới ban
 hành Nghị định 80 để hướng dẫn thực hiện các chương trình hỗ trợ doanh nghiệp
 trong luật này. Hiện nay, các quy định liên quan đang được triển khai thực hiện,
 còn vấn đề gì cần triển khai để hỗ trợ doanh nghiệp thì Chính phủ chỉ đạo rà
 soát, nghiên cứu để bổ sung vào Nghị định 80.“Tôi nghĩ thời gian tới chúng ta cần tập trung triển khai thực 
 hiện hiệu quả Nghị định 80, hỗ trợ cho các cụm liên kết ngành, chuyển đổi số
 cho doanh nghiệp… là những thứ cần làm ngay, còn đặt vấn đề sửa luật thì chưa
 nên. Chúng ta sẽ chậm lại để có đánh giá, tổng kết sau”, ông Dũng nói.
- 
Có thể phát hành trái phiếu để huy động 180.000 tỷ trong dânTrả lời một số câu hỏi về chính sách tài khóa trong thời 
 gian tới, Bộ trưởng Tài chính Hồ Đức Phớc cho rằng sẽ áp dụng linh hoạt các
 chính sách về thuế, thu chi ngân sách đảm bảo cho nền kinh tế phát triển nhanh,
 bền vững.Đối với chính sách thuế, Bộ trưởng Tài chính đề nghị Quốc hội, 
 Chính phủ tiếp tục áp dụng giãn, hoãn thuế, phí, giảm thuế đối với giá xăng dầu
 lĩnh vực hàng không. Ngoài ra, thuế VAT, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế các hộ
 sản xuất kinh doanh; giãn khoản thuế cho hộ, doanh nghiệp chậm nộp khi làm ăn
 thua lỗ.Bên cạnh đó, ông Phớc cho biết Bộ sẽ tập trung thu trên nền 
 tảng số, sàn thương mại điện tử, phát hành hóa đơn điện tử để tránh hoàn thuế,
 trốn thuế.Ông cũng cho biết đến nay, nợ công của nước ta là 56,8%, vẫn 
 dưới 60% nhưng vượt ngưỡng cảnh báo (55%). Dư nợ Chính phủ là 51,8%, như vậy
 năm 2021 nợ công khoảng 3 triệu 750 tỷ đồng. Bộ trưởng Tài chính cho biết ông ủng
 hộ các gói kích cầu, song các gói này phải phát huy hiệu quả để tăng thu ngân
 sách mà không tăng bội chi ngân sách.Ông cho biết đã tính đến việc huy động nguồn lực cho chương 
 trình phục hồi kinh tế. Trong đó có việc phát hành trái phiếu Chính phủ để huy
 động tiền trong dân với số tiền khoảng 180.000 tỷ trong 2 năm.Song, ông cũng lưu ý khi nền kinh tế có nguồn tiền rồi, liệu 
 có hấp thụ được tốt không và hấp thụ ở những lĩnh vực nào, ông cho rằng nên tập
 trung vào các dự án đầu tư công, công trình trọng điểm, những lĩnh vực kinh tế
 tạo đột phá để tăng trưởng. Ông cho rằng nên sớm lập các dự án để có thể sử dụng
 hiệu quả nguồn tiền trong các gói kích cầu.Về chi ngân sách, ông Phớc cho rằng trước mắt cần tiết kiệm 
 chi thường xuyên mà chuyển sang chi đầu tư phát triển. Ông cho biết đã cắt giảm
 được 10% chi thường xuyên, thời gian tới Bộ đề nghị cắt giảm tiếp 10% nữa để đầu
 tư và chống dịch.  
- 
Còn dư địa để giảm lãi suất?Phát biểu trước Quốc hội, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn 
 Thị Hồng cho biết đại dịch Covid-19 đã tác động nghiệm trọng đến tình hình hoạt
 động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp và người dân.Từ đầu năm 2020 khi dịch bệnh xảy ra, trong tổ chức điều 
 hành về lãi suất, NHNN đã 3 lần giảm lãi suất điều hành với tổng mức giảm
 1,5-2%/năm. Đây là mức giảm sâu so với các nước trong khu vực.Bên cạnh đó, NHNN cũng đã chỉ đạo và kêu gọi các tổ chức tín 
 dụng thực hiện giảm lãi suất và mặt bằng đã giảm khoảng 1,66%/năm so với trước
 dịch.Thống đốc NHNN cho biết thêm từ khi có dịch Covid-19 đến 
 nay, các tổ chức tín dụng đã giảm khoảng 30.000 tỷ đồng tiền lãi để hỗ trợ người
 dân, doanh nghiệp và sẽ tiếp tục thực hiện giảm từ nay cho đến cuối năm. Ngoài
 ra, hệ thống ngân hàng đã giảm hơn 2.000 tỷ đồng tiền phí cho các khách hàng.“Thông qua các chính sách giảm lãi suất, phí này đã giảm được 
 chi phí đầu vào của các doanh nghiệp và người dân”, Thống đốc Nguyễn Thị Hồng
 chia sẻ.Lãnh đạo NHNN cho biết nhiệm vụ của hoạt động quản lý tiền tệ 
 là đảm bảo điều hành của ngân hàng trung ương, góp phần kiểm soát lạm phát và ổn
 định kinh tế vĩ mô, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế, nhưng không chủ quan với lạm
 phát và đảm bảo vai trò huyết mạch của nền kinh tế.Theo đó, các TCTD phải vừa hoạt động đảm bảo an toàn, hiệu 
 quả để sẵn sàng khả năng chi trả cho khách hàng vừa phải hỗ trợ người dân,
 doanh nghiệp. Vì vậy, việc xem xét các chính sách, công cụ thời gian tới, NHNN
 luôn phải đảm bảo đạt được 2 mục tiêu. Đồng thời, đảm bảo các cân đối lớn của
 vĩ mô như nợ công, bội chi ngân sách.Thống đốc cho biết để có thể xác định còn dư địa giảm lãi suất 
 nữa hay không, qua đánh giá thực trạng về hoạt động tiền tệ của ngân hàng và
 kinh tế vĩ mô, NHNN cho rằng mục tiêu kiểm soát lạm phát dưới 4% năm nay có thể
 đạt được (lạm phát đến hết tháng 10 là 1,81%). Tuy nhiên, trong năm 2022, rủi
 ro lạm phát đang có áp lực lớn.Phân tích rõ hơn, Thống đốc Nguyễn Thị Hồng cho biết các nền 
 kinh tế thế giới đang gần phục hồi khi chiến lược vaccine bao phủ, điều này dẫn
 tới giá cả hàng hóa đang có xu hướng gia tăng, các chỉ số của giá nhiều mặt
 hàng hóa như xăng dầu đã tăng 55% so với cuối năm trước. Các nước phát triển
 thì lạm phát đã tăng lên mức cao nhất trong lịch sử với Mỹ tăng 5,3% trong
 tháng 9.Trong khi đó, nền kinh tế Việt Nam có độ mới cửa lớn với tổng 
 kim ngạch xuất nhập khẩu đạt trên 200% GDP nên áp lực rủi ro lạm phát nhập khẩu
 rất lớn.Về chính sách lãi suất, lãnh đạo NHNN cho biết các ngân hàng 
 trung ương thế giới đang có xu hướng dừng chính sách nới lỏng tiền tệ. Hiện có
 tới 65 lượt tăng lãi suất trên thế giới.Trong khi đó, với thị trường trong nước, nợ xấu của các tổ 
 chức tín dụng đang gia tăng. Trong thời gian vừa qua, các ngân hàng đã giảm lãi
 suất bằng chính nguồn lực tài chính của mình chứ không phải tiền ngân sách, nên
 khi nợ xấu gia tăng chắc chắn bản thân các ngân hàng phải sử dụng nguồn lực tự
 có để xử lý.“Nếu để tình hình tài chính của các tổ chức tín dụng suy giảm 
 sẽ ảnh hưởng tới khả năng chi trả và an toàn của hệ thống. Đây là bài học kinh
 nghiệm rất lớn từ thời gian trước khi mà tăng trưởng tín dụng cao, thực hiện
 các gói hỗ trợ lãi suất năm 2008, không tính toán cẩn thận dẫn đến rủi ro lạm
 phát năm 2011, có thời điểm lên tới 18%”, Thống đốc nhấn mạnh.Về phía NHNN, Thống đốc Nguyễn Thị Hồng cho biết trong thời 
 gian tới, cơ quan quản lý tiền tệ sẽ tiếp tục chỉ đạo hệ thống các tổ chức tín
 dụng tiết giảm chi phí hoạt động để tiếp tục giảm lãi suất. Tuy nhiên, vẫn phải
 đảm bảo an toàn hoạt động của từng tổ chức tín dụng cũng như toàn hệ thống để
 tránh tác động dây chuyền.Đồng thời NHNN sẽ tiếp tục phối hợp với các Bộ Tài chính, Bộ 
 KHĐT để tính toán gói hỗ trợ lãi suất với quy mô, phạm vi, đối tượng hợp lý
 trên cơ sở vẫn đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô và phòng ngừa rủi ro lạm phát cũng
 như phòng ngừa rủi ro đối với an toàn hoạt động của hệ thống ngân hàng.  
- 
Sẽ làm đường ven biển Đồng bằng sông Cửu Long giai đoạn 2021-2025Liên quan đến ý kiến của đại biểu Trần Thị Ngọc Diễm (Sóc 
 Trăng) về việc đầu tư 2 tỷ USD cho Đồng bằng sông Cửu Long, trong đó có làm đường
 ven biển, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng chia sẻ đây là dự án ODA nên chúng ta không
 chỉ thực hiện một quy trình, thủ tục theo quy định của luật trong nước mà còn
 phụ thuộc quy trình nước ngoài, nên mất thời gian hơn. Song theo ông Dũng, nếu
 không làm nhanh theo thủ tục rút gọn hay quy trình đặc biệt thì khó triển khai
 trong giai đoạn 2021-2025.“Chúng tôi sẽ nghiên cứu để hài hòa hóa các thủ tục trong nước 
 nước và nước ngoài để làm sao đảm bảo quy định nhưng rút ngắn thời gian, mục
 tiêu là triển khai ngay trong 2021-2025 để giúp Đồng bằng ứng phó với biến đổi
 khí hậu”, Bộ trưởng KHĐT cam kết.
- 
Chậm lập quy hoạch vì lần đầu tiên làm quy hoạch tổng thểTrả lời câu hỏi của đại biểu Trần Văn Tiến (Vĩnh Phúc) về 
 công tác lập quy hoạch, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng thừa nhận việc triển khai lập
 quy hoạch còn chậm.Giải thích vì nguyên nhân khách quan, ông Dũng cho biết do 
 chúng ta lần đầu tiên thực hiện theo phương pháp tích hợp, làm quy hoạch tổng
 thể. “Trước đây cả nước chưa bao giờ làm quy hoạch tổng thể mà chỉ làm quy hoạch
 từng ngành. Cũng vì lần đầu tiên nên năng lực tư vấn và các kiến thức các cơ
 quan chưa theo kịp, số lượng nhiều, làm đồng thời trong cùng một thời gian nên
 thực hiện còn đang rất khó”, ông Dũng trần tình.Đến nay, ông thông tin đã xây dựng xong khung định hướng quy 
 hoạch tổng thể quốc gia để tình Thủ tướng; quy hoạch 5 vùng kinh tế còn lại
 cũng cơ bản đã xong tới phần nghiên cứu và đang lấy ý kiến hoàn thiện, sẽ trình
 Thủ tướng sớm nhất trong tháng 11-12 để các địa phương, bộ ngành dựa trên khung
 định hướng này lập quy hoạch của ngành, địa phương mình mà không nhất thiết chờ
 xong quy hoạch cấp trên mới lập quy hoạch cấp dưới.Với các quy hoạch ngành, Bộ trưởng KHĐT đã có 19/38 quy hoạch 
 đã hoàn thành, quy hoạch tỉnh có 20/63 quy hoạch đã hoàn thành.Ông Dũng cho biết Chính phủ và Thủ tướng đã có 2 nghị quyết 
 đôn đốc yêu cầu tất cả quy hoạch từ quy hoạch quốc gia đến quy hoạch ngành, quy
 hoạch tỉnh phải hoàn thành trước 31/12.“Chúng tôi đang đôn đốc các địa phương, bộ ngành để đảm bảo 
 tiến độ trong thời gian tới”, ông Dũng nói.  
- 
Tại sao không hỗ trợ dân trực tiếp bằng tiền mặt?Trong phần tranh luận, đại biểu Nguyễn Văn Hiển (Lâm Đồng) 
 đưa ý kiến đồng tình với nhiều quan điểm Bộ trưởng KHĐT đã nêu về kế hoạch xây
 dựng gói hỗ trợ phục hồi kinh tế. Tuy nhiên, đại biểu cho biết câu hỏi của ông
 là theo các chuyên gia, để hỗ trợ an sinh xã hội và phục hồi kinh tế sau đại dịch,
 Việt Nam một gói hỗ trợ tài khóa đủ lớn quy mô khoảng 3-4% GDP, trong đó phải
 có gói hỗ trợ trực tiếp bằng tiền mặt, chứ không phải cần gói hỗ trợ 3-4% GDP bằng
 tiền mặt.Vấn đề đặt ra là nếu làm như vậy sẽ dẫn đến thâm hụt ngân 
 sách và sẽ phải vượt bội chi ngân sách, tăng nợ công, nợ Chính phủ. Nhưng nếu
 gói hỗ trợ không đủ lớn sẽ khiến nền kinh tế chậm phục hồi so với các nước và
 kéo theo nhiều hệ lụy.Ông cũng đánh giá trong báo cáo kinh tế xã hội của Chính phủ 
 hiện nay cũng không thể hiện rõ một kế hoạch tổng thể và một mức chi cho gói hỗ
 trợ tài khóa, tiền tệ để phục hồi nền kinh tế. Trên từng lĩnh vực thì đã có báo
 cáo về các gói hỗ trợ này tuy nhiên còn rất riêng lẻ, đại biểu Hiển cho biết
 mong muốn ở đây là cần có một kế hoạch tổng thể, thống kê, tổng hợp và dự báo đầy
 đủ.Ngoài nguồn lực của ngân sách thì cần có chương trình để huy 
 động cả nguồn lực bên ngoài ngân sách để phục hồi và phát triển kinh tế. Ông
 Nguyễn Văn Hiển đề nghị Bộ KHĐT và Chính phủ làm rõ các vấn đề này.Trả lời phần tranh luận trên, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng cho 
 biết với các gói hỗ trợ phục hồi kinh tế, việc quan trọng đặt ra nếu không nới
 trần nợ công và trần bội chi thì sẽ không có nguồn lực để phục hồi và phát triển.Tuy nhiên, nếu nới các chỉ tiêu này mà thực hiện không hiệu 
 quả sẽ dẫn tới hệ lụy cho nền kinh tế, mất cân đối vĩ mô, cân đối lớn.“Vậy nới bao nhiêu là đủ, 1-2% hay nhiều hơn, nới ra rồi thì 
 huy động bằng cách nào, xử lý vào đâu cho hiệu quả”, Bộ trưởng KHĐT chia sẻ.Theo ông Dũng, hiện nay các vấn đề này đang được các bộ, 
 ngành tính toán và chưa đưa ra kịch bản 1 cách cụ thể, Các kịch bản đã được xây
 dựng nhưng tạm thời chưa báo cáo Quốc hội tại kỳ họp này mà phải cần thời gian
 để tính toán kỹ lưỡng và báo cáo các cấp thẩm quyền trước khi đưa ra trình Quốc
 hội.Tuy nhiên, Bộ trưởng KHĐT nhấn mạnh sẽ lưu ý các vấn đề đại 
 biểu Hiển chia sẻ trong quá trình xây dựng chương trình.  
- 
Tranh luận về tăng bội chi và nợ côngTranh luận với Bộ trưởng KHĐT về khả năng tăng bội chi và nợ 
 công, đại biểu Lê Minh Nam (Hậu Giang) cho rằng chúng ta cần đánh giá kỹ lưỡng,
 thận trọng về nhu cầu, khả năng hấp thụ vốn đầu tư công và các yếu tố liên quan
 trước khi quyết định.Ông phân tích về nợ công cuối năm 2021 ước tính 44% GDP – ở 
 mức thấp, do từ năm 2021 ta điều chỉnh tăng GDP theo cách tính mới. Do đó giá
 trị tuyệt đối của nợ công không giảm nhưng mẫu số GDP tăng nên tỷ lệ này thấp.
 “Việc này tạo cảm giác còn dư địa tăng nợ công nhưng thực chất không hoàn toàn
 như vậy”, ông Nam nói.Ông dẫn lời Bộ trưởng Tài chính trong giai đoạn 2016-2020, tổng 
 vay của Chính phủ là 1,852 triệu tỷ đồng; giai đoạn 2021-2025 dự kiến vay 3,068
 triểu tỷ nên nợ công dự kiến năm 2025 khoảng 45,6% theo GDP mới, còn nếu tính
 theo GDP cũ khoảng 57,9% – tức đã vượt ngưỡng 55%.“Vì vậy nếu phải ưu tiên kiểm soát nợ công để đảm bảo an ninh 
 tài chính và các cân đối vĩ mô thì phải thận trọng”, ông Nam phân tích.Về bội chi, ông Nam cho biết Chính phủ đặt mục tiêu giảm dần 
 thâm hụt ngân sách giai đoạn 2021-2025 khoảng 3,7% GDP, như vậy, nếu tăng bội
 chi 1% sẽ tăng gánh nặng giảm thấp tỷ lệ này trong những năm tiếp theo nên phải
 thận trọng tỷ lệ nợ công và bội chi để hạn chế rủi ro.“Trước khi tính đến kịch bản tăng nợ công và bội chi nên 
 tính đến sử dụng các gói kích cầu, chính sách tài khóa, tiền tệ hợp lý để thúc
 đẩy phát triển kinh tế, tăng thu ngân sách, giảm bội chi và tăng cường quản trị
 nguồn lực hiện có, đặc biệt đẩy nhanh tiến độ giải ngân vốn đầu tư công”, ông
 Nam nêu quan điểm.Chia sẻ với quan điểm của đại biểu, Bộ trưởng Nguyễn Chí 
 Dũng khẳng định việc xây dựng chương trình phuc hồi kinh tế đã được tính toán
 thận trọng, trong đó có lưu ý vấn đề tăng bội chi và nợ công cũng như khả năng
 hấp thụ của nền kinh tế để không phá vỡ an toàn tài chính chung.Ông nhấn mạnh đây là vấn đề quan trọng để đảm bảo kinh tế vĩ 
 mô và các cân đối lớn nên phải tính toán thận trọng đảm bảo phục hồi, phát triển
 nền kinh tế và cân nhắc vấn đề an toàn tài chính. Cụ thể trong vấn đề này, ông
 Dũng cho biết sẽ được Bộ trưởng Tài chính và Thống đốc Ngân hàng Nhà nước chia
 sẻ sau.Riêng về đầu tư công, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng cho biết đã 
 nói rất nhiều, đây là vấn đề nan giải mà chưa giải quyết được triệt để. “Giải
 pháp đột phá để giải ngân cao hơn trong năm tới rất quan trọng, nếu làm không tốt
 thì kể cả gói hỗ trợ có tập trung cho đầu tư công cũng rất khó hấp thụ và giải
 ngân được”, ông Dũng nói.
- 
Quan tâm hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừaĐại biểu Trịnh Xuân An (Đồng Nai) đặt vấn đề khó khăn đối với 
 các doanh nghiệp nội trong giai đoạn hiện nay. 9 tháng đầu năm, ông An cho biết
 91.000 doanh nghiệp đã rút lui khỏi thị trường. Số này chủ yếu là doanh nghiệp
 nhỏ, lĩnh vực thương mại, dịch vụ.Ông đề nghị Bộ trưởng đánh giá kỹ đối với các chính sách hỗ 
 trợ khó khăn cho doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp nhỏ và vừa. Ông cũng nhấn
 mạnh vai trò của các ngân hàng trong gói hỗ trợ, cần điều chỉnh mức lãi suất hợp
 lý. Nếu số doanh nghiệp này không hồi phục kịp thời, ông tin rằng mức tăng trưởng
 6,5% GDP sẽ rất khó khăn.Thừa nhận thực trạng mà địa biểu An nêu, Bộ trưởng Nguyễn 
 Chí Dũng cho biết vừa qua các chính sách hỗ trợ mới chủ yếu hướng tới doanh
 nghiệp khỏe, có doanh thu, có lợi nhuận. Song, doanh nghiệp yếu, bị mất doanh
 thu thì chưa được quan tâm, hỗ trợ đúng mức.Các doanh nghiệp nhỏ chưa được hỗ trợ trực tiếp bằng các 
 chính sách tài khóa, mới chủ yếu là chính sách chung. “Chúng tôi lưu ý vấn đề
 này để tham mưu Chính phủ có chính sách cần thiết hỗ trợ doanh nghiệp khó khăn
 mà không có doanh thu, không có lợi nhuận”, ông Dũng nói.  
- 
Chương trình phục hồi kinh tế phải mạnh dạn hơnTrả lời câu hỏi của đại biểu Quốc hội Nguyễn Cao Sơn (Hòa 
 Bình) về việc xây dựng kịch bản để ứng phó với rủi ro, đảm bảo các cân đối lớn
 của nền kinh tế. Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng cho biết Bộ KHĐT tiếp cận theo 2 kịch
 bản là không có chương trình phục hồi hoặc có chương trình phục hồi. Từ đó xác
 định mức nợ công, bội chi, lạm phát với từng kịch bản.Hiện Bộ KHĐT đang cùng Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước thực 
 hiện chỉ đạo của Thủ tướng và Chủ tịch Quốc hội tính toán về việc sử dụng các
 công cụ về chính sách tài khóa, tiền tệ, cũng như khả năng phân bổ, sử dụng và
 hấp thụ của nền kinh tế.“Về quan điểm, chúng tôi cho rằng phải mạnh dạn hơn để phát 
 triển kinh tế, đảm bảo phục hồi phát triển kinh tế, đặc biệt là sự phục hồi của
 các doanh nghiệp. Bên cạnh đó, vẫn phải đảm bảo tăng trưởng quy mô GDP của nền
 kinh tế, tăng thu ngân sách, tạo nhiều việc làm cho xã hội nhưng vẫn đảm bảo an
 toàn về nợ công và bội chi ngân sách”, ông nói.Ông cũng nhấn mạnh công cụ quan trọng nhất là phải theo dõi 
 chặt chẽ diễn biến của giá cả, nợ xấu… điều chỉnh điều hành linh hoạt cung tiền
 để giảm áp lực lạm phát. Bảo đảm nguồn cung nguyên nhiên vật liệu, đầu tư công,
 đảm bảo hiệu quả mang tính dẫn dắt nguồn vốn ngoài Nhà nước cùng tham gia.  
- 
Chương trình phục hồi kinh tế sẽ tính đến khả năng trả nợTrả lời câu hỏi của đại biểu Nguyễn Thị Việt Nga (Hải Dương) 
 về cách tiếp cận xây dựng chương trình khôi phục nền kinh tế sau đại dịch, Bộ trưởng Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng
 nêu 7 định hướng lớn.Trước hết là tiếp cận theo diễn biến của tình hình dịch bệnh, 
 tiến độ tiêm vaccine và khả năng cung ứng thuốc điều trị khi chuyển sang trạng
 thái bình thường mới là thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch
 Covid-19. Từ đó chủ động xây dựng phương án và kịch bản để đối phó.Hai là xây dựng chính sách theo hướng mở để có thể điều chỉnh 
 linh hoạt, phù hợp với nhu cầu thực tế của các đối tượng cần hỗ trợ trong từng
 thời gian cụ thể.Ba là vừa hỗ trợ phục hồi nhanh trong ngắn hạn vừa lồng ghép 
 với chiến lược, kế hoạch 5 năm trong dài hạn.Bốn là các chính sách phải bảo đảm kinh tế vĩ mô và các cân 
 đối lớn của nền kinh tế như an toàn tài chính quốc gia, hoạt động của các tổ chức
 tín dụng và các chỉ tiêu về nợ công, lạm phát.Năm là các chính sách này hướng tới tác động cả về phía cung 
 và phía cầu, cả về kinh tế và an sinh xã hội, lao động việc làm và phải có trọng
 tâm trọng điểm.Sáu là phù hợp với khả năng huy động và trả nợ. Cuối cùng là có nhóm giải pháp kiểm soát, giám sát chặt chẽ 
 trong việc thực hiện để đạt các mục tiêu đề ra.  
- 
Không nới bội chi và nợ công khó tăng trưởngCũng trong phiên chiều 11/11, Bộ trưởng KHĐT Nguyễn Chí Dũng cho rằng nếu Chính phủ hỗ trợ bằng tiền mặt, tung tiền ra thị trường, cấp tiền cho người dân thì rủi ro, nguy cơ lớn là tăng lạm phát. Ông cũng thể hiện quan điểm ủng hộ nới bội chi và nợ công trong khoảng có thể kiểm soát được vì nếu không nới thì rất khó có điều kiện để tăng trưởng. “Không tăng trưởng thì không thể thực hiện các mục tiêu đề ra như kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội 2021-2025, chiến lược 2021-2030, khát vọng đến năm 2045 là nước phát triển”, ông Dũng nói. Cũng từ đó, ông cho rằng Việt Nam có thể bỏ hết các cơ hội từ Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, từ thời kỳ “dân số vàng” hay từ các hiệp định thương mại tự do, lỡ nhịp cuộc chơi và tụt hậu. Ông đề nghị nghiên cứu nới bội chi và nợ công để thúc đẩy quy mô nền kinh tế lớn lên, khi đó tự khắc bội chi và nợ công sẽ giảm xuống, có thể cao hơn số cũ một chút nhưng có thể chấp nhận được. Bộ trưởng KHĐT nhắc lại nếu không nới nợ công và bội chi sẽ không có đầu tư, không có phát triển.   
- 
Trình Quốc hội chương trình phục hồi kinh tế vào kỳ họp cuối nămTại phiên chất vấn chiều 11/11, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng cho biết Bộ KHĐT đang nghiên cứu tham mưu Chính phủ xây dựng chương trình phục hồi phát triển kinh tế, xã hội để trình Quốc hội trong kỳ họp tới. “Đây là một vấn đề lớn, phức tạp, quan trọng của đất nước, tác động toàn bộ tới nền kinh tế”, ông Dũng nhấn mạnh. Chương trình sẽ đảm bảo chủ động sản xuất kinh doanh cho doanh nghiệp, đảm bảo tăng trưởng 2021-2025 là 6,5-7%. Ông Dũng nói và cho biết dự kiến Chính phủ sẽ trình Quốc hội về chương trình phục hồi kinh tế vào kỳ họp cuối năm. Chương trình dự kiến kéo dài trong 2 năm (2022-2023). 
Nguồn: News.zing.vn
