Trang chủ Du lịch trong nước

Du lịch trong nước

Du lịch trong nước, tin tức du lịch trong nước, các tour du lịch trong nước, các địa điểm du lịch trong nước hấp dẫn được chúng tôi tổng hợp và đưa tin hàng ngày đến cho khách du lịch trên khắp mọi miền đất nước có được thông tin du lịch trong nước để có những thông tin hữu ích nhất cho mình và gia đình khi quyết định chọn chuyến du lịch trong nước cho mình và người thân

Xôi ngũ sắc Thanh minh

Hằng năm, cuối tháng 2, đầu tháng 3 Âm lịch, người Cao Bằng lại sắm sửa đồ cúng lễ, vàng hương… đi tảo mộ (còn gọi là Tết Thanh minh), tưởng nhớ đến tổ tiên, ông bà, cha mẹ và những người đã khuất. Món ăn đặc trưng nhất trong dịp này là xôi ngũ sắc: đỏ, đen, tím, vàng, xanh.


Mỗi màu xôi đều chứa đựng ý nghĩa sâu sắc. Xôi màu đỏ là khát vọng sống, tinh thần đoàn kết. Màu vàng của sự ấm no đầy đủ phồn thịnh. Còn màu tím thể hiện tình yêu thủy chung sắt son, bền chặt, vĩnh cửu. Màu đen thể hiện tấm lòng thành hiếu thảo của các con cháu đối với tổ tiên. Màu xanh thể hiện khát vọng hòa bình, màu của núi rừng…

Nguyên liệu làm xôi là gạo nếp hương của Cao Bằng, có độ dẻo và mùi thơm đặc trưng; chất tạo màu đều là các loại lá cây có sẵn trong tự nhiên, an toàn, không gây độc hại. Các loại xôi đều ngâm gạo với nước màu từ 6 – 8 tiếng cho hạt gạo no nước, khi chín sẽ nở ra dẻo thơm.

Xôi màu vàng dùng hoa bjoóc phón. Loại hoa này xuất hiện sau khi tiết trời lập xuân, hoa có màu trắng, nhỏ li ti kết hợp thành từng chùm, mùi thơm đặc trưng, vị hơi nồng. Đun hoa với nước ấm từ 10 – 15 phút cho đến khi nước ra màu vàng tươi, có mùi thơm đặc trưng của hoa, lọc nước rồi đem ngâm với gạo nếp, hạt gạo lên màu vàng tươi. Xôi bjoóc phón có mùi thơm đặc trưng, thơm ngon, màu sắc đẹp

Xôi màu đen dùng lá cây sau sau mọc trên rừng. Sau khi hái lá về, chọn những lá bánh tẻ thơm, băm nhỏ, giã đều tay cho nát rồi đem phơi, đun lấy nước. Gạo nếp ngâm với nước lá sau sau đến khi gạo có màu xanh thẫm, ngâm càng lâu khi đồ xôi sẽ dẻo, mềm. Xôi chín có màu đen bóng, mùi thơm đặc trưng của lá sau sau.

Xôi màu tím còn gọi là xôi cẩm, dùng lá cẩm tím mang về rửa sạch cho vào nồi đun, lọc lấy nước rồi ngâm với gạo nếp, sau đó mang đi đồ. Xôi chín có màu tím, hạt gạo bóng đẹp, có mùi thơm của lá cẩm.

Xôi màu đỏ dùng lá cẩm đỏ mang về rửa sạch đun lọc lấy nước rồi ngâm với gạo nếp, sau đó mang đi đồ. Xôi chín sẽ cho màu đỏ tự nhiên đẹp, có mùi thơm của lá cẩm.

 Xôi màu xanh dùng lá dứa cắt thành khúc sau đó cho vào máy xay hoặc giã nhỏ rồi đem hòa tan với nước lọc khuấy đều và lọc bỏ qua rây chắt lấy nước, bỏ bã lá dứa đi. Sau đó ngâm gạo với nước lá dứa. Xôi chín có màu xanh tự nhiên đẹp, hạt gạo bóng, dẻo.

Lá cẩm đỏ và tím cho các màu xôi đẹp, thơm mùi lá.

 Đối với các loại xôi, sau khi đồ lần một, để nguội rồi đồ thêm khoảng 15 – 20 phút nữa, xôi sẽ dẻo, mềm và khô hơn.

Trang Nguyễn

 

Nguồn: Dulichvn

Độc đáo các sản phẩm làm từ cây nứa

Từ những cây nứa đơn giản, dưới đôi bàn tay tỉ mỉ, khéo léo, hàng trăm sản phẩm thủ công mỹ nghệ đã được người dân xã Yên Tiến (huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định) sản xuất, đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng trong và ngoài tỉnh.


Huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định có nhiều nghề truyền thống, tiêu biểu như: sơn mài Cát Đằng, xã Yên Tiến; chạm khắc gỗ La Xuyên, Ninh Xá, xã Yên Ninh; đúc đồng Tống Xá, xã Yên Xá; thêu ren, làm nón, xã Yên Trung;… Trải qua hàng trăm năm, tinh hoa văn hóa trong các làng nghề truyền thống của Nam Định vẫn luôn được các thế hệ người dân kế thừa và phát triển trong đời sống hôm nay.

Đặc biệt, hơn 600 năm, trải qua nhiều giai đoạn thăng trầm của lịch sử, những người dân ở xã Yên Tiến (huyện Ý Yên) vẫn cần mẫn, lưu giữ nghề làm đồ thủ công mỹ nghệ từ cây nứa. Theo người dân làng nghề tại Yên Tiến, việc tạo ra những sản phẩm thủ công mỹ nghệ tinh xảo đòi hỏi người thợ phải vô cùng khéo léo, tỉ mỉ và kiên trì.

Tất cả các công đoạn làm ra sản phẩm đều được thực hiện bằng phương pháp thủ công. Trước đây, sơn mài được làm trên chất liệu gỗ. Tuy nhiên, với sự sáng tạo và thích ứng với thị trường, người dân làng nghề đã phát triển và ứng dụng thành công kỹ thuật trên cốt liệu là cây nứa.  Nứa sau khi ngâm nhiều tháng dưới nước được vớt lên phơi khô rồi gia công. Mỗi đoạn nứa sẽ được chẻ thành những nan nhỏ và tách bỏ những phần ruột, cuống thừa.

Sau đó mới dùng máy cán cho nan nứa mềm hơn để xếp thành vòng tròn lần lượt theo kích thước, dập theo khuôn có sẵn để ra sản phẩm thô và tiếp tục mang ra phơi nắng. Ngày nay, để đầu ra các sản phẩm được thuận lợi, các hộ dân làm nghề ở xã Yên Tiến sẽ phụ trách làm công đoạn thô, sau đó chuyển đến các cơ sở lớn trên địa bàn để hoàn thiện phần sơn mài. Ở các cơ sở sẽ làm những bước cuối cùng để ra sản phẩm hoàn hiện, trong đó tỉ mỉ nhất là công đoạn sơn.

Loại sơn thường sử dụng là các loại sơn công nghiệp, sơn hạt điều, sơn Nhật, sơn PU… Nhờ sự hỗ trợ của các loại máy móc nên rất nhiều công đoạn thủ công đã được thực hiện bằng máy giúp người dân làng nghề có thể sản xuất ra khối lượng hàng hóa lớn, giá thành giảm mà chất lượng vẫn đảm bảo.

Mỗi sản phẩm làm từ nứa hoàn chỉnh có giá khác nhau, tùy vào kích thước và mẫu mã. Nhờ nhanh nhạy nắm bắt thị hiếu thị trường, những người thợ ở làng nghề Yên Tiến ngoài sản xuất những sản phẩm truyền thống là bát, âu, đĩa, khay, lọ… còn mạnh dạn thử nghiệm một số sản phẩm mới như thìa, dĩa với chất liệu từ gỗ và các loại sản phẩm: lộc bình sơn khảm vỏ trứng, vẽ hoa văn trên các sản phẩm gốm, sứ hoặc tạo ra những sản phẩm có bề mặt ngoài sơn bằng nhũ bóng…

Nhiều sản phẩm mỹ nghệ của các làng nghề đã xuất sang các thị trường lớn như: Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Trung Quốc, châu Âu, Mỹ… Hiện nay, xã Yên Tiến có hàng nghìn hộ tham gia sản xuất thủ công, nhận khoán sản phẩm gia công cho các doanh nghiệp và hộ gia đình khác. Nhờ phát triển nghề truyền thống đã mang lại nguồn thu nhập khá cho các hộ dân, đóng góp tích cực vào sự phát triển kinh tế – xã hội của địa phương.

Nhận thấy tiềm năng từ nghề thủ công từ tre, nứa, có thể trở thành động lực phát triển kinh tế, thời gian qua, chính quyền xã Yên Tiến đã tạo mọi cơ chế chính sách, tạo điều kiện cho làng nghề phát triển. Cũng từ đây, nhiều HTX, cơ sở sản xuất thủ công mỹ nghệ tre nứa được thành lập, áp dụng kỹ thuật mới vào sản xuất, không chỉ giúp tạo việc làm cho người dân địa phương, mà còn giúp các sản phẩm làm từ tre, nứa của làng quê Yên Tiến vươn ra thế giới.

Quỳnh Hoa

 

Nguồn: Dulichvn

Bảo tàng Đà Nẵng – điểm đến lịch sử, văn hóa hấp dẫn du khách

UBND thành phố Đà Nẵng chuẩn bị đưa vào hoạt động Bảo tàng Đà Nẵng, đón khách phục vụ kỷ niệm 50 năm Ngày Giải phóng thành phố. Tòa Đốc lý thời Pháp mà nay là Bảo tàng Đà Nẵng sau khi khoác lên mình “tấm áo mới” đã trở thành điểm check-in đầy thú vị của nhiều bạn trẻ và du khách.


Những ngày này, thành phố bên bờ sông Hàn đang nhộn nhịp, tưng bừng cờ hoa kỷ niệm 50 năm ngày giải phóng. Dạo bước trên vỉa hè tuyến phố Bạch Đằng lộng gió sông Hàn, có một địa điểm mà du khách và rất nhiều người dân Đà Nẵng dừng chân: Tòa “Đốc lý” ngày xưa và bây giờ là Bảo tàng Đà Nẵng.

Vị trí Bảo tàng Đà Nẵng gần trung tâm hành chính, di tích thành Điện Hải…trở thành điểm nhấn lịch sử, văn hóa của Đà Nẵng

Cả 4 khối nhà của công trình đã hoàn thiện. Tòa nhà cổ đã được khôi phục cẩn trọng và phục chế gần như nguyên mẫu. Khối nhà mới được thiết kế với ngôn ngữ kiến trúc hiện đại, gam màu ghi hài hòa với tổng thể tòa nhà cổ. 

Tòa Đốc lý (thời Pháp thuộc) sau gọi là Tòa Thị Chính (trước năm 1975) có tuổi đời hơn 120 năm. Ngày 29/3/1975, lá cờ của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam đã tung bay trên nóc Tòa Thị chính. Sự kiện này đánh dấu Đà Nẵng đã hoàn toàn giải phóng. Sau năm 1975, công trình này là trụ sở của UBND rồi HĐND thành phố Đà Nẵng và giờ được chuyển đổi công năng, cải tạo trở thành Bảo tàng Đà Nẵng mới, thay thế cho Bảo tàng đang hiện diện trong khuôn viên Thành Điện Hải.

Cổng Bảo tàng ở đường Trần Phú

Dù trải qua bao biến thiên lịch sử, công trình này đều được chọn là trụ sở của bộ máy chính quyền. Điều này khẳng định tầm vóc, giá trị đặc biệt của một công trình mang tính biểu tượng đối với người dân thành phố. Sau khi hoàn thành, Bảo tàng Đà Nẵng và Di tích Thành Điện Hải gần đó sẽ trở thành điểm nhấn trong không gian văn hóa, lịch sử của thành phố.

Bảo tàng trưng bày gần 3.000 tư liệu, hiện vật bao gồm 45 chủ đề sẽ gợi mở và dẫn dắt công chúng tham quan trải nghiệm, tìm hiểu về tự nhiên và lịch sử xã hội Đà Nẵng, những câu chuyện về văn hóa cũng như khát vọng đi lên của một trong những trung tâm kinh tế – xã hội lớn của cả nước và Đông Nam Á.

Chiếc xe đạp thồ, phương tiện không thể thiếu của quân và dân ta trong kháng chiến

Ông Hoàng Anh Thế – chuyên gia lĩnh vực bảo tàng đến từ Hà Nội chia sẻ: “Bảo tàng Đà Nẵng này nằm trên tòa nhà lâu đời cả trăm năm và được cải tạo không gian mới theo tiêu chuẩn của bảo tàng. Khi tới bảo tàng này với diện trưng bày về đồ họa và hiện vật rất phong phú. Về hiện vật thì ở đây có những cổ vật rất có giá trị. Điểm nhấn ở bảo tàng Đà Nẵng này thứ nhất là hình ảnh đồ họa theo phong cách mới, rồi công nghệ như 3D mapping rồi các bộ phim được làm nên, nói chung rất ấn tượng”.

Góc trưng bày các di chỉ khảo cổ

Tháng 5/2020, UBND thành phố Đà Nẵng phê duyệt dự án đầu tư xây dựng công trình cải tạo, nâng cấp cơ sở 42 – 44 Bạch Đằng làm Bảo tàng Đà Nẵng. Dự án triển khai trên tổng diện tích hơn 8.600 m2, tổng mức đầu tư hơn 500 tỷ đồng từ ngân sách địa phương. Đến nay, bảo tàng đã hoàn thành đúng dịp kỷ niệm Ngày giải phóng thành phố Đà Nẵng.

Không gian trưng bày đô thị Đà Nẵng giai đoạn 1975-1996

Anh Lê Hải Khoa, người dân thành phố Đà Nẵng chia sẻ cảm nhận: “Tôi thấy bảo tàng ở trong thành Điện Hải đẩy ra ngoài này sẽ dễ dàng tiếp cận hơn với mọi người. Nhìn từ bên ngoài là một tòa nhà màu trắng, phong cách kiểu Pháp. Sau khi được tu sửa để trở thành bảo tàng thì mang phong cách hiện đại hơn, ấn tượng mạnh hơn so với trước. Bảo tàng lại nằm cạnh thư viện khoa học tự nhiên của Đà Nẵng, nên mọi người đến thư viện thì có thể ghé thêm bảo tàng”.

Không gian trưng bày đô thị Đà Nẵng thời Pháp thuộc

Ông Huỳnh Đình Quốc Thiện – Giám đốc Bảo tàng Đà Nẵng cho biết, bản thân bảo tàng là lĩnh vực khô khan, trước đây mọi người thường chỉ đến một lần rồi thôi. Nhưng nay bảo tàng được nằm trên tòa nhà cổ 120 năm tuổi với tràn ngập công nghệ hiện đại như công nghệ 3D, 3D Mapping sẽ đưa mọi người quay trở lại nhiều lần hơn. Bảo tàng nằm trên 2 trục đường trung tâm là Trần Phú, Bạch Đằng, nơi hàng ngày có hàng trăm lượt khách du lịch trong nước và quốc tế qua lại sẽ là công trình điểm nhấn về văn hóa của thành phố. Nội dung trưng bày tại Bảo tàng Đà Nẵng mới sẽ được xây dựng trên cơ sở 6 khu vực trưng bày bao gồm: Trưng bày thường xuyên, Trưng bày chuyên đề, Trưng bày kho mở, Trưng bày có thời hạn, Trưng bày nghiên cứu phát triển, Trưng bày ngoài trời.

Khuôn viên Bảo tàng nằm cạnh trụ sở HĐND thành phố Đà Nẵng trở thành cụm công trình văn hóa ấn tượng

Ông Huỳnh Đình Quốc Thiện cho biết thêm: “Ngoài việc trải nghiệm thông qua hình ảnh, tư liệu trưng bày thì du khách cũng sẽ trực tiếp tương tác, trải nghiệm. Ví dụ phần thiên nhiên và con người Đà Nẵng, chúng tôi cũng đã đưa ứng dụng công nghệ 3D Mapping, đây là công nghệ mới nhất hiện nay được ứng dụng tại Bảo tàng Đà Nẵng. Đến với mỗi không gian là một gam màu khác nhau mỗi ánh sáng khác nhau. Chúng tôi muốn đưa đến cho du khách sự trải nghiệm hoàn toàn khác. Đây là một trong những bảo tàng đề cao tính ứng dụng, tương tác, trải nghiệm”.

Thành Long

 

Nguồn: Dulichvn

Tinh hoa nghề chạm khắc giữa lòng Thủ đô Hà Nội

Giữa lòng Thủ đô Hà Nội, làng Ngũ Xã (quận Ba Đình) vẫn lưu giữ những giá trị truyền thống. Từ thế kỷ 17, những lò đúc đồng rực lửa nơi đây đã cho ra đời các tác phẩm tinh xảo, từ tượng Phật đến đỉnh đồng, phản chiếu tinh thần sáng tạo, bền bỉ của các nghệ nhân.


Dẫu trải qua bao thăng trầm lịch sử, những nghệ nhân làng nghề Ngũ Xã luôn động viên nhau giữ gìn tinh hoa nghề đúc đồng, khẳng định vị thế của một làng nghề cổ truyền tài hoa.

Tại làng Ngũ Xã, dân làng suy tôn Minh Không thiền sư làm tổ nghề, xây đình Ngũ Xã thờ phụng, thể hiện sự trân trọng và thành kính với những giá trị truyền thống lịch sử. Xa xưa, các thợ đúc chuyên chế tác tiền cho triều đình, sau mở rộng sang chế tác các vật phẩm thờ cúng như tượng Phật, đỉnh đồng, bát hương và đồ dùng sinh hoạt…

Nghệ nhân Nguyễn Văn Ứng là niềm tự hào của làng nghề Ngũ Xã (Ba Đình, Hà Nội).

Nghệ nhân Nguyễn Văn Ứng (78 tuổi, ở số 178 phố Trấn Vũ) được UNESCO tặng danh hiệu “Báu vật nhân văn sống” vì sản phẩm của ông cùng với các sản phẩm làng nghề Ngũ Xã khác chính là hiện thân của sự tinh tế bản sắc văn hóa Việt. Gặp ông, chúng tôi vui mừng vì được tận mắt chứng kiến “Báu vật nhân văn sống” đang thổi hồn vào tác phẩm.

Chính thức kế nghiệp cha từ năm 1976, ông Nguyễn Văn Ứng đã chứng kiến bao thăng trầm, biến động của làng nghề. Dù đã ở tuổi xế chiều và sức khỏe thuyên giảm sau cơn bạo bệnh, ông vẫn gắn bó với nghề, tận tâm truyền dạy nghề cho thế hệ trẻ, cũng như đảm nhận vai trò cố vấn cho các thợ tại xưởng. “Công đoạn khó nhất là chạm khắc và mài giũa từng chi tiết. Tay nghề giỏi phải có con mắt nghệ thuật. Tôi có thể làm đến khi không còn sức, vì làm nghệ thuật là phải say mê”, nghệ nhân Nguyễn Văn Ứng chia sẻ.

Nhờ sự phát triển của công nghệ, quy trình đúc đồng với nhiều công đoạn phức tạp nay đã được rút ngắn, gồm các giai đoạn: Tạo hình, làm khuôn, đúc, sửa nguội thô, sửa nguội tinh và cuối cùng là hoàn thiện màu. Trong đó, chạm khắc, mài giũa tỉ mỉ là khâu quyết định sự tinh xảo và hồn cốt tác phẩm. Một bức tượng thường cần thời gian từ một đến hai tháng để hoàn thành, trong khi những tác phẩm lớn hơn có thể kéo dài đến hơn một năm. Đặc biệt, đối với các bức tượng Phật, ngoài tay nghề khéo léo, người thợ còn phải gửi gắm cả sự tâm huyết vào đó. Bởi chỉ khi có tâm, tác phẩm mới thực sự có hồn cùng những đường nét thanh tao.

Ông Nguyễn Thanh Tuấn (50 tuổi, con trai nghệ nhân Nguyễn Văn Ứng) cho biết: “Tôi theo học nghề từ năm 10 tuổi, tiếp xúc với nghề cũng được 40 năm. Nghề này đòi hỏi sự kiên trì, tình yêu tha thiết và cả niềm đam mê nghệ thuật. Tôi luôn sẵn sàng đào tạo, truyền nghề cho các bạn trẻ, tuy nhiên đến nay, ít có người thật sự phù hợp và muốn theo học nghề”.

Không riêng gì đúc đồng, nhiều làng nghề truyền thống cũng đang đối mặt với nguy cơ mai một. Nhưng sau những cuộc trò chuyện với một số nghệ nhân làng nghề Ngũ Xã, chúng tôi nghiệm ra rằng, dẫu thời thế có đổi thay, những tác phẩm của làng nghề Ngũ Xã vẫn vẹn nguyên dấu ấn văn hóa Thăng Long, góp phần khẳng định vị thế của một làng nghề truyền thống giàu giá trị lịch sử.

Bài và ảnh: Hiền Anh – Uyên Nhi

 

Nguồn: Dulichvn

Trải nghiệm văn hóa truyền thống dân tộc Mông xứ Nghệ tại Hà Nội

Trong hai ngày cuối tuần này (22 – 23/3), chương trình Sắc màu văn hóa dân tộc Mông với chủ đề “Trải nghiệm văn hóa truyền thống dân tộc Mông xứ Nghệ” sẽ tổ chức tại Làng Văn hóa – Du lịch các dân tộc Việt Nam (Đồng Mô, Sơn Tây, Hà Nội).


Đây là chương trình trong khuôn khổ hoạt động tháng 3 “Tuổi trẻ với văn hóa truyền thống” tại Làng Văn hóa – Du lịch các dân tộc Việt Nam.

Lễ cúng mừng năm mới sẽ được đồng bào dân tộc Mông tỉnh Nghệ An tái hiện tại “Ngôi nhà chung”. Ảnh: Hải Yến

Theo đó, khoảng 30 nghệ nhân đồng bào dân tộc Mông tỉnh Nghệ An sẽ về tham gia tổ chức chương trình, với các hoạt động giới thiệu văn hóa đặc sắc như: tái hiện trích đoạn nghi thức lễ cúng mừng năm mới; chương trình giao lưu dân ca dân vũ “Hội Xuân núi rừng”; giới thiệu, trình diễn múa khèn, hội ném bo bo (ném pao) và trải nghiệm nét văn hóa truyền thống của dân tộc Mông xứ Nghệ; những trò chơi dân gian ngày Xuân như chơi gù, chọi gà, tó má lẹ…

Trong đó, đáng được mong chờ nhất là tái hiện trích đoạn nghi thức lễ cúng mừng năm mới của đồng bào dân tộc Mông tỉnh Nghệ. Theo lịch riêng của đồng bào Mông, mỗi tháng có 30 ngày. Không có tháng thiếu tháng đủ, tháng nhuận, mỗi năm có 12 tháng, cứ đủ 360 ngày là tròn một năm. Vì thế, theo cách tính này thì cứ khoảng cuối tháng 11 âm lịch, người Mông bắt đầu ăn Tết. Nghi thức được thực hiện theo đúng truyền thống của đồng bào Mông xứ Nghệ. Buổi lễ tái hiện sẽ diễn ra từ 9 – 10 giờ, ngày 23/3 (Chủ nhật) tại không gian làng dân tộc Mông, Làng Văn hóa – Du lịch các dân tộc Việt Nam.

Chương trình giao lưu dân ca dân vũ “Hội Xuân núi rừng” do các nghệ nhân đồng bào dân tộc Mông trình diễn xướng kể về câu chuyện của vẻ đẹp của núi rừng, của cuộc sống khi mùa Xuân về.

Bên cạnh đó là các hoạt động hàng ngày, cuối tuần, hội Xuân, chương trình du lịch homestay, trải nghiệm ẩm thực, trò chơi dân gian… nhằm giới thiệu nét văn hóa, phong tục tập quán của đồng bào, cùng các hoạt động trải nghiệm tại “Ngôi nhà chung” của cộng đồng 54 dân tộc Việt Nam, góp phần tăng cường giao lưu giữa các dân tộc, thu hút khách du lịch đến với Làng Văn hóa – Du lịch các dân tộc Việt Nam.

Thiện Quang

 

Nguồn: Dulichvn

Một lần thưởng thức ẩm thực Tây Nguyên

Giờ đang là thời điểm lý tưởng để du khách tới Tây Nguyên trải nghiệm các lễ hội truyền thống, chiêm ngưỡng vẻ đẹp của miền cao nguyên, và đặc biệt là thưởng thức những món ngon đậm hương vị núi rừng.


Tây Nguyên gồm 5 tỉnh Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lắk, Đắk Nông và Lâm Đồng. Mỗi nơi đều có món ngon đặc trưng, như gỏi lá Kon Tum khiến thực khách phương xa rất ngạc nhiên bởi món ăn kết hợp chừng 50 loại lá khác nhau, từ lá rừng chỉ có người đồng bào thuộc tên đến những loại rau xanh, dược liệu quen thuộc như: lá cải, tía tô, đinh lăng, lá sung, lá mơ, hành, rau húng, lá xoài, lá ổi, lá chua, lá chùm ruột, lá lộc vừng, sâm đất…

Gỏi lá Kon Tum là món ngon độc đáo của vùng Tây Nguyên.

Cách ăn món này cũng khá tỉ mỉ, trước hết, cuốn lá cải hoặc lá mơ, kèm thêm lá chua hoặc vài loại khác tùy ý, thành hình dạng như cái phễu nhỏ, sau đó cho thịt ba chỉ, tôm rang, da heo thái mỏng, không thể thiếu tiêu nguyên hạt, muối, hành, ớt xanh. Nước chấm gỏi lá không phải là nước mắm hay nước tương thông thường mà là gạo nếp lên men. Gạo lên men có mùi thơm lừng, ủ chung với tôm, thịt ba chỉ rồi xay nhuyễn. Khi thưởng thức sẽ cảm nhận rất nhiều hương vị, chát nhẹ, ngòn ngọt, vị chua nhẹ và béo.

Một lựa chọn cho bữa sáng là phở khô Gia Lai còn có tên là phở hai tô cũng khá độc đáo vì bánh phở và nước súp được để trong hai tô khác nhau. Bánh phở làm từ bột gạo, tròn mảnh tựa sợi hủ tiếu dai mềm, được trụng chín rồi rắc thịt băm nhuyễn và hành phi. Tô nước lèo ngon ngọt kết hợp từ xương heo và bò, trong đó có vài miếng thịt bò, bò viên hoặc gà xé tùy khẩu vị mỗi người, điểm thêm màu xanh của hành ngò.

Phở khô ăn kèm với xà lách, húng quế, giá trụng. Bạn sẽ nêm nếm xì dầu, tương ớt, chanh, giấm cho vừa miệng, món này không thể thiếu tương đen. Vị dai của phở, mặn của tương, mềm ngọt của thịt bò, thịt gà, vị giòn của rau giá kèm nước lèo ngọt thanh tạo cho thực khách một trải nghiệm thật tuyệt.

Còn nếu tới Bản Đôn (Đắk Lắk), thì gà nướng không thể bỏ qua. Gà được kẹp vào thanh tre rồi đặt trên lửa than, quay đều đến khi lớp da vàng bóng tươm mỡ, tỏa mùi thơm khiến bụng dạ cồn cào. Cách chế biến này không nêm nếm quá nhiều gia vị nên giữ lại nguyên vị ngon ngọt, thoảng nhẹ mùi thơm của sả và mật ong. Thưởng thức đúng điệu là phải chấm với muối ớt hoặc muối sả, giã muối hạt với ớt rừng xanh có vị giòn thơm để bạn tận hưởng trọn vẹn hương vị độc đáo của món gà nướng.

Cá lăng cũng là một món ăn vô cùng thú vị khi ghé qua Đắk Nông. Cá lăng trên sông Sêrêpốk có vị ngọt, béo, thơm ngon có thể chế biến thành rất nhiều món đặc sắc. Cá lăng nướng cuốn với bánh tráng, rau thơm, khế, chuối chát cùng nhiều loại rau rừng như lộc vừng, sung, mơ… ăn kèm chén nước mắm cay. Cá lăng om chuối ướp với mẻ, ớt và một số gia vị tạo thành vị chua, cay, béo lạ miệng.

Ghé Lâm Đồng, đừng quên nếm thử rượu cần của người Chu Ru. Người Chu Ru sống trên cao nguyên nhưng họ lại giỏi về nghề trồng lúa. Từ lúa gạo, kết hợp với những loại cây rừng độc đáo, họ đã làm nên thứ rượu cần không nơi nào khác có được.

Người Chu Ru luôn có rượu cần trong nhà, bí quyết làm rượu kỳ công cũng được lưu truyền từ đời này sang đời khác. Rượu cần của người Chu Ru mang đậm nét văn hóa của dân tộc, vang danh là thứ men say nồng nàn nhưng ấm dịu. Đêm cao nguyên lành lạnh, trong không gian nhà Rông, nhấp ngụm rượu đậm đà hương vị đại ngàn bên bếp lửa tí tách là một trải nghiệm không thể nào quên.

Hà Thành

 

Nguồn: Dulichvn

Sóc Trăng: Độc đáo lễ hội Chrôi Rum Chếk của đồng bào Khmer

Chrôi Rum Chếk (lễ hội Phước Biển) được xem là một trong những lễ hội dân gian truyền thống mang đậm nét văn hóa của dân tộc Khmer. Lễ hội có ý nghĩa để cầu an cho người đi biển được thuận buồm xuôi gió, đánh bắt nhiều hải sản và tạ ơn biển cả đã ban cho con người tôm cá dồi dào.


Lễ hội Chrôi Rum Chếk được tổ chức tại ấp Cà Lăng A Biển, phường 2, thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng. Theo người dân nơi đây, lễ hội đã có từ rất lâu, khoảng 300 năm nay. Lễ hội Chrôi Rum Chếk diễn ra vào ngày 14, 15 tháng 2 âm lịch hằng năm, mang ý nghĩa cầu quốc thái dân an, mưa thuận gió hòa. Đây cũng là dịp để người dân tưởng nhớ đến các bậc tiền nhân đã có công khai hoang, mở cõi, tạo lập vùng đất; tạ ơn trời đất, thánh thần đã ban cho cuộc sống ấm no; và tri ân biển cả vì đã mang lại nguồn tôm cá dồi dào.

Múa Rô băm tại lễ hội

Ông Sơn Thol, Achar lớn chùa Sêrây Cro Săng, phường 2, thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng cho biết: “Bà con ở đây phần lớn phụ thuộc vào nghề biển, đánh bắt cá, tôm. Vì vậy, hằng năm bà con tổ chức lễ cầu an để bày tỏ lòng tạ ơn biển cả đã giúp họ có cuộc sống ấm no. Lễ hội được duy trì đến tận ngày nay”.

Mở đầu lễ hội là lễ cầu siêu, được tổ chức bên những núi cát nhằm tưởng nhớ công ơn tổ tiên, tạ ơn biển cả và cầu mong những điều tốt lành sẽ đến với dân làng. Tiếp theo là lễ rước tượng Phật từ chùa Sêrây Cro Săng đến khu vực hành lễ. Khi tượng Phật được rước đến nơi, mọi người thực hiện lễ chào Phật kỳ, sau đó rước tượng Phật vào và an vị. Tiếp đến là lễ Tam bảo, cầu quốc thái dân an, cầu nguyện và thuyết pháp do các nhà sư phụ trách với sự tham dự của đông đảo Phật tử.

Lễ chào Phật kỳ

Sau các nghi lễ mang đậm màu sắc tôn giáo là phần hội với nhiều trò chơi thể thao, văn hóa, văn nghệ mang đậm truyền thống dân tộc. Các trò chơi chủ yếu tái hiện lại những nghề truyền thống mà người dân nơi đây dùng để mưu sinh. Phần trình diễn văn nghệ trong lễ hội cũng thu hút đông đảo người tham gia, với những điệu múa, lời ca, tiếng hát và âm nhạc truyền thống đặc sắc của đồng bào Khmer.

Những năm gần đây, nhờ sự quan tâm của các cấp, các ngành, Lễ hội Chrôi Rum Chếk không ngừng được cải thiện, nâng tầm cả về nội dung lẫn hình thức, thu hút đông đảo bà con tham dự. Lễ hội trở thành “sợi dây” gắn kết tình đoàn kết, thương yêu, giúp đỡ lẫn nhau giữa ba dân tộc anh em Kinh – Khmer – Hoa đang sinh sống tại vùng biển này.

Achar Sơn Thol chia sẻ thêm: “Trước đây, lễ hội tổ chức với quy mô nhỏ hơn nhưng vẫn luôn được duy trì. Những năm qua, nhờ sự quan tâm của Đảng, Nhà nước và chính quyền địa phương, lễ hội được tổ chức quy mô lớn hơn. Hiện nay, có đường lộ, có điện nên việc tổ chức lễ hội và thực hiện các nghi lễ thuận lợi, chu đáo hơn”.

Năm nay, Lễ hội Chrôi Rum Chếk của đồng bào Khmer Vĩnh Châu vinh dự được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch công nhận là di sản văn hóa phi vật thể quốc gia. Đây là niềm vui lớn, là sự ghi nhận cho những nỗ lực không ngừng trong việc gìn giữ và phát huy giá trị văn hóa truyền thống của đồng bào Khmer tại Vĩnh Châu. Ông Sơn Wath, thành viên Ban Quản trị chùa Sêrây Cro Săng, chia sẻ niềm vui: “Phật tử chùa Sêrây Cro Săng cùng bà con ba dân tộc anh em rất vui mừng và phấn khởi. Lễ hội này đã tồn tại hàng trăm năm nay, nay được công nhận là di sản văn hóa phi vật thể quốc gia, thực sự là niềm vui lớn”.

Một nghi thức tại lễ hội Chrrôi Rum Chếk

Lễ rước tượng Phật

Ông Trần Trí Vân, Phó Chủ tịch UBND thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng, cho biết thêm: “Chúng tôi sẽ đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục trong cộng đồng, đặc biệt là đối với thế hệ trẻ, về những giá trị của lễ hội phước biển (Chrôi Rum Chếk) – một di sản văn hóa phi vật thể cấp quốc gia. Đồng thời, chúng tôi sẽ duy trì, tổ chức các hoạt động hằng năm, phục dựng và bảo tồn các nghi lễ, phong tục tập quán cũng như các loại hình nghệ thuật truyền thống gắn liền với lễ hội”.

Với lịch sử hình thành lâu đời, Lễ hội Chrôi Rum Chếk đã được bảo tồn và duy trì qua nhiều thế hệ. Dù trải qua những biến động lịch sử, nhưng đến nay, lễ hội vẫn giữ được sức lan tỏa mạnh mẽ, phát triển và trở thành một trong những lễ hội tiêu biểu, đặc sắc của tỉnh Sóc Trăng, thu hút đông đảo du khách gần xa đến tham dự.

Thạch Hồng

 

Nguồn: Dulichvn

Thăm Bạch Đằng Giang – nơi khí thiêng sông núi hội tụ

Khu di tích Bạch Đằng Giang tọa lạc tại phường Minh Đức, thành phố Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng. Từ thế kỷ 10 đến thế kỷ 13, nơi này đã diễn ra 3 trận thủy chiến ghi vào sử sách gắn với tên tuổi của các vị anh hùng dân tộc là Đức vương Ngô Quyền, vua Lê Đại Hành và Hưng đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn.


Quảng trường Chiến Thắng đặt tượng 3 vị anh hùng dân tộc Ngô Quyền, Lê Đại Hành và Trần Hưng Đạo tại Khu di tích Bạch Đằng Giang. Ảnh: B.Nguyên

Chính vì vậy, Khu di tích Bạch Đằng Giang đã trở thành di tích lịch sử quốc gia, nơi người dân trong và ngoài nước đến tham quan, tìm hiểu về lịch sử hào hùng của dân tộc.

Những trận thủy chiến ghi vào sử sách

Danh sĩ Phạm Sư Mạnh thời Trần từng có câu nói nổi tiếng về địa danh lịch sử Bạch Đằng Giang: “Giang san vượng khí Bạch Đằng thâu” (Khí thiêng sông núi đọng lại ở chốn Bạch Đằng). Có nhiều lý do để khẳng định Bạch Đằng là dòng sông lịch sử, dòng sông thiêng gắn với những trận thủy chiến hào hùng được ghi tạc vào sử sách.

Trận chiến đấu thứ nhất vào năm 938, Ngô Quyền đánh thắng quân Nam Hán. Lúc này, quân Nam Hán do Thái tử Lưu Hoằng Tháo chỉ huy vượt biển tiến vào cửa ngõ Bạch Đằng. Ngô Quyền dùng kế sách cắm cọc nhọn, đầu cọc bịt sắt dưới lòng sông Bạch Đằng, cho thuyền nhẹ, quân ít tiến ra ứng chiến rồi bỏ chạy để quân giặc đuổi theo. Đến khi thủy triều xuống, thuyền chiến lớn của Nam Hán đuổi theo bị mắc cạn và lần lượt bị cọc đâm thủng gần hết. Lúc đó, Ngô Quyền mới tung quân ra tấn công. Chiến thắng này có ý nghĩa rất quan trọng vì đã chấm dứt 1.117 năm Bắc thuộc, khai sinh ra các triều đại phong kiến Việt Nam. Chính vì vậy, Đức vương Ngô Quyền được xem là “vua của các vua”, người mở màn triều đại phong kiến đầu tiên của nước Việt Nam.

Khu mô phỏng bãi cọc gỗ dưới sông Bạch Đằng. Ảnh: Huy Anh

Trận chiến đấu thứ 2 vào năm 981 của vua Lê Đại Hành chống lại 4 vạn quân Tống do Hầu Nhân Bảo chỉ huy theo hai đường thủy bộ đánh chiếm nước ta, gửi chiến thư thách thức là quân thiên triều thay mặt cho nhà trời tiêu diệt quân của Đại Cồ Việt. Lê Đại Hành thân chinh làm tướng cầm quân, sai quân sĩ đóng cọc dưới lòng sông, dựa vào địa thế hiểm trở để chiến thắng quân địch. Đại Tống chấp nhận xuống nước và chính thức thừa nhận Lê Đại Hành cai trị Đại Cồ Việt.

Trận chiến thứ 3 vào năm 1.288 là trận thủy chiến lớn nhất trong lịch sử quân sự Việt Nam. Trần Hưng Đạo chỉ huy quân dân Đại Việt chuẩn bị một trận địa mai phục lớn trên sông Bạch Đằng, tiêu diệt hơn 4 vạn quân Nguyên Mông và trên 400 chiến thuyền. Chiến thắng của Trần Hưng Đạo là một trong những trận chiến mang tầm quốc tế khi góp phần chấm dứt toàn bộ đế chế Mông Cổ muốn làm bá chủ thế giới khi từng đánh chiếm nhiều nước ở châu Âu, châu Á.

Giải mã chiến thắng của quân ta trên sông Bạch Đằng, thuyền tham gia chiến đấu chủ yếu là thuyền độc mộc, có thể len lỏi ra các bãi cọc để tấn công, làm cho quân địch rối loạn vướng vào nhau, tạo điều kiện cho dân binh dùng hỏa công, cung nỏ tiêu diệt quân địch. Điều đặc biệt khác là cách cắm cọc gỗ của quân ta dưới lòng sông với góc nghiêng 45 độ và 75 độ đến nay vẫn là ẩn số.

Nơi giáo dục lòng yêu nước

Quần thể Khu di tích Bạch Đằng Giang bao gồm: Đền thờ Đức vương Ngô Quyền, Đền thờ vua Lê Đại Hành, Đền thờ Hưng đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn, Đền thờ Bác Hồ, quảng trường chiến thắng Bạch Đằng, nhà trưng bày và mô hình bãi cọc trên sông Bạch Đằng… Trong đó, dấu ấn rõ nét nhất là  3 vị anh hùng dân tộc gắn với những trận thủy chiến ghi vào lịch sử.

Chính vì vậy, tại Quảng trường Chiến Thắng trong khu di tích đặt tượng thờ 3 vị anh hùng dân tộc gồm: Ngô Quyền, Lê Đại Hành và Trần Hưng Đạo. Các tượng này đều đúc bằng đồng nguyên khối cao 8m, nặng hơn 40 tấn. Trong đó, bức tượng Đức vương Ngô Quyền chân đạp sóng; tượng của Trần Hưng Đạo 1 tay cầm cuốn binh thư yếu lược, 1 tay nắm đốc kiếm thể hiện cho sự văn thao, võ lược toàn đức, toàn tài. Lịch sử thế giới ghi nhận trong 10 danh tướng tài giỏi nhất nhân loại thì Việt Nam góp mặt 2 danh tướng, trong đó Trần Hưng Đạo là vị tướng bách chiến bách thắng trong lịch sử dân tộc Việt Nam. 

Du khách tham quan các hiện vật tại Khu bảo tàng trưng bày hiện vật liên quan đến các trận thủy chiến Bạch Đằng.

Ông Đỗ Văn Giàu, người dân gốc tại địa phương làm hướng dẫn viên tại Ban Quản lý Khu di tích Bạch Đằng Giang, cho biết: “Vào những ngày cuối tuần, khu di tích đón hàng ngàn học sinh đến tham quan, tìm hiểu lịch sử. Tôi làm công việc hướng dẫn viên vì muốn góp phần giáo dục thế hệ trẻ lòng yêu nước. Thuyết minh về những chiến công oanh liệt trong lịch sử của Bạch Đằng Giang, tôi luôn cố gắng thể hiện bằng giọng nói hùng hồn nhất để thông tin có thể thấm vào lòng người nghe”.

Để nội dung thuyết trình luôn sinh động, hấp dẫn, ông Giàu không chỉ tìm hiểu kiến thức trong sách, báo mà còn sưu tầm thêm các câu chuyện trong dân gian. Ví dụ chuyện về di tích bản doanh của Ngô Quyền, nơi ông khảo sát và nghĩ đến sách lược việc cắm cọc nhọn dưới lòng sông để diệt quân địch; chuyện về núi U Bò, tương truyền đây là nơi Trần Hưng Đạo cưỡi ngựa đứng trên núi chỉ huy trận thủy chiến; chuyện về đền thờ do người dân lập từ xa xưa để thờ những tướng sĩ đã hy sinh trên sông Bạch Đằng… Vùng đất này có phường Lưu Kiếm (thành phố Thủy Nguyên), tương truyền rằng đây là nơi Trần Hưng Đạo để lại 2 bảo vật là thanh kiếm và lá cờ giúp trấn giữ vùng đất này.

Bình Nguyên

Nguồn: Dulichvn

Hà Nội công nhận điểm du lịch Làng nghề gỗ mỹ nghệ Thiết Úng

UBND TP. Hà Nội đã ban hành Quyết định số 1567/QĐ-UBND về việc công nhận điểm du lịch Làng nghề gỗ mỹ nghệ Thiết Úng, xã Vân Hà, huyện Đông Anh, TP. Hà Nội.


Theo Quyết định, công nhận Điểm du lịch Làng nghề gỗ mỹ nghệ Thiết Úng; địa chỉ tại Xã Vân Hà, huyện Đông Anh, TP. Hà Nội; UBND xã tổ chức quản lý điểm du lịch.

UBND xã Vân Hà có trách nhiệm thực hiện tổ chức quản lý, khai thác, phát triển điểm du lịch theo đúng quy định của Luật Du lịch và các văn bản pháp luật liên quan.

Các Sở, ngành: Du lịch, Văn hóa và Thể thao, Nông nghiệp và Môi trường, Xây dựng, Khoa học và Công nghệ, Y tế, Tài chính, Công an TP. Hà Nội, UBND huyện Đông Anh, UBND xã Vân Hà có trách nhiệm hướng dẫn, tổ chức quản lý, khai thác và đầu tư xây dựng điểm du lịch Làng nghề gỗ mỹ nghệ Thiết Úng theo đúng quy định pháp luật và TP. Hà Nội, đảm bảo phát triển bền vững, hiệu quả.

Quyết định này có hiệu lực kể từ ngày 18/3/2025.

Làng Thiết Úng (tên Nôm là làng Ống, xa xưa gọi là Xa Lập phường), nay là một thôn của xã Vân Hà, huyện Đông Anh, Hà Nội. Từ xa xưa, thợ thủ công ở Thiết Úng đã tổ chức thành từng nhóm thợ đi tới từng vùng quê trong cả nước để xây dựng sản xuất. Nhiều công trình ở các làng trong vùng vẫn còn lưu giữ đến ngày nay như cửa võng đình Vĩnh Thanh, đình Lỗ Khê, đình Vân Điềm và đình Thiết Úng, đình Hà Khê… đều nhờ bàn tay người thợ Thiết Úng. Ngày 26/2/2010, làng Thiết Úng đã được UBND TP. Hà Nội trao Bằng công nhận “Làng nghề điêu khắc gỗ mỹ nghệ truyền thống”.

Hồng Hạnh

 

Nguồn: Dulichvn

Cao Bằng: Những giá trị văn hóa được tạo từ hương sắc núi rừng

Cao Bằng không chỉ nổi tiếng với khung cảnh thiên nhiên non nước hữu tình mà du khách đến với Cao Bằng còn được thưởng thức những nét văn hóa ẩm thực đầy màu sắc do chính bàn tay khéo léo của đồng bào vùng cao tạo nên; được khám phá, chiêm ngưỡng những bộ trang phục, những chiếc túi nhỏ xinh làm bằng vải thổ cẩm được nhuộm màu rực rỡ. Tất cả đều được chế biến, sản xuất từ cỏ cây, hoa lá từ núi rừng tự nhiên.


Ẩm thực độc đáo, đa màu sắc

Ẩm thực Cao Bằng là bức tranh đa màu sắc, thể hiện nét riêng về tín ngưỡng, phong tục, tập quán của đồng bào vùng cao với những sản vật gắn liền với điều kiện tự nhiên, đời sống và mùa vụ sản xuất của nơi đây. Những món ăn dân dã, bình dị nhưng vô cùng hấp dẫn được chế biến từ nguồn nguyên liệu nuôi trồng tại địa phương, đảm bảo độ tươi ngon, giàu dinh dưỡng và giữ nguyên hương vị tự nhiên.

Đầu tiên phải kế đến món xôi ngũ sắc. Xôi là món ăn truyền thống của đồng bào các dân tộc ở Cao Băng, thường được làm trong các dịp lễ tết, cưới hỏi, ma chay hay những ngày quan trọng của cộng đồng. Tuy nhiên, vào những dịp cưới xin đặc biệt là ngày Tết Thanh minh, đồng bào Cao Bằng lại làm xôi ngũ sắc từ cỏ cây, hoa lá của núi rừng như: Lá cẩm, lá sau sau, lá nếp, hoa boóc phón, gấc…

Bà Long Thị Thảo, xã Phúc Sen (Quảng Hòa) cho biết: Để tạo nên các sắc màu rực rỡ cho xôi, những người phụ nữ vùng cao đã khéo léo sử dụng các loại lá cây, hoa quả có sẵn trong tự nhiên, như màu đỏ được làm từ quả gấc chín, lá cẩm đỏ; màu xanh từ lá gừng, lá nếp; màu vàng từ hoa boóc phón; màu tím từ lá cẩm tím; màu đen từ lá cây sau sau… Gạo nếp sau khi được vo sạch sẽ đem ngâm với nước các loại lá cây (đã được đun hoặc vắt, chắt lọc lấy nước). Mỗi một màu lá cây sẽ được ngâm riêng khoảng 1 – 3 giờ rồi vớt lên cho gạo ráo nước, sau đó mới đem vào đồ. Khi đồ cũng phải chú ý mỗi màu để vào góc riêng của chõ chứ không để lẫn. Khi xôi đồ chín bỏ ra, tùy từng gia đình, có nhà thì sẽ để từng bát, đĩa hoặc nắm vào từng nắm từng loại riêng, có nhà sau khi xôi chín đổ ra sẽ trộn đều các màu với nhau tạo nên “bức tranh cầu vồng” đẹp mắt, rồi mới lấy ra bát, đĩa để trưng bày hoặc cúng lễ.

Xôi ngũ sắc được làm từ những hoa, lá tự nhiên, tạo nên nét văn hóa ẩm thực độc đáo của người Cao Bằng.

Xôi ngũ sắc là minh chứng cho sự sáng tạo, khéo léo của chị em phụ nữ các dân tộc Cao Bằng trong việc sử dụng những nguyên liệu sẵn có từ thiên nhiên để tạo nên món ăn độc đáo, giàu ý nghĩa. Du khách đến với Non nước Cao Bằng vào dịp tiết thanh minh sẽ được thưởng thức sự hấp dẫn của văn hóa ẩm thực này. Chị Hà Minh Hảo, đến từ thành phố Hải Phòng phấn khởi nói: Tôi đến Cao Bằng đúng vào dịp lễ hội ở huyện Quảng Hòa và bị thu hút bởi món xôi ngũ sắc do bà con bán, tôi đã mua để thưởng thức. Điều tôi cảm nhận được là mỗi hạt xôi không chỉ hấp dẫn bởi màu sắc bắt mắt mà còn bởi hương vị thơm ngon, dẻo mềm. Vị ngọt bùi của nếp nương hòa quyện cùng hương thơm dịu nhẹ của các loại lá rừng tạo nên một hương vị đặc trưng, khó quên.

Cùng với món xôi ngũ sắc, ngày nay những người phụ nữ vùng cao khéo léo, tinh tế còn chế biến ra món bánh dày, bánh trôi ngũ sắc cũng chính từ những hoa, lá, quả từ tự nhiên ấy. Hay món thạch đen thanh mát được làm từ cây tiên thảo hoặc cây sương sáo; thạch trắng hay còn gọi là thạch mác púp được làm từ hạt quả mác púp (tiếng Tày), một loại quả mọc tự nhiên trong rừng… Tất cả tạo nên những món ăn lạ miệng, thể hiện nét tinh hoa ẩm thực độc đáo của đồng bào vùng cao.

Rực rỡ thổ cẩm vùng non nước

Đến vùng Non nước Cao Bằng mùa xuân, du khách gần xa sẽ được hòa vào sắc màu của những trang phục thổ cẩm rực rỡ của các chị em dân tộc đi du xuân trẩy hội. Những sắc áo chàm của dân tộc Tày, Nùng; những chiếc váy áo hoa sặc sỡ của đồng bào Mông, Dao, Lô Lô… Cùng với đó du khách có thể thỏa sức lựa chọn cho mình những món quà ý nghĩa, độc đáo mang đậm sắc màu địa phương từ những sản phẩm lưu niệm được làm bằng tay.

Thổ cẩm của người Tày Cao Bằng nổi tiếng với màu sắc rực rỡ, đẹp và bền, đặc biệt là kỹ thuật tạo hoa văn thổ cẩm được tạo từ mặt trái của sản phẩm. Nguyên liệu chính để dệt thổ cẩm là sợi bông, sợi tơ tằm. Công cụ của nghề dệt thổ cẩm truyền thống gồm: Khung dệt, khung thả chỉ, guồng quay sợi (gọn lót), kéo sợi (slóa), bộ gọ (khau thúc), lược hay bìa (vùm), con thoi, thẻ tạo hoa văn và “pan” dùng để luồn tách sợi theo thẻ.

Hoa văn thổ cẩm là một nét văn hóa đặc sắc của cộng đồng các dân tộc vùng cao. Để làm nên những trang phục thổ cẩm, những người phụ nữ vùng cao phải trồng bông, dệt vải, rồi nhuộm chàm hoặc thêu hoa văn, tất cả các khâu đó đều được làm tỉ mỉ bằng đôi bàn tay khéo léo của chị em.

Bà Nông Thị Thược, xóm Luống Nọi, xã Ngọc Đào (Hà Quảng) cho biết: Dệt thổ cẩm rất coi trọng yếu tố kỹ thuật, đòi hỏi người thợ phải có đôi bàn tay khéo léo, có óc sáng tạo và tính kiên nhẫn. Trên tấm thổ cẩm của người Tày thường có 5 màu chủ đạo là xanh, đỏ, tím, vàng, trắng. Hoa văn trên thổ cắm người Tày Cao Bằng cũng rất phong phú và đa dạng: Đó là hoa văn hình học (hình vuông, hình thoi…), hoa văn dạng chữ (chữ Hỉ, chữ Vạn…), những loài hoa, con vật gần gũi với đời sống như: Hoa đào, hoa hồi (hoa thị), hoa lê, con ngựa, con chim, con cua, con rết…

Hiện nay, do nhu cầu phục vụ du lịch, các mặt hàng thổ cẩm được làm thành các sản phẩm khăn trải bàn, túi đeo…

Những sợi màu thường được chị em nhuộm bằng các nguyên liệu hoàn toàn tự nhiên. Các loại màu sắc được chiết xuất từ vỏ cây, củ, lá, hoa và trái cây, giúp sản phẩm đạt được độ bền màu tự nhiên và thân thiện với môi trường, như: Lá chàm tạo màu xanh lam, vỏ cây, củ nâu tạo màu vàng đất hoặc nâu đỏ, hoa và trái cây tạo ra các sắc đỏ, cam, tím rực rỡ… Quá trình nhuộm màu không chỉ đơn giản là ngâm sợi trong dung dịch màu, mà còn được thực hiện qua nhiều công đoạn lặp đi lặp lại để màu sắc thấm đều và bền lâu. Các nghệ nhân phải kiểm soát nhiệt độ, thời gian và độ đậm nhạt của màu sắc một cách chính xác, đảm bảo mỗi lô sợi đều đạt chất lượng tốt nhất.

Mỗi một dân tộc sẽ có cách tạo hoa văn độc đáo phù hợp với trang phục dân tộc. Tuy nhiên, thêu là kỹ thuật phổ biến ở các dân tộc. Với kỹ thuật thêu, người ta có thể tạo những đường cong tự nhiên. Phụ nữ có thể mang đồ đi theo và thêu ở bất cứ đâu ở nhà, trên nương, khi đi chợ, đi chơi. Các bé gái học thêu từ rất sớm và đến 12 – 13 tuổi đã thêu thành thạo. Ngoài ra, một số dân tộc như Dao, Mông, Lô Lô… còn có cách tạo hoa văn từ việc in sáp ong.

Vải thổ cẩm ngoài được làm trang phục, mặt chăn, màn che, mặt địu, túi đeo thì hiện nay do nhu cầu của việc sản xuất sản phẩm thủ công truyền thống phục vụ du lịch, các mặt hàng thổ cẩm cũng được làm phong phú đa dạng hơn như: Ga trải giường, mặt đệm, rèm cửa, khăn lót lọ hoa, ví cầm tay, ba lô…

Chị Ngô Hương Thắm, đến từ Thành phố Hồ Chí Minh chia sẻ: Mỗi một vùng đến du lịch tôi đều lựa chọn cho mình một sản phẩm lưu niệm như chiếc khăn, cái túi hay móc điện thoại… Khi đến Cao Bằng tôi đã bị thu hút bởi những chiếc túi, ví cầm tay thổ cẩm nên tôi đã mua để làm kỷ niệm.

Những món ăn độc đáo, mỗi một sản phẩm làm từ vải thổ cẩm đều mang theo hơi thở của thiên nhiên và lưu giữ những giá trị văn hóa lâu đời, được truyền lại qua nhiều thế hệ của đồng bào vùng Non nước Cao Bằng. Tất cả tạo nên bức tranh văn hóa đa sắc màu của vùng đất Đông Bắc.

Thanh Thúy

 

Nguồn: Dulichvn

TIN MỚI NHẤT