Cao Bằng có 27 dân tộc anh em sinh sống, trong đó, người Dao chiếm 10.08% dân số toàn tỉnh. Bà con thường sống ở vùng núi cao và thung lũng tương đối bằng phẳng, tập trung thành các bản gọi là “lũng” với khoảng từ 15 đến 20 nhà. Văn hóa của dân tộc Dao có ngôn ngữ, chữ viết, phong tục tập quán, truyện, thơ, tục ngữ, dân ca… trong đó có nhiều lễ tục, diễn xướng dân gian được lưu truyền qua nhiều thế hệ.
Người Dao ở Cao Bằng phân bố ở các huyện: Hà Quảng, Thạch An, Hòa An, Bảo Lạc, Bảo Lâm, nhưng tập trung đông nhất tại huyện Nguyên Bình. Dân tộc Dao được chia thành 2 nhánh chính: Dao Đỏ và Dao Tiền.

Phụ nữ Dao đỏ xã Quang Thành, huyện Nguyên Bình.
Trang phục người Dao đỏ thường là màu đen và đỏ làm chủ đạo, điểm đặc biệt của bộ trang phục phụ nữ chính là vòng bông màu đỏ được làm thủ công bằng len màu đỏ, gọi “pờ ki nhòng”, “pờ ki nhòng” có kích thước 30 cm, được treo đối xứng phía hai bên ngực, trải dài từ cổ áo tới thắt lưng. Trang phục phụ nữ dân tộc Dao Đỏ đặc sắc từ khăn đội đầu đến các hoa văn, họa tiết thêu ở áo, quần, túi đeo tạo nên các điểm nhấn hài hòa và ấn tượng. Phần ngực áo được trang trí họa tiết bằng bạc, những họa tiết này gắn đầy trên 2 mảnh vải vòng qua cổ tựa như chiếc áo nhỏ nhưng không có tay áo. Chiếc áo nhỏ này có hai thân trước và sau, cả hai thân đều được đính hoa bằng bạc. Quanh viền cổ là vải đỏ và đính lên trên là các hàng hoa bằng bạc song song với nhau. Ngoài ra, trên bộ quần áo của người phụ nữ còn có “thít” (thắt lưng) và “hấu” (quần). Quần của người phụ nữ là vải chàm được nhuộm đen, phía ống quần được trang trí các ô hoa văn đỏ, vàng, trắng xen kẽ. Họa tiết thêu tỉ mỉ, cầu kỳ tạo nên sự đối xứng, hài hòa với chiếc áo thân trên của bộ trang phục. Thông thường, một bộ trang phục của người phụ nữ Dao Đỏ cần 1 – 2 năm để may hoàn chỉnh.
Trang phục của người Dao Tiền màu chủ đạo là màu trắng. Điểm nhấn của bộ trang phục chính là khăn quấn đầu, là mảnh vải trắng trước khi đem đi nhuộm chàm, dài khoảng 1,5 – 2 m, rộng khoảng 30 cm. Hoa văn được thêu trên khăn quấn đầu chủ yếu là cây cỏ, hoa lá, chim, ngựa và hình người đang giã gạo. Khi đội lên đầu, người Dao Tiền vắt chéo hai đầu khăn trước trán tạo nên hình sừng ở hai bên đầu rồi gấp hai hình thêu lên đỉnh đầu. Hoa văn trên áo của người Dao Tiền được vẽ trước khi thêu. Riêng áo trong (lùi ton) được làm bằng mảnh vải trắng, trơn không có hoa văn. Áo khoác ngoài (lùi đao) được làm bằng vải chàm. Các họa tiết được thêu ở phần cổ áo, phía trước vạt áo và thân sau. Các hoa văn có đường thẳng, đường gấp với tông màu chủ đạo là xanh chàm, trắng và vàng được gọi chung là “ghển”. Hoa văn dưới vạt áo hình con chó, con chim, con dê được xếp xen kẽ xung quanh nhau gọi là “tào chô”. Chiếc đai lưng (lùng sin) là những sợi vải dài màu trắng và xanh chàm, được tết lại với nhau theo phương pháp thủ công, mỗi chiếc đai lưng có khoảng 7 – 9 sợi vải dài, mỗi sợi dài từ 2 – 2,5m (tùy vào vòng bụng mỗi người), mỗi người quấn 3 vòng quanh eo. Phụ nữ Dao tiền mặc váy in hoa văn sáp ong, áo, yếm, chân quấn xà cạp. Mảnh vải quấn chân (lùng pang) được trang trí chủ yếu bằng các đường thẳng hoặc đường gấp khúc với màu sắc chủ đạo là trắng và xanh. Phụ nữ Dao quấn mảnh vải với 3 vòng mỗi chân bắt đầu từ cổ chân đến trên gấu váy.
Về trang phục nam giới Dao thường là chiếc áo ngắn xẻ ngực, cài cúc trước ngực. Nhìn chung, trang phục phụ nữ Dao giữ được nhiều nét hoa văn trang trí truyền thống cầu kỳ.
Trang sức của người Dao phong phú, đa dạng, gồm: vòng tay, vòng cổ, xà tích, cúc bạc… được chạm khắc công phu, tinh xảo như rồng, phượng, chim muông, hoa lá, dụng cụ sinh hoạt hằng ngày… Một bộ trang phục cưới theo truyền thống kèm trang sức bạc của người Dao Đỏ có giá trị từ vài chục triệu đến hàng trăm triệu đồng. Ngoài việc làm đẹp, trang sức của người Dao còn mang giá trị nhân văn, tín ngưỡng như đeo bạc sẽ trừ được tà ma, tránh trúng gió độc và thậm chí được thần linh phù hộ.
Người Dao có nền văn hóa và lịch sử lâu đời, nhiều tín ngưỡng về thần linh, ma quỷ, có một số tục lệ thờ cúng phức tạp và tốn kém. Người Dao có quan hệ họ hàng chặt chẽ và thông qua tên đệm để xác định dòng họ, vai vế của người đó trong quan hệ dòng họ. Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ H’Mông – Dao, không có văn tự riêng mà sử dụng chữ Hán được Dao hóa, gọi là chữ Nôm Dao. Tuy cư trú ở núi cao, xa xôi, còn nhiều khó khăn nhưng đồng bào Dao có truyền thống văn hóa phong phú và giàu bản sắc, như: Hát giao duyên, thổi kèn Phàn tỵ, múa trống… trong các Lễ Cấp sắc và Lễ cưới. Hiện người Dao vẫn giữ gìn, phát huy nhiều nghề thủ công, như: nghề làm giấy bản ở xã Yên Lạc, nghề chạm bạc của nhóm Dao đỏ xã Thái Học (Nguyên Bình), nghề in hoa văn sáp ong của người Dao tiền xã Quang Thành (Nguyên Bình)…
Nhà ở của người Dao có ba dạng: nhà sàn, nhà nửa sàn nửa đất, nhà đất. Trong đó nhà đất (nhà trệt) với cấu trúc tường trình ấm về mùa đông, mát về mùa hè. Người Dao có những tín ngưỡng về thần linh, ma quỷ với những tục lệ thờ cúng phức tạp. Tín ngưỡng “vạn vật hữu linh” tồn tại rộng rãi trong cộng đồng người Dao Cao Bằng. Đó là quan niệm đa thần (thần mưa, thần gió, thần trông coi lúa gạo, hoa màu, thần chăn nuôi)… Bên cạnh đó, còn có các nghi lễ, như: lễ cúng Bàn Vương, cúng cơm mới, cúng thóc giống, cúng hồn gia súc… Trong đó, cấp sắc là một nghi lễ truyền thống và quan trọng bậc nhất trong tín ngưỡng cộng đồng dân tộc Dao. Nam giới đến tuổi trưởng thành phải làm lễ cấp sắc để có vị thế trong xã hội và cũng nhằm đặt tên âm cho người con trai đó. Lễ cấp sắc thường được tổ chức vào cuối năm, trước khi làm lễ cấp sắc, người được làm lễ phải giữ mình trong sạch, không nói tục, chửi bậy, không để người khác chạm vào, phải mặc y phục mới… Người Dao quan niệm, những người đàn ông trải qua lễ cấp sắc mới được coi là trưởng thành, có địa vị trong xã hội. Cấp sắc được chia làm nhiều cấp độ: 3 đèn, 7 đèn, 12 đèn. Lễ Tẩu Sai (cấp sắc 12 đèn) là đại lễ quan trọng nhất, được chuẩn bị công phu với sự tham gia của tất cả các thành viên trong dòng họ.
Hiện nay, trong cộng đồng người Dao ở Cao Bằng vẫn còn lưu giữ được những cuốn sách cổ; có cuốn ghi chuyên sâu về một lĩnh vực cụ thể, như: tín ngưỡng thờ cúng, ma chay, tổ chức lễ hội, cấp sắc, nắm bắt quy luật thiên nhiên, địa lý, tình nghĩa vợ chồng, cha con, anh em hàng xóm… nhưng rất ít người biết đọc.
Nông nghiệp vốn là ngành sản xuất truyền thống, nguồn thu nhập chính của người Dao. Do điều kiện tự nhiên nơi địa bàn cư trú, người Dao thích nghi với các hình thức canh tác phù hợp, tận dụng từng tấc đất để gieo trồng các loại cây lương thực, hoa màu, cây công nghiệp ngắn ngày, dài ngày có hiệu quả. Về chăn nuôi, người Dao có truyền thống chăn nuôi trâu, bò để lấy sức kéo và phân bón, nuôi lợn, gà, vịt để làm nguồn thức ăn, cải thiện đời sống.
Tết cổ truyền của người Dao diễn ra cùng dịp với Tết Nguyên đán. Vào những ngày giáp Tết (tháng 12 âm lịch), dân bản tập trung tại nhà trưởng bản hoặc một nhà nào đó theo phiên để cùng nhau tiến hành “Tết Nhảy”. Từ bao đời nay, Tết nhảy đã trở thành nét sinh hoạt văn hóa đặc sắc không thể thiếu của người Dao trong mỗi dịp Tết đến, xuân về. “Tết Nhảy” của người Dao là nét sinh hoạt văn hóa mang tính tổng hợp của các loại hình nghệ thuật dân gian như nhảy múa, âm nhạc, ngôn ngữ… tất cả đã làm nên vũ điệu sắc màu độc đáo riêng của người Dao.
Đối với việc cưới hỏi, trong Lễ ăn hỏi, nhà trai mang gà, rượu, thịt sang nhà gái đưa đồng bạc trắng. Số bạc này nhà gái dùng để chuẩn bị quần áo, tư trang để cô dâu về nhà chồng. Từ khi ăn hỏi đến khi cưới khoảng 1 năm để cô gái phải thêu thùa quần áo cưới. Đối với Lễ cưới, người Dao thường tổ chức cưới chủ yếu là bên nhà trai. Ngày cưới, đoàn nhà gái đưa dâu sang nhà trai gọi chung là đoàn (săn cha), từ trẻ đến già ăn mặc chỉnh tề theo trang phục truyền thống của dân tộc mình. Sau khi ăn uống, đoàn đưa dâu đứng trước bàn thờ tổ tiên, hai ông quan lang hai bên thưa với tổ tiên việc cưới xin của gia đình và xin phép được đưa đón dâu sang nhà trai. Đến nhà trai, đoàn săn cha dừng chân cách nhà trai một quãng. Nhà trai đưa bàn ghế ra, thuốc, trà, rượu ra mời đoàn săn cha đang dừng chân (đợi giờ vào nhà). Đội nhạc lễ nhà trai gồm: trống, thanh la, kèn, hai chũm chọe gồm một to và một nhỏ. Trước khi ra cửa đón dâu, đội nhạc lễ thổi những bài ca mừng cưới vòng ba lần trong nhà rồi ra ngoài đón đoàn săn cha nhà gái. Người thổi kèn đôi bên thổi bài chào đón khách và đưa cô dâu cùng đoàn săn cha vào nhà.
Có thể nói, đồng bào Dao ở Cao Bằng có đời sống văn hóa tinh thần rất phong phú với nhiều phong tục, nghi lễ, nghệ thuật đặc sắc. Dù xã hội có nhiều sự thay đổi, xáo trộn bởi văn hóa hiện đại, nhưng bản sắc văn hóa truyền thống vẫn được giữ gìn, nguyên vẹn những giá trị, lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, thể hiện được nét đẹp riêng có, mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc.
P.V
Nguồn: Dulichvn