Trang chủ Du lịch trong nước

Du lịch trong nước

Du lịch trong nước, tin tức du lịch trong nước, các tour du lịch trong nước, các địa điểm du lịch trong nước hấp dẫn được chúng tôi tổng hợp và đưa tin hàng ngày đến cho khách du lịch trên khắp mọi miền đất nước có được thông tin du lịch trong nước để có những thông tin hữu ích nhất cho mình và gia đình khi quyết định chọn chuyến du lịch trong nước cho mình và người thân

Khám phá mũi Vi Rồng

Nếu có một nơi hội tụ đầy đủ vẻ đẹp hùng vĩ của biển trời, sự huyền bí của tự nhiên và dấu ấn văn hóa đặc sắc thì mũi Vi Rồng chính là điểm đến không thể bỏ qua. Địa danh xưa thuộc thôn Tân Phụng, xã Mỹ Thọ (tỉnh Bình Định còn nay là Phù Mỹ Đông, tỉnh Gia Lai) được ví như một viên ngọc ẩn giấu ít người biết đến.


Mũi Vi Rồng được đặt tên theo hình dạng độc đáo của khối đá khổng lồ vươn mình ra biển, tựa như một con rồng đang bay lượn giữa sóng nước mênh mông. Theo dòng chảy của thời gian, các lớp đá nơi đây đã bị bào mòn bởi sóng biển và gió trời, tạo nên những đường nét gồ ghề, mạnh mẽ, mang dáng vẻ uy nghi của một linh vật huyền thoại. Người dân địa phương truyền tai nhau rằng, từ xa xưa, mũi Vi Rồng là nơi trú ngụ của một con rồng thiêng, bảo vệ vùng đất này khỏi những cơn bão biển dữ dội. Cái tên mũi Vi Rồng không chỉ phản ánh hình dáng tự nhiên của khu vực mà còn gắn liền với tâm thức của cư dân vùng biển Bình Định ngày trước.

Đến mũi Vi Rồng, du khách sẽ lập tức bị cuốn hút bởi khung cảnh hùng vĩ với những vách đá dựng đứng bên bờ biển xanh thẳm. Vào những ngày trời quang, từ trên mũi đá có thể phóng tầm mắt ra xa, cảm nhận từng đợt sóng nối tiếp nhau vỗ vào bờ, hòa cùng nền trời rộng lớn.

Một trong những khoảnh khắc đáng nhớ nhất khi đến đây chính là ngắm bình minh trên đỉnh mũi Vi Rồng. Khi mặt trời vừa ló dạng, ánh nắng chiếu xuyên qua những tầng mây, nhuộm vàng cả mặt biển, tạo nên một khung cảnh đẹp đến nao lòng. Không chỉ là nơi ngắm cảnh đẹp, mũi Vi Rồng còn có hệ thống hang động biển độc đáo. Du khách có thể thuê thuyền để tự khám phá những ngõ ngách bí ẩn dưới lòng đất. Đặc biệt, hải sản tươi ngon do ngư dân vừa đánh bắt như cua huỳnh đế, mực rim, bánh xèo hải sản… là những món nhất định phải thử khi ghé thăm vùng biển này.

Đường đến với mũi Vi Rồng khá thuận lợi, cho phép du khách vừa tận hưởng vẻ đẹp của các đồng ruộng xanh mướt, làng quê yên bình, vừa háo hức khám phá cảnh đẹp độc đáo của vùng biển hoang sơ. Nếu không ngại đen da, di chuyển bằng xe máy sẽ là lựa chọn tuyệt vời để trải nghiệm cung đường ven biển, tận hưởng cảm giác tự do khi chinh phục những con đường đầy nắng gió của tỉnh Gia Lai mới.

Bài và ảnh: Quốc Thái

Nguồn: Dulichvn

Giữ gìn hoa văn truyền thống người Dao Đỏ ở Bản Cuôn – Thái Nguyên

Thêu hoa văn đã gắn liền với cuộc sống của người Dao Đỏ ở Bản Cuôn, xã Chợ Đồn. Đồng bào Dao nơi đây duy trì, phát triển nghề thêu thổ cẩm, góp phần lưu giữ, bảo tồn nghề thủ công truyền thống, phát huy giá trị văn hóa dân tộc.


Thành viên Tổ hợp tác phát triển các sản phẩm nông lâm nghiệp Bản Cuôn, xã Chợ Đồn, hướng dẫn kỹ thuật thêu cho lớp trẻ.

Sinh ra và lớn lên ở bản Dao, ngay từ khi còn nhỏ, chị Triệu Thị Sỉnh (người Dao Đỏ ở Bản Cuôn, xã Chợ Đồn) được mẹ truyền dạy nghề thêu.

Nhờ thế, những chi tiết, ý nghĩa, họa tiết từng hoa văn, biểu tượng, từng công đoạn đã trở nên quen thuộc, gắn bó với tuổi thơ của chị. Ngày ấy, những bộ trang phục đã cũ của bà nội, của mẹ đều được tự tay thêu thêm hoa văn, vì thế chị Sỉnh cảm nhận được nét đẹp truyền thống của đồng bào mình.

Chị Triệu Thị Sỉnh cho biết: Trước đây, đồng bào dân tộc Dao ở Bản Cuôn rất nghèo, với hơn 60 hộ đều thuộc diện khó khăn. Sau những giờ làm nông, phụ nữ trong bản đều tranh thủ thời gian để thêu, vá. Ngay từ khi còn nhỏ các em gái Dao đã được truyền dạy nghề thêu. Nhờ đó, phụ nữ người Dao chúng tôi được truyền dạy kỹ thuật thêu hoa văn từ thế hệ trước. Cây kim, sợi chỉ và tấm vải đã trở thành vật dụng gắn bó, là người bạn đồng hành không thể thiếu của mỗi phụ nữ người Dao Bản Cuôn. Chúng tôi luôn xem nghề thêu là “hồn cốt,” góp phần tạo nên bản sắc đặc trưng của dân tộc mình.

Chị Triệu Thị Sỉnh ở Bản Cuôn (xã Chợ Đồn) học thêu hoa văn trên trang phục.

Theo thời gian, nét thêu hoa văn văn hóa truyền thống của đồng bào Dao Đỏ ở Bản Cuôn dần bị mai một. Thậm chí, số người biết thêu trang phục truyền thống chỉ đếm trên đầu ngón tay.

Để truyền nghề cho lớp trẻ, năm 2020 chị Triệu Thị Sỉnh cùng một số người cao tuổi trong bản đứng ra thành lập Tổ hợp tác phát triển các sản phẩm nông, lâm nghiệp Bản Cuôn.

Theo đó, chị Sỉnh cũng vận động, tập hợp phụ nữ dân tộc Dao cùng duy trì, phát triển nghề thêu thổ cẩm truyền thống. Những sản phẩm của Tổ hợp tác chủ yếu là ví, túi, khăn, mũ, áo, vỏ gối vải chàm được thêu hoa văn… Tổ hợp tác từ 7 thành viên ban đầu nay đã có 19 thành viên.

Thêu hoa văn là công đoạn mất rất nhiều thời gian, đòi hỏi sự khéo tay, tỉ mỉ và tính toán kỹ lưỡng, vì thế các chị em lớn tuổi của Tổ hợp tác đều tận tình hướng dẫn các bạn trẻ từng họa tiết thêu trên trang phục truyền thống. Đặc biệt là hoa văn dành cho trang phục thường ngày và những hoa văn dành cho trang phục của thầy cúng, hay trang phục cô dâu, hoa văn trên túi, ví…

Nghệ thuật trang trí hoa văn trên trang phục của người Dao Đỏ đã được công nhận là di sản văn hóa phi vật thể quốc gia vào năm 2019. Phát huy truyền thống văn hóa của đồng bào, người Dao ở Bản Cuôn xây dựng lộ trình để nâng cao chất lượng sản phẩm, đa dạng sản phẩm nghề thêu tay truyền thống. Qua đó khơi dậy niềm tự hào dân tộc, ý thức bảo tồn giá trị văn hóa truyền thống dân tộc cho thế hệ trẻ.

Minh Tâm

Nguồn: Dulichvn

Hương vị vịt suối

Không cần tiệc lớn, chỉ cần đông người, ở một bản nhỏ giữa rừng núi Tuyên Quang, chỉ một con vịt suối cũng đủ làm nên mâm cơm ấm cúng.

 


Vịt nấu canh măng.

Người dân vùng cao không nuôi vịt bằng cám mà thả rông nơi đầu nguồn khe đá. Vì thế thịt vịt săn chắc, da mỏng, xương nhỏ, ăn rất ngọt, chắc và thơm.

Trong một gia đình nhỏ, chỉ với một con vịt cũng có thể chế biến thành một mâm cơm hấp dẫn. Phần đùi, cánh được giữ lại để nướng mắc khén, hạt dổi, kẹp tre nướng than. Mùi thơm của khói, của tiêu rừng, quyện vào da vịt giòn rụm, cắn tới đâu là nhớ tới đó.

Lòng mề làm món gỏi bóp rau rừng, trộn với lá chanh, rau má đá, chút muối hột, ớt chỉ thiên. Vị chua mát, giòn giòn, cay nhẹ, ăn kèm xôi nếp nương – đủ làm người xa bản thấy lòng quay quắt.

Xương và cổ, cánh vụn đem nấu canh măng chua. Khi canh sôi lục bục, rắc thêm vài lát gừng rừng, mùi thơm cứ thế lan ra từ bếp. Nước trong, măng mềm, vịt chín tới – cái cay của gừng, cái chua nhẹ của măng, tất cả quyện lại trong một thứ nước dùng không chỉ ngon mà còn khiến lòng ấm lên theo từng thìa chan.

Nhưng khó quên hơn cả là món vịt om sấu. Vị chua thanh của sấu quyện với mỡ vịt tạo nên một thứ nước sánh nhẹ, không ngậy, không gắt. Ăn với cơm nếp hay bún gạo đều hợp. Gắp một miếng thịt vịt mềm, đưa lên miệng, thấy mùi thơm dịu lan từ đầu lưỡi, len vào sống mũi, như có mùi của cây rừng mùa lá rụng, của đất núi sau mưa.

Rồi món bún vịt, đơn giản mà tinh tế. Nước dùng hầm từ xương, thêm vài lát củ cải, hành rừng. Thịt lườn thái mỏng, bún gạo mềm dai, rắc thêm tiêu rừng. Chan một thìa nước thôi cũng thấy ngọt vô cùng.

Cuối cùng là cháo vịt nếp nương, nấu từ phần xương còn lại, gạo ninh nhừ, thơm mùi lá tía tô và tiêu xay. Múc ra bát, ăn khi đêm xuống, gió rừng se sắt, thấy lòng cũng dịu lại như nước cháo trong veo.

Một con vịt suối nặng chừng 2-3 kg, nhưng dưới bàn tay khéo léo của người vùng cao lại thành những món ngon đủ đầy khiến ai thưởng thức cũng nhớ mãi.

Hoàng Anh

Nguồn: Dulichvn

Làng hương giữa lòng xứ Huế

Làng hương Thủy Xuân nằm trên đường Huyền Trân Công Chúa, cách trung tâm thành phố Huế khoảng 7km thu hút những tín đồ “sống ảo” bởi khung cảnh rực rỡ và cách trang trí vô cùng ấn tượng từ những bó hương đa sắc.


Có tuổi đời khoảng 700 năm và xuất hiện từ thời nhà Nguyễn, trước kia, làng hương Thủy Xuân là nơi cung cấp hương cho triều đình, phủ quan và người dân sống quanh các vùng Thuận Hóa, Phú Xuân. Trải qua thăng trầm của thời gian, biết bao thế hệ người dân làng hương Thủy Xuân vẫn tiếp tục kế thừa truyền thống làm hương của cha ông để lại, để đến hôm nay nơi đây còn là điểm du lịch hấp dẫn của du khách thập phương.

Gia đình ông Hồ Ngọc Thứ nổi tiếng trong làng với gần 40 năm gắn bó với các sản phẩm từ cây trầm. Các thế hệ trong gia đình ông Thứ vẫn ngày ngày gìn giữ và phát huy nghề truyền thống quê hương. “Quy trình làm nhang trước tiên phải có nguyên liệu thô, rồi xay ra thành bột mịn, trộn với nước và keo, nhồi xong là se thành cây nhang. Có mấy cách làm là bằng máy, bằng chân và bằng điện, thủ công bằng tay. Nhang trầm Thủy Xuân là chuyên làm trầm, còn loại khác như cây tùng, quế, hoặc thảo mộc. Bữa nay không còn nghề chẻ tăm nhang nữa mà chẻ bằng máy chứ trước đây làm thủ công là chẻ bằng tay”, ông Thứ chia sẻ.

Áo dài ngũ thân, áo dài truyền thống là lựa chọn của nhiều du khách khi chụp ảnh ở làng hương Thủy Xuân

Không chỉ sản xuất một mặt hàng, người dân nơi đây còn cùng với địa phương phát triển du lịch. Du khách tới đây được trải nghiệm công đoạn làm hương, chụp những bức ảnh ấn tượng. Để làm được điều đó, ngoài việc tạo không gian tham quan cho du khách, chính người dân trong làng cũng là những hướng dẫn viên du lịch không chuyên để giúp du khách có thể hiểu hơn về sản phẩm mang nhiều giá trị văn hóa đặc trưng của xứ Huế.

Hương Thủy Xuân giờ đã được làm bằng máy, nâng hiệu quả sản xuất của mỗi hộ lên khoảng 5 vạn cây hương mỗi ngày, tức là gấp 10 lần so với cách làm thủ công truyền thống. Tuy nhiên, tất cả các hộ làm hương trong làng đều giữ chiếc bàn làm hương cũ như một kỉ niệm, cũng là cách để kể câu chuyện làng nghề. Từ công thức làm hương được cha truyền con nối và không ngừng được cải tiến qua các thế hệ đã tạo nên những nén hương thơm với nhiều mùi khác nhau.

Có một điều đặc biệt so với các làng hương khác là hương làng Thủy Xuân có ngũ vị thuốc bắc với quế chi, thảo quả, nụ tùng, đinh hương, hoa hồi. Ngoài ra còn kèm thêm cả vỏ quả bưởi rừng, hoa bưởi khô, quế, bạch đàn… Ở đây, người dân còn pha trộn màu sắc để nhuộm chân hương, những ngày nắng, chân hương đủ màu sắc được phơi bạt ngàn ở khắp hai bên đường đi, ở sân nhà, hay đồng cỏ.

Người Thủy Xuân phơi chân hương cũng phải theo một cách vô cùng ấn tượng, đẹp mắt. Họ xếp thành hình tròn, hình hoa, đối xứng, xen kẽ màu sắc, tạo ra những không gian rực rỡ xóm làng. Thế nên từ lâu làng hương đã trở thành điểm check-in lý tưởng của du khách trong và ngoài nước.

Tự tay se hương là trải nghiệm thú vị với du khách

Đến làng hương Thủy Xuân, ẩn sau những bối cảnh trang trí rực rỡ, nhộn nhịp là một không gian thanh bình. Ở đó không có sự trình diễn mà là những quy trình sản xuất liên tục nhưng vẫn rất nhẹ nhàng, giản dị và nếu muốn, du khách sẽ được tham gia trải nghiệm một số công đoạn làm hương. Qua đó, bạn sẽ hiểu hơn về nghề truyền thống này cũng như cuộc sống thường ngày của người dân nơi đây.

Thanh Huyền

 

Nguồn: Dulichvn

Người Nùng Tuyên Quang – Gìn giữ văn hóa trong sắc áo, tiếng ca

Giữa vòng xoáy của đổi thay, có những giá trị vẫn lặng lẽ giữ mình như cũ. Ở vùng núi Tuyên Quang, tiếng hát lượn, sắc áo chàm và những nghi lễ cổ truyền của người Nùng vẫn nguyên vẹn dáng xưa. Không ồn ào chen chân vào dòng chảy hiện đại, nhưng chính sự bình lặng ấy lại làm nên chiều sâu văn hóa – nơi mỗi câu ca, mỗi nét thêu trên áo chàm đều là một phần ký ức tập thể được trao truyền qua thế hệ.


Thiếu nữ Nùng trao hồn quê trong điệu múa.

Lời hát lượn theo bước áo chàm bay

Mỗi dân tộc đều có một cách riêng để kể chuyện về mình. Với người Nùng ở Tuyên Quang, câu chuyện ấy hiện ra trong lời hát và tà áo – hai mạch nguồn tinh thần không bao giờ vơi cạn.

Phụ nữ Nùng mặc áo dài chàm, khuy bạc chạy dọc vạt áo như những giọt sương đọng lại sau đêm dài. Chiếc khăn đội đầu thêu tay, hoa văn tỉ mỉ đến từng mũi chỉ, là món hồi môn không thể thiếu mà người mẹ trao cho con gái khi về nhà chồng. Trong ánh lửa bếp bập bùng, đôi bàn tay rám nắng vẫn cần mẫn khâu đường kim, thêu nét chỉ, như dệt vào đó biết bao nỗi niềm.

“Con gái Nùng mà không biết thêu khăn, không may được áo đội đầu thì chưa thành người lớn”, ông Vàng Văn Quân, dân tộc Nùng, là người cao tuổi ở xã Thượng Sơn, tỉnh Tuyên Quang vừa cười hiền, vừa kể. “Đàn ông thì phải biết hát lượn. Không chỉ để cưới vợ, mà để giữ lấy hồn mình giữa đất trời này”.

Hát lượn của người Nùng không đơn thuần là lời ca. Đó là hình thức giao duyên, là đối thoại bằng cảm xúc, là sự thử thách trí tuệ và khả năng ứng khẩu. Trong lễ cưới, nhà trai đến rước dâu mà không hát, là nhà gái chưa chịu mở cửa. Từng câu hát tung hứng, vừa tình tứ, vừa thâm thúy, như kéo dài thêm nhịp bước rộn ràng, như nối dài thêm nỗi nhớ gửi trao.

Thiếu nữ Nùng khoe sắc giữa mây ngàn Tuyên Quang.

Chị Nguyễn Thùy Trang – du khách Hà Nội từng tham dự một lễ cưới truyền thống của người Nùng ở xã Pờ Ly Ngài, tỉnh Tuyên Quang cho biết: “Lần đầu tiên tôi chứng kiến một đám cưới không cần MC, không cần loa đài, chỉ có tiếng hát. Mà câu nào cũng sâu, cũng đằm. Người già hát, người trẻ hát, khách đến cũng bị cuốn vào không khí ấy. Như thể mỗi người đều là một phần của buổi lễ, đều được chạm vào nét tinh tế rất riêng của văn hóa Nùng”.

Không chỉ có hát lượn, người Nùng còn có lễ cúng rừng – nghi lễ thiêng liêng được tổ chức vào đầu năm mới để tạ ơn rừng xanh, thần núi, thần cây đã che chở cho dân bản. Trong khu rừng cấm được bảo vệ nghiêm ngặt, người ta dựng bàn cúng dưới gốc cây cổ thụ, treo bánh dày, thịt gác bếp, rượu ngô và những lời khấn nguyện. Không tiếng trống, chẳng chiêng vang, chỉ có nhịp lòng người hòa cùng gió núi.

Ông Hoàng Văn Triệu, dân tộc Nùng, người cao tuổi ở xã Pà Vầy Sủ, tỉnh Tuyên Quang lặng lẽ nói: “Cúng rừng không chỉ để cầu mùa, mà để dặn nhau: Rừng là nhà, cây là bạn. Nếu mất rừng, là mất luôn cả dòng giống mình. Cho nên giữ rừng, là giữ lấy chính mình”.

Giữ bản sắc bằng những điều rất đỗi dịu dàng

Trong dòng chảy của hiện đại, khi người trẻ dần ưa áo phông quần jean, khi câu hát đối bị thay thế bằng tin nhắn vội vàng, thì ở đâu đó nơi núi rừng Tuyên Quang, vẫn có những người lặng lẽ níu giữ hồn xưa.

Sắc áo chàm hòa cùng mây núi quê hương.

Nhiều nghệ nhân dân gian người Nùng ở Tuyên Quang vẫn lặng lẽ giữ gìn hồn văn hóa theo cách riêng của mình. Có người, mỗi mùa hội lại đem váy áo truyền thống ra hong nắng, vuốt lại từng nếp gấp như thể chạm tay vào ký ức. Có người đau đáu: “Hát cho khách nghe thì dễ, hát để cháu con mình nhớ mới khó”. Vậy nên, trong những khoảng lặng đời thường, họ lại thủ thỉ dạy lũ trẻ vài câu hát lượn, mũi thêu đầu tiên trên khăn đội đầu, hay những mẫu chuyện xưa bằng tiếng mẹ đẻ. Bởi với họ, giữ được lời ca là giữ được cội nguồn.

Trong các homestay ở Hoàng Su Phì, du khách giờ đây không chỉ đến ngắm ruộng bậc thang hay uống trà Shan tuyết, mà còn để khoác thử bộ áo chàm, để ngồi bên bếp lửa nghe bà cụ cất lời hát lượn, để tự tay nhuộm một tấm vải chàm mang về làm kỷ niệm. Những trải nghiệm ấy – tưởng nhỏ nhưng lại khiến người ta lưu luyến mãi.

“Ở đây không có ánh đèn sân khấu, không có màn trình diễn hoàn hảo. Nhưng khi nghe bà cụ hát, nhìn cách bà vuốt lại nếp áo cho du khách, tôi thấy mình như vừa chạm vào một điều gì rất thật, rất đẹp mà lâu nay mình bỏ quên”, anh Nguyễn Quốc Huy – du khách đến từ Thành phố Hồ Chí Minh chia sẻ sau chuyến đi.

Giữa lớp lớp rừng xanh, người Nùng không nói nhiều, nhưng từng nếp áo, từng câu hát họ gìn giữ chính là cách trả lời dịu dàng nhất cho câu hỏi: Làm sao để không đánh rơi bản sắc trong hành trình đến với ngày mai?

Bài, ảnh: Đức Quý

Nguồn: Dulichvn

Thăm ngôi làng dưới chân núi Chư Đang Ya

Làng Ia Gri (xã Biển Hồ, tỉnh Gia Lai) nằm nép mình dưới chân núi lửa Chư Đang Ya. Đến đây, du khách không chỉ chiêm ngắm cảnh núi đồi trùng điệp mà còn cảm nhận được sự nồng hậu, chân tình của cư dân bản địa-những người yêu núi và sống nương vào núi.


Con đường đất dẫn vào làng với những bụi cây dày, rậm rạp đến mức tưởng chừng như che kín cả lối đi. Thời điểm này, làng Gri được bao phủ bởi màu xanh bạt ngàn của cây lá. Sau một cơn mưa nhẹ, mặt đường vẫn còn loáng nước, phản chiếu sắc trời trong vắt, mát dịu.

Một góc dưới chân núi được người dân dựng nhà vách đất, lợp tranh để phục vụ du khách check-in. Ảnh: N.T.D

Tiếng xe máy chầm chậm vang lên, chở những bạn trẻ ghé thăm làng, mang theo những háo hức và bỡ ngỡ. Họ dừng lại ở một khúc quanh, đưa mắt nhìn về phía chân núi-nơi màu xanh trải dài bất tận và mỗi mùa lại đổi một màu. Thời điểm này là lúc những vạt dã quỳ trỗi dậy biếc xanh lá. Từ xa, núi lửa Chư Đang Ya sừng sững như một bức tường thiên nhiên bảo vệ dân làng.

Từ một ngọn núi lửa đã ngủ yên

Nếu may mắn được trò chuyện cùng người già trong làng, họ sẽ kể cho bạn về truyền thuyết núi lửa Chư Đang Ya-ngọn núi thiêng trong tâm thức của bao thế hệ. Bạn sẽ thấy một ngôi làng không chỉ nương nhờ vào thiên nhiên mà còn sống mãi trong mạch nguồn văn hóa của thiên nhiên. Bạn cũng sẽ ngạc nhiên khi biết ngọn núi này đã che chắn, nuôi dưỡng dân làng suốt gần 3 thập niên qua.

Theo năm tháng, người Jrai vẫn giữ tục canh tác trồng dong riềng, khoai lang, bắp, bí đỏ… ngay dưới chân núi. Đến mùa lá dong xanh mướt, hoa dong khoe sắc, gió lùa qua núi nghe nồng nàn cao nguyên đỏ thắm.

Xen giữa những rẫy dong riềng là khoai lang. Những luống khoai xanh rì, mướt mắt, lá vươn dài, dây bò ngập cả triền dốc. Người làng bảo nhau, đất núi lửa giàu phù sa, khoai ở đây ăn dẻo, thơm, chỉ cần vùi củ vào than hồng, nứt lớp vỏ cháy xém là đủ ngọt mềm hơi ấm.

Một góc núi lửa Chư Đang Ya mùa này. Ảnh: N.T.D

Từ Ia Gri nhìn lên, núi lửa Chư Đang Ya sừng sững, đỉnh núi quanh năm phủ mây trắng. Những khoảnh đất nâu, xanh, vàng xen kẽ trên sườn núi, tựa tấm thổ cẩm khổng lồ.

Khi du khách chinh phục đỉnh núi sẽ nghe gió hát và ngắm nhìn mây la đà trước mắt. Phía xa, đàn bò thong dong gặm cỏ, khói bếp lam chiều vương trên tán cây. Không gian nơi đây dường như vẫn giữ nguyên nhịp sống bình yên, chưa bị cuốn theo sự hối hả của phố thị.

Người Jrai địa phương không đứng ngoài cuộc mà trở thành chủ thể của chính không gian văn hóa. Khi vào Tuần lễ Hoa dã quỳ-Núi lửa Chư Đang Ya hàng năm, người làng sẽ là một hướng dẫn viên đưa từng du khách leo núi; chỉ lối họ thăm vạt dong riềng, giúp du khách tự tay đào khoai…

Mỗi du khách sẽ tự mở cánh cửa để bước vào không gian văn hóa đầy đắm say và sự khám phá. Tức là, khi rời đi, trong đôi mắt du khách là hình ảnh đọng lại của màu xanh dã quỳ đương bật mùa thao thiết. Chính cánh cửa văn hóa đã giúp Ia Gri không bị nuốt chửng bởi du lịch thương mại, cũng không bị lãng quên qua thời gian.

Đặc biệt, những ngày này, khi một cơn mưa nhẹ vừa tan, cộng với chút không khí lạnh sẽ khiến những làn mây gom tụ, tạo thành biển mây bồng bềnh vắt ngang lưng núi. Mùa “săn mây” bắt đầu ở núi rừng Chư Đang Ya.

Lúc này, cả ngọn núi chỉ là những vệt mờ ảo, như dòng sông được cuộn tròn một lớp sương mai phủ lên buổi sớm. Biển mây cứ thế quần tụ. Những đám mây khi di chuyển, lúc lại đứng yên, giống như đang chờ đợi các tay máy. Du khách hết chụp cảnh rồi lại selfie, hết ngạc nhiên trầm trồ đến “ồ à” thích thú…

Gìn giữ bản sắc để mở lối phát triển du lịch cộng đồng

Người làng Ia Gri đa số là đồng bào Jrai, vẫn gìn giữ nhiều phong tục truyền thống của cư dân bản địa. Trong những dịp lễ hội, tiếng cồng chiêng vang vọng, giai điệu ngân dài như nối liền quá khứ và hiện tại.

Trong làng, dễ bắt gặp những đứa trẻ tóc nâu, mắt đen sâu thẳm, tay cầm hộp sữa ngây thơ. Những người mẹ địu con sau lưng bằng chiếc khăn vải cũ, bước chân rắn rỏi, nụ cười hiền lành.

Một người mẹ địu con sau lưng bằng chiếc khăn vải cũ, nở nụ cười hiền lành với du khách. Ảnh: N.T.D

Bên hiên nhà, bà ngồi bế cháu, thi thoảng ngẩng lên nhìn khách lạ rồi gật đầu chào. Bên cạnh là chiếc gùi gắn bó trong từng nhịp sống, như đang kể câu chuyện về những con người bình dị, bền bỉ nơi gió núi đại ngàn.

Người dân trong làng vẫn gìn giữ lối sống gắn liền với thiên nhiên. Họ trồng thêm nhiều giống hoa làm điểm check-in; dựng lên những căn nhà làm từ lồ ô, tre, mái lợp tranh với vài quán nhỏ để đón khách phương xa.

Không gian quán không phá vỡ cảnh quan mà khéo léo hòa vào thiên nhiên, như một phần của núi rừng, để nghe gió từ núi ùa về, nghe tiếng chim lẩn khuất đâu đó trên tán cây, mới thấy hết cái bình yên mà đô thị khó lòng có được.

Ia Gri không chỉ một ngôi làng nhỏ trên núi, mà còn là nơi để cảm nhận hồn cốt Tây Nguyên qua nếp sống, nụ cười và cả những món ăn truyền thống của người bản địa. Văn hóa làng không chỉ nằm trong những tập tục mà còn hiện hữu trong cách họ tôn trọng thiên nhiên, trong sự hài hòa giữa con người và núi rừng.

Ngôi làng nhỏ Ia Gri dưới chân núi Chư Đang Ya. Ảnh: N.T.D

Việc phát triển du lịch cộng đồng từ giữ gìn bản sắc không chỉ giúp người dân cải thiện sinh kế mà còn góp phần bảo tồn nét đẹp văn hóa Jrai, gìn giữ những giá trị đang dần phai nhạt theo nhịp sống hiện đại.

Từng được tạp chí Daily Mail (Anh) vinh danh là một trong 10 ngọn núi lửa đẹp nhất thế giới, ngọn núi Chư Đang Ya không chỉ là kỳ quan của thiên nhiên, mà còn là niềm tự hào của người dân nơi đây.

Để xứng đáng với danh xưng ấy và biến nó thành động lực phát triển bền vững, chính quyền cùng người dân địa phương đã đồng lòng gìn giữ môi trường sinh thái, bảo tồn những giá trị truyền thống và bản sắc văn hóa bao đời.

Hướng đi ấy không chỉ giúp giữ trọn hồn cốt của làng, mà còn mở ra cơ hội để Ia Gri trở thành điểm đến du lịch cộng đồng đặc sắc-nơi thiên nhiên nguyên sơ và văn hóa bản địa hòa quyện, mang lại cho du khách những trải nghiệm chân thật, đầy sức sống.

Nguyễn Thị Diễm

Nguồn: Dulichvn

Phố nghề truyền thống – “mỏ vàng” chưa được khai thác đúng cách

Phố nghề truyền thống mang trong mình giá trị văn hóa và tiềm năng kinh tế lớn, nhưng vẫn chưa được khai thác đúng cách. Để khai thác “mỏ vàng” này, cần tư duy đầu tư gắn với trải nghiệm, ẩm thực và kinh tế đêm.


Chỉ cách trung tâm Hà Nội khoảng 20-30 km, các làng nghề truyền thống như Bát Tràng, Vạn Phúc, Chàng Sơn, Phú Vinh, Đường Lâm… từ lâu đã trở thành điểm đến quen thuộc trong các tour du lịch nội đô kết hợp ngoại thành. Tuy nhiên, dù được xếp vào nhóm di sản văn hóa phi vật thể cấp quốc gia, nhiều làng nghề vẫn chỉ mới dừng lại ở mức “ghé thăm một lần cho biết”, thay vì trở thành điểm đến hấp dẫn, có chiều sâu và tạo giá trị kinh tế lâu dài.

Đặt chân đến Bát Tràng vào một ngày đầu tuần, chúng tôi chứng kiến khách du lịch lác đác, phần lớn chỉ ghé thăm chợ gốm Bát Tràng, thử làm gốm vài phút, mua vài món quà lưu niệm rồi rời đi. Họ không biết rằng, sau các gian hàng san sát là một hệ thống lò gốm cổ, những con ngõ sâu hun hút ẩn chứa đời sống làng nghề hàng trăm năm. Hay tại Vạn Phúc – làng nghề lụa nổi tiếng nhất miền Bắc, nhiều cửa hàng vẫn đóng cửa từ 6 giờ chiều, khi trời còn sáng và du khách vừa ăn tối xong.

Người ta hay nói đến phố đi bộ, phố đêm trong trung tâm Hà Nội, nhưng chính các làng nghề ngoại thành mới là nơi có tiềm năng lớn để hình thành phố nghề sống động về đêm: vừa mua sắm, ăn uống, trải nghiệm văn hóa, vừa tránh được áp lực quá tải hạ tầng trong nội đô.

Vấn đề lớn nhất hiện nay của du lịch làng nghề Hà Nội là thiếu sản phẩm đặc trưng, thiếu sự dẫn dắt về trải nghiệm. Các hoạt động làm gốm, dệt lụa, đan mây tre… vẫn mang tính tự phát, thiếu tính kết nối chuỗi. Sự hiện diện của công nghệ, dịch vụ cao cấp hay nghệ thuật – những yếu tố tạo cảm xúc trong du lịch hiện đại, hầu như chưa xuất hiện.

“Thông thường, làm gốm xong, khách chỉ biết mang về một sản phẩm méo mó, ít ai hướng dẫn câu chuyện đằng sau nghề, lịch sử dòng men hay vai trò của từng công đoạn. Nếu gắn các trải nghiệm này với yếu tố kể chuyện (story telling) hoặc trình diễn nghề vào buổi tối, hiệu quả sẽ khác hoàn toàn”, đại diện một công ty tour  nhận xét.

Trong khi đó, thế mạnh về ẩm thực lại chưa được phát huy đúng mức. Đơn cử, Bát Tràng có món bánh tẻ gói bằng lá dong, Vạn Phúc có giò lụa, giò chả truyền thống, Đường Lâm nổi tiếng với tương, thịt quay đòn, chè lam… nhưng rất ít nhà hàng địa phương nâng cấp món ăn thành trải nghiệm ẩm thực cao cấp, gắn với không gian và phục vụ tiêu chuẩn.

Nếu như Hà Nội đã có phố đi bộ cuối tuần, Hồ Gươm có hoạt động nghệ thuật đường phố và ẩm thực đêm, thì các làng nghề vẫn “đóng cửa sau giờ hành chính”. Trong khi đó, nhu cầu du lịch đêm, đặc biệt là từ khách nội đô đi ngoại thành dịp cuối tuần ngày càng tăng.

Một số làng nghề đang thử nghiệm tổ chức không gian nghệ thuật, chợ phiên ban đêm, nhưng còn rất nhỏ lẻ và chưa có chiến lược bài bản. Trong khi đó, nếu hình thành các tuyến phố đêm chuyên đề như “Phố gốm về đêm” (Bát Tràng), “Phố lụa – nghệ thuật ánh sáng” (Vạn Phúc)… thì Hà Nội sẽ có thêm những cụm du lịch vệ tinh quanh trung tâm, nhằm giải tỏa áp lực nội đô và mở thêm cơ hội đầu tư cho doanh nghiệp.

Khác với các khu du lịch lớn đòi hỏi vốn đầu tư hàng trăm tỷ đồng, phát triển du lịch làng nghề theo hướng trải nghiệm, ẩm thực, kinh tế đêm có thể bắt đầu từ những dự án quy mô nhỏ, đầu tư linh hoạt và khả năng hoàn vốn nhanh.

Một xưởng gốm kết hợp quán cà phê nghệ thuật chỉ cần khoản đầu tư dưới 2 tỷ đồng, nhưng nếu thiết kế tốt và truyền thông bài bản, có thể phục vụ hàng trăm lượt khách mỗi ngày, đặc biệt là giới trẻ và khách quốc tế. Một nhà hàng chuyên món quê truyền thống, phục vụ theo phong cách “chef’s table” hay “dine in heritage” cũng có thể tận dụng không gian nhà cổ tại làng nghề với chi phí thấp.

Hiện nhiều nhà đầu tư bất động sản nhỏ lẻ tại vùng ven Hà Nội có xu hướng chuyển đổi đất thổ cư, đất vườn thành mô hình homestay kết hợp hoạt động văn hóa truyền thống, mở ra làn sóng “du lịch xanh – di sản – trải nghiệm”. Tuy nhiên, thách thức lớn vẫn là chính sách như thiếu cơ chế cho thuê đất dài hạn, thiếu quy hoạch sử dụng không gian công cộng cho hoạt động du lịch, thiếu hướng dẫn về phòng cháy, an toàn cho các cơ sở kinh doanh nhỏ nằm xen kẽ trong khu dân cư.

Do vậy, cần có đề án riêng cho cụm phố nghề truyền thống Thủ đô, trong đó xác định rõ vai trò từng làng nghề, xây dựng bản đồ trải nghiệm, phân vùng đầu tư và cơ chế ưu đãi cụ thể cho mô hình du lịch nhỏ, bản sắc.

Linh Nguyễn

Nguồn: Dulichvn

Bảo tồn, phát huy nghệ thuật hát ngâm Ariya của người Chăm

Nghệ thuật hát ngâm Ariya của người Chăm vừa được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch (VHTTDL) công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia theo Quyết định 2216 của Bộ trưởng Bộ VHTTDL vào ngày 27-6-2025. Đây không chỉ là vinh dự và niềm vui chung của người Chăm tại tỉnh Ninh Thuận (cũ), mà sẽ được thừa kế và phát huy hơn nữa bởi tỉnh Khánh Hòa sau khi sáp nhập 2 đơn vị hành chính.


Ariya là những bài thơ, vần thơ hay câu thơ có độ ngắn dài khác nhau. Có những bài chỉ vài chục câu lục bát, nhưng có những bài dài tới hàng trăm câu. Các bài Ariya của người Chăm có từ lâu đời, không chỉ được truyền lại qua hình thức truyền miệng như các loại hình văn học hay nghệ thuật dân gian khác, mà còn được người xưa ghi chép vào các thư tịch cổ bằng chữ Chăm (Akhar Thrah). Chủ đề và nội dung của các bài Ariya rất đa dạng trong đời sống, từ các sự kiện lịch sử, tình yêu, phong tục tập quán, lịch pháp… đến các bài gia huấn ca có giá trị răn dạy và giáo dục đạo đức cho con người.

Các nghệ nhân cùng sinh hoạt hát ngâm Ariya.

Một trong những tác phẩm Ariya nổi tiếng của người Chăm là Bini – Cam (còn có tên Nai Mai Mâng Mâkah) kể về chuyện tình của một cô gái Chăm theo đạo Bàlamôn với một chàng trai theo đạo Bàni, trong khi ở cộng đồng người Chăm không được kết hôn với người khác đạo. Khi cô gái Chăm bị xử trên giàn hỏa thiêu, chàng trai đã nhảy lên chết cháy cùng người yêu. Tác phẩm này là nguồn cảm hứng của các vở kịch múa “Lửa tình yêu” của Nghệ sĩ Ưu tú Thọ Thái, ca khúc “Câu chuyện lửa tình yêu” của nhạc sĩ Phan Quốc Anh.

Ariya thường được người Chăm trình bày dưới hình thức xướng ngâm có giai điệu, hát kể gắn với giai điệu, lời ca mang đậm tính chất nghệ thuật nên gọi là nghệ thuật hát ngâm. Nghệ thuật hát ngâm Ariya tồn tại và duy trì trong các không gian lễ hội, buổi sinh hoạt văn hóa, văn nghệ của cộng đồng người Chăm. Các nghệ nhân có thể hát ở mọi lúc mọi nơi, khi nhàn rỗi vào dịp lễ hội, lúc nghỉ ngơi một ngày làm việc. Các giai điệu hát ngâm, thang âm, điệu thức, cường độ to nhỏ từng câu hát ngâm có thể tùy hứng theo tâm hồn, cảm xúc của người hát, nhất là những buổi hát về đêm, dưới ánh trăng bên bờ sông, nơi đầu làng Chăm hay bên đền tháp.

Nghệ thuật hát ngâm Ariya có nhiều giá trị về mặt lịch sử, văn hóa, ngôn ngữ và nghệ thuật. Tuy nhiên, theo thời gian, cũng như nhiều loại hình di sản văn hóa truyền thống, nghệ thuật hát ngâm Ariya đang đứng trước các thách thức và nguy cơ mai một: Suy giảm đội ngũ về chủ thể thực hành; đứt mạch trao truyền, thiếu thế hệ kế thừa; thư tịch cổ – phương tiện lưu giữ và truyền tải các bài Ariya dần biến mất; công tác sưu tầm, bảo tồn và phát huy giá trị Ariya còn nhiều khó khăn…

Ariya Bini – Cam – tác phẩm Ariya nổi tiếng của người Chăm. Ảnh: Thành Danh

Những năm gần đây, Sở VHTTDL và Trung tâm Nghiên cứu văn hóa Chăm của Ninh Thuận (cũ) đã bước đầu tổ chức các cuộc điều tra, thống kê và sưu tầm các bài hát Ariya theo hình thức ghi âm, ghi hình; tổ chức các lớp truyền dạy nghệ thuật hát ngâm Ariya trong cộng đồng… Đặc biệt, các cơ quan này cũng chú trọng công tác kiểm kê, xây dựng hồ sơ văn hóa phi vật thể để trình Bộ VHTTDL đưa vào danh mục quốc gia.

Sau khi nghệ thuật hát ngâm Ariya được Bộ VHTTDL đưa vào danh mục Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia, tỉnh Khánh Hòa với vai trò kế thừa, tiếp nối di sản cần tiếp tục bảo tồn và phát huy hơn nữa loại hình di sản đặc sắc này. Trong thời gian tới, địa phương, các cơ quan chuyên môn và cộng đồng người Chăm tỉnh Khánh Hòa cần tiếp tục quan tâm hỗ trợ, động viên các nghệ nhân thực hành hát ngâm Ariya; tăng cường số hóa các bài hát Ariya; nhân rộng và mở thêm nhiều lớp truyền dạy loại hình di sản này cho cộng đồng, nhất là giới trẻ; đưa Ariya vào trình diễn, thi thố trong các địa điểm, mô hình du lịch, sự kiện văn hóa; quảng bá nghệ thuật hát ngâm Ariya trên các trang mạng xã hội, kênh truyền thông Internet.

PGS.TS Phan Quốc Anh – Thành Danh

 

Nguồn: Dulichvn

Lan tỏa tinh hoa truyền thống

Phát triển làng nghề không chỉ là bài toán về kinh tế hay tiêu thụ sản phẩm, mà còn là hành trình gìn giữ và lan tỏa những giá trị văn hóa truyền thống. Bởi đó là nơi kết tinh tài hoa, tâm huyết và tinh thần sáng tạo của bao thế hệ người thợ…


Gốm Kim Lan nức tiếng xa gần. Ảnh: P. Sỹ.

Kết nối, khơi nguồn sáng tạo

Cả nước hiện có khoảng 5.400 làng nghề, trong đó hơn 2.000 làng nghề truyền thống sở hữu lợi thế đặc biệt về văn hóa, lịch sử và sản phẩm thủ công đặc sắc – những yếu tố lý tưởng để phát triển các chương trình du lịch kết hợp.

Du lịch làng nghề được xem là một loại hình du lịch văn hóa tổng hợp, không chỉ đưa du khách đến gần hơn với không gian làng quê và hoạt động sản xuất thủ công, mà còn tạo cơ hội để họ trực tiếp trải nghiệm, cảm nhận tinh hoa nghề truyền thống và lựa chọn những sản phẩm đặc trưng mang đậm bản sắc. Ngành du lịch ngày càng khởi sắc, du lịch làng nghề cũng đứng trước thời cơ vàng để bứt phá.

Điều đáng mừng là lớp trẻ hôm nay rất tài năng, họ hun đúc được lòng yêu nghề, tinh hoa nghề của cha ông truyền lại cộng với sự sáng tạo và tinh thần dám nghĩ, dám làm, dám đột phá, tạo ra những bước phát triển vượt bậc.

Ông Lưu Duy Dần – nguyên Chủ tịch Hiệp hội Làng nghề Việt Nam nhận định, các sản phẩm xuất khẩu của làng nghề không chỉ là xuất khẩu hàng hóa mà còn góp phần quảng bá nền văn hóa Việt Nam tới bạn bè quốc tế. “Hiện dư địa phát triển còn rất lớn nếu các làng nghề mạnh dạn tích hợp công nghệ mới, đổi mới tư duy sáng tạo, chuyển đổi số trong quảng bá sản phẩm và tăng cường kết nối thị trường”, ông Dần cho biết.

Hà Nội hiện có hơn 1.350 làng nghề và làng có nghề, được ví như “thủ phủ” của làng nghề truyền thống Việt Nam, là nơi hội tụ những nghệ nhân tài hoa, những dòng sản phẩm thủ công tinh xảo đã khẳng định được giá trị trên thị trường quốc tế.

Hướng tới Festival Bảo tồn và Phát triển làng nghề quốc tế 2025, Hà Nội đang bước vào giai đoạn tăng tốc. Theo ông Nguyễn Đình Hoa – Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường Hà Nội, sự kiện sẽ diễn ra trong 5 ngày của tháng 11/2025 tại Hoàng thành Thăng Long, với chuỗi hoạt động kéo dài từ tháng 9.

Khách du lịch trải nghiệm thực tế tại làng gốm Bát Tràng. Ảnh: P. Sỹ.

“Không chỉ là dịp để tôn vinh nghệ nhân, thợ giỏi, Festival còn là cơ hội vàng để xúc tiến thương mại, mở rộng thị trường, thúc đẩy hợp tác quốc tế về sản phẩm thủ công truyền thống”, ông Hoa nhấn mạnh.

Không dừng lại ở trưng bày, festival lần này còn có nhiều hoạt động hấp dẫn như: Hội thảo chuyên đề “Bảo tồn và phát triển làng nghề Hà Nội”; Hội chợ sản phẩm làng nghề và nông sản thực phẩm an toàn; Hội nghị xúc tiến đầu tư phát triển sản phẩm ngành nghề nông thôn…, mở ra những kênh giao lưu trao đổi thông tin, cùng chia sẻ những kinh nghiệm quý báu…

Phát triển bền vững và có bản sắc

Tinh hoa của làng nghề không dừng lại ở phát triển kinh tế, mà là hành trình gìn giữ ký ức văn hóa, bảo tồn bản sắc dân tộc và trao truyền tinh thần sáng tạo của cha ông qua từng thế hệ. Theo nhiều chuyên gia, muốn phát triển làng nghề bền vững, Việt Nam cần một chiến lược tổng thể và đồng bộ, từ quy hoạch, chính sách pháp lý, hạ tầng đến đào tạo nguồn nhân lực và định hướng thị trường.

GS.TS Từ Thị Loan – Viện Văn hóa Nghệ thuật Quốc gia Việt Nam cho rằng, việc ban hành Luật Làng nghề là vô cùng cần thiết để đảm bảo sự phát triển hài hòa giữa bảo tồn và thương mại hóa. Đây sẽ là nền tảng pháp lý quan trọng, điều chỉnh các mối quan hệ liên quan đến bảo vệ di sản, quyền lợi của nghệ nhân và tiêu chuẩn hóa quy trình sản xuất.

Còn TS Trần Hữu Sơn – Viện Nghiên cứu Văn hóa dân gian ứng dụng lại đặc biệt nhấn mạnh đến yếu tố môi trường. “Rất nhiều làng nghề hiện đang bị ô nhiễm nặng do thiếu hệ thống xử lý nước thải, khí thải. Muốn làng nghề phát triển, phải gắn liền với bảo vệ môi trường và chất lượng sống của người dân”, ông Sơn nói.

Trong khi đó, ông Phạm Hải Quỳnh – Viện trưởng Viện Phát triển du lịch châu Á (ATI) chỉ ra, làng nghề có thể bị đánh mất bản sắc nếu quá thương mại hóa hoặc phát triển thiếu định hướng. Ông Quỳnh cho rằng, việc phát triển du lịch làng nghề cần đi kèm với đào tạo kỹ năng cho người dân, đa dạng hóa sản phẩm du lịch, xây dựng câu chuyện văn hóa hấp dẫn gắn liền với sản phẩm – đó mới là yếu tố giữ chân du khách lâu dài.

Hà Nội có làng nghề nặn tò he Xuân La cả nước. Ảnh: P. Sỹ.

Một điểm sáng nổi bật trong câu chuyện phát triển làng nghề hiện nay là vai trò ngày càng quan trọng của thế hệ trẻ. Không ít người trẻ đã mạnh dạn tiếp cận nghề truyền thống bằng tâm thế mới, kết hợp giữa kỹ thuật thủ công với công nghệ hiện đại, sáng tạo trong thiết kế và xây dựng thương hiệu. Nhờ đó, nhiều sản phẩm làng nghề đã xuất hiện trên các sàn thương mại điện tử, được giới thiệu qua các nền tảng số, lan tỏa mạnh mẽ.

Nhiều người trẻ đã và đang góp phần gìn giữ làng nghề không chỉ bằng tình yêu với nghề truyền thống, mà còn bằng những cách tiếp cận mới mẻ, từ thiết kế hiện đại, truyền thông số đến khởi nghiệp sáng tạo – thổi làn gió mới vào những giá trị xưa cũ, làm sống dậy tinh thần nghề truyền thống trong nhịp sống đương đại.

Phạm Sỹ

 

Nguồn: Dulichvn

Ngọt ngào bát canh mùa lũ

Tháng 7, khi các cơn mưa ngày càng nặng hạt, cũng là lúc người dân các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) lại nóng lòng chờ đón mùa lũ – mùa nước nổi đặc trưng của vùng đất châu thổ trù phú. Nước về mang theo phù sa, cá tôm và cả sắc vàng rực rỡ của hoa điên điển…


Mùa lũ không chỉ là câu chuyện của thời tiết, mà còn là nhịp sống, là ký ức văn hóa của bao thế hệ người dân vùng ĐBSCL. Lũ về là dịp người dân gắn bó hơn với thiên nhiên, tận dụng nguồn lợi mà trời ban tặng để mưu sinh, tích trữ cho những tháng ngày khô hạn.

Canh cá linh với hoa điên điển.

Đó là mùa bà con giăng lưới, đặt trúm, hái bông điên điển, cá linh đầu mùa nấu canh chua – những món ăn dân dã mà khó ai quên được. Nếu đến ĐBSCL mùa nước lũ, chắc chắn nhiều người sẽ muốn một lần thưởng thức món canh cá linh nấu với hoa điên điển.

Cá linh và bông điên điển có lẽ là hai thứ đặc sản chỉ có vào mùa lũ. Mùa này, cá linh non còn nhỏ, xương mềm, thịt béo và ngọt. Bông điên điển thì vàng rực rỡ, mọc thành chùm hai bên bờ kênh rạch. Khi bà con giăng lưới, bắt cá linh cũng đồng thời hái những chùm hoa điên điển về để nấu bát canh chua cho bữa cơm chiều.

Để nấu món canh này, đầu tiên phải phi thơm hành tỏi, cho cá linh vào đảo sơ với chút nước mắm để cá thấm vị. Khi nước sôi, thả bông điên điển đã rửa sạch vào, nêm nếm lại bằng nước mắm, đường sao cho vị canh vừa ngọt dịu vừa đậm đà. Một số người muốn ăn thêm vị chua thì cho trái me vào để bát canh có vị thanh mát, giúp giải nhiệt mùa hè.

Riêng cái thêm vị chua của me cũng rất tinh tế, không phải chỉ là quả me thả ngay vào nồi canh là được, mà phải chọn những trái me vừa tới, nấu cho sôi lên rồi lột vỏ, dằm nát thịt me sau đó mới trút vào nồi canh. Khi đó canh mới có vị chua thanh, vừa phải chứ không chua gắt hay còn vị chát.

Canh điên điển cá linh là món ăn dân dã của đồng quê nhưng ăn một lần là nhớ mãi. Vị ngọt của cá, vị thanh mát của hoa điên điển, thêm chút chua vừa phải. Người miền Tây thường ăn món này với cơm trắng hoặc bún, kèm chén mắm ớt cay nồng, càng thêm phần thi vị. Đó như là một cái duyên lành của miền quê sông nước, một nét văn hóa ẩm thực độc đáo của miền Tây.

Thế nhưng, những năm gần đây, mùa lũ đến chậm, nước về ít, khiến bao người không khỏi thấp thỏm. Bà con mong mùa nước nổi năm nay sẽ trọn vẹn – đủ lớn để đồng ruộng được bồi đắp phù sa, sản vật thiên nhiên dồi dào, bông điên điển nở rực hai bên bờ kinh, và những phiên chợ nổi lại tấp nập ghe xuồng. Đặc biệt là để bữa cơm chiều miền Tây lại có bát canh cá linh – điên điển, món ăn gây thương nhớ cho bao người.

Mai Hoa

Nguồn: Dulichvn

TIN MỚI NHẤT