Trang chủ Du lịch trong nước

Du lịch trong nước

Du lịch trong nước, tin tức du lịch trong nước, các tour du lịch trong nước, các địa điểm du lịch trong nước hấp dẫn được chúng tôi tổng hợp và đưa tin hàng ngày đến cho khách du lịch trên khắp mọi miền đất nước có được thông tin du lịch trong nước để có những thông tin hữu ích nhất cho mình và gia đình khi quyết định chọn chuyến du lịch trong nước cho mình và người thân

Đặc sản Quảng Ngãi tên lạ, ăn giòn rụm không cần đũa

Ngoài tên gọi lạ tai và cách thưởng thức độc đáo, món đặc sản dân dã ở Quảng Ngãi còn hút khách nhờ hương vị thơm ngon, giá thành bình dân.


Có mặt ở một số tỉnh ven biển miền Trung như Đà Nẵng, Quảng Nam, Khánh Hòa… nhưng bánh đập (còn gọi là bánh rập, bánh chập, bánh tráng ướt ráo) ở Quảng Ngãi phổ biến hơn và được xem như đặc sản nức tiếng.

Món ăn này không chỉ hấp dẫn bà con bản địa, mà còn gây nhung nhớ cho những người đi lao động xa hay thực khách thập phương.

Thậm chí, một số người con xứ Quảng sinh sống và làm việc ở các vùng miền khác trên cả nước còn đưa bánh đập đi khắp nơi, giới thiệu và quảng bá thức quà quê dân dã.

Bánh đập Quảng Ngãi bên ngoài là bánh tráng nướng giòn rụm, bên trong là bánh ướt mềm mịn, dậy mùi thơm và vị béo ngậy của mỡ hẹ, hành phi. Ảnh: Chuyện ở Quảng Ngãi

Chị Trần Uyên – chủ quán bánh đập bình dân ở hẻm Nguyễn Công Phương, TP Quảng Ngãi chia sẻ, tên món xuất phát từ cách ăn thú vị. Thực khách phải đập nhẹ để bánh vỡ ra, các nguyên liệu dính đều vào nhau rồi mới thưởng thức.

“Bánh đập gồm 2 thành phần chính. Bên ngoài là bánh tráng (bánh đa) nướng, bên trong là lớp bánh ướt mỏng, mềm”, chị nói.

Bánh đập được học sinh, sinh viên xứ Quảng yêu thích. Ảnh: Phương Thu

Tuy là món ăn dân dã, làm từ những nguyên liệu quen thuộc nhưng món bánh đập muốn ngon phải phụ thuộc vào sự khéo léo và tay nghề của người đầu bếp. Theo chị Uyên, phần bánh ướt được làm từ bột gạo khá giống bánh cuốn ở miền Bắc.

Gạo ngâm rồi xay nhuyễn để lấy bột làm bánh. Bột gạo trước khi đem đi tráng sẽ được pha với nước theo tỉ lệ phù hợp để bột không quá loãng hoặc quá đặc. Khi tráng, người ta khuấy rồi múc bột, dàn đều trên miếng vải bọc nồi hơi rồi đậy nắp.

Công đoạn này đòi hỏi chút khéo léo và “canh” thời gian vừa đủ để lớp bánh ướt chín và có độ mỏng vừa phải, đạt độ mềm dẻo, hơi dai, khi lấy lên không bị rách.

Khoảng 1-2 phút là bánh chín. Lúc ấy, người đầu bếp khéo léo dùng que tre mỏng (hoặc dụng cụ chuyên dụng như que, ống sắt…) dỡ bánh lên.

Bánh sẽ được trải lên tấm phên tre cho ráo, sau đó gỡ ra, đặt lên mặt bánh tráng nướng rồi mới cho thêm chút hành phi, mỡ hẹ lên trên và gập lại làm đôi.

Bánh đập không cầu kỳ nhưng ngon. Ảnh: Khoai Lang Thang food

“Khách gọi món đến đâu, chủ quán mới đổ bánh đến đó để món ăn luôn được nóng hổi. Bánh đa trước khi ăn cũng có thể nướng lại cho giòn, ăn sẽ ngon hơn.

Tùy từng địa phương, người ta chỉ dùng hành phi và mỡ hẹ hoặc quết lớp dầu mỏng lên bánh ướt rồi rắc hẹ tươi thái nhỏ lên trên. Một số nơi, người bán còn cho thêm chút tép khô, mộc nhĩ hoặc thịt băm cho món ăn đa dạng, hấp dẫn”, chị Uyên tiết lộ.

Để thưởng thức bánh đập, thực khách lấy tay đập nhẹ vào chiếc bánh, khiến cho bánh vỡ thành nhiều miếng nhỏ, đồng thời làm lớp bánh tráng dính chặt vào bánh ướt bên trong. Thực khách có thể ăn bánh đập trực tiếp mà không cần dùng đũa.

Bánh đập có phần nước chấm ngon. Ảnh: @deliciousthaidesert

Ở Quảng Ngãi, người ta thường ăn bánh đập với mắm nêm hoặc xì dầu, nước mắm chua ngọt. Đặc biệt, người lớn hay trẻ nhỏ đều có thể thưởng thức bánh đập vì món này dễ ăn, giá lại bình dân, ăn sáng, trưa hay xế chiều đều hợp.

“Điều thú vị là món bánh đập không có bất kỳ loại thịt nào, nguyên liệu đơn giản nhưng ăn ngon và cuốn. Mỗi lần về quê, mình đều ra quán thưởng thức món này, có khi ăn hết 3-4 chiếc một lúc”, Hà My (hiện sống và làm việc ở TPHCM) bày tỏ.

Cô gái trẻ cũng nêu cảm nhận, bánh đập ngon nhất là khi ăn nóng. Độ giòn tan của lớp bánh tráng kết hợp với độ dẻo mịn của bánh ướt, cùng với phần nhân mỡ hẹ béo ngậy khiến món ăn trở nên đặc biệt, giúp du khách cảm nhận trọn vị.

b

Bánh đập có giá thành rẻ, chỉ từ 9.000 đồng. Ảnh: @kawai.food

Nếu có dịp tới Quảng Ngãi, du khách có thể tìm và thưởng thức món bánh đập ở một số quán ăn vỉa hè trong trung tâm TP như Lê Đại Hành, Nguyễn Công Phương… hay trong các khu chợ dân sinh của địa phương.

Mỗi suất bánh đập khá rẻ, khoảng 9.000 – 12.000 đồng, tùy nơi và tùy loại nhân. Trong khi ăn, du khách có thể quan sát quá trình làm bánh khéo léo của người đầu bếp.

Thảo Trinh

 

Nguồn: Dulichvn

Sắc gốm miền Kinh Bắc

Nếu lúa là linh hồn của văn minh nông nghiệp, thì gốm được xem là “ngôn ngữ” đầu tiên mà cư dân lúa nước dùng để thể hiện đời sống tinh thần. Trong dòng chảy đời sống đương đại, sắc gốm miền Kinh Bắc với những tên tuổi như Phù Lãng, Luy Lâu, Hiên Vân đang thăng hoa như một bản giao hòa giữa truyền thống và hiện đại, giữa hồn đất với sự sáng tạo tài hoa của đôi tay và tâm thức người Việt.


Mộc mạc gốm Phù Lãng (Quế Võ).

Mộc mạc men da lươn gốm Phù Lãng

Làng gốm Phù Lãng (Quế Võ) nằm bên dòng sông Cầu hiền hòa, mang trong mình hơn 700 năm lịch sử làm gốm. Đây là một trong những làng nghề cổ của xứ Kinh Bắc-Bắc Ninh. Nghề gốm Phù Lãng hình thành và phát triển vào khoảng thời Trần, từ thế kỷ XIV. Truyền rằng, ông tổ nghề gốm Phù Lãng là Lưu Phong Tú.

Không như Bát Tràng men trắng hoa lam, gốm Phù Lãng nâu trầm, mộc mạc, dân dã nhưng đầy sức sống và nổi danh với những sản phẩm men da lươn độc đáo với nhiều sắc độ như nâu đen, vàng nhạt, vàng thẫm, vàng nâu…

Phương pháp chế tác đặc trưng của Phù Lãng là kỹ thuật đắp nổi theo hình thức chạm bong (chạm kép) làm nên những sản phẩm gốm dùng trong tín ngưỡng, gia dụng và đồ trang trí mang tính điêu khắc cao. Theo các bậc cao niên ở làng, mỗi sản phẩm gốm Phù Lãng đạt yêu cầu phải mang sắc da lươn vàng óng hoặc màu cánh gián đặc trưng, khi gõ có âm thanh vang trong. Điểm đặc biệt người Phù Lãng vẫn kiên trì nung gốm bằng củi để tạo ra những vết táp tự nhiên trên bề mặt gốm mà không phương pháp hiện đại nào thay thế được. Ngày nay, các thế hệ nghệ nhân và thợ trẻ của làng nghề vẫn ngày đêm vẫn miệt mài thổi hồn vào đất, giữ lấy chất men quê bằng sự tận tâm và lòng yêu nghề bền bỉ.

Trầm ấm gốm Luy Lâu

Không chỉ là trung tâm chính trị, văn hóa thời Bắc thuộc, vùng Dâu- Luy Lâu (Thuận Thành) còn là nơi phát tích của gốm Luy Lâu là dòng gốm cổ từng giao thương với Ấn Độ và Trung Hoa từ hơn 2.000 năm trước. Những hiện vật gốm được phát hiện tại di chỉ khảo cổ Luy Lâu và khu vực lân cận cho thấy nơi đây từng là cái nôi của sản xuất gốm vùng đồng bằng sông Hồng.

Sự bồi lấp của dòng sông Dâu cổ cùng biến thiên lịch sử và sự mai một của nghề thủ công đã khiến gốm Luy Lâu thất truyền từ thế kỷ XVII. Phải mất hơn 300 năm, tại vùng đất cổ ấy, nhờ sự miệt mài của họa sĩ, nghệ nhân Nguyễn Đăng Vông và các cộng sự mới lại vực dậy một “giấc mơ gốm” tưởng đã hóa tro tàn.

Với kỹ thuật men tro xanh ô-liu, đỏ sậm đặc trưng, gốm Luy Lâu không chỉ mang vẻ đẹp mỹ thuật, mà còn ẩn chứa chiều sâu lịch sử. Bằng chính tay nghề và lòng tin của mình qua những lần thử nghiệm trong lò nung, nghệ nhân đã lấy từ tro cây dâu bản địa, kết hợp với đất bãi, sỏi đá núi và vỏ sò điệp từ biển cả để làm nên men gốm Luy Lâu riêng biệt. Từ những chiếc bình, lọ, đến những biểu tượng văn hóa Việt như: Đầu rồng thời Lý, nghê cổ, hoa sen, rồng phượng, đều mang hơi thở của ngàn xưa và sự sáng tạo của hôm nay. Gốm Luy Lâu từng được giới thiệu tại các sự kiện APEC, WTO và hiện diện trong các bộ sưu tập tại Pháp, Đức, Nhật Bản, Hoa Kỳ.

Sự trở lại của gốm Luy Lâu không chỉ là sự hồi sinh một nghề cổ, mà là minh chứng sống động về sức sống bền bỉ của văn hóa Việt. Trên vùng đất từng là kinh đô cổ của xứ Giao Chỉ, nơi hội tụ của đạo Phật, Nho giáo và tín ngưỡng bản địa, những sản phẩm gốm Luy Lâu như tiếng vọng quá khứ, nhắc nhở hậu thế về một nền văn minh từng rực rỡ và một khát vọng gìn giữ tinh hoa của đất.

Gốm Hiên Vân lưu giữ vẻ đẹp ký ức

Gốm Hiên Vân là biểu tượng cho một hướng đi mới sáng tạo từ căn cốt dân tộc. Dòng gốm này do cố họa sĩ Bùi Hoài Mai sáng lập từ năm 2004, mang triết lý “phục hưng gốm Việt theo lối đương đại”. Gốm Hiên Vân không sản xuất đại trà, không chạy theo thị trường mà đi theo lối nghệ thuật cá nhân hóa. Mỗi tác phẩm như một khối cảm xúc, có tính điêu khắc, lặng lẽ kể chuyện bằng hình thể và màu men.

Gốm Hiên Vân mang dáng dấp cổ điển, với lớp men sâu thẳm, được phát triển từ kỹ thuật chế tác thời Lý-Trần-Lê-Mạc. Dáng gốm Hiên Vân không chạy theo hiện đại mà giữ cốt lõi truyền thống với chất men tro cổ truyền được nâng cấp theo tiêu chuẩn mới, khả năng chịu nhiệt cao hơn, sắc độ phong phú hơn, và mỗi sản phẩm đều là một cá thể độc lập, như một mảnh thời gian cô đọng. Và chính trong hành trình kể tiếp câu chuyện truyền thống, người nghệ sĩ sáng tạo đã tìm cách giao thoa giữa cái cũ và cái mới. Vì thế, gốm Hiên Vân không chỉ là vật dụng hay đồ trang trí mà còn như một kỷ vật của gốm Việt xưa – nay.

Những làng gốm Kinh Bắc, dù cổ như Phù Lãng, phục dựng như Luy Lâu, hay đương đại như Hiên Vân đều chung một khát vọng kể câu chuyện quê hương bằng thứ ngôn ngữ sâu lắng nhất. Đó là câu chuyện của sự quện hòa giữa đất, nước, lửa cùng sức sáng tạo tài hoa của bàn tay và khối óc. Từ Luy Lâu thâm trầm, Phù Lãng mộc mạc đến Hiên Vân thanh khiết, mỗi dòng gốm là một phần của bản sắc, một tiếng vọng của quá khứ gửi về hiện tại. Không chỉ màu men, kiểu dáng hay kỹ thuật tạo hình, mỗi sản phẩm gốm còn là ký ức của hồn đất, là ngôn ngữ sáng tạo của đôi tay, là hơi thở của văn hóa Việt…

V.Thanh

 

Nguồn: Dulichvn

Hội Lim được đưa vào Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia

Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch vừa công bố quyết định đưa Hội Lim (Tiên Du) vào Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia.


Du khách thập phương nô nức trảy hội Lim.

Như vậy, tính đến nay, Bắc Ninh hiện có 12 di sản trong Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia gồm: Dân ca Quan họ Bắc Ninh, Hát Ca trù, Hát Trống quân Bùi Xá, Lễ hội Đồng Kỵ, Lễ hội làng Diềm, Nghề làm tranh dân gian Đông Hồ, Kéo co Hữu Chấp, Nghề gò đồng Đại Bái, Nghề chạm khắc gỗ Phù Khê, Làng nghề gốm Phù Lãng, Nghề thủ công tre trúc Xuân Lai và Hội Lim.

Hội Lim là lễ hội nổi tiếng nhất của sinh hoạt Dân ca Quan họ Bắc Ninh được tổ chức vào ngày 13 tháng Giêng hằng năm với không gian trung tâm là đồi Lim (thị trấn Lim, huyện Tiên Du). Hiện nay, Hội Lim có 13 làng thuộc huyện Tiên Du tham gia gồm: Đình Cả, Duệ Nam, Lộ Bao, Duệ Khánh, Duệ Đông, Lũng Giang, Lũng Sơn, Chè, Dọc, Bái Uyên, Hoài Thị, Hoài Trung, Hoài Thượng.

Diễn xướng Dân ca Quan họ phục vụ du khách tại không gian đồi Lim trong ngày hội.

Trong những ngày hội, phong phú hình thức diễn xướng Dân ca Quan họ được các nghệ nhân, nghệ sĩ, liền anh, liền chị và người dân các làng Quan họ khắp vùng ca xướng tại gia, tại đình làng, hát dưới thuyền, hát trên sân khấu, hát trên đồi Lim, hát trước cửa chùa…

Các nguồn tài liệu cho biết vào thế kỷ XVIII, Hội Lim đã trở thành một hội lớn phát triển tới quy mô hội hàng tổng – tổng Nội Duệ. Khi đó tổng Nội Duệ bao gồm 6 xã, phường: xã Lũng Giang, Nội Duệ (Đình Cả, Lộ Bao), Nội Duệ Khánh, Nội Duệ Nam, Xuân Ổ và phường hát cửa đình Tiên Du (sau là Nội Duệ Đông). Đặc biệt Hội Lim còn gắn liền với tên tuổi các danh nhân lịch sử văn hóa vùng Lim như: Đỗ Nguyễn Thụy, Nguyễn Đình Diễn, bà Mụ Ả… là những người có ảnh hưởng trực tiếp và có vai trò to lớn trong việc giữ gìn tập tục, mở mang lễ hội vùng Lim.

Không chỉ là một lễ hội truyền thống đơn thuần, Hội Lim còn là không gian văn hóa tiêu biểu- nơi Dân ca Quan họ Bắc Ninh – Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại được bảo tồn, trình diễn và phát huy một cách phong phú và sống động. Với quy trình thực hành công phu, sự kết hợp hài hòa giữa các nghi lễ truyền thống và các hoạt động văn hóa sôi động, đặc biệt là Dân ca Quan họ Bắc Ninh, Hội Lim thể hiện rõ bản sắc, tinh hoa của vùng đất Kinh Bắc – Bắc Ninh.

Việt Thanh

 

Nguồn: Dulichvn

Về Quảng Bình ăn canh xương rồng cá đuối

Sau một ngày rong ruổi khám phá hệ thống hang động kỳ vĩ ở “vương quốc hang động” Quảng Bình, chiều về bên bờ cát trắng biển xanh Nhật Lệ, ngồi lắng nghe tiếng sóng rì rào, cảm nhận làn gió mặn từ biển, và chậm rãi thưởng thức món canh xương rồng cá đuối thì quả là không còn gì bằng…


Trên những triền cát trải dài, cây xương rồng không chỉ mang vẻ đẹp tự nhiên mà còn là biểu tượng cho sức sống mãnh liệt, bền bỉ của con người vùng cát trắng. Mọc lên từ vùng đất khô cằn, nắng gió quanh năm, xương rồng trở thành hình ảnh thân quen gắn bó với đời sống người dân làng biển Quảng Bình.

Không phải ai cũng biết, xương rồng từng là cứu cánh cho nhiều gia đình trong những ngày tháng khó khăn. Món canh xương rồng có từ lâu đời, thường xuất hiện trong bữa cơm của những người dân làng biển, nhất là khi mùa biển vắng cá.

Bát canh xương rồng cá đuối của người dân làng biển Quảng Bình.

Trải qua năm tháng, món ăn này dần trở thành một phần văn hóa ẩm thực đặc trưng của người dân làng biển Quảng Bình. Từ những nguyên liệu tưởng chừng đơn sơ, giản dị – là những bụi xương rồng ở góc vườn thêm ít cá đuối, qua đôi tay khéo léo của người phụ nữ làng chài, món canh xương rồng cá đuối dân dã, bình dị, thấm đẫm tình quê. Một bát canh có vị mặn mòi của biển, vị thanh chua của xương rồng, rất thích hợp để thưởng thức trong những ngày trời oi nóng.

Canh xương rồng Quảng Bình còn có cái tên khác là canh lưỡi long. Theo các bà, các chị, để nấu được món canh ngon đúng điệu, khâu chọn nguyên liệu vô cùng quan trọng. Chỉ xương rồng năm cánh (hay còn gọi là xương rồng ngôi sao) mới có thể dùng để chế biến món ăn. Người dân làng biển phải dậy từ lúc sáng sớm – khi mặt trời chưa mọc để hái xương rồng. Bởi thời điểm này, thân xương rồng còn mọng nước nên sẽ thanh mát hơn nhiều. Buổi chiều, thân xương rồng khô đi, khi nấu, vị không còn thanh mà chát hơn.

Xương rồng cắt về, bỏ lớp vỏ xanh, phần thân non được thái lát mỏng rồ trụng qua nước sôi để bớt độ nhớt và vị chua. Cá đuối, được chọn kỹ, cắt miếng vừa ăn, ướp gia vị rồi xào sơ cho thấm trước khi kết hợp cùng xương rồng. Khi canh sôi, chỉ cần rắc thêm chút hành lá, ngò gai, ít hạt tiêu là có thể thưởng thức ngay.

Bát canh mang sắc vàng nhẹ, thoang thoảng mùi biển, đậm đà, thanh mát mà vẫn tròn vị. Có thể nói, chẳng cần nguyên liệu cao sang, chẳng cầu kỳ gia vị, canh xương rồng cá đuối làm nên nét ẩm thực Quảng Bình từ chính sự mộc mạc, bình dị, hiền lành của con người nơi đây.

Anh Trương Xuân Hanh, du khách đến từ Hà Nội chia sẻ: “Tôi chưa bao giờ nghĩ xương rồng lại trở thành một món ăn – mà lại ngon đến thế. Ngay chiều đầu tiên đến Quảng Bình, bên bờ biển Nhật Lệ, tôi tìm thử theo lời giới thiệu và thực sự bất ngờ trước hương vị đặc trưng, lạ miệng và rất ngon của tô canh xương rồng cá đuối. Đây là món mà ai đến Quảng Bình cũng nên ăn thử một lần để cảm nhận hương vị mặn mòi của biển cả, sự thanh mát ẩn mình trên mỗi cành xương rồng.

Không chỉ có canh, xương rồng còn được người dân vùng cát chế biến thành nhiều món khác như gỏi xương rồng, nộm xương rồng, mứt xương rồng, xương rồng xào mỡ hay trà xương rồng. Mỗi món là một cách thể hiện sự sáng tạo của người dân làng biển Quảng Bình trong nét văn hoá ẩm thực, nơi vùng đất được thiên nhiên ban tặng nhiều thắng cảnh đẹp, sản vật ngon.

Xuân Thi

Nguồn: Dulichvn

”Khoác áo mới” cho gốm M’nông

Từ bao đời nay người M’nông ở huyện Lắk luôn xem gốm là hồn cốt của văn hóa cội nguồn.


Những nghệ nhân làm gốm ở xã Yang Tao (huyện Lắk) hiện nay hầu như không ai biết nghề gốm của người M’nông bắt nguồn từ đâu, có từ khi nào; họ chỉ biết rằng có một đời sống gốm đã sinh ra từ rất lâu ở vùng đất thấp trũng – nơi lắm khe, nhiều suối, lại được bao bọc bởi hồ Lắk trữ tình và thơ mộng. Nghề gốm của người M’nông gắn liền với lịch sử định cư của cộng đồng người M’nông tại vùng đất này.

Mặc dù đã trải qua nhiều biến cố của các thời kỳ lịch sử nhưng cho đến ngày nay, sức sống kỳ diệu của nghề gốm vẫn giữ nguyên được các yếu tố gốc với cả một quy trình thao tác mà tổ tiên bao đời truyền lại. Không có máy móc, không bàn xoay, không khuôn đúc, không lò nung (nung lộ thiên), gốm của người M’nông phụ thuộc vào độ khéo léo của đôi tay và sự uyển chuyển của nghệ nhân để tạo nên những hình khối mang đặc trưng riêng.

Người M’nông ở xã Yang Tao (huyện Lắk) thực hành vẽ hoa văn trên sản phẩm gốm.

Với ý nghĩa đó, công tác bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa truyền thống của nghề gốm được chính quyền địa phương và ngành chức năng quan tâm triển khai thực hiện. Điển hình trong tháng 5 vừa qua, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã tổ chức lớp truyền dạy kỹ thuật trang trí hoa văn trên sản phẩm gốm nhằm tăng giá trị thẩm mỹ cho sản phẩm gốm của người M’nông tại xã Yang Tao, huyện Lắk. Học viên của các lớp học là những nghệ nhân, người dân địa phương đã có kinh nghiệm làm gốm từ nhiều năm nay. Các học viên tham gia lớp học với tinh thần tích cực, mong muốn phát triển và gìn giữ bản sắc văn hóa của dân tộc mình.

Nghệ nhân H Phiết Uông, buôn Dơng Băk (74 tuổi) – một trong những học viên lớn tuổi của khóa học chia sẻ, bà biết làm gốm từ lâu, nhưng tất cả các sản phẩm gốm bà và người dân ở xã Yang Tao làm ra đều là gốm trơn (không có họa tiết hoa văn). Tuổi đã cao, việc tiếp thu các kiến thức, kỹ năng để trang trí hoa văn trên sản phẩm gốm biết rằng không hề dễ dàng với bà, nhưng khi có thông báo về việc mở lớp học bà đã tiên phong đăng ký. Đến với lớp học, bà đã được giáo viên hướng dẫn tỉ mỉ, chi tiết từng nét vẽ trên giấy, trên mặt phẳng đất sét, khi đã thành thạo bà cùng các học viên đã thực hành vẽ hoa văn trên sản phẩm gốm hoàn thiện. Sau 1 tháng tham gia lớp học, bà đã tự trang trí hoa văn các con vật như voi, rùa, thằn lằn và một số hình về thiên nhiên trên sản phẩm gốm hoàn thiện.

Học viên H Hễ Bkrông (buôn Yok Đuôn, xã Yang Tao) bộc bạch, đến với lớp học, chị cùng các học viên khác không chỉ học được kỹ năng, mà còn hiểu thêm về ý nghĩa, giá trị văn hóa sâu sắc của những hoa văn truyền thống – những họa tiết không chỉ đẹp mà còn chứa đựng linh hồn, bản sắc của người M’nông.

Lớp học đã mở ra một hướng đi mới, không chỉ là cơ hội để giữ gìn nghề của ông bà xưa để lại, mà còn giúp người học tự tin hơn khi tiếp tục góp chút công sức vào việc bảo vệ và phát huy nghề gốm tại địa phương. Gia đình chị có một điểm trưng bày, giới thiệu và là nơi trải nghiệm quy trình làm gốm của người M’nông tại địa phương.

Với những kiến thức tiếp thu được từ lớp học này, chị sẽ cố gắng trau dồi thêm kỹ năng trang trí hoa văn để nâng cao chất lượng sản phẩm gốm, đáp ứng nhu cầu về thẩm mỹ của người sử dụng, nhất là khách du lịch, tăng thêm thu nhập cho gia đình từ nghề làm gốm truyền thống.

Các nghệ nhân và người dân địa phương học đường nét trang trí hoa văn sản phẩm gốm của người M’nông.

Em H Niêm Kuan (13 tuổi) là học viên nhỏ tuổi nhất đến với lớp học với mong muốn tìm hiểu và học hỏi kinh nghiệm để kế tục, gìn giữ nghề làm gốm của cha ông để lại. Em H Niêm chia sẻ, em cảm thấy rất vui vì được tìm hiểu về nghề làm gốm truyền thống của dân tộc mình. Trong thời gian theo học, không chỉ được cô giáo chỉ dạy từng nét vẽ mà em còn có cơ hội bồi đắp thêm tình yêu văn hóa truyền thống của người M’nông.

Cô giáo Dương Vy Hà, giảng viên Trường Cao đẳng Văn hóa Nghệ thuật Đắk Lắk – người trực tiếp giảng dạy và chỉ dẫn lớp học đánh giá, các sản phẩm gốm sau khi được các nghệ nhân, học viên “thổi hồn” bằng các họa tiết, hoa văn không chỉ đẹp hơn về hình thức mà trở nên sinh động, hấp dẫn hơn. Các hoa văn được trang trí là hình những con vật, cảnh vật thiên nhiên, vật dụng gắn bó quen thuộc với sinh hoạt hằng ngày, mang hơi thở của cuộc sống nên rất gần gũi, quen thuộc với bà con. Nếu tiếp tục rèn luyện và phát triển, với những bàn tay khéo léo của các nghệ nhân, người dân, những giá trị truyền thống, những đặc trưng của gốm M’nông sẽ tiếp tục lan tỏa đến mọi miền đất nước và du khách quốc tế.

Phạm Hoàng

 

Nguồn: Dulichvn

Quán miến lươn 37 năm, đông khách bậc nhất Hà Nội được Michelin khen hết lời

Các món miến lươn của nhà bà Lan thu hút rất đông thực khách Hà Nội suốt 37 năm qua. Hiện nay, quán còn là địa chỉ hấp dẫn khách quốc tế.


Ngay ngã tư Chân Cầm – Lý Quốc Sư (Hoàn Kiếm, Hà Nội) có hai quán ăn lúc nào cũng đông nườm nượp cả khách Tây lẫn khách ta, đó là phở 10 Lý Quốc Sư và miến lươn Chân Cầm.

Cả hai quán đều được Michelin Guide lựa chọn và giới thiệu trong danh sách Bib Gourmand – quán ăn ngon với giá cả phải chăng. Trong đó, miến lươn Chân Cầm là địa chỉ lần đầu xuất hiện trong danh sách, mới được công bố hôm 5/6.

“Mùa đông, bát miến bốc khói với lươn chiên giòn tan là món ăn khó có thể cưỡng lại. Còn sang hè, bạn nhất định phải thử nộm lươn tươi mát”, Michelin Guide giới thiệu.

Miến lươn Chân Cầm là địa chỉ hấp dẫn thực khách

“Tôi rất bất ngờ khi nhận được giấy mời từ Michelin Guide. Tôi không nghĩ quán ăn nhỏ bé của gia đình lại được họ giới thiệu và khen ngợi. Đây thực sự là món quà tinh thần với tôi sau gần 40 năm bán miến lươn”, bà Vũ Thị Lan (60 tuổi), chủ quán nói.

Bà Lan trực tiếp bán hàng từ 6-16h hằng ngày, còn tối có các chị em gái trong nhà “thay ca”. Xuyên suốt thời gian đó, bà gần như không lúc nào ngơi tay.

Buổi trưa, bà cần thêm 5 người hỗ trợ mới kịp phục vụ khách tại cửa hàng và các đơn giao đi xa. Quán nhỏ nhưng rất gọn gàng, sạch sẽ. Bà Lan còn “ghi điểm” với khách bởi sự xởi lởi, nói chuyện hiền hòa, vui vẻ.

Bà Lan – chủ quán đã bán miến lươn 37 năm

Bà Lan kể, từ khi còn là thiếu nữ bà đã thích ăn miến lươn. Khi có bầu, bà “nghén” món ăn này, thường xuyên tìm tới các hàng quán phố cổ để thưởng thức rồi tự mày mò cách làm.

“Năm con gái lớn 3 tuổi, thấy công việc ở xưởng dệt quá vất vả, không có thời gian chăm sóc con, tôi bàn với chồng xin nghỉ việc, ở nhà bán miến lươn. Hằng ngày, tôi rong ruổi khắp Hàng Trống, Hàng Gai, Hàng Bột…

Hai vợ chồng tự chọn mua từng cân lươn, sơ chế, chiên giòn, nấu nước dùng. Chúng tôi vừa bán vừa điều chỉnh sao cho phù hợp với khẩu vị người Hà Nội. Lúc mang bầu con gái thứ 2, tôi vẫn gánh hàng miến đi khắp phố cổ”, bà Lan kể.

Bán rong 15 năm, vợ chồng bà Lan mới chuyển về bán ở vỉa hè phố Chân Cầm. Khi ông Minh – chồng bà qua đời, không còn người phụ những việc nặng, bà Lan thuê cửa hàng cố định, cũng có chỗ ngồi thoải mái hơn cho thực khách.

Những năm sau này, bà thuê được thêm một mặt bằng đối diện và mở thêm cơ sở. “Tôi đặt tên quán là Minh Lan – tên của hai vợ chồng nhưng sau này khách gọi là miến lươn Chân Cầm”, bà Lan nói.

9h30, quán vẫn đông khách ra vào và đặt mua mang về

Ngoài miến lươn (miến nước, miến xào, miến trộn), bà Lan bán thêm nem lươn, chả lươn, lươn om chuối đậu, súp lươn, cháo lươn để thực khách có đa dạng lựa chọn.

“Nhờ gánh hàng rong mà vợ chồng tôi nuôi được hai con gái ăn học thành người”, bà Lan tâm sự.

“Ở Hà Nội có hàng trăm hàng quán, để ghi dấu ấn với thực khách, ngay cả người sành ăn, khó tính và giữ chân họ thì người bán phải ‘làm thật’. Tức là phải chọn nguyên liệu ngon, chế biến cầu kỳ, có bí quyết riêng”, bà nói.

Miến lươn tại quán đông bậc nhất Hà Nội có giá từ 45.000-60.000 đồng/bát

Theo bà Lan, 37 năm làm hàng ăn, bà chỉ dùng lươn đồng. Trước đây, bà đi chợ tìm mua, sau này lươn đồng hiếm mà quán cần số lượng lớn nên bà tìm mối hàng uy tín ở Bắc Ninh.

“Họ sẽ tuốt sẵn lươn rồi vận chuyển tới cho tôi hàng ngày. Chỉ cần nhìn kích thước, độ óng của sợi lươn, là tôi biết lươn đó tươi hay không, lươn đồng hay nuôi”, bà Lan nói.

Loại lươn này không quá mập mạp, to béo nhưng thịt thơm và ngon. Tuy nhiên, giá lươn đồng cao.

“Cứ cách ngày, nhà tôi lại chiên 1,5-2 tạ lươn tươi. Mỗi mẻ chiên trong 30 phút. Đầu bếp là chị gái và em rể tôi, nhiều năm kinh nghiệm nên kỹ thuật canh lửa rất chuẩn.

Lươn chiên thành phẩm phải giòn, không khô cứng, không cháy khét, không thấm dầu. Khách ăn tới cuối bát, lươn vẫn giữ được độ giòn đó. Tôi cũng không tẩm bột vào lươn như nhiều nơi”, bà Lan cho hay.

Bà Lan cho biết, muốn lươn chiên giòn, ngon phải có bí quyết canh lửa

Dịp cận Tết, lươn chiên của gia đình bà Lan được nhiều người tìm mua để mang biếu tặng. Mỗi kg lươn khô chiên giòn có giá 1,6-1,7 triệu đồng.

Mùa hè, miến lươn trộn hay nộm lươn thường đắt khách hơn miến lươn nước. Mỗi bát sẽ có miến và giá đỗ chần sơ, dưa chuột đã trộn giấm – gia vị, cà rốt bào sợi, rau răm, rau mùi, lươn chiên giòn hoặc lươn mềm tùy ý thích của khách.

Không thể thiếu trong bát là phần nước trộn được pha từ nước tương, nêm nếm gia vị đủ chua, mặn, ngọt, cay nhẹ. Chỉ 2-3 phút là có ngay bát miến lươn màu sắc, rắc thêm hành phi, lạc rang. Quán phục vụ kèm một bát nước dùng nóng hổi.

“Nước dùng nhà tôi được làm theo công thức riêng. Xương lươn được xay nhuyễn rồi nấu cô đặc cùng tiết lươn, không pha tạp thêm gì chỉ nêm nếm gia vị.

Phần hỗn hợp này được thêm nước, nấu thành nước dùng thơm mùi lươn, đậm đà, ngọt tự nhiên chứ không ngọt từ mì chính”, bà Lan cho hay.

Theo chủ quán, hương vị của miến lươn Chân Cầm không giống với các món miến lươn, cháo lươn Nghệ An, cách chế biến cũng khác nhau.

Nước dùng được ninh từ xương lươn và tiết lươn

Bà Lan cũng cho biết thêm, nhiều năm nay bà chỉ dùng miến làng Cự Đà – giòn dai, thơm ngon và màu vàng óng ả.

Miến Cự Đà sau khi chần vừa tới trong nước dùng sẽ mềm, dai, không nhũn nát

Với nộm lươn, bà Lan kết hợp từ các thành phần như giá đỗ, hoa chuối thái nhỏ, dưa chuột, cà rốt, hành khô, rau thơm, thêm lươn chiên giòn và trộn cùng nước chấm chua ngọt. Món ăn này thanh mát, bùi bùi, giòn giòn, được ưa thích trong ngày hè.

Với các món miến xào, khách gọi tới đâu, chị gái bà Lan đứng bếp xào tới đó. Chả và nem cũng được chiên nóng, tỏa mùi hương thơm phức

Quán có thể đón khoảng 40 khách/lượt, có điều hòa, chỗ để xe. Tuy nhiên, nếu tới vào giờ cao điểm sáng, trưa, thường phải chờ đợi.

Quán nhận được khá nhiều đánh giá tích cực trên mạng xã hội nhưng vẫn có thực khách cho rằng, lượng lươn trong phần ăn ít. Các món xúp lươn, cháo lươn của quán không quá đặc sắc.

Đây là quán miến lươn thứ hai ở Hà Nội được vào danh sách Bib Gourmand, sau miến lươn Đông Thịnh.

Linh Trang

Nguồn: Dulichvn

Miệt mài gìn giữ Quan họ cổ

Với tình yêu vô bờ dành cho dân ca Quan họ, hơn ba thập kỷ thành lập và hoạt động, những thành viên của CLB Quan họ Yên Mẫn (phường Kinh Bắc, thành phố Bắc Ninh) không ngừng học tập, giữ gìn, bảo tồn, diễn xướng và truyền dạy những làn điệu dân ca Quan họ lời cổ cho nhiều thế hệ trong và ngoài tỉnh.


Đã thành nếp sinh hoạt từ bao năm qua, cứ mỗi tối thứ 2, 6 hàng tuần, những liền anh, liền chị của CLB Quan họ Yên Mẫn lại tụ họp trong không gian đình làng Yên Mẫn để gặp gỡ, giao lưu, ca cho nhau nghe những bài Quan họ cổ  như …. Chủ nhiệm CLB Quan họ Yên Mẫn Nguyễn Tiến Dũng dù đã ở tuổi xưa nay hiếm, nhưng sức khoẻ, trí tuệ và đặc biệt tình yêu với quan họ của ông vẫn phơi phới đong đầy. Ông nhớ lại: “ Yên Mẫn là một trong 49 làng Quan họ gốc vùng Kinh Bắc. Các thế hệ người làng Yên nối tiếp truyền dạy, gìn giữ bí quyết nghề chơi với nhiều nghệ nhân Quan họ gạo cội, nổi tiếng. Nơi đây có những nét độc đáo riêng về lối chơi, phong cách đối đáp, tạo nên nét đặc trưng của Quan họ làng Yên. Với mong muốn gìn giữ và phát triển những tinh hoa của nghề chơi Quan họ, năm 1991, CLB Quan họ Yên Mẫn được thành lập do nghệ nhân Nguyễn Văn Quyển làm Chủ nhiệm đầu tiên và tôi là người kế nhiệm. Từ đó đến nay, CLB vừa sinh hoạt, vừa truyền dạy, cứ thế tình yêu Quan họ dần lan toả, thấm đẫm trong mỗi thành viên”.

Một buổi sinh hoạt của CLB Quan họ Yên Mẫn

Hiện nay, CLB Quan họ Yên Mẫn có khoảng 40 thành viên, người ít tuổi nhất khoảng hơn 50 và người nhiều tuổi nhất cũng đã 80 tuổi. Mặc dù ở nhiều lứa tuổi khác nhau, mỗi người đều có những công việc và những lo toan riêng, nhưng dường như khi đến với CLB Quan họ để sinh hoạt, bao bộn bề cuộc sống đều gác lại, để mỗi người dành vẹn tròn tình yêu cho những câu ca. Liền chị Nguyễn Thị Nga chia sẻ: “Tham gia sinh hoạt tại CLB Quan họ Yên Mẫn được gần chục năm, tôi cảm thấy nơi đây như gia đình thứ 2 của mình. Ở đây, mỗi buổi gặp gỡ, sinh hoạt, ngoài việc hát cho nhau nghe, hướng dẫn nhau những bài Quan họ cổ sao cho đúng cách hát, cách “chơi”, luật hát…mà còn chia sẻ với nhau những vui buồn trong công việc, cuộc sống. Cái được lớn nhất đó chính là sự trẻ trung và một đời sống tinh thần phong phú, vui khỏe.” Còn liền chị Hán Thị Minh Hậu tâm sự: “Không biết Quan họ đã ngấm vào mình từ khi nào. Bằng hình thức học truyền miệng và đi biểu diễn, tôi đã tiếp nhận, lưu giữ được những điều hay, nét đẹp của Quan họ. Những kiến thức, kinh nghiệm được tích luỹ qua những năm tháng miệt mài gắn bó với CLB cũng là những “tài sản” quý giá tôi có được để tiếp tục trao truyền cho những thế hệ sau”.

Nhiều thành viên trong CLB Quan họ Yên Mẫn cho rằng, việc CLB phát triển và thu hút thành viên tham gia phần nhiều cũng bởi có người “thuyền trưởng” tận tâm và nhiệt tình như anh hai Dũng. Đảm nhiệm vị trí chủ nhiệm CLB, ngoài tập hợp, truyền dạy cho các thành viên, ông còn dày công ghi chép, sưu tầm và tự biên soạn giáo trình với hơn 300 bài Quan họ để phổ biến, truyền dạy. Khi chưa có máy tính, ông thường viết tay, đánh dấu ngắt nghỉ để người học dễ nhớ. Sau này, những tài liệu ấy được đánh máy thành quyển để phát cho các thành viên và bất cứ ai yêu, muốn tìm hiểu và học hát Quan họ. Hiện nay, các thành viên trong CLB đều nắm bắt được ý nghĩa của bài và hát được hơn 150 câu Quan họ cổ. Hàng năm, CLB đều tổ chức các hoạt động giao lưu với các CLB Quan họ trong tỉnh như CLB Quan họ khu Y Na (phường Kinh Bắc), CLB Quan họ Thị Cầu… tích cực tham gia các liên hoan, hội thi, hội diễn các cấp, địa phương… Dù chẳng giàu có, nhưng với tình yêu dành cho Quan họ, mỗi thành viên đều sẵn sàng bỏ những đồng lương hưu ít ỏi hay chút lãi mọn từ những buổi chợ để mua sắm đồ dùng, trang phục, mỹ phẩm trong các hoạt động biểu diễn, giao lưu, đón bạn…

Dù ở nhiều lứa tuổi, công việc khác nhau nhưng các thành viên trong CLB Quan họ Yên Mẫn luôn có một tình yêu chung với dân ca Quan họ

Bên cạnh sinh hoạt nội bộ, các thành viên của CLB Quan họ Yên Mẫn còn tích cực tham gia các hoạt động truyền dạy tại cho các CLB khác tại nhiều địa phương trong và ngoài tỉnh. Điển hình như chủ nhiệm CLB Nguyễn Tiến Dũng có 30 năm thâm niên trong nghề chơi Quan họ, chẳng những dìu dắt CLB từng bước phát triển, ông còn từng đạp xe đến khắp xóm làng trong tỉnh để phổ biến, truyền dạy Quan họ miễn phí cho mọi người. Nhiều người trong số đó hiện làm Chủ nhiệm, Phó Chủ nhiệm các CLB Quan họ; hay như liền chị Hán Thị Minh Hậu, Phó Chủ nhiệm CLB Quan họ Yên Mẫn được các CLB Quan họ của các địa phương như CLB Quan họ thôn Mai Thượng (thị xã Việt Yên, Bắc Giang) CLB Quan họ thôn Thiểm Xuyên (xã Thụy Hòa, huyện Yên Phong)… mời đến để truyền dạy quan họ. Ngoài ra, các thành viên trong CLB cũng bỏ tiền túi đóng góp kinh phí in tài liệu, mua sắm cơ sở vật chất và tổ chức các lớp truyền dạy Quan họ cho các cháu thiếu nhi vào dịp hè.

Trải qua thăng trầm của cuộc sống, có lẽ hơn ai hết, những người cao tuổi hiểu rõ giá trị của văn hóa truyền thống mà bản thân họ là đối tượng chính nắm giữ giá trị này. Cùng với đam mê và trách nhiệm, những thành viên của CLB Quan họ Yên Mẫn dù đã luống tuổi vẫn đang lặng lẽ, miệt mài tham gia, góp phần vào gìn giữ, phát huy các di sản văn hóa phi vật thể của quốc gia, dân tộc.

N.Hoa

 

Nguồn: Dulichvn

Nét đẹp văn hóa ở chợ phiên Bắc Hà

Chợ phiên Bắc Hà (huyện Bắc Hà, tỉnh Lào Cai) là một nét chấm phá độc đáo, phản chiếu sinh động đời sống vùng cao Tây Bắc. Được mệnh danh là một trong những phiên chợ đặc sắc nhất Đông Nam Á, nơi đây không chỉ là điểm giao thương nhộn nhịp mà còn lưu giữ giá trị truyền thống qua từng sắc màu thổ cẩm.


Diễn ra vào mỗi chủ nhật, chợ phiên Bắc Hà tựa như một ngày hội lớn, thu hút hàng nghìn người dân từ các bản làng xa xôi và du khách khắp nơi. Từ sáng sớm, các ngả đường đổ về trung tâm thị trấn đã rực rỡ sắc màu trang phục truyền thống của người Mông, Dao, Tày, Nùng, Phù Lá…

Họ mang theo đủ loại sản vật núi rừng: Hoa quả, mật ong, rượu ngô… Có người dắt theo ngựa, trâu, lợn, có người khệ nệ vác những bao ngô, khoai, củ mài. Không khó gặp hình ảnh những người mẹ trẻ địu con đi chợ, hòa vào không khí nhộn nhịp, tận hưởng niềm vui tụ họp. Giữa không gian ấy, tiếng sáo, tiếng khèn của Câu lạc bộ Văn nghệ dân gian Hồng Mi vang lên từ gian nhà lớn, tạo nên một bức tranh văn hóa đầy sức sống.

Chợ phiên Bắc Hà ấn tượng với du khách bởi nét đẹp thổ cẩm.

Chợ phiên Bắc Hà được chia thành nhiều khu vực bày bán nông sản, dược liệu quý, gia súc, vật dụng sinh hoạt và ẩm thực đặc trưng. Nổi bật là những gian hàng thổ cẩm rực rỡ-biểu tượng của sự sáng tạo và khéo léo của đồng bào các dân tộc. Những tấm vải dệt thủ công, nhuộm chàm hay in hoa văn tinh xảo phản ánh đậm nét văn hóa người Mông, Dao, Tày.

Không chỉ là sản phẩm may mặc, thổ cẩm Bắc Hà còn chứa đựng câu chuyện lịch sử nghệ thuật truyền đời. Mỗi tấm vải là kết tinh của kỹ thuật dệt truyền thống, từ công đoạn xe sợi, nhuộm màu đến những đường kim tỉ mỉ. Những họa tiết hình học, biểu tượng thiên nhiên cùng sắc chàm, vàng, đỏ không chỉ mang giá trị thẩm mỹ mà còn thể hiện tín ngưỡng và thế giới quan của người dân vùng cao. Điểm đặc biệt tại chợ phiên Bắc Hà là du khách không chỉ được chiêm ngưỡng, mua sắm mà còn có thể trực tiếp trải nghiệm một phần quy trình chế tác.

Tại điểm trưng bày của Tổ hợp tác thêu thổ cẩm, vẽ sáp ong người Mông xã Thải Giàng Phố, anh Nguyễn Hoài Nam (Hà Nội) háo hức thử vẽ sáp ong lên vải dưới sự hướng dẫn của bà Vàng Thị Mỷ. Sau vài nét vẽ, anh Nam chia sẻ: “Tôi thực sự khâm phục sự khéo léo của những người phụ nữ vùng cao, chỉ một chút sai sót là hoa văn không còn như ý. May mắn là giờ đây thổ cẩm đã có thiết kế hiện đại hơn, giúp du khách dễ dàng sử dụng và mang về làm kỷ niệm”.

Chợ phiên Bắc Hà ấn tượng với du khách bởi nét đẹp thổ cẩm.

Trong bối cảnh hiện đại hóa, sự xâm nhập của hàng hóa công nghiệp và nguy cơ mai một nghề thủ công là vấn đề đáng lo ngại, đặc biệt với nghề dệt thổ cẩm. Nhận thức được điều này, chính quyền địa phương và cộng đồng đã và đang thực hiện nhiều biện pháp bảo tồn. Các sự kiện văn hóa thường xuyên được tổ chức để tôn vinh nghề thủ công, khuyến khích người dân mặc trang phục dân tộc khi tham gia chợ, đồng thời hỗ trợ các hộ gia đình và hợp tác xã duy trì nghề dệt.

Những người thợ lành nghề cũng sáng tạo, đưa thổ cẩm vào các thiết kế hiện đại nhằm đáp ứng thị hiếu của du khách. Việc thúc đẩy du lịch bền vững gắn liền với văn hóa bản địa, kết hợp giữa bảo tồn và đổi mới sẽ giúp Bắc Hà giữ vững sức hút và lan tỏa giá trị truyền thống.

Bài và ảnh: My Cao

 

Nguồn: Dulichvn

Văn miếu Trấn Biên – Tôn vinh giá trị văn hóa đất phương Nam

(TITC) – Tọa lạc tại phường Bửu Long, thành phố Biên Hòa; Văn miếu Trấn Biên là mạch nguồn tiếp nối của Văn miếu Thăng Long nhưng mang cốt cách phương Nam, biểu trưng cho tinh thần hiếu học, là nơi hội tụ nhiều giá trị văn hóa dân tộc được tôn vinh và là niềm tự hào tỏa sáng tâm thức của người dân Đồng Nai.   


Không gian xanh tại Văn miếu Trấn Biên

Văn miếu Trấn Biên được xây dựng vào năm 1715 dưới thời chúa Nguyễn Phúc Chu nhằm tôn vinh tư tưởng Nho giáo và các danh nhân văn hóa đất Việt, giữ gìn và tiếp nối giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của nhân dân xứ Đàng Trong. Trải qua nhiều lần trùng tu, Văn miếu Trấn Biên ngày nay đã trở thành một công trình kiến trúc tiêu biểu, nằm hài hòa với cây xanh, hồ nước tạo nên không gian thoáng đãng, yên bình.

Các bia đá tại Văn miếu Trấn Biên

Văn miếu Trấn Biên có vị trí đắc địa, là nơi hội tụ khí thiêng đất trời, “phía Nam hướng đến sông Phước Giang, phía Bắc dựa theo núi rừng, núi sông thanh tú, cỏ cây tươi tốt” (theo sách “Gia Định Thành Thông Chí” của danh nhân Trịnh Hoài Đức). Văn miếu Trấn Biên có nhiều hàng mục như: Văn Miếu Môn, Nhà Bia, Khuê Văn Các, Thiên Quang Tĩnh, Nhà Đề Danh, Nhà Truyền Thống, Đại Thành Môn, Nhà thờ Đức Khổng Tử, Nhà Bái Đường và nhiều hiện vật quý được trưng bày tại đây.

Hướng dẫn viên du lịch tại Văn miếu Trấn Biên

Tại đây thường xuyên diễn ra các sự kiện lớn của địa phương như hội hoa xuân, hội báo xuân, hội thơ, lễ báo công, lễ viếng tiền nhân… thu hút hàng chục ngàn lượt khách đến viếng, tham quan mỗi năm.

Khách du lịch viếng thăm Văn miếu Trấn Biên

Với những giá trị văn hóa – lịch sử đặc sắc, ngày 18/8/2016, Văn miếu Trấn Biên đã được công nhận là Di tích Quốc gia theo Quyết định số 2894/QĐ-BVHTTDL của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch và nơi đây đã đón hàng chục ngàn du khách đến tham quan, tìm hiểu di tích.

Trung tâm Thông tin du lịch

Nguồn: Dulichvn

Giữ hồn văn hóa bên dòng Krông Nô

Giữa những triền núi xanh ngát của huyện Đam Rông, nơi có dòng Krông Nô vẫn ngày ngày miệt mài chảy qua những buôn làng nhỏ bé, đồng bào dân tộc M’Nông, K’Ho ở các xã Đạ M’Rông, Đạ Tông, Đạ Long vẫn lặng lẽ, bền bỉ giữ gìn và truyền nối những giá trị văn hóa truyền thống từ bao đời nay.


Quan tâm, tiếp sức cho công tác bảo tồn giá trị văn hóa truyền thống của đồng bào dân tộc huyện Đam Rông

Cuộc sống của người dân nơi đây còn nhiều khó khăn. Nhưng giữa những nếp nhà sàn đơn sơ, giữa tiếng trẻ con cười vang bên suối, bên cánh đồng lúa vàng, nương dâu, thì đâu đó vẫn ngân lên tiếng cồng chiêng vang vọng núi rừng. Đó không chỉ là âm thanh của lễ hội, mà còn là hơi thở của một đời sống văn hóa đậm đà bản sắc.

Từ lễ báo hiếu, lễ ăn hỏi, lễ cầu mùa, lễ cúng bến nước đến lễ thu hoạch mùa vụ, mừng lúa mới…, mỗi nghi lễ đều là dịp để cộng đồng quy tụ, để tiếng chiêng hoà cùng nhịp xoang vang vọng, để những bài cúng của nghệ nhân Đa Cát Tư, già làng Cil Nếu như lời nguyện gửi tới đất trời. Lễ hội không chỉ là nghi thức tâm linh, mà còn là trường học của ký ức, nơi thế hệ trẻ được dạy về nguồn cội, về đạo lý uống nước nhớ nguồn, về cội nguồn văn hoá truyền thống của ông bà, tổ tiên. 

Ở xã Đạ Long, những người phụ nữ vẫn cần mẫn bên khung dệt, giữ gìn từng hoa văn thổ cẩm truyền thống. Mỗi tấm vải, mỗi hoạ tiết là một câu chuyện cổ tích được kể lại bằng sợi chỉ, là nét đẹp không thể thay thế trong bản sắc tộc người.

Nơi xã Đạ Tông, những người đàn ông, đặc biệt là già Ntơr Băng tuy tuổi đã cao nhưng vẫn giữ nghề đan lát truyền thống bằng đôi tay điêu luyện và trái tim yêu văn hoá. Những chiếc gùi, cái nong, cái nia… được già tỉ mỉ tạo nên từ chiếc nan, sợi mây không chỉ để dùng, mà còn để kể về kỹ thuật, sự kiên nhẫn và tâm hồn trong trắng, mộc mạc của người miền núi.

Già làng Cil Nếu – người như mang cả hơi thở của đại ngàn vào từng nhịp chiêng, tâm sự: “Cồng chiêng là máu thịt, là linh hồn của buôn làng. Chừng nào còn nghe được tiếng cồng, tiếng chiêng, là chừng đó còn thấy buôn làng mình còn sống”. 

Không chỉ có nghệ nhân lão luyện, già làng tâm huyết mà thế hệ trẻ cũng đang nối bước giữ gìn di sản. Chị Bon Jrang K’Sinh, người phụ nữ M’Nông ở xã Đạ Tông mang dáng vẻ hiền hoà nhưng tràn đầy năng lượng, chị là cánh chim đầu đàn dẫn dắt các thiếu nữ say mê trong từng điệu múa xoang. Trong sắc phục thổ cẩm truyền thống kèm theo các đạo cụ rất bình dị, gần gũi với cuộc sống thường nhật, những điệu múa ấy không chỉ là nghệ thuật, mà còn là một lời khẳng định: văn hoá truyền thống vẫn sống động trong trái tim thế hệ trẻ ở các buôn làng. 

Tại các xã Đạ Tông, Đạ M’Rông, nhiều nhóm, câu lạc bộ cồng chiêng được thành lập, trở thành nơi gắn kết cộng đồng, nơi tiếng chiêng không bị mai một, mà tiếp tục được ngân lên qua từng đêm hội, từng dịp lễ làng.

Và cứ thế, cuộc sống của bà con nơi đây vẫn bình yên bên dòng Krông Nô, giữa đại ngàn lộng gió. Bằng tình yêu quê hương, sự tự hào dân tộc và lòng kiên trì, họ đã và đang từng ngày giữ gìn, bảo tồn và trao truyền những giá trị văn hóa quý giá như một phần không thể thiếu trong bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam. 

Ndong Brừm

Nguồn: Dulichvn

TIN MỚI NHẤT