Trang chủ Du lịch trong nước

Du lịch trong nước

Du lịch trong nước, tin tức du lịch trong nước, các tour du lịch trong nước, các địa điểm du lịch trong nước hấp dẫn được chúng tôi tổng hợp và đưa tin hàng ngày đến cho khách du lịch trên khắp mọi miền đất nước có được thông tin du lịch trong nước để có những thông tin hữu ích nhất cho mình và gia đình khi quyết định chọn chuyến du lịch trong nước cho mình và người thân

Lễ hội Chăm lịch ở làng Bỉnh Nghĩa (Ninh Thuận)

Những ngày đầu tháng 5 này, các làng Chăm trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận rộn ràng tổ chức đón mừng năm mới Chăm lịch 2025. Bỉnh Nghĩa là làng Chăm duy nhất của tỉnh tổ chức nhiều lễ hội, các lễ hội mang đậm bản sắc văn hóa truyền thống, cầu mong thần linh, tổ tiên phù hộ năm mới an lành, hạnh phúc, mùa màng tốt tươi…


Phụ nữ thôn Bỉnh Nghĩa bày lễ vật cúng thần linh trong nghi lễ Rija Harei.

Cả sư Đổng Bạ – Phó Chủ tịch Hội đồng Chức sắc Chăm Bàlamôn tỉnh Ninh Thuận, trụ trì tháp Pô Klong Garai cho biết, tháng diễn ra các lễ hội đầu năm trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận có tên gọi là Rija Nưgar. Rija Nưgar là nghi lễ quan trọng trong đời sống tâm linh của đồng bào Chăm diễn ra vào đầu năm mới. Nghi lễ gắn với các hoạt động văn hóa dân gian, nghệ thuật diễn xướng.

Tùy theo điều kiện của mỗi làng sẽ tổ chức Rija Nưgar trong những tuấn đầu tháng giêng Chăm lịch sao cho phù hợp với điều kiện địa phương. Chủ trì nghi thức cúng đầu năm mới do các ông: Maduen (thầy vỗ), Kadhar (thầy đàn kéo), Kaing (vũ công); Camanei (thủ đền) và Pajau (bà bóng). Lễ diễn ra vào ngày thứ Năm, thứ Sáu của tháng giêng Chăm lịch. Ông Maduen và ông Kadhar hát ca ngợi công ơn của thần linh, tổ tiên trên nền trống baranưng, trống ghi năng, đàn kanhi, kèn saranai hòa nhịp ông Kaing múa roi, múa chèo thuyền, múa đạp lửa tạo nên không khí vui tươi những ngày đầu năm mới.

Chúng tôi về thăm làng Chăm Bỉnh Nghĩa, xã Bắc Sơn, huyện Thuận Bắc, cách trung tâm thành phố Phan Rang-Tháp Chàm gần 20 cây số. Gặp người đứng đầu Ban Phong tục làng Bỉnh Nghĩa tại sân lễ đền thờ Pô Bin Thuen, ông Lượng Thị vui mừng chia sẻ: “Năm nay lúa được mùa, giá cả ổn định, làng xóm phấn khởi đón mừng năm mới 2025 đầm ấm, vui tươi. Bà con mua sắm đầy đủ lễ vật dâng cúng tạ ơn thần linh, cầu cho mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt, gia đình bình an và cộng đồng thịnh vượng, gọi là lễ hội Rija Hrei. Đây là nghi lễ mở đầu chuỗi 8 lễ hội đón mừng năm mới 2025 ở Bỉnh Nghĩa, kết thúc vào ngày 21/5.

Trước khi diễn ra Rija Harei, từ sáng sớm các vị chức sắc và dân làng đưa lễ vật đến dâng cúng thần linh, lễ vật chủ yếu là trứng gà, trái cây, hoa quả, trầu cau, trà rượu, cơm canh. Ông Sầm Tánh vừa vỗ trống baranưng vừa hát ngợi ca công lao của các vị thần linh phù hộ dân làng năm mới an vui, no ấm, hạnh phúc. Ông Tà ing Lượng Văn Chối hóa trang các vị thần với các điệu múa cùng mái chèo tượng trưng đưa dân làng vượt qua sóng gió về đến bến đỗ bình an…

Tiếp theo Rija Harei là lễ hội Rija Nagar – lễ mừng năm mới, diễn ra vào ngày 10/5 tại nhà văn hóa thôn Bỉnh Nghĩa. Lễ hội Raja Nagar có tiết mục hát, múa do các nghệ nhân dân gian đảm nhận, cầu cho trời đất giao hòa, cây trồng, vật nuôi sinh sôi nẩy nở, mùa màng thắng lợi. Kế đó là lễ cúng Pô Bin Thuen vào ngày 14/5 diễn ra tại thôn Mỹ Tường, xã Nhơn Hải, huyện Ninh Hải…

Chuỗi hoạt động nghi lễ đầu năm kết thúc vào ngày 21/5 với lễ hội Palao Yang diễn ra tại kênh Bắc, thôn Bỉnh Nghĩa. Chuỗi hoạt động nghi lễ đầu năm của người Chăm làng Bỉnh Nghĩa được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đưa vào danh mục Di sản văn hóa phi vật thể Quốc gia năm 2021.

Thuận Minh

 

 

Nguồn: Dulichvn

Trải nghiệm mới ở làng du lịch cộng đồng A Nôr – Huế

Làng du lịch cộng đồng A Nôr (xã Hồng Kim, huyện A Lưới) là nơi níu chân du khách bởi thiên nhiên hùng vĩ và văn hóa bản địa đặc sắc. Nơi đây đang mở ra hướng đi mới cho du lịch gắn với chứng tích lịch sử, sức khỏe và trị liệu.


Động Tiên Công

Trải nghiệm du lịch lịch sử

A Lưới không chỉ là điểm đến với thiên nhiên kỳ thú mà còn là “bảo tàng sống” của ký ức chiến tranh. Trong hành trình đến A Nôr, chúng tôi ghé qua những địa danh đã đi vào lịch sử: đồi A Bia (Hamburger Hill), động Tiên Công… Mỗi nơi là một câu chuyện về quá khứ bi tráng nhưng cũng đầy hy vọng hồi sinh.

Đứng giữa đồi A Bia, nơi từng chứng kiến những trận đánh dữ dội, cảm xúc trong tôi đan xen giữa niềm kính trọng với sự bình yên của hiện tại. Động Tiên Công lại mang một dáng vẻ hùng tráng và không kém phần huyền bí. Theo người dân địa phương kể lại, nơi đây từng là chốn trú ẩn của bộ đội và đồng bào trong những năm chiến tranh, nay trở thành điểm dừng chân trong hành trình khám phá A Lưới.

Trên cung đường về, chúng tôi dừng lại thác A Nôr,  điểm nhấn nổi bật nhất của làng du lịch cộng đồng. Tại đây, du khách có thể tắm thác, gội đầu bằng nước lá rừng, ăn cơm bản với các món đặc trưng như cá suối nướng, cơm lam, rau rừng… Mọi thứ giản dị nhưng đậm đà bản sắc vùng cao.

Bên cạnh thiên nhiên và lịch sử, văn hóa bản địa là yếu tố giúp du lịch A Nôr giữ chân du khách. Chiều đến, chúng tôi hòa mình vào đời sống của bà con Pa Cô, cùng họ trải nghiệm làm bánh A quát, giã gạo, xem biểu diễn dân ca, dân vũ, cùng nhảy múa bên ánh lửa. Trẻ em háo hức, người lớn thân thiện, còn chúng tôi chỉ mong thời gian trôi chậm lại.

Trị liệu giữa rừng xanh

Điều khiến chúng tôi bất ngờ là dịch vụ chăm sóc sức khỏe giữa đại ngàn – một điểm mới trong sản phẩm du lịch cộng đồng ở A Nôr. Sau một ngày di chuyển và trải nghiệm, chúng tôi được hướng dẫn đến khu trị liệu: xoa bóp bấm huyệt và ngâm chân bằng thảo dược.

Chị Hồ Thị Sa, một người dân bản địa, nhẹ nhàng thao tác trên cổ, vai, cánh tay… giúp du khách thư giãn sau chuyến tham quan cả ngày dài. “Chúng em học nghề từ các đợt tập huấn của huyện, rồi kết hợp với kinh nghiệm dân gian. Lá xông, lá gội, nước ngâm đều hái từ rừng”, chị Sa giới thiệu, tay vẫn miệt mài thao tác.

Ngâm chân trong nước nóng pha cùng các loại thảo mộc bản địa khiến cơ thể như được tiếp thêm sinh lực. Mùi hương từ lá cây rừng cùng sự yên tĩnh của đêm A Lưới là một loại thuốc bổ đặc biệt cho tinh thần.

Anh Laurent Renaud, du khách đến từ Pháp, chia sẻ: “Tôi đã đi nhiều nơi ở châu Á, nhưng đây là lần đầu tôi được massage bằng phương pháp truyền thống kết hợp với các loại thảo mộc bản địa. Không gian giữa rừng, tiếng suối chảy và bàn tay của người trị liệu, tất cả tạo nên một cảm giác rất đặc biệt. Tôi thấy mình như đang được chữa lành từ bên trong”.

Ông Nguyễn Văn Hải, Phó Chủ tịch UBND huyện A Lưới cho biết: “Huyện xác định du lịch cộng đồng là ăn, ở, trải nghiệm kết hợp với chăm sóc sức khỏe, đặc biệt là các phương pháp truyền thống. Dịch vụ bấm huyệt, ngâm chân ở A Nôr là mô hình mới nhưng được du khách đánh giá cao, đồng thời tạo thêm việc làm cho người dân. Đây là hướng đi bền vững, vừa giữ được văn hóa bản địa, vừa nâng cao thu nhập cho cộng đồng”.

Rời ANôr, chúng tôi ghé chợ A Lưới, mang theo ít quà là muối mè, chuối già lùn, bánh a quát… Nhưng có lẽ món quà lớn nhất là sự phục hồi cả thể chất lẫn tinh thần sau một hành trình không dài nhưng đủ để thấy rõ tiềm năng của vùng cao A Lưới. Với cách làm bài bản, sáng tạo và gắn chặt với cộng đồng, A Nôr đang khẳng định mình là điểm đến thú vị, đầy bản sắc.

Bài, ảnh: Bạch Châu

Nguồn: Dulichvn

Hà Giang: Giữ nghề làm khèn như giữ hơi thở

Trong gian nhà bằng gỗ pơ mu giữa thôn Tả Cồ Ván (xã Hố Quáng Phìn, huyện Đồng Văn, Hà Giang), tiếng khèn H’Mông của nghệ nhân Mua Sính Pó lại vang lên như gọi cả núi rừng thức giấc. Ở tuổi 75, bàn tay ông vẫn rắn rỏi giữ nhịp dao, gọt những ống trúc già thành từng thanh âm của núi, âm sắc của bản làng. Bên bếp lửa đỏ, ông khẽ lầm rầm câu nói bằng tiếng của dân tộc mình, âm thanh trầm khan như phát ra từ đá: “Cây khèn là máu thịt, là cuộc đời người H’Mông”.


Nghe kể chuyện khèn bên bếp lửa.

Giữa những sườn đá tai mèo xám lạnh và lớp mây trắng bảng lảng trôi ngang trời Hố Quáng Phìn (huyện Đồng Văn, Hà Giang), tiếng khèn H’Mông vẫn vọng lên – khi rộn rã như suối chảy, lúc trầm sâu như tiếng núi vọng về. Trong âm thanh ấy là linh hồn của người H’Mông – những con người bền bỉ sống trên đá, dựng bản dưới trời cao, nỗ lực gìn giữ bản sắc của mình.

Một thời khèn làm xong gác vào xó bếp

Nghệ nhân Mua Sính Pó (sinh năm 1950) cùng nhiều nghệ nhân khác như ông Giàng Dũng Sò (sinh năm 1951), ông Lầu Sính Dia (sinh năm 1959) là những người cao tuổi nhất ở xã Hố Quáng Phìn hiện giờ còn đang giữ nghề chế tác khèn H’Mông. Từ khi 12 – 13 tuổi, những “trai H’Mông” trẻ đã được cha truyền cho bộ dao, cái đục và bí quyết chọn trúc, nghe âm, gắn đồng. Cây khèn H’Mông nhìn đơn sơ chỉ làm từ mấy thanh trúc già, gỗ thông đá, lưỡi đồng đỏ, nhưng để thành hình phải qua hàng chục công đoạn. “Khèn đúng chất là phải trầm như đá, réo rắt như gió, ngân như núi vọng. Làm không khéo, khèn chỉ còn là đồ trang trí, treo trên tường cho đẹp”, ông Mua Sính Pó nói rồi đưa khèn lên thử tiếng.

Cây khèn đi theo người H’Mông từ khi lọt lòng đến lúc về với tổ tiên. Vì thế, đàn ông H’Mông từ nhỏ đã phải biết thổi khèn, múa khèn. Nhưng để làm ra một cây khèn hay thì không phải ai cũng làm được. Ông Pó chậm rãi kể: “Có một thời, tiếng khèn thưa vắng. Trai trẻ không mặn mà với việc học múa, học thổi. Người ta cũng không mua khèn nhiều như trước. Nhiều người trong bản gác dao, bỏ đục”.

Nghề làm khèn mai một vào giai đoạn 2010 – 2015, khi làn sóng đô thị hóa cùng cuộc mưu sinh khắc nghiệt đẩy lớp trẻ rời bản, còn những đôi tay tạc khèn gạo cội thì dần xế bóng. Làng nghề xuống dốc nhưng chưa kịp có cơ chế bảo tồn bài bản, lâu dài. Hệ quả là số lượng người biết làm khèn giảm sút báo động, có thời điểm cả làng chỉ còn 2, 3 người lay lay lắt giữ nghề.

Chủ tịch UBND xã Hố Quáng Phìn, anh Vàng Mí Và, chia sẻ: “Sự mai một của nghề bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân. Ngoài việc đầu ra chững lại, thì nguyên liệu làm khèn là trúc, gỗ thông cũng là vấn đề lớn. Chúng tôi phải mua nguyên liệu tỉnh khác về, dẫn đến chi phí sản xuất tăng cao. Trong khi đó, giá bán mỗi cây khèn chỉ từ 400.000 đến 500.000 đồng, quá thấp so với công sức và thời gian bỏ ra, khiến nhiều người không thể duy trì nghề”. Từng là niềm tự hào, nhưng khi ấy nghề làm khèn không còn là chỗ dựa về kinh tế cho bà con nữa.

Bắt đá cất lời khèn

Trong quãng thời gian khó khăn đó, những nghệ nhân lớn tuổi như ông Mua Sính Pó, ông Giàng Dũng Sò, ông Lầu Sính Dia cùng một số nghệ nhân khác vẫn bền bỉ làm khèn. Để bảo đảm nguồn nguyên liệu, nhiều hộ dân đã tự khai hoang, cải tạo đất trên những triền núi đá để trồng trúc. Nghệ nhân Giàng Dũng Sò cho biết: “Cây trúc ở cao nguyên đá tuy chậm lớn hơn những vùng khác nhưng thân dày chắc, rất hợp để làm khèn. Có trúc mới làm được khèn”.

Ông Lầu Sính Dia thì tâm niệm: “Làm khèn ngoài việc để có thêm thu nhập nuôi sống gia đình thì còn để cho thế hệ trẻ người H’Mông biết mình là ai”. Mỗi chiều, tiếng khèn vẫn vang lên từ nhà ông Pó, ông Sò, ông Dia. Lũ trẻ ngồi vây quanh, học thổi từng làn hơi đầu tiên. Sau đó tập cầm dao, cầm đục làm ra những chiếc khèn cho chính mình. “Dạy cho tụi nhỏ làm được một cây khèn không dễ. Nhưng dạy chúng yêu khèn, hiểu vì sao phải giữ, thì mới lâu bền. Tôi không lấy tiền, chỉ cần chúng nó đừng quên”, ông Dia nói.

Đầu ra sản phẩm từng là nút thắt khiến nhiều hộ làm khèn chùn bước. Để tháo gỡ, nhiều người liên kết thành các nhóm thợ, cùng nhau chia sẻ kỹ thuật, mang sản phẩm xuống chợ phiên giới thiệu, kết nối thị trường. Năm 2014, thôn Tả Cồ Ván được công nhận là làng nghề truyền thống chế tác khèn H’Mông – dấu mốc mở ra hướng đi mới. Các chính sách hỗ trợ từ tỉnh và xã dần được triển khai như: Cung cấp dụng cụ, vốn vay ưu đãi, tập huấn kỹ thuật, xúc tiến quảng bá.

Làng nghề khởi sắc. Các thế hệ thợ trẻ dần trưởng thành. Mua Mí Nô (sinh năm 2000), là một trong những thợ trẻ làm việc chăm chỉ. Có tháng Nô làm được 10 – 12 cây khèn, thu nhập gần 30 triệu đồng – con số từng là giấc mơ ở mảnh đất quanh năm nghèo khó.

Khèn H’Mông từ làng bản ra thế giới

Không chỉ hồi sinh trong cộng đồng, khèn H’Mông đang từng bước vượt ra khỏi bản làng, bước vào đời sống hiện đại. Để phát huy tốt danh hiệu Công viên Địa chất toàn cầu do UNESCO công nhận vào năm 2010, tỉnh Hà Giang đã chú trọng phát triển du lịch gắn liền với văn hóa dân tộc, trong đó có văn hóa H’Mông và cây khèn.

Bà Triệu Thị Tình, Phó Giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Hà Giang cho biết: “Tiếng khèn giờ đây đã trở thành một điểm nhấn đặc sắc tại các lễ hội truyền thống của người H’Mông, thu hút đông đảo du khách trong và ngoài nước”. Các tour du lịch trải nghiệm được đưa vào khai thác, mang đến cho du khách cơ hội tự tay học làm khèn, lắng nghe những màn trình diễn khèn độc đáo. Sự kết hợp hài hòa giữa văn hóa truyền thống và du lịch đã tạo nên một sức hút mạnh mẽ cho du lịch Hà Giang.

Giờ đây, về Hố Quáng Phìn, không khó để bắt gặp hình ảnh những người đàn ông H’Mông vui vẻ chế tác khèn. Âm thanh làng nghề rộn rã trở lại, đưa cây khèn đi đến khắp các miền núi cao có người H’Mông sinh sống. Khèn không còn là vật trưng bày. Nó là niềm tự hào, là tài sản tinh thần và sinh kế của người H’Mông. Sự hồi sinh của làng nghề không chỉ là kết quả từ quyết tâm bám nghề của người H’Mông, mà còn là minh chứng cho sức mạnh của cộng đồng trong công cuộc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc.

Bài và ảnh: Đỗ Hiên

Nguồn: Dulichvn

Hòa Bình: Đẩy nhanh dự án khu không gian bảo tồn Di sản văn hóa Mo Mường

Ngày 7/5, đồng chí Nguyễn Phi Long, Bí thư Tỉnh ủy Hòa Bình đã có buổi làm việc với Ban Thường vụ Huyện ủy Cao Phong về kiểm tra tiến độ triển khai thực hiện chương trình xóa nhà tạm, nhà dột nát và dự án Khu không gian bảo tồn Di sản văn hóa Mo Mường.


Bí thư Tỉnh ủy Hòa Bình Nguyễn Phi Long (giữa) chỉ đạo thúc đẩy nhanh dự án Khu không gian bảo tồn Di sản văn hóa Mo Mường.

Theo báo cáo của huyện Cao Phong, quý I/2025, huyện đã triển khai quyết liệt, đồng bộ có hiệu quả các nhiệm vụ, giải pháp, đạt nhiều kết quả tích cực trên các lĩnh vực.

Tổng giá trị sản xuất công nghiệp-tiểu thủ công nghiệp ước đạt 136 tỷ đồng, bằng 110,5% so với cùng kỳ năm 2024; mức lưu chuyển hàng hóa và doanh thu dịch vụ, thương mại ước đạt 422 tỷ đồng, bằng 105% so với cùng kỳ; doanh thu du lịch ước đạt 101 tỷ đồng, tăng 11 tỷ đồng so với cùng kỳ. Chương trình xây dựng nông thôn mới có 8/9 xã đạt chuẩn nông thôn mới…

Chương trình xóa nhà tạm, nhà dột nát trên địa bàn huyện Cao Phong có 188 hộ thuộc chương trình xóa nhà tạm, nhà dột nát (xây mới 149 nhà; sửa chữa 39 nhà).

Đến nay, về nhà xây mới, huyện đã hoàn thành 115/149 nhà, đang xây dựng 39 nhà; về nhà sửa chữa, huyện hoàn thành 37/39 nhà, đang xây dựng 2 nhà. Huyện sẽ hoàn thành vượt kế hoạch, trước ngày 30/5/2025.

Phát biểu kết luận buổi làm việc, đồng chí Nguyễn Phi Long nhấn mạnh, thời gian tới, đề nghị Ban Thường vụ Huyện ủy Cao Phong quán triệt và thực hiện nghiêm túc các nghị quyết, chỉ thị, kết luận của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.

Đồng thời, huyện cần thực hiện tốt công tác giáo dục chính trị tư tưởng, phẩm chất đạo đức lối sống trong cán bộ, đảng viên, tinh thần, thái độ và trách nhiệm trong thực hiện nhiệm vụ được giao; tập trung chỉ đạo các nhiệm vụ chính trị, bảo đảm công việc không bị gián đoạn, ảnh hưởng đến doanh nghiệp và người dân; làm tốt công tác tuyên truyền chủ trương sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị nhằm tạo sự đồng thuận, thống nhất trong cán bộ, đảng viên và nhân dân.

Lãnh đạo hoàn thành sắp xếp đơn vị hành chính cấp xã, bố trí cán bộ, công chức, viên chức khi không tổ chức cấp huyện và sáp nhập đơn vị hành chính cấp xã bảo đảm tiến độ, chất lượng theo chỉ đạo của Trung ương, của Tỉnh ủy; tăng cường công tác quản lý đất đai, trụ sở, tài chính, tài sản nhà nước, bảo đảm sử dụng hiệu quả, tránh lãng phí trong quá trình sắp xếp tổ chức bộ máy; chỉ đạo hoàn thành công tác xóa nhà tạm, nhà dột nát theo kế hoạch đề ra; đặc biệt, đẩy nhanh thực hiện dự án Khu không gian bảo tồn Di sản văn hóa Mo Mường.

Trần Hảo

Nguồn: Dulichvn

Sơn La: Nơi nghệ thuật thắp sáng bản sắc

Chiềng Đi là một vùng đất cổ thuộc xã Vân Hồ, huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn La, được ví như bức tranh giao hòa giữa thiên nhiên, nghệ thuật và văn hóa địa phương.


Cách thị trấn Mộc Châu khoảng 30km, nơi đây hiện ra sau những cung đường quanh co men theo triền núi, mở ra không gian thanh bình với những nếp nhà sàn. Cuộc sống nơi bản làng không chỉ gắn liền với núi rừng mà còn thấm đượm tinh thần sáng tạo cộng đồng.

Người dân cùng nghệ sĩ chung tay khôi phục nghề truyền thống, tổ chức phiên chợ đêm, gìn giữ bản sắc và mở rộng cánh cửa đón du khách đến với không gian nghệ thuật sống động.

 Người dân Chiềng Đi thường tổ chức sinh hoạt tập thể vui tươi, lành mạnh. Ảnh: Nguyễn Chiến

Đường lên Chiềng Đi có những khúc cua gắt, nhưng bù lại là không khí trong lành, cảnh sắc nguyên sơ cùng nhịp sống yên bình. Những điệu xòe, câu ca, lễ hội rộn ràng và phiên chợ vùng cao đầy màu sắc khiến nơi đây trở thành điểm đến lý tưởng cho những ai yêu thiên nhiên và khám phá văn hóa. Trekking rừng nguyên sinh, đạp xe qua bản làng hay chèo thuyền trên lòng hồ trong vắt là những trải nghiệm không thể bỏ lỡ.

Nhưng hơn cả, Chiềng Đi mang đến cơ hội tìm hiểu cuộc sống địa phương, lắng nghe những câu chuyện truyền đời về tổ tiên, về tình yêu đất rừng và sự gắn kết bền chặt của cộng đồng. Du lịch không chỉ là đặt chân đến một vùng đất mới mà còn là hành trình thấu hiểu những giá trị đã làm nên linh hồn của nơi ấy.

Cộng đồng dân tộc tại Chiềng Đi chủ yếu là người Thái, Mường, Mông với những nghề truyền thống như chăn nuôi, dệt thổ cẩm, nhuộm chàm. Nhờ phát triển du lịch cộng đồng, bản làng đang khoác lên mình những gam màu mới, vừa giữ gìn bản sắc vừa hòa nhập với nhịp sống hiện đại. Nếu như trước đây, những tấm thổ cẩm rực rỡ chỉ xuất hiện trong các dịp lễ hội thì nay đã trở thành sản phẩm du lịch được yêu thích, mang theo câu chuyện của những người phụ nữ tảo tần, kiên nhẫn nhuộm từng sợi vải bằng màu của lá rừng. Không gian văn hóa nơi đây không hề tĩnh lặng mà luôn vận động, đổi thay, nhưng trong sự thay đổi ấy, những giá trị cốt lõi vẫn được giữ gìn.

Một điểm nhấn đặc biệt của Chiềng Đi chính là Bản Art Stay – không gian lưu trú nghệ thuật do nghệ sĩ Phó An My sáng lập. Đây là một dự án cộng đồng bền vững, nơi văn hóa truyền thống và nghệ thuật đương đại giao thoa, cùng tỏa sáng. Có thiết kế hài hòa với thiên nhiên, sử dụng vật liệu địa phương, Bản Art Stay mang đến không gian mở tinh tế, phản chiếu gu thẩm mỹ của người nghệ sĩ. Không chỉ là điểm dừng chân, nơi đây còn là trung tâm sáng tạo, khởi xướng nhiều hoạt động văn hóa, giáo dục, hỗ trợ cộng đồng địa phương, góp phần bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống.

Chợ phiên đêm Chiềng Đi là một trong những hoạt động đặc sắc, thu hút du khách tới để kết nối với các sản vật địa phương, ẩm thực, nghệ thuật dân gian và đời sống thường nhật của cư dân thôn bản. Bên cạnh đó, du khách còn có cơ hội tham gia các chương trình biểu diễn nghệ thuật đầy màu sắc như thưởng thức hòa nhạc giao hưởng giữa núi rừng, chiêm ngưỡng triển lãm tranh, nghệ thuật sắp đặt hay các workshop thủ công đầy cảm hứng. Những nỗ lực bền bỉ từ dự án này không chỉ đưa nghệ thuật đến gần hơn với cộng đồng mà còn tạo thêm sinh kế, nâng cao đời sống của người dân và thúc đẩy phát triển du lịch bền vững.

Chiềng Đi-Vân Hồ đang dần trở thành một điểm sáng trên bản đồ du lịch văn hóa Tây Bắc. Với cảnh quan hoang sơ, bản sắc độc đáo và các dự án du lịch cộng đồng ý nghĩa, nơi đây mang đến những trải nghiệm chân thực và sâu lắng. Khi hoàng hôn phủ vàng lên những thửa ruộng bậc thang, tôi rời Chiềng Đi với dư âm của tiếng khèn, vị rượu cần, sắc màu thổ cẩm vương trên tay áo và nụ cười hiền hậu của người dân địa phương. Hãy đến Chiềng Đi để cảm nhận hơi thở núi rừng, tìm thấy bình yên và lưu giữ những giá trị văn hóa vẹn nguyên theo thời gian.

My Cao

 

Nguồn: Dulichvn

Để nghệ thuật múa đến gần công chúng

Sự phát triển của các trào lưu nghệ thuật và giải trí hiện đại khiến múa, đặc biệt là múa truyền thống ngày càng trở nên kém hấp dẫn đối với một bộ phận khán giả trẻ. Ngoài ra, sự thiếu hụt nguồn lực đầu tư cho các hoạt động múa, từ việc đào tạo nghệ sĩ, xây dựng cơ sở vật chất đến việc duy trì các hoạt động biểu diễn… cũng là những vấn đề rất đáng bàn.


Nhiều biên đạo múa trẻ thử sức với các vở diễn mang đề tài văn hóa truyền thống. Ảnh: P. Sỹ.

Khi múa bước ra khỏi sân khấu

Nghệ thuật múa thời gian gần đây đã có những bước chuyển động mạnh mẽ, phản ánh sự sáng tạo, giao thoa văn hóa và khai thác sâu sắc các chất liệu truyền thống, thu hút rất nhiều sự quan tâm của những người yêu múa.

Điển hình như vở múa đương đại “Rơm” đã được trình diễn trên cánh đồng lúa chín tại Hội An. Tác phẩm kết hợp âm nhạc dân gian và múa đương đại, tái hiện hình ảnh làng quê Việt Nam vào mùa gặt, tôn vinh vẻ đẹp bình dị và tinh thần lao động của người nông dân.

Qua vở múa “Rơm”, đạo diễn Tấn Lộc đã mang đến cho khán giả một góc nhìn khác và trải nghiệm mới về ụ rơm quen thuộc. Những chuyển động mềm mại nhưng đầy lực của vũ công mô phỏng việc gặt hái, phơi lúa, chất rơm… mang đến cho người xem những cảm nhận chân thực về một làng quê yên bình.

Thay vì sân khấu truyền thống, vở múa diễn ra ngay trên cánh đồng, tận dụng ánh sáng mặt trời, gió và không gian mở để tạo nên một trải nghiệm sống động, vừa gần gũi vừa siêu thực. “Rơm” đã giúp người xem có những trải nghiệm thú vị, thấy gần gũi và yêu thích hơn nghệ thuật múa.

Hay như vở múa đương đại “Sesan”, do biên đạo Tuyết Minh làm tổng đạo diễn lấy cảm hứng từ dòng sông Sê San, sử dụng ngôn ngữ múa đương đại kết hợp với múa dân gian của các dân tộc, cùng âm nhạc truyền thống như cồng chiêng, đàn đá, trống, hòa quyện với nhạc điện tử hiện đại đã mang đến những cảm xúc vô cùng thú vị cho người xem.

Một tác phẩm khác cũng gây được nhiều chú ý của giới chuyên môn chính là “Nàng Mây”, biên đạo Nguyễn Hải Trường. Lấy cảm hứng từ nghề mây tre đan truyền thống Việt Nam, tác phẩm này đã thể hiện thành công sự kết hợp giữa múa dân gian và đương đại.

Có thể nói, các tác phẩm này đã rất thành công trong việc kết hợp yếu tố dân gian và đương đại, thể hiện sự sáng tạo và chiều sâu của nghệ thuật múa đương đại trong việc tôn vinh văn hóa truyền thống.

TS.NSND Nguyễn Thị Thu Hà – Trường Đại học Văn hóa Nghệ thuật quân đội chia sẻ, từ những điệu múa dân gian truyền thống, mang đậm bản sắc văn hóa của các dân tộc, đến những tác phẩm múa hiện đại, nghệ thuật múa đã không ngừng đổi mới và phát triển. Sự thành công của các vở diễn cũng cho thấy khả năng giao thoa giữa yếu tố dân gian và đương đại không chỉ là xu hướng mà còn là cách để làm mới và giữ gìn bản sắc văn hóa trong nghệ thuật múa.

Đổi mới tư duy tiếp cận khán giả

Mặc dù có những vở diễn mới, có nhiều nghệ sĩ trẻ năng động, sáng tạo, hết lòng với nghệ thuật múa, nhưng cũng không thể phủ nhận loại hình nghệ thuật này đang phải đối mặt với nhiều khó khăn khiến sân khấu ngày càng thưa vắng khán giả. Nhiều buổi biểu diễn múa diễn ra trong cảnh hàng ghế trống vắng, nghệ sĩ biểu diễn, nghệ sĩ thưởng thức.

Một trong những nguyên nhân chính là sự phát triển mạnh mẽ của các loại hình giải trí hiện đại đã thu hút sự chú ý của công chúng, đặc biệt là giới trẻ. Múa – nếu không được đổi mới về hình thức, nội dung và cách tiếp cận dễ bị đánh giá là “kén người xem”, khó tiếp cận hoặc quá xa rời thị hiếu đương đại.

Cùng với đó là sự thiếu hụt nguồn lực đầu tư cho các hoạt động múa, từ việc đào tạo nghệ sĩ, xây dựng cơ sở vật chất đến việc duy trì các hoạt động biểu diễn.

NGND Phùng Hồng Quỳ – nguyên Phó Hiệu trưởng Trường Cao đẳng Múa Việt Nam, chia sẻ múa truyền thống chứa đựng những giá trị văn hóa tuyệt vời nhưng lại chưa thực sự hấp dẫn nên chưa thu hút được công chúng, đặc biệt là giới trẻ.

“Có lẽ đã đến lúc chúng ta cần có những cách làm mới mẻ, đột phá hơn nữa. Nghệ thuật múa, với sức mạnh biểu cảm mạnh mẽ và khả năng truyền tải cảm xúc sâu sắc, có tiềm năng rất lớn, nhưng nếu không đổi mới, sang tạo sẽ khiến nó trở nên khó tiếp cận khán giả, nhất là với những người trẻ” – ông Quỳ chia sẻ.

Múa không chỉ là nghệ thuật được thể hiện trong những nhà hát, sân khấu mà còn có thể được đưa đến công cộng, như trong các không gian ngoài trời, phố đi bộ, hay các sự kiện thể thao, âm nhạc… Múa cũng có thể kết hợp với âm nhạc, hiệu ứng âm thanh, ánh sáng hay các hình thức nghệ thuật khác như diễn xuất, hội họa, phim ảnh, thậm chí thời trang để nâng cao sự hấp dẫn của vở diễn và mở rộng đối tượng khán giả.

Tuy nhiên, ở góc nhìn của những người làm nghệ thuật truyền thống, một số ý kiến cũng bày tỏ sự băn khoăn, đổi mới nghệ thuật múa là điều tất yếu trong dòng chảy phát triển của văn hóa hiện đại nhưng mọi sự sáng tạo cần bắt nguồn từ nền tảng truyền thống, để nghệ thuật múa hấp dẫn nhưng không lạ lẫm, thiếu bản sắc.

Về vấn đề này, TS.NSND Nguyễn Thị Thu Hà cho rằng, cần có sự đầu tư, khuyến khích các biên đạo múa sáng tác các tác phẩm mới dựa trên nền tảng văn hóa truyền thống, kết hợp yếu tố hiện đại với truyền thống để tạo ra những tác phẩm độc đáo, hấp dẫn, có bản sắc riêng.

Bên cạnh đó, bà Hà cũng nêu thực tế, hiện các nghệ sĩ múa – đặc biệt là các nghệ sĩ trẻ và làm việc ở các đoàn nghệ thuật công lập đang đối mặt với nhiều khó khăn như thu nhập thấp, điều kiện làm việc hạn chế, cường độ luyện tập cao, tuổi nghề ngắn, nhưng chế độ lương, phụ cấp, và bảo hiểm xã hội chưa tương xứng với công sức họ bỏ ra.

Vì vậy, để nghệ thuật múa tiếp cận khán giả nhiều hơn – đặc biệt là trong thời đại cạnh tranh gay gắt với các loại hình giải trí hiện đại – cần có chiến lược tổng thể, kết hợp giữa nội dung nghệ thuật, hình thức trình diễn, truyền thông, và cơ chế hỗ trợ.

“Cần có chính đãi ngộ đối với nghệ sĩ múa cũng như chế độ lương, bồi dưỡng lao đồng nghề nghiệp, chế độ đãi ngộ khác phù hợp. Thế hệ nghệ sĩ trẻ luôn có những góc nhìn mới mẻ và táo bạo nên cùng với các chế độ đãi ngộ tốt thì việc tạo điều kiện để người trẻ thử nghiệm và phát triển các hình thức múa đương đại là việc làm cần thiết” – NSND Nguyễn Thị Hà nhấn mạnh.

Phạm Sỹ

 

Nguồn: Dulichvn

Bảo tồn trang phục truyền thống qua sản phẩm du lịch

Không được sử dụng thường xuyên, trang phục truyền thống các dân tộc thiểu số dần biến đổi, thậm chí biến mất khỏi cộng đồng. Nhằm đưa trang phục truyền thống của các dân tộc trở nên phổ biến hơn, nhiều địa phương đã xây dựng các sản phẩm du lịch đặc thù trên cơ sở lựa chọn, khai thác những giá trị văn hóa đặc trưng.


Nét đẹp trang phục truyền thống của người Dao Tiền, tỉnh Cao Bằng.

Tính tiện dụng và phổ biến của trang phục may sẵn hiện nay đã khiến những bộ trang phục dân tộc dần trở thành lễ phục và mang tính trình diễn trong các dịp lễ tết, ngày hội văn hóa, liên hoan nghệ thuật. Ngồi thao tác kỹ thuật se sợi lanh bên khung cửi trong ngày hội Văn hóa, Thể thao và Du lịch các dân tộc vùng Đông Bắc tại tỉnh Lạng Sơn, chị Giàng Thị Say, người H’Mông đến từ xã Cán Tỷ, huyện Quản Bạ, tỉnh Hà Giang cho biết, quy trình làm một bộ trang phục truyền thống của người H’Mông rất kỳ công, tốn nhiều thời gian, từ se lanh, dệt sợi, nhuộm vải, thêu may, trang trí họa tiết… Vì vậy, tuy trang phục truyền thống vẫn được sử dụng nhưng được cải tiến khá nhiều.

Bộ váy chị đang mặc là một minh chứng cụ thể. Chất liệu vải công nghiệp được may theo kiểu dáng truyền thống. Các phụ kiện, hoa văn, họa tiết và cách phối đồ cũng đan xen nhiều kiểu dáng mới lạ, cách tân.

Không chỉ là dấu hiệu định danh dân tộc, trang phục truyền thống còn chứa đựng các giá trị đặc trưng về văn hóa tộc người. Mỗi bộ trang phục đều có câu chuyện riêng, chứa đựng các thông điệp về cuộc sống và tư duy sáng tạo của cộng đồng. Hệ thống ký hiệu, hoa văn, họa tiết trang trí trên trang phục còn phản ánh môi trường sinh tồn cũng như bao hàm niềm tin tâm linh, tín ngưỡng và các giá trị tinh thần của dân tộc đó.

Nhưng đang có một thực tế là, ở những địa phương có sự giao thoa văn hóa, đan xen nhiều dân tộc cùng sinh sống, mức độ lai tạp và biến đổi trang phục truyền thống nơi đó rất mạnh. Sự pha trộn làm biến dạng các yếu tố gốc, làm mất đi yếu tố đặc trưng thậm chí rất khó nhận biết trang phục của dân tộc nào.

Trước thực trạng này, việc bảo tồn trang phục truyền thống các dân tộc thiểu số đang được thực hiện bằng nhiều giải pháp. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã ban hành Đề án bảo tồn trang phục truyền thống các dân tộc thiểu số Việt Nam, thực hiện đến năm 2030. Một trong những mục tiêu là bảo tồn, phát huy và sử dụng trang phục truyền thống phổ biến hơn trong cuộc sống của đồng bào các dân tộc thiểu số.

Để bảo tồn và tăng tính phổ biến của trang phục truyền thống các dân tộc thiểu số, nhiều địa phương, đơn vị cũng đã có những cách làm phù hợp. Trường Phổ thông dân tộc nội trú trung học phổ thông huyện Tủa Chùa, tỉnh Điện Biên hiện đang nuôi dưỡng và giáo dục hơn 400 con em đồng bào dân tộc H’Mông, Thái, Hoa, Khơ Mú, Dao…

Để thuận tiện trong học tập và sinh hoạt, học sinh sử dụng trang phục hiện đại hằng ngày. Tuy nhiên, nhà trường cũng quy định các em mặc trang phục truyền thống dân tộc vào thứ hai hằng tuần và những ngày lễ, tết trong năm.

Trong bối cảnh du lịch được xác định là ngành kinh tế, văn hóa bản địa là nguồn lực và tài nguyên dồi dào để phát triển du lịch, nhiều địa phương chọn giải pháp phát triển văn hóa du lịch tại vùng dân tộc thiểu số, xây dựng một số mô hình bảo tồn giá trị văn hóa bản địa. Cao Bằng là một điển hình cho hướng đi này. Chính quyền địa phương hướng dẫn bà con lựa chọn, khai thác những nét đặc trưng trên trang phục truyền thống tạo nên các sản phẩm du lịch mới.

Cộng đồng người Dao Tiền ở xóm Hoài Khao, xã Quang Thành, huyện Nguyên Bình, bắt tay vào làm du lịch cộng đồng chưa lâu, nhưng xóm nhỏ đã đón nhiều đoàn khách đến lưu trú, trải nghiệm các sản phẩm du lịch liên quan đến trang phục truyền thống, khá thú vị. Sức hấp dẫn của du lịch đến từ việc trải nghiệm, thực hành về kỹ thuật nhuộm vải chàm, thêu họa tiết, in hoa văn truyền thống bằng sáp ong.

Bên cạnh đó, bà con biết cách khai thác các họa tiết mô phỏng dấu chân hổ, hoa cúc, hình răng cưa… đưa lên các sản phẩm lưu niệm như túi, ví, khăn, vỏ gối; đồng thời kể được các câu chuyện thú vị liên quan đến văn hóa tộc người từ những hình tượng biểu trưng này.

Tương tự, tại không gian trưng bày, giới thiệu và bán sản phẩm truyền thống làng văn hóa cộng đồng Khuổi Khon, xã Kim Cúc, huyện Bảo Lạc, trang phục truyền thống được làm thủ công cũng được khai thác như một sản phẩm du lịch. Bên cạnh y phục truyền thống nguyên bản được bày bán với giá trị kinh tế cao, vải thổ cẩm, họa tiết, hoa văn mang tính biểu tượng của người Lô Lô được ứng dụng làm túi đựng điện thoại, khăn địu em bé, khăn trải ga gối… Bà con đã chủ động giao lưu, hướng dẫn du khách thử mặc trang phục truyền thống, cách dệt vải, chia sẻ về kỹ thuật quấn khăn đội đầu ba lớp.

Liên quan đến bảo tồn trang phục truyền thống, một số địa phương cũng có định hướng phục dựng vùng nguyên liệu trồng bông và nghề dệt, nhuộm vải thủ công.

Khai thác bản sắc trang phục truyền thống như một sản phẩm du lịch là một trong những giải pháp góp phần bảo tồn trang phục truyền thống, nhưng chưa đủ mạnh mẽ để kích cầu mua sắm, tạo động lực để bà con phục hồi nghề dệt may truyền thống.

Thời gian tới, để công tác bảo tồn hiệu quả hơn, ngành văn hóa cần có những nghiên cứu bài bản, hệ thống về các thành tố văn hóa đặc trưng trên trang phục, ý nghĩa nghệ thuật thêu và trang trí hoa văn, từ đó hướng dẫn bà con cách khai thác có chọn lọc, thiết kế những sản phẩm thời trang vừa bảo đảm tính chân thực vừa kế thừa, quảng bá được những giá trị đặc sắc của trang phục truyền thống. Việc đào tạo nâng cao tay nghề cắt may để phụ nữ dân tộc thiểu số làm được các sản phẩm tinh xảo, bắt mắt, thời trang cũng rất quan trọng.

Rộng hơn, các tỉnh tương đồng về văn hóa, địa hình có thể nghiên cứu liên kết tạo thành vùng nguyên liệu, chuỗi quy trình sản xuất từ trồng bông, dệt vải, giã lanh, se sợi, thêu thùa cùng khai thác chất liệu, các yếu tố đặc trưng trên trang phục truyền thống, vận dụng kỹ thuật thêu hay ghép vải… trong sáng tạo để thiết kế những sản phẩm thời trang mang đặc trưng văn hóa vùng, từ đó hình thành thương hiệu và nâng cao giá trị cho sản phẩm du lịch.

Ngọc Liên

Nguồn: Dulichvn

Độc đáo Lễ hội Mở cửa biển ở Cô Tô

Lễ hội Mở cửa biển đang được giữ gìn và phát huy như một truyền thống tốt đẹp của người dân xã Thanh Lân, huyện đảo Cô Tô, tỉnh Quảng Ninh vào dịp đầu xuân năm mới. Lễ hội có ý nghĩa đặc biệt với nghi thức xuất quân, mở cửa biển cho những chuyến tàu vươn khơi xa, hy vọng về một mùa đánh bắt bội thu.


Lễ hội Mở cửa biển ở xã đảo Thanh Lân, Cô Tô.

Lễ hội Mở cửa biển xã Thanh Lân năm 2025 bắt đầu với các hoạt động truyền thống như lễ cúng tế cho cá Ông (cá voi) và thần Biển, cùng việc dâng hương biểu hiện lòng biết ơn đối với biển cả, thiên nhiên và các vị thần linh. Sau phần lễ, ngư dân bắt đầu ra khơi đánh bắt thủy sản nhờ sự ủng hộ và che chở từ các vị thủy thần linh thiêng.

Lễ xuất quân Mở cửa biển cùng niềm mong ước một năm mưa thuận gió hòa, trời yên biển lặng, lộc trời đầy khoang, mang ấm no đến mọi nhà; đồng thời tạo khí thế lao động sản xuất cho ngư dân trên đảo ngay từ những ngày đầu năm mới. Đây cũng là hoạt động mang đậm nét đẹp văn hóa truyền thống, là sợi dây kết nối đời sống tinh thần của cộng đồng. Lễ hội Mở cửa biển gắn với niềm tin, tín ngưỡng của người dân vùng biển Thanh Lân tôn thờ cá Ông, nhất là những người mưu sinh bằng nghề đi biển, thường xuyên phải đối mặt với hiểm nguy.

Được biết, tục thờ cá Ông là tín ngưỡng dân gian của cư dân ven biển Việt Nam. Cá Ông là danh xưng tôn kính, hàm chỉ về cá voi, động vật sống ở biển được ngư dân tôn thờ bởi tín niệm về sự giúp đỡ, phù hộ đối với những người đi biển, nhất là khi họ gặp nạn giữa biển khơi. Trong dân gian lưu truyền nhiều câu chuyện về sự giúp đỡ thần kỳ của loài cá này đối với con người và mỗi khi phát hiện cá voi chết, ngư dân miền biển đều chôn cất cẩn thận.

Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã Thanh Lân Nguyễn Mạnh Tuấn cho biết: Lễ hội Mở cửa biển là nét văn hóa đặc sắc khắc họa đời sống tinh thần phong phú của ngư dân miền biển, góp phần quảng bá hình ảnh du lịch của Thanh Lân đến gần hơn với du khách. Đồng thời là cơ hội để xã Thanh Lân tiếp tục chuyển mình mang lại những trải nghiệm, hình ảnh tốt đẹp và tạo dựng thương hiệu một điểm đến du lịch uy tín, hấp dẫn. Bên cạnh đó, các hoạt động văn hóa, thể thao, các sự kiện kích cầu du lịch… sẽ tạo nên một không khí vui tươi, phấn khởi, động lực để thi đua phát triển kinh tế; giúp người dân yên tâm bám biển, bám đảo xây dựng quê hương ngày càng giàu đẹp.

Trưởng phòng Văn hóa, du lịch và Khoa học, công nghệ huyện Cô Tô Nguyễn Hải Linh chia sẻ: “Việc phục dựng và phát huy giá trị của Lễ hội Mở cửa biển nhằm giữ gìn văn hóa truyền thống cũng như nghi thức mang đậm tín ngưỡng dân gian của ngư dân vùng biển đảo, góp phần nâng cao đời sống tinh thần cho nhân dân, khơi dậy tinh thần đoàn kết và là dịp để bày tỏ lòng thành kính, biết ơn đối với biển khơi. Đây cũng là dịp để người dân gửi gắm nguyện cầu mong cho quốc thái, dân an, cuộc sống no ấm, sung túc”.

Lễ hội Mở cửa biển cũng là dấu mốc văn hóa đặc sắc khắc họa đời sống tinh thần phong phú của ngư dân miền biển, tiếp tục nâng cao nhận thức cho nhân dân về tầm quan trọng trong việc bảo vệ môi trường thiên nhiên biển đảo cùng các giá trị to lớn mà biển mang lại. Đây cũng là cơ hội để giới thiệu, quảng bá hình ảnh, con người và các giá trị văn hóa truyền thống của xã đảo Thanh Lân đến với du khách trong nước và quốc tế, góp phần phát triển kinh tế- xã hội và bảo vệ vững chắc chủ quyền, an ninh biên giới biển đảo của Tổ quốc.

Bài và ảnh: Lương Quang Thọ

 

Nguồn: Dulichvn

Đặc sắc ẩm thực dân tộc

Cùng với các yếu tố thuận lợi về cảnh quan thiên nhiên tươi đẹp, nét văn hóa độc đáo, thì sự đa dạng về ẩm thực của các dân tộc với những món ăn mang đậm hương vị núi rừng Tây Bắc, đã làm tăng sức hấp dẫn, mời gọi du khách tìm về khám phá và trải nghiệm vùng đất Sơn La.


Trưng bày ẩm thực dân tộc tại Lễ hội Hết Chá, tổ dân phố Na Áng, phường Đông Sang, thị xã Mộc Châu.

Sơn La, nơi sinh sống lâu đời của 12 dân tộc, mỗi dân tộc có những món ăn đặc trưng, cách chế biến riêng biệt, tạo nên một bức tranh ẩm thực đa dạng, phong phú và đầy màu sắc. Đặc biệt, phải kể đến các món: Bánh dày, thắng cố nổi tiếng của đồng bào dân tộc Mông; thịt trâu gác bếp, cá suối nướng, cơm lam, xôi ngũ sắc, rau rừng, canh bon của đồng bào dân tộc Thái, Mường; món thịt chua, rượu hoẵng của đồng bào dân tộc Dao… Điều đặc biệt là nguyên liệu chính, làm nên những món ăn độc đáo này chủ yếu được lấy từ tự nhiên, kết hợp với những gia vị độc đáo, như: Mắc khén, hạt dổi, chẳm chéo, tạo nên hương vị đặc trưng.

Khi du khách đến một địa điểm tham quan, bên cạnh tìm hiểu lịch sử, khám phá vẻ đẹp thiên nhiên thì còn có nhu cầu thưởng thức những món ăn đặc sản, đặc trưng của địa phương. Thông qua bữa ăn ngon miệng, du khách được trải nghiệm, tìm hiểu những khía cạnh văn hóa truyền thống đặc sắc. Đó cũng là yếu tố, tạo sức hút “níu chân” du khách.

Chị Lường Thị Hồng Tươi, Trưởng nhóm phát triển du lịch cộng đồng tổ dân phố Vặt Hồng, phường Mường Sang, thị xã Mộc Châu, chia sẻ: Làm du lịch cộng đồng, chúng tôi xác định ẩm thực là một phần không thể thiếu để giới thiệu nét văn hóa đặc trưng của đồng bào dân tộc Thái nơi đây đến với du khách. Ngoài các món ăn phổ biến, như: Cá nướng, thịt gác bếp, chúng tôi còn giới thiệu những món ăn trong các dịp lễ, Tết và giải thích ý nghĩa của từng món ăn đến với du khách. Đến đây, du khách còn được tự tay làm cơm lam, nướng cá hay giã chẳm chéo. Qua những trải nghiệm đó, du khách có thêm trải nghiệm đáng nhớ về những món ăn, thêm yêu mến mảnh đất, con người Mộc Châu.

Thi ẩm thực dân tộc tại Tuần văn hóa du lịch Mộc Châu.

Thích thú trải nghiệm cách chế biến, thưởng thức các món ăn dân tộc tại Sơn La, chị Hoàng Mỹ Hạnh, du khách đến từ Hà Nội, hào hứng nói: Đến Sơn La, tôi được thưởng thức xôi ngũ sắc, thịt trâu gác bếp, gà nướng, cá suối, cơm lam, canh bon… mỗi món ăn, có hương vị rất đặc biệt, khác hẳn những món ăn ở miền xuôi. Chắc chắn tôi sẽ quay lại Sơn La, để khám phá thêm văn hóa ẩm thực của mảnh đất này.

Việc xây dựng, bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa ẩm thực, trở thành một trong những sản phẩm du lịch đặc sắc đang được các cấp, ngành, địa phương triển khai với nhiều hình thức. Ông Trần Xuân Việt, Phó Giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch, cho biết: Ẩm thực nếu được khai thác thành sản phẩm du lịch, sẽ góp phần tạo dựng hình ảnh tốt đẹp về con người và vùng đất Sơn La. Chính vì vậy, chúng tôi đã phối hợp với các địa phương, các cơ sở đào tạo tổ chức các lớp tập huấn, bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng chế biến món ăn dân tộc, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm cho các hộ kinh doanh du lịch cộng đồng, nhà hàng, khách sạn. Khuyến khích, hỗ trợ việc xây dựng các tour, tuyến du lịch gắn với trải nghiệm ẩm thực; tổ chức các cuộc thi ẩm thực… Qua đó, tạo điều kiện cho du khách thưởng thức các món ăn, thức uống ngon, được hòa mình vào “không gian văn hóa bản địa”, cảm nhận bản sắc văn hóa, giá trị truyền thống của các địa phương một cách chân thực nhất.

Du khách trải nghiệm giã bánh dày tại ngày hội hoa đào, xã Lóng Luông, huyện Vân Hồ.

Có thể thấy, với khách du lịch, ẩm thực không chỉ đáp ứng nhu cầu dinh dưỡng trong hành trình, còn là cơ hội để khám phá văn hóa, phong tục, tập quán và thẩm mỹ của người dân địa phương. Sự mới lạ, ngon miệng và hấp dẫn của ẩm thực ở điểm đến du lịch sẽ là một động lực níu chân du khách, khiến họ quay trở lại. Vì vậy, việc khai thác, phát triển dịch vụ ẩm thực sẽ tạo ấn tượng tốt đẹp, tăng hiệu quả quảng bá du lịch, thu hút du khách đến với Sơn La ngày một nhiều hơn.

Huy Thành

Nguồn: Dulichvn

Cần giữ gìn bản sắc dân tộc trong cách tân trang phục truyền thống

Trong tiến trình phát triển của mỗi dân tộc, cùng với tiếng nói, chữ viết thì trang phục luôn là một yếu tố quan trọng góp phần tạo dựng nên bản sắc văn hóa. Theo thời gian, do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, trang phục truyền thống của các dân tộc đã có một số thay đổi để phù hợp với nhu cầu và điều kiện sống thực tế. Tuy nhiên, đang xuất hiện những biểu hiện đáng lo ngại có thể đưa tới nguy cơ biến dạng, bị mai một, thậm chí biến mất nét đặc sắc riêng của các bộ trang phục truyền thống.


Bảo tồn trang phục truyền thống

Trong tiến trình lịch sử phát triển của các dân tộc, trang phục truyền thống có vai trò như biểu tượng văn hóa sống động riêng có của mỗi dân tộc, tạo nên sự đa sắc, phong phú trong trang phục của cộng đồng các dân tộc Việt Nam nói chung, cộng đồng các dân tộc thiểu số (DTTS) nói riêng, qua đó xây dựng, bồi đắp niềm tự hào về nguồn cội. Nhưng khi bản sắc văn hóa trong trang phục bị mai một, biến dạng, thậm chí bị loại khỏi đời sống, là hồi chuông báo động về nguy cơ xa rời các giá trị truyền thống và đánh mất cội nguồn văn hóa; trên thực tế có một số hiện tượng về nguy cơ đó đã và đang xảy ra.

Trang phục truyền thống của dân tộc Dao đỏ. Ảnh: M.T

Trang phục truyền thống của các dân tộc có bảo tồn, phát huy được hay không là nhờ sự phát hiện ra nét đặc trưng của từng bộ trang phục gắn với từng dân tộc. Nhưng để làm được điều này cần có thời gian, giải pháp trước mắt là ghi hình lưu lại các trang phục ở cả trạng thái tĩnh và động, tức là gắn với các hoạt động của đời sống lao động, sinh hoạt như: lên nương rẫy, ngoài đồng ruộng, các lễ hội, nghi lễ tâm linh… Bên cạnh đó, khuyến khích đồng bào mặc trang phục truyền thống của dân tộc mình trong các dịp lễ, tết, lễ hội, các nghi lễ trong năm, các nghi lễ trong vòng đời người… Các cơ quan chức năng tổ chức thi trình diễn trang phục ở các cấp nhằm thu hút trí tuệ, sáng tạo của những người tâm huyết với trang phục truyền thống nói riêng và văn hóa dân tộc nói chung.

Bảo tồn, phát huy vẻ đẹp trang phục truyền thống các DTTS đã và đang là vấn đề được Đảng, Nhà nước và các ngành chức năng quan tâm. Việc gìn giữ, bảo tồn trang phục của các DTTS là việc làm cần thiết trong công cuộc phát triển công nghiệp văn hóa ở Việt Nam hiện nay. Bởi qua góc nhìn từ bộ trang phục truyền thống của mỗi dân tộc, điều nhận biết đầu tiên về các dân tộc, đó chính là sự phân biệt giữa các dân tộc, mà trang phục của các dân tộc chính là biểu tượng, bản sắc dân tộc, linh hồn, cốt cách, là cách ứng xử của mỗi dân tộc đối với thiên nhiên và xã hội của các dân tộc thể hiện qua bộ trang phục truyền thống của mỗi dân tộc.

Trang phục truyền thống cũng thể hiện trình độ canh tác sản xuất, sự phát triển về tri thức bản địa của mỗi dân tộc, thể hiện sự ứng xử hòa hợp của con người với thiên nhiên, với xã hội của từng dân tộc… Trang phục của mỗi dân tộc sẽ còn đồng hành với các dân tộc và trở thành một tổng thể không thể thiếu được trong đời sống xã hội. Tìm hiểu bản sắc văn hóa mỗi dân tộc thì trang phục truyền thống là yếu tố không thể thiếu, nếu trang phục truyền thống không còn tồn tại, bị mai một sẽ làm mất đi những giá trị văn hóa gắn với tín ngưỡng, gắn với tâm linh và là bản sắc, biểu tượng riêng có của các dân tộc. Vì vậy, việc bảo tồn và phát huy các giá trị của trang phục truyền thống các DTTS đang trở thành vấn đề cấp bách trong xu thế hội nhập và phát triển hiện nay.

Trang phục của mỗi dân tộc không chỉ đóng vai trò quan trọng của việc phân biệt giữa các cộng đồng dân tộc, giúp đặc trưng văn hóa của tộc người đó không bị lẫn với bất kỳ ai khác. Dù rất nỗ lực gìn giữ nhưng hiện trang phục của các dân tộc đều đang đứng trước nguy cơ mai một do một số nguyên nhân như: không còn phù hợp với thời cuộc, trang phục của đồng bào khó mặc, cắt may cầu kỳ, mất nhiều công đoạn, mất nhiều thời gian, mẫu mã không đa dạng, chưa bắt kịp với xu thế thời đại, chất liệu không phù hợp với điều kiện thời tiết… Do đó, thay đổi là hướng đi được đa số bà con lựa chọn, giúp những bộ trang phục của mình vừa tiện ích trong cuộc sống lại bảo tồn mãi với thời gian.

Trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, sự giao thoa văn hóa đã ảnh hưởng và làm thay đổi nhận thức, thị hiếu thẩm mỹ của đồng bào các DTTS. Trang phục của họ đang có sự biến đổi nhanh chóng, nhiều tộc người không còn giữ được bản sắc văn hóa của trang phục truyền thống, nhất là những tộc người có số dân ít, sinh sống tại địa bàn có sự giao thoa, ảnh hưởng văn hóa cao… Đặc biệt, các DTTS đang tiếp thu dập khuôn, một chiều cách ăn mặc của người Kinh, nhất là ở các vùng đô thị, làm nảy sinh tâm lý tự ti, thậm chí coi thường giá trị trang phục dân tộc mình. Đồng bào các dân tộc, kể cả một số người làm công tác văn hóa chưa nhận thức đúng đắn về mối quan hệ giữa truyền thống và hiện đại của trang phục truyền thống, khiến một bộ phận, nhất là lớp trẻ chưa có ý thức coi trọng, giữ gìn bản sắc văn hóa trong trang phục truyền thống dân tộc.

Cách tân trong “khuôn khổ”

Thời trang là ngành nghề không có giới hạn, nhưng nếu các nhà thiết kế thời trang cách tân trang phục của các DTTS mà không có sự nghiên cứu sâu về những giá trị văn hóa truyền thống của từng dân tộc, người thực hiện cách tân rất dễ làm mất đi bản sắc văn hóa của đồng bào. Chúng ta đồng ý cách tân là cần thiết nhưng phải trong “khuôn khổ” cho phép chứ không thể cứ thích là làm tùy hứng sáng tạo; quan trọng tránh sự cắt ghép xáo trộn trang phục của các dân tộc. Chúng ta đang nỗ lực quảng bá những giá trị văn hóa truyền thống của đồng bào các DTTS đến với đại chúng, nhưng nếu nhìn những bộ trang phục đã cách tân mà không có bất kỳ chú thích nào sẽ khiến công chúng hiểu lầm về nét đặc trưng trang phục của đồng bào các DTTS, điều này rất nguy hiểm. Vì thế, các nhà thiết kế khi tạo nên một sản phẩm thời trang lấy ý tưởng từ trang phục truyền thống cần nghiên cứu kỹ những giá trị truyền thống trên từng bộ trang phục của mỗi dân tộc, nhất là phải tôn trọng giá trị lịch sử, văn hóa riêng biệt của từng dân tộc, tránh sự phá cách quá đà, làm mất tính biểu tượng và tính thiêng của bộ trang phục dân tộc.

Bên cạnh đó, mỗi cá nhân cho đến cộng đồng cần có nhận thức đúng đắn đến sự tự ý thức trong ứng xử với trang phục truyền thống của dân tộc mình, thì giá trị văn hóa đặc sắc về trang phục mới được tôn vinh và có vị trí xứng đáng trong đời sống, góp phần tích cực vun đắp tình yêu văn hóa truyền thống, gìn giữ và phát huy bản sắc dân tộc.

Thiên Phước

 

Nguồn: Dulichvn

TIN MỚI NHẤT