Trang chủ Du lịch trong nước

Du lịch trong nước

Du lịch trong nước, tin tức du lịch trong nước, các tour du lịch trong nước, các địa điểm du lịch trong nước hấp dẫn được chúng tôi tổng hợp và đưa tin hàng ngày đến cho khách du lịch trên khắp mọi miền đất nước có được thông tin du lịch trong nước để có những thông tin hữu ích nhất cho mình và gia đình khi quyết định chọn chuyến du lịch trong nước cho mình và người thân

Đắk Lắk: Giữ sợi ký ức trên khung dệt buôn làng

Giữa không gian núi rừng Lắk (tỉnh Đắk Lắk), tiếng khung cửi lách cách vọng ra từ Nhà văn hóa cộng đồng buôn Lê như lời thủ thỉ của ký ức. Những tấm thổ cẩm rực rỡ sắc màu được dệt nên bằng sự nhẫn nại, khéo léo và tình yêu sâu đậm dành cho bản sắc văn hóa người M’nông R’lăm. Không cần phô trương, nghề dệt ở buôn làng này như một sợi chỉ mảnh – lặng lẽ nhưng bền bỉ – kết nối hiện tại với quá khứ, nuôi dưỡng niềm tự hào trong lòng người con núi.


Khung dệt – nơi quá khứ được giữ bằng đôi tay và nhịp tim buôn làng

Tại Nhà văn hóa cộng đồng buôn Lê, vài người phụ nữ M’nông vẫn đều tay bên khung cửi. Họ dệt không chỉ để giữ nghề, mà còn để nối lại mạch ngầm của ký ức, của bản sắc. Những sợi tơ kéo dài từ kỷ niệm thuở nhỏ đến hôm nay, chắt chiu qua đôi bàn tay tỉ mẩn và đôi mắt đầy ký ức. Khi nhận ra nhiều chị em chưa nắm được kỹ thuật hoa văn nguyên bản – những họa tiết chứa đựng câu chuyện về đất, về người, về thế giới quan dân tộc mình – buôn làng đã tự tìm đến nhau. Họ mời nghệ nhân, mở lớp truyền dạy, cùng nhau chắp nối lại tri thức tưởng như đang phai.

Đó là khi chị H’Đen Bkrông (buôn Jun) trở về, mang theo vốn nghề được đào tạo bài bản từ thành phố. Chị không ngần ngại cầm tay chỉ việc, dạy chị em từng nét dệt cổ, từng đường chỉ tơ truyền thống. Mỗi sáng, tiếng khung cửi lại vang lên đều đặn dưới mái Nhà văn hóa. Ban đầu chỉ dăm người, đến nay lớp dệt đã có 13 phụ nữ tham gia thường xuyên. Họ không chỉ học để làm – mà còn học để giữ. Từ lớp học ấy, Câu lạc bộ Dệt thổ cẩm buôn Lê ra đời, do chị H’Sen Hmôk Du làm chủ nhiệm. Với chị, mỗi tấm vải dệt nên là một phần tâm huyết, một mảnh hồn của buôn làng.

Nghề dệt của người M’nông R’lăm không chỉ là lao động, mà là một hình thức gìn giữ văn hóa qua bàn tay và trí nhớ. Họa tiết thổ cẩm truyền thống mô phỏng hình học, công cụ lao động, thiên nhiên… tất cả đều chứa đựng quan niệm sống, thế giới quan và khát vọng của người M’nông. Để dệt được một tấm thổ cẩm mang đúng tinh thần nguyên bản, đòi hỏi sự tỉ mỉ và tình yêu với từng sợi chỉ. Chính sự tận tụy ấy đã thắp lại lửa nghề tưởng chừng đã nguội.

Không dừng lại ở lớp học, chính quyền huyện Lắk đã mở hướng đi mới: xây dựng sản phẩm OCOP cho thổ cẩm. Nhà văn hóa cộng đồng được sửa sang với kinh phí hơn 90 triệu đồng, đáp ứng nhu cầu sinh hoạt và sản xuất. Chính quyền cũng phối hợp các đoàn thể, phòng, ban tháo gỡ dần khó khăn, tạo điều kiện để thổ cẩm buôn Lê có chỗ đứng trên thị trường.

Song song với đó là định hướng phát triển làng nghề gắn với du lịch cộng đồng. Những điểm đến như: buôn Lê, buôn Jun sẽ không chỉ là nơi “xem” mà là nơi “trải nghiệm” – nơi du khách có thể ngồi bên khung dệt, nghe kể chuyện về sợi chỉ, về màu chàm, về đôi bàn tay cần mẫn gìn giữ văn hóa qua năm tháng. Đó là kỳ vọng lớn, nhưng cũng rất đỗi đời thường: Để buôn làng sống được bằng nghề của mình, để văn hóa không phải là ký ức đã qua, mà là hiện tại đang thở bằng nhịp sống mới.

Những sợi ký ức đang dần thành hình trên khung dệt buôn làng. Người phụ nữ M’nông R’lăm cứ lặng lẽ dệt tiếp giấc mơ giữ lấy bản sắc của chính dân tộc mình – bằng sợi, bằng màu, bằng bàn tay và tình yêu với buôn làng.

Và rồi, từ những khung dệt nơi buôn nhỏ, sợi ký ức ấy có thể lan xa hơn – đến các bản làng khác, đến những tâm hồn trẻ đang tìm lại cội nguồn. Nghề dệt không chỉ hồi sinh trong đời sống, mà còn khơi dậy niềm tin vào sức mạnh mềm của văn hóa. Hy vọng rằng, sẽ có thêm nhiều bàn tay cùng góp sợi, cùng đan lưới ký ức – để thổ cẩm người M’nông tiếp tục kể câu chuyện của mình trên nền vải của tương lai.

Hương Ly

Nguồn: Dulichvn

Mùa bánh trứng kiến

Từ đầu tháng 3 đến nay, tại các chợ trên địa bàn tỉnh hay trên các trang mạng xã hội bán hàng online như: Facebook, Zalo đều có món ăn đặc sản rất riêng của Cao Bằng – đó là bánh trứng kiến.


Bánh trứng kiến theo tiếng Tày gọi là pẻng rày. Nguyên liệu chính làm bánh là trứng non của loài kiến đen, bột gạo nếp và lá cây vả. Cách làm bánh trứng kiến đơn giản, không quá cầu kỳ. Miếng bánh trứng kiến sẽ có 3 lớp, ngoài cùng là lá vả, sau đến bột nếp và giữa là nhân trứng kiến xào với thịt lợn thơm ngon, béo bùi.

Trứng kiến mang về nhặt và rửa sạch, mang đi xào thành nhân bánh.

Trứng kiến thường có từ đầu tháng Hai đến cuối tháng Ba âm lịch. Trứng kiến ngon phải là những tổ kiến đen, thân hình nhỏ, có đuôi nhọn, làm tổ trên những cây vầu, nứa, khi thu hoạch sẽ được những hạt trứng mẩy to tròn như hạt gạo. Hiện nay, trứng kiến được bán với giá trên dưới 300 nghìn đồng/kg. Trứng kiến mang về nhặt sạch những tạp chất, lá cây; đãi rửa qua rồi để khô sau đó phi hành thơm, xào cùng với thịt lợn xay nhuyễn, gia vị để làm nhân bánh.

Vỏ bánh là gạo nếp ngon, ngâm khoảng 6 tiếng, đem xát rồi để ráo nước mang nhào cho mịn. Khi gói cán mỏng làm thành vỏ bánh rồi cho nhân trứng kiến xào thịt vào giữa hai lớp vỏ. Lớp bên ngoài cùng của bánh là lá vả; chọn những lá bánh tẻ, rửa sạch, lau khô nước sau đó bao ra bên ngoài bánh để phần bánh và nhân được bọc không bị hở ra bên ngoài. Bánh sau khi gói xong mang đi hấp khoảng 35 – 40 phút là chín.

Thành phẩm bánh trứng kiến sau khi hấp chín.

Bánh để nguội được cắt thành những miếng hình chữ nhật. Cắn một miếng bánh, sẽ cảm nhận được hương vị lá vả thơm ngon quyện với bột nếp dẻo cùng sự béo và ngậy mùi của trứng kiến. Bánh trứng kiến hiện có bán dao động từ 160 – 180 nghìn đồng/kg; người bán hay đóng thành hộp có trọng lượng 0,5 kg, giá từ 80 – 90 nghìn đồng. Bánh trứng kiến hoàn toàn làm thủ công nên thời gian sử dụng ngon nhất là trong ngày, nếu để ngăn mát tủ lạnh khoảng 2 ngày.

Bánh trứng kiến được nhiều người yêu thích bởi hương vị rất riêng

Du lịch Cao Bằng vào những ngày này, trong hành trình khám phá ẩm thực, ngoài những món rau rừng giàu dinh dưỡng, bánh cuốn, vịt quay đậm đà… không thể bỏ qua món bánh trứng kiến độc đáo và thơm ngon.

T.N

Nguồn: Dulichvn

Đặc sản có nhiều ở làng quê miền Bắc, màu phớt hồng, giòn ngon lạ miệng

Riềng được trồng nhiều ở làng quê miền Bắc. Người dân tận dụng phần nõn non bên trong, biến tấu thành một số món lạ miệng thơm ngon.


Riềng là cây gia vị quen thuộc của người Việt. Không chỉ củ, một số bộ phận khác như lá, hoa, thân cũng đều được sử dụng trong ẩm thực.

Ví dụ như lá riềng có thể giã ra lấy nước cốt đem ngâm gạo nếp để đồ xôi hoặc nấu bánh chưng, tạo màu xanh tự nhiên đẹp mắt. Hoa riềng cũng được dùng làm thức ăn.

Đặc biệt hơn cả, măng riềng (hay còn gọi là nõn riềng, mầm riềng) – những cây non mọc ra từ gốc cây riềng được tận dụng làm nguyên liệu chế biến món ăn quen thuộc ở miền Bắc.

Riêng tại Điện Biên, măng riềng được xem như đặc sản độc đáo của đồng bào dân tộc Thái.

Người Thái gọi măng riềng là “nó khá”, coi như đặc sản, thường tận dụng để làm thức ăn. Ảnh: Anh 1985 Vlogs

Chị Vũ Liên (sống ở TP Điện Biên) cho biết, măng riềng có quanh năm nhưng rộ nhất là đầu xuân, giữa hè và đầu thu. Khi ấy, bà con sẽ đi thu hái cây riềng non, bỏ vỏ ngoài để lấy phần măng màu phớt hồng bên trong.

Người địa phương xem măng riềng như loại rau sạch, đem về chế biến thành một số món ngon.

Vì có độ dai giòn, vị ngọt nhẹ xen lẫn chút the cay, lại thơm nên măng riềng thường được sử dụng nhiều nhất trong các món rau trộn hoặc nộm. Đây là món khá phổ biến trong bữa cơm của người Thái ở Điện Biên.

Theo kinh nghiệm của chị Liên, để làm nộm ngon nên chọn những búp riềng non chưa mọc thành lá hoặc cây non mới nảy 2-3 lá, đầu nhọn hoắt giống như măng tây và ngả màu hồng phớt.

Sau khi hái, người ta dùng tay bóc tách lớp vỏ cứng bên ngoài để lấy phần đọt riềng non mơn mởn bên trong.

Công đoạn này nghe đơn giản nhưng đòi hỏi người làm phải khéo léo để có thể lấy cả phần lõi cũng như phần vỏ non phía đầu cây riềng. Sơ chế xong thì ngắt thành các đoạn ngắn và chế biến thành các món tùy ý.

Món nộm măng riềng được ví như đặc sản độc lạ ở một số tỉnh miền Bắc, có thể kết hợp linh hoạt với các loại rau rừng. Ảnh: Esheep Kitchen

Người Thái ở Điện Biên thường kết hợp măng riềng với một số nguyên liệu quen thuộc khác như rau sắn, rau thối, rau gai hay cà dại, hoa đu đủ, các loại măng… để làm phong phú thêm hương vị của món ăn.

Một trong những món được yêu thích nhất là nộm măng riềng với cà dại và rau sắn.

Món nộm măng riềng được biến tấu cùng tai heo. Ảnh: Esheep Kitchen

Chị Liên cho hay, rau sắn nên chọn búp non mập mạp còn nguyên lớp phấn mịn ở đầu chồi, hái về ngâm qua nước rồi luộc chín, vớt ra để ráo.

Tiếp đến, trụng sơ cà dại và măng riềng, sau đó thả ngay măng vào bát nước đá lạnh rồi cắt khúc ngắn, chẻ nhỏ để riêng. Các nguyên liệu đã chuẩn bị xong thì đem trộn đều, thêm nước mắm chua ngọt và rau thơm.

Món ăn đơn giản, được chế biến từ một số nguyên liệu dân dã, dễ kiếm nhưng lại mang đến vị thơm ngon khó tin. Mầm riềng giòn, mát, vị ngọt lẫn the cay, hài hòa cùng các nguyên liệu khác.

Ngoài làm nộm, măng riềng còn được biến tấu thành một số món ngon khác như xào tỏi, kho cá, nấu canh. Mỗi món lại có hương vị riêng, mang đến trải nghiệm ẩm thực mới mẻ cho du khách.

Thảo Trinh

Nguồn: Dulichvn

Lâm Đồng: Lễ hội Am Chúa – nét đẹp văn hóa tâm linh ở xứ trầm hương

Tại Khu di tích Quốc gia Am Chúa, tọa lạc trên núi Đại An, xã Diên Điền, huyện Diên Khánh, tỉnh Khánh Hòa vừa diễn ra Lễ hội Am Chúa năm 2025.


Đoàn khách hành hương thực hành nghi thức tế lễ Thiên Y A Na Thánh Mẫu

Lễ hội Am Chúa năm nay gồm nhiều nghi lễ truyền thống như: lễ tế cổ truyền, lễ dâng hương, hát văn và múa bóng do các đoàn hành hương trong và ngoài tỉnh thực hiện. Ban Tổ chức cho biết đã tiếp nhận đăng ký tham gia của hơn 100 đoàn hành hương với khoảng 3.000 người. Ngoài ra, chính quyền địa phương ước tính có thêm khoảng 11.000 lượt người dân và du khách tự do đến tham dự lễ hội.

Để đảm bảo an ninh, trật tự và an toàn cho lễ hội, địa phương đã phối hợp với các cơ quan chức năng triển khai các biện pháp phòng ngừa trộm cắp, cướp giật, gây rối; tăng cường kiểm soát giao thông và phòng, chống cháy nổ. Đặc biệt, tất cả cơ sở kinh doanh ăn uống trên địa bàn xã đã ký cam kết đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm. Ban Tổ chức cũng quy định không tổ chức ăn uống trong khuôn viên di tích.

Các vị bô lão trong làng thực hiện nghi thức tế lễ cổ truyền

Lễ hội Am Chúa là một sự kiện văn hóa tâm linh quan trọng, thể hiện tín ngưỡng thờ Mẫu truyền thống của người dân Khánh Hòa và các tỉnh, thành phố khác. Bà Nguyễn Thị Bé, một thành viên đoàn hành hương từ thị xã Ninh Hòa, Khánh Hòa chia sẻ: “Nhiều năm nay, đoàn chúng tôi đều đến Am Chúa để cầu nguyện những điều tốt đẹp cho bản thân, gia đình và mọi người. Tín ngưỡng thờ Mẫu giúp chúng tôi hướng đến những suy nghĩ và hành động thiện lương”.

Di tích Am Chúa gắn liền với truyền thuyết Thiên Y A Na, một biểu tượng văn hóa sâu sắc trong tâm thức người dân Việt Nam. Di tích này từng bị tàn phá trong chiến tranh và được phục hồi từ năm 1987. Năm 1999, Am Chúa được công nhận là di tích quốc gia. Nhờ sự chung tay của cộng đồng và sự quan tâm của các cấp chính quyền, Am Chúa ngày nay đã trở thành một điểm đến tâm linh và du lịch thu hút.

Người dân cúng lễ trong khuôn viên Khu di tích Quốc gia Am Chúa

Hình tượng Thiên Y A Na trong tín ngưỡng dân gian Việt Nam là sự kết hợp giữa văn hóa Việt và Chăm, tôn vinh vai trò của người Mẹ xứ sở, Mẹ đất, Mẹ lúa. Lễ hội Am Chúa là dịp để người dân ôn lại truyền thuyết về Mẫu Thiên Y A Na, người đã dạy dân cày cấy, dệt vải, chống giặc ngoại xâm, đem lại cuộc sống bình yên và no đủ. Lễ hội góp phần bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc.

Đặng Tuấn 

 

Nguồn: Dulichvn

Trải nghiệm văn hóa đất Võ – Bình Định

Nhu cầu du lịch trải nghiệm văn hóa đang dần thu hút được khá nhiều du khách, nhất là du khách nước ngoài. Ngoài tham quan tại danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử, văn hóa, du khách còn có thể trải nghiệm văn hóa truyền thống của đất Võ tại các làng nghề, điểm đến.


Gần 2 năm nay, tại nhà số 13 Đặng Văn Ngữ (TP Quy Nhơn), nhiều du khách tìm đến trải nghiệm, tìm hiểu nét đẹp văn hóa của Bình Định thông qua những hoạt động trình diễn làm nón lá, biểu diễn võ dưỡng sinh tâm thể, hô bài chòi dân gian, vẽ mặt nạ hát bội, nhào đất nặn gốm…

Du khách được xem các công đoạn làm nón lá Gò Găng, như: Duỗi lá, chuốt nan, bủa lá, kết lá, chằm nón, nứt nón; chiêm ngưỡng những chiếc nón của làng nghề truyền thống nón ngựa Phú Gia ở xã Cát Tường (huyện Phù Cát) đã được công nhận di sản văn hóa phi vật thể quốc gia; tự tay vẽ mặt nạ hát bội, thắng cảnh của Bình Định lên những chiếc nón lá xinh xắn; xem múa võ cổ truyền Bình Định, xem nghệ nhân kẻ mặt hát bội…

Du khách nước ngoài trải nghiệm chằm nón tại địa chỉ số 13 Đặng Văn Ngữ (TP Quy Nhơn). Ảnh: Trần Vân

Ông Trần Ngọc Vân, Chủ nhiệm CLB Face Art Bình Định – người lên ý tưởng và thực hiện mô hình trải nghiệm này, cho biết: Du khách đến đây trải nghiệm hoàn toàn miễn phí, nếu vui vẻ họ có thể tặng thưởng một chút quà cho các nghệ nhân. Từ khi triển khai mô hình, có rất nhiều du khách, đặc biệt du khách nước ngoài đến từ Bỉ, Hàn Quốc, Đức, Pháp… đến đây trải nghiệm. Xin được phép nhắc lại, chúng tôi thực hiện mô hình này chỉ với mục đích quảng bá di sản văn hóa của Bình Định.

Chị Susance Annette (du khách đến từ Đức), vui vẻ cho biết: “Tôi rất vui khi được hiểu hơn về bản sắc văn hóa Bình Định. Nhưng việc được hòa vào không khí đầm ấm, thân tình với các nghệ nhân với tôi cũng rất đặc biệt. Lần đầu tiên được cầm kim chằm nón, tôi có cảm giác vừa lạ lẫm, vừa thích thú. Đây là những trải nghiệm rất tuyệt vời khi tôi đến Quy Nhơn – Bình Định. Nếu có dịp, tôi sẽ quay lại Bình Định để khám phá thêm”.

Du khách nước ngoài trải nghiệm chằm nón tại địa chỉ số 13 Đặng Văn Ngữ (TP Quy Nhơn). Ảnh: Trần Vân

Xã Nhơn Hậu (TX An Nhơn) đang từng bước triển khai hoạt động du lịch cộng đồng để khai thác tiềm năng, lợi thế về danh thắng, di tích, làng nghề truyền thống. Đến đây, du khách không chỉ tham quan các di tích lịch sử, văn hóa, như: Tháp Cánh Tiên, chùa Nhạn Sơn, thành Hoàng Đế…, mà còn có nhiều trải nghiệm thú vị khi tham quan các làng nghề làm gốm, làm bún, tiện gỗ mỹ nghệ.

Anh Trần Văn Tiến Hùng, chủ hộ làm nghề tiện gỗ mỹ nghệ ở thôn Vân Sơn, xã Nhơn Hậu, chia sẻ: “Mấy năm gần đây, các làng nghề ở địa phương thường đón nhiều đoàn học sinh, du khách đến tham quan. Nhiều du khách rất thích thú khi được nghe nghệ nhân kể chuyện về nghề, trải nghiệm làm các sản phẩm đơn giản. Với cách này, bà con làng nghề cũng có thêm cơ hội để quảng bá nét đẹp làng nghề, tăng thêm thu nhập nhờ bán sản phẩm lưu niệm cho du khách”.

Nghệ nhân trình diễn hóa trang hát bội tại địa chỉ số 13 Đặng Văn Ngữ (TP Quy Nhơn). Ảnh: Trần Vân

Nhà hát Nghệ thuật truyền thống tỉnh cũng từng bước triển khai nhiều hoạt động để trở thành điểm dừng chân của du khách tìm hiểu về di sản nghệ thuật hát bội, bài chòi. Ngoài các loại phục trang, đạo cụ, mặt nạ hát bội, tư liệu, hình ảnh, mô hình hội đánh bài chòi dân gian được trưng bày tại phòng truyền thống, Nhà hát còn tạo điểm check-in với nghệ thuật hát bội, bài chòi tại tiền sảnh; xây dựng đa dạng tiết mục hát bội, bài chòi, hội đánh bài chòi, múa Chăm, hòa tấu nhạc cụ dân tộc… để phục vụ du khách.

Lần đầu tiên đến Bình Định và được tham quan, xem biểu diễn tại Nhà hát Nghệ thuật truyền thống tỉnh, chị Nguyễn Thị Tuệ Trang, du khách đến từ tỉnh Hà Tĩnh, tâm tình: “Tôi thật sự bị cuốn hút với những cảnh đẹp, di tích ở Bình Định mà tôi đặt chân tới. Sau khi tham quan và xem các tiết mục biểu diễn hát bội, bài chòi, tôi nhận thấy Bình Định thu hút du khách không chỉ với cảnh đẹp, con người thân thiện mà còn ở bản sắc văn hóa có nhiều nét riêng”.

Đoan Ngọc

Nguồn: Dulichvn

Khám phá Mũi Trèo, viên ngọc hoang sơ ở Quảng Trị

Nằm tại xã Vĩnh Kim, huyện Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị, Mũi Trèo là một điểm đến mới mẻ, thu hút những du khách yêu thích vẻ đẹp nguyên sơ và yên bình của thiên nhiên.


Cách trung tâm thành phố Đông Hà khoảng 40 km về phía Bắc, nơi đây là sự giao thoa độc đáo giữa rừng xanh và biển cả, mang đến trải nghiệm du lịch khác biệt so với những điểm đến đã được thương mại hóa.​ Mũi Trèo nổi bật với mũi đá nhô ra biển, cao khoảng 25-30 mét so với mực nước biển, tạo nên khung cảnh hùng vĩ giữa một bên là rừng nguyên sinh và một bên là biển cả mênh mông. Từ đây du khách có thể chiêm ngưỡng núi rừng trùng điệp nằm bên biển xanh bao la.

Mũi Trèo nhìn từ trên cao.

Đặc biệt, khi đến với Mũi Trèo, du khách còn có cơ hội để tham quan một số di tích, danh lam thắng cảnh gần đó, như: Bãi tắm Cửa Tùng, Địa đạo Vịnh Mốc, Ngọn hải đăng Mũi Lay… Với lòng mến khách, người dân nơi đây sẽ tận tình chỉ đường, giới thiệu với du khách những địa danh xung quanh cũng như các phong tục, tập quán đặc trưng của địa phương.

Địa hình độc đáo này không chỉ mang lại tầm nhìn ngoạn mục mà còn là điểm lý tưởng để ngắm bình minh hoặc hoàng hôn trên biển.​ Du khách có thể đến Mũi Trèo bằng nhiều tuyến đường khác nhau. Một trong những lộ trình phổ biến là từ Quốc lộ 1A, qua cầu Hiền Lương, đến xã Vĩnh Kim và tiếp tục theo hướng dẫn của người dân địa phương.

Đường đến Mũi Trèo khá dễ đi, bên cạnh đó, du khách có thể đi theo chỉ dẫn trên bản đồ. Từ trung tâm thành phố Đông Hà, du khách đi khoảng 40km tới biển Mũi Trèo. Thêm chừng 3km hướng về phía khu vực xóm Xuân du khách sẽ thấy có một chiếc cổng rừng nhỏ, đi bộ trong đó khoảng 500m là tới Mũi Trèo.

Khung cảnh thơ mộng tại Mũi Trèo.

Ngoài ra, có thể đi theo đường ven biển sau đó rẽ vào đường bê tông và đi bộ khoảng 500 mét để đến Mũi Trèo. ​Mũi Trèo là điểm đến lý tưởng cho những ai yêu thích cắm trại và hòa mình vào thiên nhiên. Với không gian rộng rãi, du khách có thể dựng lều, thưởng thức bữa ăn ngoài trời và tận hưởng không khí trong lành của biển cả. Tuy nhiên, do nơi đây chưa được đầu tư khai thác du lịch, du khách cần chuẩn bị đầy đủ đồ dùng cá nhân và tuân thủ nguyên tắc “không để lại dấu vết” để bảo vệ môi trường. ​

Cắm trại trên bờ biển mũi Trèo khá thú vị.

Ngoài Mũi Trèo, du khách có thể kết hợp tham quan các điểm du lịch nổi tiếng khác của Quảng Trị như bãi tắm Cửa Tùng, địa đạo Vịnh Mốc và hải đăng Mũi Lay. Những địa điểm này không chỉ mang giá trị lịch sử mà còn sở hữu cảnh quan thiên nhiên tuyệt đẹp, góp phần tạo nên hành trình khám phá đầy ý nghĩa.

Vẻ đẹp hoang sơ và thanh bình, là lựa chọn lý tưởng cho những ai muốn tìm kiếm sự tĩnh lặng và kết nối với thiên nhiên. Để bảo tồn và phát huy giá trị du lịch của địa danh Mũi Trèo, hiện nay xã Vĩnh Kim đã thường xuyên tuyên truyền vận động người dân sống xung quanh Mũi Trèo, cũng như đối với các du khách đến tham quan, nâng cao ý thức và có hành động thiết thực bảo vệ, giữ gìn vệ sinh môi trường.

Bên cạnh đó, các cấp ngành cùng người dân xã Vĩnh Kim thường xuyên tổ chức làm vệ sinh, thu gom rác thải trên địa bàn. Hướng đến phát triển du lịch tại Mũi Trèo theo hướng an toàn, bền vững, thân thiện với môi trường tự nhiên.

Mai Nga

Nguồn: Dulichvn

Hà Giang: Mèo Vạc, điểm hẹn du lịch trên Cao nguyên đá

Đến Cao nguyên đá Đồng Văn, huyện Mèo Vạc chắc hẳn sẽ là điểm đến không thể bỏ qua đối với bất cứ du khách nào đam mê “xê dịch”. Với phong cảnh thiên nhiên độc đáo, kỳ vĩ cùng bề dày văn hóa đặc sắc của các dân tộc, nơi đây hứa hẹn mang đến cho du khách những trải nghiệm khó quên.


Có dịp đến huyện Mèo Vạc vào dịp 27.3 âm lịch hàng năm, du khách sẽ được hòa mình vào Lễ hội Chợ Phong Lưu Khâu Vai, một trong những lễ hội lớn và đặc sắc nhất trên vùng Cao nguyên đá. Năm nay, sự kiện tiếp tục được huyện tổ chức trong các ngày từ 22 – 24.4 với quy mô cấp tỉnh. Trong khuôn khổ lễ hội sẽ diễn ra nhiều hoạt động hấp dẫn như: Lễ dâng hương miếu Ông, miếu Bà, lễ cầu duyên, thi trang phục truyền thống, trình diễn múa khèn Mông, giao lưu văn hóa dân gian. Hiện nay, công tác chuẩn bị cho lễ hội đang được huyện tích cực triển khai, đảm bảo theo tiến độ đề ra.

Du khách tìm hiểu thông tin các điểm du lịch ở Mèo Vạc.

Nếu nói Chợ Phong Lưu Khâu Vai đại diện cho nét đẹp văn hóa thì chắc chắn đèo Mã Pì Lèng sẽ là đại diện về phong cảnh thiên nhiên của Mèo Vạc. Nhiều dân phượt đã yêu mến con đèo này và gọi nó với danh hiệu “đệ nhất hùng quan” hay một trong “tứ đại đỉnh đèo” của khu vực phía Bắc Việt Nam. Con đèo dài hơn 20 km, nối 2 huyện Mèo Vạc và Đồng Văn. Đây là con đèo có lịch sử hình thành gian nan và hào hùng bậc nhất. Đứng ở trên đèo, du khách có thể phóng tầm mắt chiêm ngưỡng một vùng rộng lớn các dãy núi đá tai mèo trùng điệp, đặc biệt là ngắm trọn hẻm Tu Sản, hẻm vực sâu nhất Đông Nam Á sừng sững bên cạnh dòng Nho Quế trong xanh.

Không chỉ có Chợ Phong Lưu Khâu Vai hay đèo Mã Pì Lèng, trên địa bàn huyện Mèo Vạc còn có nhiều phong cảnh và nét đẹp văn hóa độc đáo khác như: Vách đá trắng, lòng hồ Thủy điện Nho Quế 3, hang động Sán Tớ. Các làng văn hóa du lịch cộng đồng ở xã Pả Vi, Tát Ngà, Tả Lủng, thị trấn Mèo Vạc. Các lễ hội truyền thống của dân tộc Mông, Dao, Lô Lô như lễ hội Gầu Tào, lễ cúng Bàn Vương, lễ cầu mùa. Hay các món ăn truyền thống của dân tộc bản địa như mèn mén, thắng cố, thịt treo gác bếp, thịt bò khô, rượu ngô. Tất cả những nét đẹp này đã hòa quyện, tạo nên sản phẩm du lịch hấp dẫn thu hút du khách đến huyện.

Hẻm Tu Sản – kỳ quan thiên nhiên độc đáo trên Cao nguyên đá.

Chị Trần Huyền Trang, du khách đến từ tỉnh Quảng Ninh chia sẻ: “Mèo Vạc có phong cảnh thiên nhiên đầy cuốn hút, như một Vịnh Hạ Long trên cạn. Không chỉ sở hữu nhiều cảnh quan hùng vĩ, những nét đẹp văn hóa trong đời sống của người dân cũng để lại trong tôi nhiều ấn tượng sâu sắc. Chắc chắn tôi sẽ quay lại Mèo Vạc trong thời gian không xa”.

Nhằm thu hút nhiều hơn du khách đến địa phương, thời gian qua, huyện Mèo Vạc tập trung triển khai đồng bộ nhiều giải pháp, trong đó chú trọng công tác quy hoạch, huy động các nguồn vốn, nguồn lực đầu tư cơ sở hạ tầng du lịch; quan tâm phát triển các sản phẩm du lịch đặc trưng, thế mạnh như du lịch cộng đồng, du lịch mạo hiểm, khám phá, trải nghiệm. Bên cạnh đó, huyện cũng đẩy mạnh công tác xúc tiến, quảng bá du lịch, hình thành và khai thác hiệu quả các tua, tuyến du lịch phục vụ du khách; xây dựng ý thức văn minh, bảo vệ môi trường trong phát triển du lịch; chú trọng đào tạo, bồi dưỡng và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực du lịch đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của du khách.

Nhờ triển khai đồng bộ các giải pháp, du khách đến huyện Mèo Vạc không ngừng tăng qua các năm. Riêng năm 2024, toàn huyện đón 545.000 lượt khách, đạt 107% so với năm 2023. Sang quý I năm 2025, toàn huyện đón hơn 121.000 lượt người, đạt 183,5% so với cùng kỳ năm 2024. Những con số ấn tượng này không chỉ phản ánh sức hút mạnh mẽ của du lịch Mèo Vạc mà còn mở ra một tương lai đầy triển vọng. Với định hướng đúng đắn, sự đầu tư bài bản cùng tiềm năng lớn về du lịch, Mèo Vạc hứa hẹn sẽ trở thành điểm đến không thể thiếu trong hành trình khám phá miền đá nở hoa của du khách bốn phương.

Bài, ảnh: Trần Kế

 

Nguồn: Dulichvn

Văn học quảng bá du lịch

Quảng bá du lịch thông qua văn học tuy không phải là hình thức mới, nhưng theo các chuyên gia, vẫn còn nhiều dư địa để khai thác, đặc biệt là trong thời đại số. Một tour du lịch theo hành trình của các nhân vật trong tiểu thuyết hoặc thơ ca nổi tiếng, từ đó, du khách không chỉ được tham quan mà còn được trải nghiệm văn hóa và lịch sử sâu sắc hơn… là điều hoàn toàn có thể.


Hình ảnh làng quê xứ Huế trong phim “Mắt biếc”. Ảnh: M.H.

Cẩm nang du lịch

Nhiều chuyên gia đã từng nhận định, văn học không chỉ là nghệ thuật ngôn từ mà còn là kênh truyền thông văn hóa – du lịch hiệu quả. Những địa danh được nhắc đến từ tác phẩm văn học có thể trở thành điểm đến hấp dẫn nhờ yếu tố cảm xúc, chiều sâu văn hóa và câu chuyện đi kèm. Chính vì thế, văn học có sức mạnh thôi thúc người đọc “xách ba lô lên và đi” để tận mắt cảm nhận những điều từng được gợi mở trong trang sách.

Những tác phẩm như “Mắt biếc”, “Đảo mộng mơ”… của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh không chỉ kể những câu chuyện nhẹ nhàng, sâu lắng mà còn gắn liền với những vùng đất đẹp như mơ… Đặc biệt, thông qua những câu chuyện ấy, du khách được chạm đến chiều sâu văn hóa, tâm lý và bản sắc vùng miền – điều mà không một cẩm nang du lịch thông thường nào có thể truyền tải trọn vẹn.

Hay đọc “Sương khói quê nhà” của Nguyễn Ngọc Tư gợi lên cho chúng ta về một miền Tây Nam Bộ qua ngôn ngữ giàu hình ảnh, chất miền Tây mộc mạc mà sâu sắc. Tác phẩm gợi cảm xúc khám phá vùng sông nước, con người nghĩa tình, phù hợp du lịch cộng đồng, sinh thái.

Rất nhiều thi sĩ đã khắc hoạ sinh động vẻ đẹp của từng vùng đất, khơi dậy trong lòng người khao khát được đặt chân đến, khám phá và trải nghiệm. Như trong bài “Về với điệu Xòe” của nhà thơ Khúc Hồng Thiện, qua từng câu chữ đằm thắm, anh đã tái hiện không khí rộn ràng, tươi vui của hội Xòe – nét văn hóa độc đáo của cộng đồng dân tộc Thái nơi núi rừng Tây Bắc.

Bên cạnh đó, còn biết bao thi phẩm khác cũng góp phần mở ra những miền đất mới, thắp sáng tiềm năng du lịch qua góc nhìn giàu cảm xúc của người nghệ sĩ.

Là một người đi nhiều, viết nhiều về các địa phương, nhà văn Nguyễn Văn Học cho rằng, văn chương được xem như phương thức hiệu quả để quảng bá hình ảnh. Nếu biết cách chuyển thể và kể lại các tác phẩm văn học gắn với địa danh, có thể tạo nên những sản phẩm du lịch văn hóa đặc sắc, thu hút du khách trong và ngoài nước.

Nhìn nhận về tiềm năng quảng bá du lịch qua những tác phẩm văn học, ông Phạm Hải Quỳnh – Viện trưởng Viện Phát triển Du lịch châu Á nhận định, văn học là một trong những phương thức truyền tải cảm xúc và giá trị của văn hóa mạnh mẽ nhất. Ví dụ, tour du lịch theo hành trình của các nhân vật trong tiểu thuyết hoặc thơ ca nổi tiếng, từ đó, du khách không chỉ được tham quan mà còn được trải nghiệm văn hóa và lịch sử sâu sắc hơn.

Khi du khách đọc và cảm nhận các tác phẩm văn học, họ sẽ hình thành sự kết nối với địa danh đó. “Văn học truyền tải những giá trị, triết lý và lối sống đặc trưng của người Việt. Điều này giúp du khách hiểu rõ hơn về văn hóa, con người và lịch sử của Việt Nam. Như vậy, việc chuyển thể và kể lại các tác phẩm văn học gắn liền với địa danh là một hướng đi đầy tiềm năng và cần được khai thác mạnh hơn trong thời gian tới” – ông Quỳnh nói.

Du khách trải nghiệm ở Vườn quốc gia U Minh Thượng – địa danh nổi tiếng trong tác phẩm văn học “Đất rừng Phương Nam” của nhà văn Đoàn Giỏi. Ảnh: Minh Phúc.

Để văn học có thêm một đời sống khác

Có thể nói, nếu mỗi trang viết được nuôi dưỡng bằng tình yêu và sự thấu cảm với vùng đất, lịch sử và cảnh sắc nơi đó, tự thân nó đã trở thành một lời mời gọi du lịch đầy cuốn hút và chân thành.

Chia sẻ về điều này, nhà văn Phụng Thiên nói, văn học không quảng bá theo kiểu truyền thông đại chúng, mà chọn cách quảng bá lặng lẽ nhưng sâu sắc. Không gian, phong tục, văn hóa, ngôn ngữ địa phương… được tái hiện qua từng tác phẩm. Nhờ đó, những vùng đất hiện lên sinh động trong tâm trí người đọc, khơi gợi sự tò mò, yêu mến và mong muốn được đặt chân đến, cảm nhận trực tiếp.

Còn ông Phạm Hải Quỳnh cho rằng, bằng cách tích hợp các yếu tố văn học vào hoạt động quảng bá du lịch, chúng ta không chỉ mang đến cho du khách những trải nghiệm thú vị mà còn trao truyền giá trị văn hóa phong phú của Việt Nam.

Theo ông Quỳnh, để văn học trở thành một phần trong chiến lược truyền thông du lịch hiện đại, nhất là nhằm thu hút giới trẻ chúng ta cần sử dụng mạng xã hội và các nền tảng trực tuyến để chia sẻ các tác phẩm văn học gắn với địa danh qua các bài viết, video ngắn, và hình ảnh hấp dẫn. Tạo các chương trình livestream hoặc podcasts về những câu chuyện văn học nổi tiếng đã và đang diễn ra tại các địa điểm du lịch. Tổ chức các tour du lịch tìm hiểu văn học, trong đó bao gồm việc tham quan các địa danh đã được nhắc đến trong các tác phẩm nổi tiếng.

Cùng với đó, khuyến khích các tác giả viết về trải nghiệm du lịch của họ và quảng bá thông qua các kênh truyền thông. Phát hành các sách du lịch có liên quan đến văn học, cung cấp cho du khách cái nhìn sâu sắc về văn hóa và lịch sử tại địa phương. Tổ chức các lễ hội văn học tại các địa điểm du lịch, kết hợp với các hoạt động giao lưu, chia sẻ giữa các tác giả và du khách. Tạo ra các hoạt động phong phú như diễn đọc, hội thảo văn học, hay thảo luận về tác phẩm văn học tại các điểm đến nổi tiếng.

Còn theo nhà văn Nguyễn Văn Học, để văn học – đặc biệt là các tác phẩm có chiều sâu văn hóa – có thể trở thành một phần trong chiến lược truyền thông du lịch hiện đại, nhằm tạo sự hấp dẫn đối với du khách trước hết, tác phẩm phải hay, khơi gợi được tầm vóc, chiều sâu văn hóa của Việt Nam nói chung, của mỗi vùng đất, địa danh nói riêng. Cái này nằm ở tài năng của nhà văn. Nhà văn, người sáng tạo phải yêu văn hóa Việt, yêu các vùng đất để có thể đưa được hình ảnh, vẻ đẹp của các danh thắng, vùng đất vào tác phẩm.

Tiếp đó, cần những “con mắt xanh” của các nhà làm phim, các nhà biên kịch. Bởi họ chính là cầu nối để tác phẩm văn học được sống thêm một đời sống khác, đó là phim ảnh. Sau nữa, các địa phương cũng cần xây dựng chiến lược để mời gọi, thu hút các nhà làm phim về quay phim, tạo dựng các phim trường lớn, chuyên nghiệp. Có thể nói, từ tác phẩm văn học đến câu chuyện tôn bồi, lan tỏa giá trị văn hóa, phát triển du lịch là một quá trình, đòi hỏi nỗ lực của nhiều người, nhiều cấp, ngành.

P. Sỹ

 

Nguồn: Dulichvn

Đặc sản Ninh Bình lọt top món ăn từ thịt dê ngon nhất thế giới

Dê tái chanh, một đặc sản nổi tiếng của Ninh Bình (Việt Nam), mới đây đã được chuyên trang ẩm thực nổi tiếng thế giới vinh danh.


Xuất hiện trong danh sách những món ăn từ thịt dê ngon nhất thế giới của Taste Atlas, dê tái chanh được mô tả là “đặc sản truyền thống của Ninh Bình”.

Ảnh: Bachhoaxanh

“Trong món này, thịt dê được làm chín sơ bằng nước cốt chanh. Các thành phần khác bao gồm ớt, lá chanh, tỏi, hạt tiêu và vừng. Thịt phải được thái mỏng, tươi để không mất đi vị ngọt tự nhiên.

Dê tái chanh thường được phục vụ kèm theo sung, chuối xanh ngâm giấm và nước tương để chấm”, Taste Atlas cho biết.

Theo người dân địa phương, sở dĩ dê núi Ninh Bình có vị ngon đặc trưng là do cách chăn nuôi.

Dê không bị nhốt trong chuồng trại mà được thả tự do trên núi, ăn các loại rau cỏ tự nhiên. Vì vậy, thịt dê ở đây nổi tiếng săn chắc, thơm ngon, khi ăn sẽ thấy ngay sự khác biệt so với dê nuôi trong chuồng.

Ngoài dê tái chanh, đặc sản dê núi Ninh Bình có thể nấu đến 20 món ăn khác nhau như nhúng mẻ, xúp, xào sả ớt, nướng mọi, tiết canh, áp chảo, hầm, hấp, lẩu,…

Được thành lập vào năm 2015, Taste Atlas (trụ sở chính tại Zagreb, Croatia) được biết đến như một tấm bản đồ tập hợp các món ăn truyền thống từ khắp thế giới.

Theo Matija Babić, nhà sáng lập Taste Atlas, các danh sách xếp hạng món ăn, đồ uống đều dựa trên ý kiến và đánh giá từ các chuyên gia, nhà phê bình ẩm thực để đảm bảo độ tin cậy của giải thưởng.

Đỗ An

 

Nguồn: Dulichvn

Hòa Bình: Đường làng sạch, làng nghề xanh

11 làng nghề truyền thống, hơn 400 hộ sản xuất nhỏ lẻ, nhưng tỷ lệ vi phạm gây ô nhiễm môi trường tại các làng nghề trên địa bàn tỉnh Hòa Bình hiện nay gần như bằng 0. Từ khi triển khai mô hình làng nghề xanh – sạch – đẹp, từng con ngõ, từng bãi tập kết rác, từng hầm xử lý nước thải đều được người dân tự quản chặt chẽ. Làng nghề không chỉ làm ra sản phẩm, góp phần phát triển kinh tế – xã hội, mà đang đặt ra cả những chuẩn mực mới cho mục tiêu phát triển bền vững.


Xã Chiềng Châu (Mai Châu) quan tâm xây dựng làng nghề xanh, hướng tới phát triển bền vững.

Tìm hiểu thực tế được biết, trước khi có khái niệm “làng nghề xanh”, nhiều vùng làng nghề ở Hòa Bình từng xảy ra ô nhiễm bởi khói bụi, mùi hóa chất và rác thải từ hoạt động sản xuất tại xưởng nghề. Ở làng nghề gỗ lũa, mùn cưa phủ kín đường làng; một số cơ sở dệt thổ cẩm từng thải nước nhuộm trực tiếp ra mương dẫn, khiến màu nước thay đổi theo… sắc vải. Không gian sinh hoạt của người dân và không gian sản xuất không tách bạch, khiến môi trường sống bị xáo trộn, ảnh hưởng nghiêm trọng. Mâu thuẫn giữa phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường không khí từng là bài toán khó tìm lời giải suốt nhiều năm tại các làng nghề truyền thống.

Những năm gần đây, ở khu vực nông thôn nói chung và các làng nghề trong tỉnh nói riêng bắt đầu thay đổi từ những việc nhỏ. Nhiều nơi người dân đã chấm dứt tình trạng đốt rác bừa bãi. Các xưởng chế tác đá đã phun ẩm vật liệu trước khi cắt để tránh tạo bụi, phế liệu được gom lại, thay vì đổ ra suối. Những lò nung gạch từng xả khói mù mịt ra môi trường, nay đã được nâng cấp, nhiều cơ sở chuyển hẳn sang sản xuất gạch không nung.

Thay đổi trong nhận thức chính là cốt lõi của công tác bảo vệ môi trường. Từ năm 2020 – 2022, tỉnh Hòa Bình đã tổ chức hơn 180 hội nghị, lớp tập huấn, tuyên truyền về bảo vệ môi trường; hơn 100 lớp vận động thu gom bao bì thuốc bảo vệ thực vật, thu hút hơn 4.000 người dân tham gia. Không chỉ vậy, công tác tuyên truyền bảo vệ môi trường đã đi vào đời sống tinh thần, văn hóa cộng đồng của người dân, thể hiện rất rõ qua 4 cuộc giao lưu sân khấu hóa, hơn 30 lễ phát động, hội thi vẽ tranh, tìm hiểu kiến thức…

Không tuyên truyền một chiều, nhân dân được “trao quyền” chủ động hành động, nỗ lực thay đổi thói quen sản xuất gây hại đến môi trường xung quanh, thông qua các phong trào như “Khu dân cư tự quản bảo vệ môi trường”, toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa gắn với tiêu chí xanh – sạch – đẹp… Những phong trào này đã giúp người dân dần thay đổi lối sống. Tổ tự quản môi trường được thành lập ở nhiều làng nghề. Mỗi xóm đều có lịch vệ sinh định kỳ. Những hộ sản xuất nhỏ bắt đầu đầu tư bể lắng nước thải, tường chắn bụi, thiết bị bảo hộ lao động. Chấm dứt tình trạng chất thải, khí thải sản xuất không qua xử lý xả thẳng ra môi trường.

Bà Vì Thị Oanh, Phó Giám đốc HTX Dệt thổ cẩm và dịch vụ du lịch Chiềng Châu (Mai Châu) cho biết: “Ở làng nghề thổ cẩm Chiềng Châu, người dân còn chủ động trồng thêm hoa ven đường, treo biển “tuyến đường xanh – sạch – đẹp” như lời nhắc nhở nhẹ nhàng mỗi ngày. Chúng tôi hiểu rằng, xưởng có sạch thì sản phẩm mới bán được; làng nghề có xanh thì du khách mới quay lại và những người trực tiếp làm nghề cũng là những người thở chung bầu không khí đó mỗi ngày”.

Không chỉ dừng lại ở những chuyển biến đơn lẻ, nhiều làng nghề ở Hòa Bình đã và đang trở thành mô hình mẫu trong việc phát triển sản xuất luôn song song với nhiệm vụ bảo vệ, gìn giữ môi trường.

Xã Tân Mỹ (Lạc Sơn) là nơi từng có một trong năm cơ sở bị liệt vào danh sách gây ô nhiễm nghiêm trọng. Nỗ lực xóa bỏ ô nhiễm, người dân nay đã chủ động chuyển đổi phương pháp chăn nuôi, áp dụng hầm biogas, phân tách chất thải rắn, trồng cây xanh quanh khu vực xưởng. Không khí trong bản làng không còn bị ảnh hưởng bởi mùi hôi nồng; những cánh đồng lúa mất mùa do nước thải cũng được “hồi sinh”. Mỗi hộ, mỗi hành động nhỏ, khi chung tay cùng hành động đã tạo nên những thay đổi lớn, chuyển biến rõ rệt, trả lại cho người dân bầu không khí trong lành.

Không khí là khái niệm tưởng như không nhìn thấy bằng mắt thường. Tuy nhiên, nó lại là thứ thiết yếu nhất cho sự sống còn của con người; hiện hữu trong từng nhịp thở, từng bữa ăn, giấc ngủ. Chính vì vậy, bảo vệ môi trường không khí cũng chính là đang bảo vệ sự sống cho người dân, cho từng thôn xóm, làng nghề. “Đường làng sạch, làng nghề xanh” – không phải là khẩu hiệu. Đó là một hành trình đổi thay âm thầm mà bền bỉ, đi từ những điều nhỏ nhất để tạo ra sự thay đổi khác biệt. Chính những người làm nghề mới có thể đem trả lại bầu không khí xanh, sạch cho cuộc sống của chính mình.

Thảo Uyên

Nguồn: Dulichvn

TIN MỚI NHẤT