Ông lão đánh cá và con nuôi là chàng rắn
Giữa làng Chiềng, xã Cẩm Quý, huyện Cẩm Thủy, tỉnh Thanh Hóa, có cặp “giếng tiên” được người dân xem như “báu vật” của làng, không ai dám xâm hại.
Theo người dân địa phương, họ không biết cặp “giếng tiên” này có từ bao giờ, chỉ biết khi lớn lên đã thấy và được nghe kể về truyền thuyết cặp giếng do rắn thần trả ơn, được ghi rõ trong sắc phong của dòng họ Cao Viết ở thôn Chiềng.
Nước giếng quanh năm trong xanh, ấm áp về mùa đông, mát mẻ về mùa hè (Ảnh: Thanh Tùng).
Theo chỉ dẫn của người dân, chúng tôi tìm về gia đình ông Cao Viết Cẩm (68 tuổi). Ông Cẩm là đời thứ 6 của dòng họ Cao Viết – người đang lưu giữ sắc phong của dòng họ.
Ông Cẩm cho biết, xưa kia, người dân làng Chiềng có gốc tích từ tỉnh Hòa Bình di cư sang, chủ yếu là đồng bào Mường sinh sống. Mảnh đất làng Chiềng khi ấy hoang vu, được bao quanh bởi những dãy núi cao sừng sững, người dân sinh sống chủ yếu nhờ săn bắt và làm nông.
Từ khi còn nhỏ, ông Cẩm cũng như người dân trong làng Chiềng đã được nghe kể về câu chuyện chàng rắn báo ơn cặp giếng. Mãi về sau, khi trở thành người trông coi, ông mới hiểu rõ hơn về lịch sử hình thành cặp giếng.
“Sau khi được người cháu trong dòng họ đưa ra Viện Sử học, Viện Hàn lâm Khoa học và Xã hội Việt Nam nhờ các giáo sư, tiến sĩ dịch thuật, tôi mới hiểu rõ hơn về lịch sử hình thành cặp giếng”, ông Cẩm nói và lật giở sắc phong, kể cho chúng tôi nghe về câu chuyện huyền bí của địa phương.
Ông Cao Viết Cẩm, làng Chiềng, xã Cẩm Quý, huyện Cẩm Thủy, tỉnh Thanh Hóa (Ảnh: Thanh Tùng).
Theo sắc phong ghi chép, vào khoảng niên hiệu Khánh Đức triều Lê, tại làng Chiềng có một ông lão tên Cao Thuật, quanh năm hành nghề đánh cá. Một ngày nọ, khi thả lưới ở chỗ đầm sâu, ông lão vớt được một quả trứng to. Dẫu nhiều lần ném trứng đi, nhưng mỗi lần kéo lưới, ông lão vẫn chỉ vớt được quả trứng ấy.
Cho rằng quả trứng kỳ lạ, ông lão bọc vào ống tay áo rồi đem về nhà, đặt vào ổ gà treo trên cao. Khoảng một tháng sau, quả trứng kỳ lạ đó nở ra một con rắn. Con rắn này có hình thù đặc biệt, màu trắng và có mào trên đầu.
Sau đó, con rắn được ông lão thuần dưỡng, chăm sóc như con nuôi. Chừng vài tháng sau, con rắn lớn nhanh, cân nặng và kích thước cứ thế to dần, còn phát ra ánh sáng rực rỡ. Mỗi khi ông lão đi hay nghỉ ngơi ở đâu, con rắn đều bò theo sau, không bao giờ rời xa. Người trong làng thấy vậy, ai cũng kinh sợ.
Trước cửa miếu là tấm bia đá ghi lại công ơn của chàng rắn (Ảnh: Thanh Tùng).
Đến một hôm, thấy con rắn ngày càng to lớn, để người dân không phải sợ khi nhìn thấy rắn, ông lão bèn nói rằng sẽ đưa rắn đến dải sông Hoành Giang ở huyện Thạch Thành (Thanh Hóa) sinh sống. Lạ thay, khi ông lão vừa ngỏ ý, con rắn cúi đầu xin theo, rồi cùng ông khởi hành.
Sau nửa ngày di chuyển, thấy dòng sông Hoành Giang trước mắt, con rắn lao mình xuống đầm nước, giương vây, cuộn khúc múa trên mặt nước như tỏ ý toại nguyện. Khi đó, ông lão nói: “Ta biết ngươi đã có được nơi chốn của mình, trong lòng ta cũng được an ủi phần nào. Chỉ nghĩ lại thời ta còn nghèo, không có đủ của cải để sinh sống, thật đáng thương cảm vậy”.
Ông lão nói xong thì mặt trời cũng lặn sau ngọn núi, rồi mưa gió nổi lên ầm ầm. Lúc bấy giờ, ông lão nấp dưới gốc cây to, rất lo lắng rồi thiếp đi. Khi tỉnh lại, ông lão thấy mình đang nằm bên ngọn núi của xã nhà, trước mặt là hai cái giếng lớn vừa được đào xong. Nước vừa trong vừa sâu, trong giếng có rất nhiều ba ba cư trú. Ông bèn kể lại sự việc với mọi người trong làng.
Người dân lập miếu thờ thần rắn cạnh “giếng tiên” (Ảnh: Thanh Tùng).
Người làng thấy vậy, cho rằng đó là do rắn thần trả ơn bà con trong làng, nên lập miếu ngay trên bờ hai cái giếng, đặt tôn hiệu là Thủy Phủ Long Vương Chi Thần để thờ phụng. Từ đó, mỗi khi gặp thời kỳ hạn hán, người dân lại đến miếu để cầu. Như hiểu được ý nguyện của người dân, trời đổ mưa, hoặc trong lòng giếng, nước vọt ra thành dòng suối ngọt để người dân dẫn nước đổ vào ruộng.
Xin nước ở “giếng tiên” cầu may trong đêm giao thừa
Theo ông Cẩm, trải qua nhiều thế hệ, đến nay “giếng tiên” được người dân bảo vệ và gìn giữ. Điều đặc biệt, giếng chưa bao giờ cạn, mặc dù có những năm hạn hán, thiên tai.
“Từ khi tôi còn bé đến lúc lớn lên, chưa bao giờ thấy cặp giếng cạn nước. Mặt khác, dòng nước trong giếng lúc nào cũng trong xanh, không có mùi, mát mẻ về mùa hè, ấm áp về mùa đông. Thậm chí, có những đợt mưa lũ, màu nước trong giếng vẫn trong xanh, không bị đục”, ông Cẩm nói.
Giếng Nữ có diện tích nhỏ hơn giếng Nam (Ảnh: Thanh Tùng).
Cũng theo ông Cẩm, cặp giếng tiên này hay còn có tên gọi khác là giếng Nam – Nữ. Giếng Nam có kích thước lớn hơn giếng Nữ, hai giếng cách nhau 4m, độ sâu giếng 1m. Xung quanh cặp giếng là những gốc sanh cổ thụ, mọc rễ dài, đâm sâu xuống lòng đất, tỏa bóng mát bao trùm cả một góc làng.
Hàng ngày, người dân làng Chiềng vẫn thường sử dụng nước giếng làm nước tưới tiêu, sinh hoạt. Để nguồn nước không bị ô nhiễm, mất vệ sinh, người dân trong làng Chiềng đóng góp rồi đổ bê tông trên bề mặt khuôn viên, đồng thời xây dựng bờ rào ngăn không cho trâu, bò lại gần hoặc rác thải rơi xuống giếng.
“Vào những ngày rằm, mùng 1, bà con thường ra ngôi miếu cạnh giếng để thắp hương, cầu may mắn. Vào đêm giao thừa hằng năm, người dân làng Chiềng thường tập trung tại khu vực cặp “giếng tiên” để trò chuyện, gửi lời chúc mừng nhau trong năm mới.
Điều đặc biệt, khi đến đây, người dân trong làng không quên xin một ít nước dưới “giếng tiên” về thờ cúng tổ tiên, với mong muốn cầu cho một năm mới may mắn, mưa thuận gió hòa, quốc thái dân an, mùa màng bội thu”, ông Cẩm nói.
Tại khuôn viên cặp “giếng tiên” có cây sanh cổ thụ, tỏa bóng mát (Ảnh: Thanh Tùng).
Trao đổi với phóng viên Dân trí, ông Bùi Văn Điệp, Cán bộ văn hóa xã Cẩm Quý, huyện Cẩm Thủy, cho biết câu chuyện về “giếng tiên” và rắn thần trả ơn được người dân lưu truyền qua nhiều thế hệ. Đây là nét tín ngưỡng của đồng bào Mường ở làng Chiềng suốt nhiều năm qua, không phải di tích được các ngành chức năng cấp quyết định.
Theo ông Điệp, mặc dù cặp “giếng tiên” mang đậm nét tâm linh của người Mường ở địa phương nhưng chưa bao giờ xảy ra biểu hiện mê tín dị đoan. Hàng năm, địa phương cũng thường xuyên tuyên truyền người dân không nên lạm dụng vào truyền thuyết về cặp giếng tiên để hoạt động mê tín dị đoan, không đúng thuần phong mỹ tục và những quy định của pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo.
Nguồn: Dantri