Du lịch trong nước

Du lịch trong nước, tin tức du lịch trong nước, các tour du lịch trong nước, các địa điểm du lịch trong nước hấp dẫn được chúng tôi tổng hợp và đưa tin hàng ngày đến cho khách du lịch trên khắp mọi miền đất nước có được thông tin du lịch trong nước để có những thông tin hữu ích nhất cho mình và gia đình khi quyết định chọn chuyến du lịch trong nước cho mình và người thân

Bảo tồn nghệ thuật khèn Mông nơi vùng cao Trạm Tấu

Khèn Mông là biểu tượng văn hóa độc đáo của đồng bào Mông ở vùng cao Tây Bắc. Tại huyện Trạm Tấu, những tiếng khèn vẫn vang lên trong những dịp Lễ quan trọng. Do đó, nỗ lực bảo vệ và phát huy những giá trị của đồng bào dân tộc Mông là một trong những nhiệm vụ quan trọng trong việc bảo tồn lịch sử văn hoá của tỉnh Yên Bái.


Theo người dân tộc Mông, họ gọi tiếng khèn là Krềnh. Khèn Mông là một loại nhạc cụ đa thanh, là thanh âm của núi rừng. Khèn Mông được sử dụng rất đa dạng theo từng hoàn cảnh khác nhau như trong những dịp lễ, tết, chúc mừng, ngoại giao đón khách, cưới xin… tiếng khèn vang vọng khắp đại ngàn rừng núi. Người Mông sử dụng khèn để đệm hát trong những ngày lễ truyền thống, cho người hát các bài dân ca, có khi bắt nhịp cho các vũ điệu mạnh mẽ, sử dụng trong những ngày vui.

Để làm được cây khèn như ý phải qua nhiều công đoạn cùng với sự tỉ mẩn và tài hoa của bàn tay người thợ. Cây khèn tốt khi thổi lên phải thấy được nỗi lòng của người thổi lẫn người làm ra nó. Theo người dân địa phương chia sẻ, khi làm khèn phải thật sự yêu thích nó mới có thể làm ra một cây khèn ưng ý. Khèn Mông chỉ có 6 ống ngang nhưng thổi được 7 nốt trên khuông nhạc. Ống lớn nhất và cũng là ngắn nhất có vai trò giữ nhịp. Các ống còn lại tùy theo kích thước to nhỏ mà có âm thanh khi trầm khi bổng, khi réo rắt lúc dồn dập, lúc xuống thấp, lúc cao vút như đang trên đỉnh núi.

Để làm được khèn Mông, phải trải qua nhiều công đoạn tỉ mỉ. (Ảnh: BDTPT).

Tại Yên Bái, huyện Trạm Tấu là một trong những địa bàn có đông đồng bào Mông sinh sống. Đây cũng là vùng đất mà điệu khèn ngân vang khắp nương rẫy, rộn ràng trong các lễ hội truyền thống như Gầu Tào, Tết Mông… Tuy nhiên, cuộc sống hiện đại, sự thay đổi trong nhận thức của giới trẻ cùng ảnh hưởng từ các loại hình giải trí mới đang khiến số người biết và sử dụng khèn ngày càng ít.

Trước nguy cơ đó, những người “già làng” cùng các cơ quan văn hóa đã có những bước đi tích cực nhằm bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa của khèn Mông. Một trong những giải pháp thiết thực là tổ chức các lớp truyền dạy khèn cho thanh thiếu niên người Mông ngay tại các bản làng. Dưới sự hướng dẫn của các nghệ nhân, lớp trẻ được học cách chế tác, thổi và biểu diễn khèn đúng chuẩn truyền thống.

Tiếng khèn Mông có mặt trong mọi sự kiện quan trọng của đồng bào dân tộc Mông. (Ảnh minh hoạ).

Cùng với việc hướng dẫn thổi khèn, các động tác múa khèn của người Mông nơi đây cũng được truyền lại một cách rất phong phú, đa dạng. Theo thống kê có khoảng 30 động tác, tổ hợp múa khèn như: nhảy đưa chân, nhảy lưới, quay đổi chỗ, quay tại chỗ, quay di động, vờn khèn, quay cầu, quay gót, chọi gà… Trong đó chủ đạo là quay hất gót tại chỗ và quay hất gót di động trên vòng quay lớn rồi thu hẹp dần theo hình xoáy ốc.

Tiếng khèn của người Mông không chỉ được sử dụng tại gia đình vào những ngày đặc biệt mà nó còn cất lên trong những dịp hội hè, trong những buổi giao lưu thắm tình bè bạn. Trong đời sống văn hoá, tâm linh, tiếng khèn, cây khèn đi theo suốt cuộc đời của mỗi người Mông, hiện diện trong lúc vui nhất, lúc buồn nhất của mỗi gia đình.

Với những ý nghĩa đó, tiếng khèn Mông không chỉ là biểu tượng âm nhạc, mà còn là sợi dây kết nối giữa con người và bản sắc, giữa truyền thống và hiện tại. Tại Trạm Tấu, việc bảo tồn khèn Mông chính là giữ lại âm thanh của cội nguồn, gìn giữ ngọn lửa văn hóa đang dần bùng lại giữa nhịp sống hiện đại. Những nỗ lực từ cộng đồng, nghệ nhân, chính quyền địa phương chính là động lực giúp tiếng khèn không bị lãng quên tiếp tục được ngân vang giữa đại ngàn Tây Bắc, trở thành một khúc ca bền bỉ của người Mông nơi rẻo cao.

Thuý Nga

 

Nguồn: Dulichvn

UNESCO và hành trình gìn giữ di sản Huế

Sự đồng hành của UNESCO và cộng đồng quốc tế không chỉ giúp di sản Huế vượt qua giai đoạn khó khăn, mà còn từng bước đưa công cuộc bảo tồn di sản Huế vươn tới chuẩn mực quốc tế.


Ông Lazare Eloundou Assomo nghe giới thiệu về quy trình, kỹ thuật phục hồi hệ thống tranh tường nguyên bản tại Cung An Định trong chuyến thăm di tích Huế ngày 22/5

Cung An Định và dấu ấn bảo tồn

Trong Quần thể di tích Cố đô Huế, Cung An Định là một trong những nơi ghi dấu rõ nét sự hỗ trợ hiệu quả từ quốc tế. Từ năm 2022 đến nay, Chính phủ Pháp thông qua Văn phòng UNESCO tại Hà Nội đã tài trợ liên tiếp các dự án quan trọng, tập trung khôi phục và bảo tồn những phần kiến trúc đặc sắc của cung điện có hơn 100 năm tuổi đời.

Giai đoạn 2002 – 2008, Dự án Bảo tồn phục hồi nội thất và đào tạo kỹ thuật tại Cung An Định là sự hợp tác giữa Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô (BTDTCĐ) Huế và Hiệp hội Trao đổi Văn hóa Leiniz – CHLB Đức với sự hỗ trợ của Bộ Ngoại giao Đức, nhằm phục hồi lại công trình nghệ thuật có giá trị, đồng thời đào tạo kỹ thuật cho các học viên của địa phương về bảo tồn, phục chế tranh tường. Nhóm học viên này sau khi được đào tạo đã tiếp tục tham gia hiệu quả cho công tác phục hồi tranh tường tại đây và một số công trình di tích Huế. Điển hình là Dự án tu bổ mái Khải Tường Lâu (2022 – 2023), do Bộ Văn hóa và Chính phủ Pháp tài trợ thông qua UNESCO, đã góp phần trả lại vẻ đẹp vốn có của tòa lâu đài và phát huy giá trị tổng thể di tích Cung An Định.

Tiếp nối thành công đó, từ tháng 3 đến tháng 12/2025, dự án “Khảo sát, phục hồi mẫu và phát triển tổng thể để bảo tồn, phục hồi hệ thống tranh tường nguyên bản tại Cung An Định” giai đoạn 2 đang được triển khai. Dự án có tổng kinh phí hơn 33.000 USD do Bộ Văn hóa và Chính phủ Pháp tài trợ thông qua UNESCO, tập trung vào phục hồi các lớp sơn, tranh trang trí và hoa văn nguyên bản mang giá trị mỹ thuật và lịch sử cao tại tầng 3 Khải Tường Lâu.

Theo bà Andrea Teufel, đại diện Hội Bảo tồn Di sản Văn hóa Đức, dự án giai đoạn 2 này là bước khởi đầu trong kế hoạch bảo tồn tổng thể di tích Cung An Định. Một số công việc được triển khai thực hiện, như: Khảo sát tầng 3, bao gồm nghiên cứu lớp sơn kiến trúc; thực hiện phục hồi mẫu các bức tranh tường trang trí và hoa văn nguyên bản tại các phòng; đánh giá hiện trạng kỹ thuật của tòa nhà…

Di sản được hồi sinh

Không phải ngẫu nhiên mà Huế được UNESCO ghi danh là Di sản Văn hóa Thế giới đầu tiên của Việt Nam vào năm 1993. Từ trước đó, tổ chức này đã đóng vai trò cố vấn trong việc lập quy hoạch bảo tồn tổng thể, hướng dẫn kỹ thuật trùng tu và đưa ra những tiêu chuẩn quốc tế đầu tiên cho di tích Huế.

Năm 1992, với dự án đầu tiên – trùng tu Ngọ Môn do Quỹ Ủy thác Nhật Bản tài trợ 100.000 USD, hành trình bảo tồn di sản Huế chính thức bước vào giai đoạn chuyên nghiệp hóa. Từ đó đến nay, với hơn 60 chương trình và dự án quốc tế, UNESCO cùng các tổ chức đối tác đã đưa đến Huế nguồn lực tài chính hơn 10,5 triệu USD, hàng trăm chuyên gia kỹ thuật và tư vấn đến từ hơn 15 chính phủ và 50 tổ chức phi chính phủ toàn cầu.

Các dự án tiêu biểu như phục hồi Cung Diên Thọ sau lũ lụt 1999, lập hồ sơ Nhã nhạc cung đình trở thành Di sản phi vật thể của nhân loại (2003), hay gần đây là các chương trình số hóa, đào tạo kỹ thuật viên bảo tồn, ứng dụng công nghệ GIS, truyền thông đa phương tiện vào quản lý di sản đã giúp công tác bảo tồn Huế bước sang trang mới, vừa chuyên nghiệp, vừa hội nhập.

“Không thể hình dung hành trình bảo tồn Huế sẽ đi đến đâu nếu không có bàn tay hỗ trợ của cộng đồng quốc tế, trong đó UNESCO là người bạn đồng hành lâu dài và thiết yếu nhất”, ông Hoàng Việt Trung, Giám đốc Trung tâm BTDTCĐ Huế khẳng định.

UNESCO còn đóng vai trò định hướng lâu dài cho sự phát triển của di sản Huế. Những năm gần đây, UNESCO đã cùng Trung tâm BTDTCĐ Huế triển khai nhiều chương trình đào tạo, chuyển giao công nghệ và tổ chức các hội thảo chuyên đề để cập nhật xu hướng bảo tồn hiện đại, đặc biệt là trong bối cảnh biến đổi khí hậu và đô thị hóa nhanh chóng.

Trong chuyến thăm di sản Huế của Giám đốc Trung tâm Di sản Thế giới thuộc UNESCO mới đây (22/5/2025), ông Lazare Eloundou Assomo đánh giá cao công tác bảo tồn, trùng tu, phục hồi di sản của Huế, đặc biệt các công trình như điện Kiến Trung, điện Thái Hòa… Tại đây, khi được Trung tâm BTDTCĐ Huế chia sẻ về việc đơn vị đang nghiên cứu lập hồ sơ đăng ký dự án “Phục hồi tổng thể Cung An Định” gửi đề nghị Bộ Văn hóa Pháp và UNESCO xem xét phê duyệt tài trợ, Giám đốc Trung tâm Di sản Thế giới thuộc UNESCO bày tỏ thích thú với dự án và đồng ý sẽ hỗ trợ nếu trong nhiệm kỳ ông đang phụ trách.

Hơn 40 năm đồng hành, hơn 60 dự án đã triển khai, những con số ấy không chỉ thể hiện cam kết bền bỉ của UNESCO và cộng đồng quốc tế đối với di sản Huế, mà còn khẳng định tầm vóc và giá trị toàn cầu của Quần thể di tích Cố đô. Và trong hành trình ấy, sự tiếp sức của UNESCO không đơn thuần là hỗ trợ tài chính hay kỹ thuật, mà là sự đồng hành của một người bạn hiểu Huế, tin Huế và cùng Huế nâng tầm giá trị di sản trên bản đồ thế giới.

Vi Quân

Nguồn: Dulichvn

Gìn giữ nghề dệt thổ cẩm Xê Đăng – Đắk Lắk

Hơn hai tháng qua, nhà cộng đồng buôn Kon Tay (xã Ea Yiêng, huyện Krông Pắc, tỉnh Đắk Lắk) rộn ràng tiếng nói cười của chị em phụ nữ tham gia lớp sơ cấp nghề dệt thổ cẩm. Trải qua những bỡ ngỡ ban đầu, qua bàn tay khéo léo của các bà, các chị, những tấm thổ cẩm với hoa văn căn bản đã thành hình trên khung dệt…


Chị Nguyễn Thị Thu, Phó Chủ tịch UBND xã Ea Yiêng cho hay, nằm trong dòng chảy chung của văn hóa truyền thống đồng bào các dân tộc Tây Nguyên nhưng thổ cẩm Xê Đăng có những đặc điểm và nét đẹp riêng về màu sắc và hoa văn.

Chính vì thế, những năm gần đây, thổ cẩm Xê Đăng do các nghệ nhân xã Ea Yiêng làm ra không chỉ phục vụ bà con trong vùng mà còn được kết nối, giới thiệu đến khách du lịch, trở thành những sản phẩm thủ công độc đáo, những món quà đặc biệt dành cho những người yêu văn hóa Tây Nguyên.

Hội viên phụ nữ xã Ea Yiêng tham gia lớp sơ cấp nghề dệt thổ cẩm.

Đầu năm 2025, UBND xã đã phối hợp với Trung tâm Giáo dục nghề nghiệp – Giáo dục thường xuyên huyện Krông Pắc thành lập Tổ hợp tác nghề dệt thổ cẩm của người Xê Đăng và khai giảng lớp sơ cấp nghề dệt thổ cẩm. Qua vận động, tuyên truyền của UBND xã và Hội Liên hiệp Phụ nữ đã có 30 hội viên tham gia lớp sơ cấp nghề với mong muốn lưu giữ và phát triển nghề dệt thổ cẩm truyền thống của cha ông, cũng như có thêm việc làm, thu nhập những lúc nông nhàn.

Là học viên lớn tuổi nhất của lớp sơ cấp nghề, bà Thía (buôn Kon Tay) chăm chú canh từng sợi chỉ để tạo nên hoa văn theo hướng dẫn của giáo viên. Bà Thía bộc bạch, thế hệ của bà khi còn nhỏ đã rất quen thuộc với hình ảnh các bà, các mẹ miệt mài bên khung dệt. Tấm thổ cẩm không chỉ thể hiện sự khéo léo của người phụ nữ mà còn gửi gắm tình cảm của các bà, các mẹ dành cho chồng, con, người thân trong gia đình. Tuy nhiên, từng có giai đoạn những bộ trang phục thổ cẩm truyền thống của người Xê Đăng ít được bà con sử dụng, nghề dệt thổ cẩm vì thế cũng mai một khá nhiều.

Bản thân bà Thía, trước đây vì bận rộn mưu sinh nên không học được kỹ thuật dệt thổ cẩm. Chính vì thế, khi được Chi hội Phụ nữ buôn Kon Tay động viên tham gia lớp học nghề dệt thổ cẩm, bà rất mừng. Những buổi đầu làm quen với khung dệt, bà khá lúng túng, bỡ ngỡ. Lắm lúc thao tác sai, bà phải gỡ sợi ra làm lại. Dần dần, bà cũng quen với các dụng cụ, thao tác cũng nhanh hơn. Đến nay, bà đã dệt gần xong 2 tấm thổ cẩm theo chương trình của khóa học. Những tấm thổ cẩm này sẽ được bà may thành áo, váy truyền thống cho chính mình để mặc trong những dịp lễ hội của buôn hay đi lễ ở nhà thờ. Bà cũng sẽ cố gắng học thêm kỹ thuật, dệt thật nhiều tấm thổ cẩm đẹp cho người thân và truyền dạy lại cho con gái, cháu gái trong gia đình.

Chị H’Yum Byă, giáo viên của lớp sơ cấp nghề (ngồi bên trái) hướng dẫn một học viên cách tạo hoa văn trên khung dệt.

Chị H’Yum Byă, giáo viên của lớp sơ cấp nghề dệt thổ cẩm tại xã Ea Yiêng chia sẻ, nội dung học đa số là cầm tay chỉ việc với mục tiêu giúp học viên nắm được kỹ thuật giăng sợi, dệt vải nền cho đến các hoa văn căn bản như hạt mướp, quả trám, chữ X, ngôi sao… Sau khi kết thúc khóa học, các chị em sẽ có thể tham gia Tổ hợp tác nghề dệt thổ cẩm và học hỏi thêm kỹ thuật dệt hoa văn truyền thống của dân tộc mình hoặc sáng tạo, phát triển thêm hoa văn từ những kỹ thuật căn bản. Đây cũng chính là những nhân tố lưu giữ, truyền dạy nghề dệt thổ cẩm cho mỗi buôn làng, giữ gìn nét đẹp truyền thống của cộng đồng các dân tộc Tây Nguyên.

Đinh Nga

Nguồn: Dulichvn

Quả ở miền Bắc giống phượng vĩ, mỗi năm chỉ có 1 lần, làm nộm rất ngon

Sau khi đem nướng và cạo bỏ lớp vỏ bên ngoài, loại quả này được bà con địa phương chế biến thành món nộm tươi ngon, xem như đặc sản riêng có của mùa hè miền Bắc.


Núc nác (hay còn gọi là quao) là một loại cây rừng, phân bổ chủ yếu ở khu vực miền núi phía Bắc. Một số tỉnh miền núi Trung Bộ và Tây Nguyên cũng có cây này nhưng không phổ biến bằng.

Đối với người dân miền Bắc, cây núc nác không chỉ gắn bó với đời sống thường ngày mà còn đem lại giá trị kinh tế. Vỏ và lá núc nác được sử dụng làm dược liệu, còn hoa và quả là nguyên liệu chế biến món ăn.

So với hoa, quả núc nác được ưa chuộng hơn, có thể biến tấu thành một số món ngon hấp dẫn như luộc, xào, nướng… Trong đó, nộm núc nác là món được yêu thích nhất, hương vị thanh mát lạ miệng, thích hợp ăn giải ngán ngày hè.

Quả núc nác dẹt và hơi cong, to cỡ 3-4 đầu ngón tay chụm lại, dài 40-80cm. Quả thường mọc thành chùm ở đầu cành. Ảnh: Lê Triều Dương

Chị Thu Huyền (chủ 1 nhà hàng ở TP Tuyên Quang) cho biết, thoạt nhìn quả núc nác khá giống quả phượng vĩ nhưng màu đậm hơn và có thể uốn cong, không cứng.

Loại quả này to, dài, màu xanh đậm hoặc tím, ngả nâu, vị đắng.

Mùa hè, khoảng từ tháng 6-9 là thời điểm cây núc nác đậu quả. Khi ấy, bà con địa phương vào rừng thu hái quả về bán hoặc chế biến món ăn.

“Trước đây, núc nác là loại quả rừng được người dân trong vùng hái về làm thức ăn.

Dần dần, loại quả này được thực khách miền xuôi biết đến nhiều hơn, xem như đặc sản mang hương vị núi rừng và mỗi khi vào mùa lại tìm mua, đem về thưởng thức”, chị Huyền nói.

Món nộm núc nác được xem như đặc sản lạ miệng ngày hè ở miền Bắc. Ảnh: Lê Triều Dương

Theo nữ chủ quán, quả núc nác có giá thành khá cao, từ 20.000-40.000 đồng/quả (tùy theo kích cỡ và từng nơi, thời điểm).

“Quả núc nác là sản vật không dễ tìm và khó hái. Thân cây rất cao, quả lại mọc ở đầu cành nên bà con thu hoạch khá vất vả. Chưa kể loại quả này mỗi năm chỉ có 1 lần, số lượng không quá nhiều nên giá khá cao”, chị cho hay.

Tuy có vị đắng và khó thu hái nhưng quả núc nác được bà con vùng núi phía Bắc ưa chuộng, đem chế biến thành một số món ngon. Trung bình chỉ cần 1-2 quả núc nác cũng đủ để chế biến thành món cho 2-3 người thưởng thức.

Ngoài ra, loại quả này có vị đắng lạ miệng, ăn mềm, giòn nên được cả thực khách miền xuôi ưa chuộng, tìm mua.

Quả núc nác đem nướng rồi cạo vỏ trước khi chế biến. Ảnh: Trang Ruby

Quả núc nác có thể chế biến thành nhiều món. Đơn giản nhất là nướng chín hoặc luộc, chấm với chẩm chéo hay mắm ớt, muối tiêu chanh.

Cầu kỳ hơn, người ta nấu thành canh hoặc đem xào với thịt bò, ăn cùng cơm nóng.

“Quả núc nác nướng chín rồi cạo bỏ lớp vỏ cháy xém bên ngoài là có thể ăn được luôn, nếu ai cẩn thận hơn thì luộc sơ thêm lần nữa.

Quả được thái lát mỏng thành các miếng vừa ăn, ghém thêm miếng thịt ba chỉ luộc, rau thơm…  rồi gói lại, chấm mắm tôm, ăn rất cuốn. Loại quả này có vị đắng, kết hợp với vị cay và nồng càng hấp dẫn hơn”, chị Huyền nói thêm.

Món nộm núc nác chế biến đơn giản nhưng hương vị hấp dẫn. Ảnh: Phạm Văn Phong

Nộm núc nác là món ăn phổ biến và được ưa chuộng nhất, vừa dễ làm, vừa thích hợp để giải nhiệt, giải ngán trong ngày hè.

Để làm nộm ngon, bà con địa phương thường chọn quả bánh tẻ, còn tươi và có thể uốn cong như chữ C khi cầm thẳng đứng. Nếu cong quá tức là quả non, ăn không giòn, còn không cong là quả già, khi chế biến sẽ bị dai, cứng.

Trước khi chế biến, quả núc nác được nướng đều hai mặt cho cháy sém lớp vỏ ngoài và thịt mềm. Tùy từng nhà, người ta có thể luộc nhưng đem nướng giúp quả hết mủ nhựa, giảm vị chát đắng, dậy mùi thơm và dễ dàng bóc lớp vỏ cứng để lấy cùi.

Quả nướng xong đem cạo bỏ vỏ, rửa sạch rồi thái ngang thành các lát mỏng là có thể đem trộn.

Nộm núc nác có thể ăn kèm với mắm tôm, mắm ruộng, cá nướng giã măng ớt hạt dổi. Vị đăng đắng, giòn giòn của quả núc nác cộng thêm các gia vị khác tạo thành món đặc sản mang đậm phong vị mùa hè vùng cao. Ảnh: Trang Ruby

Cách trộn nộm núc nác cũng tương tự các món nộm quen thuộc khác. Có thể trộn khô với muối, đường, nước cốt chanh hoặc trộn ướt với nước mắm chua ngọt.

Tùy văn hóa từng nơi và sở thích từng nhà, người ta có thể trộn núc nác với rau thơm, lạc rang hoặc cho thêm thịt ba chỉ luộc, tai heo luộc thái mỏng, cá nướng giã măng ớt, hạt dổi.

Người lần đầu ăn có thể e dè trước vị đắng đặc trưng của quả núc nác nhưng quen rồi lại thích, cảm nhận được độ giòn giòn, man mát, khó quên.

Thảo Trinh

 

Nguồn: Dulichvn

Thăm ”bảo tàng mỹ thuật truyền thống” của người Hoa tại Trà Vinh

Phước Minh cung, còn gọi là chùa Quan Thánh Đế hoặc chùa Ông, là một cơ sở tín ngưỡng tiêu biểu của cộng đồng người Hoa tại tỉnh Trà Vinh.

Như tên gọi, vị thần chính được thờ tại đây là Quan Công (Quan Vũ, Quan Vân Trường) – một danh tướng nổi tiếng thời Tam quốc trong lịch sử Trung Hoa, biểu tượng của lòng trung hiếu và tiết nghĩa, theo TTXTDL tỉnh Trà Vinh.

Chùa tọa lạc tại số 44 đường Điện Biên Phủ, thành phố Trà Vinh. Ảnh: Thiên Phương

Chùa tọa lạc tại số 44 đường Điện Biên Phủ, thành phố Trà Vinh – khu vực thương mại sầm uất với đông đảo người Hoa sinh sống, thuận tiện cho các hoạt động văn hóa tâm linh của cộng đồng tại địa phương. Ngôi chùa này có niên đại vài thế kỷ và được trùng tu vào đầu thế kỷ 20.

Ngôi chùa này có niên đại vài thế kỷ và được trùng tu vào đầu thế kỷ 20. Ảnh: Thiên Phương

Kiến trúc chùa mang phong cách “nội công ngoại quốc”, gồm ba tòa nhà chính là tiền điện, trung điện và chính điện. Hai bên là dãy tả điện và hữu điện, tạo hình chữ “Khẩu”.

Các tòa nhà được kết nối bằng sân thiên tĩnh và hành lang, mái lợp ngói lưu ly, trang trí bằng họa tiết truyền thống như lưỡng long tranh châu, bát tiên, hoa lá…

Kiến trúc chùa mang phong cách “nội công ngoại quốc”, gồm ba tòa nhà chính là Tiền điện, Trung điện và Chính điện. Ảnh: Thiên Phương

Tiền điện gồm 16 cột gỗ lim, sơn son, biểu tượng âm dương hòa hợp. Mặt tiền được trang trí công phu với phù điêu, bích họa và bao lam chạm khắc tỉ mỉ.

Ảnh: Thiên Phương

Trung điện nhỏ, hình vuông, là nơi chuẩn bị lễ vật. Chính điện gồm ba gian thờ, với các án gỗ quý, linh vật và cổ vật có niên đại trên 100 năm.

Mái chùa lợp ngói lưu ly, trang trí bằng họa tiết truyền thống như lưỡng long tranh châu. Ảnh: Thiên Phương

Toàn bộ không gian chùa phủ màu son, trang trí bằng tranh tường, chạm trổ gỗ thể hiện tinh thần văn hóa truyền thống Hoa tộc.

Tiền điện gồm 16 cột gỗ lim, sơn son, biểu tượng âm dương hòa hợp. Ảnh: Thiên Phương

Phước Minh cung được xem là một “bảo tàng mỹ thuật truyền thống” của người Hoa tại Trà Vinh. Với các giá trị kiến trúc, hội họa, điêu khắc và vai trò trong đời sống văn hóa tâm linh, nơi đây đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng di tích lịch sử – văn hóa cấp quốc gia từ năm 2005.

Phước Minh cung được xem là một “bảo tàng mỹ thuật truyền thống” của người Hoa tại Trà Vinh. Ảnh: Thiên Phương

Hiện nay, Phước Minh cung là điểm đến du lịch văn hóa tâm linh tiêu biểu, góp phần làm phong phú bản đồ du lịch thành phố Trà Vinh.

Chùa được công nhận là di tích lịch sử – văn hóa cấp quốc gia từ năm 2005. Ảnh: Thiên Phương

Thiên Phương

Nguồn: Dulichvn

Món bún đặc sản ở Sóc Trăng tên gọi gây tò mò, du khách tưởng sai chính tả

Không chỉ có hình thức bắt mắt, hương vị độc đáo, món bún đặc sản Sóc Trăng còn có tên gọi gây tò mò, khiến nhiều du khách phương xa tưởng sai chính tả.


Tỉnh miền Tây sông nước Sóc Trăng không chỉ nổi tiếng với vẻ đẹp thiên nhiên trù phú mà còn hấp dẫn du khách nhờ nền ẩm thực độc đáo, đa dạng như hủ tiếu cà ri Vĩnh Châu, bún nước lèo, cháo cá lóc rau đắng, bánh pía, mì sụa…

Trong đó, không thể không kể tới bún gỏi dà – món ăn có tên gọi lạ tai, khiến nhiều người từ xa tới cảm thấy tò mò.

“Trong hành trình tour miền Tây, khi tới Sóc Trăng, tôi thường đưa du khách tới trải nghiệm món bún gỏi dà, để biết tại sao có câu thơ nổi tiếng: ‘Mỹ Xuyên có bún gỏi dà, dùng qua sẽ thấy đậm đà quê hương’.

Rất nhiều vị khách, nhất là khách từ miền Bắc, khi nghe tôi nhắc tới món ăn này thì tưởng tôi nói nhầm hay nói ngọng, họ nghĩ đây là bún gỏi gà.

Phải tới khi tôi giải thích, họ mới hiểu được tên gọi thú vị này và sau khi thưởng thức, ai cũng tấm tắc khen”, anh Trần Hùng – một hướng dẫn viên lâu năm tại TPHCM, chuyên dẫn khách khám phá miền Tây cho biết.

Bún gỏi dà là đặc sản Sóc Trăng hấp dẫn du khách. Ảnh: Nguyễn Đỗ Tường Vy

Theo người dân địa phương, bún gỏi dà là món biến tấu từ gỏi cuốn. Với gỏi cuốn, các nguyên liệu bún, tôm, thịt ba chỉ, rau sống, rau thơm… được cuốn trong bánh tráng, rồi chấm với nước tương sền sệt.

Tuy nhiên, sang phiên bản bún gỏi dà, người ta sẽ cho các nguyên liệu vào bát, chan nước dùng, thêm ít tương xay cho dậy mùi. Từ “gỏi” trong món đặc sản bún gỏi dà được cho là mượn trong từ “gỏi cuốn”.

“Người miền Tây thưởng thức món ăn bằng cách và/lùa như cơm nên gọi là bún gỏi và. Do cách phát âm nên lâu dần thành ‘dà’ hay ‘già’. Quán bún gỏi dà nổi tiếng nhất là quán Ngọc Nữ ở Mỹ Xuyên và quán cô Hằng ở TP Sóc Trăng”, anh Hùng nói.

Là món “biến tấu” từ gỏi cuốn nên nguyên liệu chính của bún gỏi dà cũng gồm bún, tôm, thịt, rau xà lách, rau thơm, giá đỗ, đậu phộng (lạc) rang giã dập, tương xay. Tuy nhiên hương vị của bát bún gỏi dà phụ thuộc vào nước dùng.

Mỗi đầu bếp sẽ có công thức và bí quyết khác nhau để tạo nên món ăn ngon, hấp dẫn riêng.

 Hương vị của món ăn phụ thuộc vào nước dùng. Ảnh: Bún gỏi dà Hai anh em

Nước dùng được ninh từ xương, có quán cho thêm tôm đất, kết hợp với nước me để cân bằng hương vị béo ngậy, chua dịu, ngọt thanh. Ngoài kỹ thuật nấu nước dùng, đầu bếp còn hơn nhau cách chế biến nước chấm tương hột.

Họ phải gia giảm sao cho tương không còn quá nặng mùi, hài hòa món ăn. Thông thường, mỗi bát bún sẽ được phục vụ kèm theo một đĩa nước tương sền sệt để thực khách chấm các nguyên liệu cho đậm đà.

Thịt lợn luộc xong phải giữ độ ngọt, không bị khô, thái chỉ đều nhau. Tôm rươi rói, bóc vỏ, màu đỏ đẹp mắt.

Ngoài thịt, tôm, bát bún còn được thêm rau xà lách, giá đỗ, rau răm, bắp chuối, rau quế rồi chan nước dùng lên, bỏ thêm tương hột xay nhuyễn với đậu phộng rang cùng tỏi phi.

Bát bún nhìn hấp dẫn với màu trắng của thịt, bún, màu đỏ của tôm, ớt, màu xanh của rau, màu nâu của tương, thoang thoảng mùi thơm của mắm hòa quyện với mùi me. Thực khách phải ăn theo kiểu và (lùa) như người Nam Bộ mới đúng điệu.

Không chỉ ở Sóc Trăng, món ăn này cũng xuất hiện ở nhiều nơi khác, mỗi nơi được biến tấu một chút cho phù hợp. Chẳng hạn như TPHCM, có quán thay tương xay thành mắm ruốc, thay thịt luộc xắt lát thành sườn, thêm tai heo và sốt nếp.

Món bún gỏi dà ở Mỹ Tho, Tiền Giang lại có thêm tai lợn giòn sần sật. Ảnh: Đi cùng Phúc

Cũng có người nhầm lẫn bún gỏi dà với bún nước lèo – một đặc sản khác của Sóc Trăng. Hai món ăn đều có bún, tôm, rau sống và nước dùng.

Tuy nhiên, nước dùng của bún nước lèo thường được nấu bằng nước của trái dừa tươi, mắm sống (thường là mắm cá linh, cá sặc hay cá lóc nhỏ). Sau khi nấu sôi, rã xác mắm thì dùng rây lược bỏ xương. Món này ăn kèm với cá lóc lọc thịt.

Linh Trang

Nguồn: Dulichvn

Độc đáo Lễ cúng rừng của người Pa Dí và Nghề đan lát của người Tày ở Lào Cai

Cúng rừng là nét văn hóa tín ngưỡng độc đáo của cộng đồng các dân tộc thiểu số tại huyện Mường Khương nói chung, Đồng bào người Pa Dí ở thôn Sa Pa, thị trấn Mường Khương nói riêng. Với tính độc đáo và giàu bản sắc riêng, “Tập quán xã hội và tín ngưỡng Nghi lễ cúng rừng của người Pa Dí, huyện Mường Khương” và “Nghề đan lát của người Tày xã Nghĩa Đô, huyện Bảo Yên, Lào Cai” vừa được công nhận là di sản văn hóa phi vật thể quốc gia.


Lễ cúng rừng của người Pa Dí

Theo tìm hiểu, người Pa Dí ở Mường Khương thường tổ chức nghi lễ cúng rừng vào cuối tháng Một âm lịch hàng năm, tại khu rừng cấm của thôn bản với lễ vật là những sản vật do dân làng tự cung tự cấp. Giống như bà con các dân tộc thiểu số vùng cao, đồng bào Pa Dí (một nhóm nhỏ của dân tộc Tày) tại huyện Mường Khương, tỉnh Lào Cai cũng giữ riêng cho mình một khu rừng cấm và gọi đó là rừng thiêng.

Các trò chơi dân gian được tổ chức trong lễ cúng rừng.

Trong lễ cúng, người Pa Dí thắp hương để mời thần rừng về chứng kiến cho tấm lòng thành của dân bản, cầu mong thần rừng phù hộ cho một năm mới mưa thuận gió hoà, để mọi người có sức khoẻ dồi dào, cửa nhà êm ấm, làm ăn phát đạt. Bên cạnh đó, người dân cũng tuyên truyền, bảo ban nhau bảo vệ và phát triển rừng ngày càng tươi tốt. Đây cũng là một nghi lễ có tính giáo dục cộng đồng cao, đang tiếp tục được bảo tồn, duy trì và bổ sung thêm những nội dung mới, hướng tới nhiệm vụ bảo vệ rừng.

Sau phần lễ là phần hội, mọi người cùng liên hoan, vui chơi các trò chơi dân gian ngay trong rừng cấm. Buổi lễ là dịp để tuyên truyền, giáo dục ý thức cho các thế hệ về tình yêu thiên nhiên, ý thức bảo vệ rừng, bảo vệ môi trường sống tự nhiên, giữ màu xanh cho những cánh rừng đại ngàn, nguồn sống của đồng bào vùng cao. Vì thế, nghi lễ cúng rừng của người Pa Dí đã trở thành tập quán xã hội và tín ngưỡng độc đáo, thể hiện mối quan hệ hài hòa giữa con người với thiên nhiên. Nghi lễ không chỉ mang yếu tố tâm linh mà còn là dịp gắn kết cộng đồng, giáo dục thế hệ trẻ về ý thức bảo vệ môi trường và giữ gìn bản sắc văn hóa.

Đan lát là nghề truyền thống của người Tày xã Nghĩa Đô.

Nghề đan lát của người Tày

Đan lát là một nghề thủ công truyền thống có từ lâu đời của đồng bào Tày ở xã Nghĩa Đô, huyện Bảo Yên. Từ những nguyên liệu sẵn có từ tự nhiên như: giang, nứa, cọ, mây, vầu,.. với đôi bàn tay khéo léo, trí tưởng tượng phong phú và tài hoa những con người nơi đây đã tạo ra các sản phẩm như: gùi, nia, rổ, giỏ, mẹt, khóp đựng xôi, dụng cụ đánh bắt cá và một số đồ dùng không thể thiếu trong nghi lễ ăn hỏi, lễ cưới, lễ thôi nôi để phục vụ trong đời sống hằng ngày…

Tuy đan lát không phải là nghề đem lại thu nhập cao nhưng cũng góp phần không nhỏ nâng cao đời sống người dân. Đan lát lại là một nghề có giá trị văn hóa, giúp lưu giữ nét đẹp truyền thống nên cần được quan tâm đầu tư, bảo tồn, tránh nguy cơ bị mai một thất truyền. Theo thống kê, toàn tỉnh Lào Cai hiện có 10 làng nghề, 20 làng nghề truyền thống và 17 nghề truyền thống đã được công nhận.

Bùi Hoàng

 

Nguồn: Dulichvn

Bát Tràng – Tinh hoa gốm Việt vươn tầm thế giới

Với bề dày lịch sử hàng trăm năm, làng gốm Bát Tràng (Gia Lâm, Hà Nội) không chỉ là cái nôi của nghề gốm sứ truyền thống, mà còn là biểu tượng của sự sáng tạo không ngừng – nơi tinh hoa gốm Việt kết tinh và lan tỏa ra thế giới.


Tinh hoa nghề gốm Việt

Làng gốm Bát Tràng được hình thành từ thế kỷ XIV-XV, khi các dòng họ làm gốm từ Ninh Bình di cư đến vùng Bạch Thổ phường – nay là xã Bát Tràng. Nhờ nguồn đất sét trắng dồi dào và kỹ thuật truyền thống tinh xảo, Bát Tràng nhanh chóng phát triển thành trung tâm sản xuất gốm sứ lớn, nổi tiếng không chỉ trong nước mà còn vươn ra thị trường quốc tế như Nhật Bản, Trung Quốc và nhiều quốc gia Đông Nam Á.

Thời kỳ phát triển đỉnh cao của gốm Bát Tràng là vào thế kỷ XV-XVII. Sau giai đoạn suy thoái do các biến động lịch sử thế kỷ XVIII-XIX, làng nghề dần hồi sinh từ những năm 1960 nhờ mô hình hợp tác xã và đặc biệt bứt phá khi bước vào nền kinh tế thị trường.

Ngày nay, gốm sứ Bát Tràng là sự kết hợp giữa truyền thống và hiện đại. Kỹ thuật tạo hình bằng tay, sử dụng bàn xoay, be trạch, kỹ thuật in khuôn gỗ, đổ khuôn thạch cao, cùng công nghệ nung ở nhiệt độ cao đã làm nên những sản phẩm bền, tinh xảo, đa dạng về mẫu mã, đáp ứng thị hiếu ngày càng phong phú của thị trường trong và ngoài nước.

 Trung tâm tinh hoa nghề Việt tại Bát Tràng. Ảnh: qdnd.vn

Thợ gốm tỉ mỉ thao tác từng chi tiết lên sản phẩm. Ảnh: qdnd.vn

Kinh nghiệm lưu truyền qua nhiều thế hệ những người làm gốm Bát Tràng: “Nhất xương, nhì da, thứ ba dạt lò” phản ánh triết lý sản xuất gốm nơi đây: Từ chọn đất làm xương gốm, tạo men (men ngọc, men rạn, men lam), đến kỹ thuật nung lò – tất cả đều đòi hỏi sự kỳ công, tinh tế và kinh nghiệm qua nhiều thế hệ.

Bát Tràng còn là nơi sản sinh nhiều nghệ nhân nổi tiếng, góp phần khôi phục và phát triển các dòng gốm cổ truyền từ thời Lý, Trần, Lê, Mạc… Tiêu biểu có nghệ nhân Trần Độ – “Vua men gốm”, người sáng tạo ra nhiều dòng men quý hiếm; nghệ nhân Tô Thanh Sơn với triết lý “thu cả vũ trụ vào chén nhỏ”; nghệ nhân Trần Hợp nổi tiếng với hai loại men đặc sắc là men huyết dụ và men kết tinh; nghệ nhân Nguyễn Khang – người đưa tranh gốm và tranh sứ lên tầm nghệ thuật.

Điểm đến du lịch văn hóa thương mại hấp dẫn

Không chỉ sáng tạo, các nghệ nhân Bát Tràng còn là người truyền lửa đam mê cho thế hệ trẻ, gìn giữ hồn cốt của một làng nghề đã trở thành di sản. Năm 2019, nghề gốm Bát Tràng được công nhận là Di sản Văn hóa phi vật thể quốc gia – một minh chứng cho giá trị lịch sử và văn hóa to lớn của làng nghề.

Việc Bát Tràng chính thức trở thành thành viên của Mạng lưới các Thành phố thủ công sáng tạo toàn cầu (thuộc UNESCO) là một dấu mốc quan trọng. Danh hiệu này không chỉ ghi nhận những đóng góp văn hóa – nghệ thuật mà còn mở ra cơ hội giao lưu, hợp tác quốc tế, thu hút đầu tư và thúc đẩy du lịch làng nghề.

Không chỉ nổi danh với sản phẩm gốm, Bát Tràng còn là điểm đến du lịch văn hóa hấp dẫn của Hà Nội. Tại đây, du khách không chỉ được tham quan mà còn được trải nghiệm làm gốm tại các xưởng thủ công – từ nặn đất, tạo hình, vẽ hoa văn, cho đến tráng men và nung gốm.

Chợ gốm Bát Tràng – với hàng trăm gian hàng bày bán đủ các dòng sản phẩm từ đồ gia dụng, đồ thờ cúng đến gốm mỹ nghệ – là điểm dừng chân lý tưởng cho những người yêu thích gốm sứ. Bên cạnh đó, nhà cổ Vạn Vân lưu giữ những bộ sưu tập gốm quý giá qua các thời kỳ, giúp du khách hiểu sâu hơn về sự phát triển của nghề gốm Việt Nam.

Hoạt động trải nghiệm làm gốm tại Bát Tràng. Ảnh: qdnd.vn

Lễ hội làng Bát Tràng tổ chức vào tháng 2 âm lịch hằng năm, là dịp người dân tưởng nhớ tổ nghề, trình diễn nghệ thuật gốm truyền thống và tổ chức các hoạt động cộng đồng đặc sắc. Vào dịp cuối năm, hội chợ gốm sứ thường niên cũng trở thành sự kiện thu hút đông đảo du khách, nhà sưu tầm, doanh nghiệp trong và ngoài nước.

Những năm gần đây, Hà Nội đã có nhiều chính sách hỗ trợ phát triển du lịch làng nghề như nâng cấp hạ tầng giao thông, mở các tuyến xe buýt kết nối Bát Tràng với nội đô, đầu tư dịch vụ lưu trú, ẩm thực mang đậm phong cách làng quê. Nhờ đó, Bát Tràng ngày càng thu hút du khách với điểm đến văn hóa – du lịch – thương mại hấp dẫn của Thủ đô.

Với sự đồng hành của chính quyền và tâm huyết của các nghệ nhân, Bát Tràng đang bước vào thời kỳ phát triển mới – nơi truyền thống và hiện đại hòa quyện, nơi gốm Việt không chỉ gìn giữ hồn cốt dân tộc mà còn vươn xa trên bản đồ gốm sứ thế giới.

Thanh Sơn

 

Nguồn: Dulichvn

”Ngày hội gia đình” tại Làng Văn hóa – Du lịch các dân tộc Việt Nam

Cục Văn hóa các dân tộc Việt Nam cho biết, từ ngày 1 đến 30-6, tại Làng Văn hóa – Du lịch các dân tộc Việt Nam (Đồng Mô, Sơn Tây, Hà Nội) sẽ diễn ra nhiều hoạt động với chủ đề “Ngày hội gia đình”, nhằm tôn vinh giá trị văn hóa truyền thống nhân văn sâu sắc của gia đình Việt Nam, hướng tới xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc.


Các hoạt động tháng 6 có sự tham gia của hơn 100 đồng bào đến từ 16 dân tộc (Nùng, Tày, Mông, Dao, Mường, Lào, Thái, Khơ Mú, Tà Ôi, Ba Na, Xơ Đăng, Gia Rai, Cơ Tu, Raglai, Ê Đê, Khmer), với sự tham gia của 11 địa phương có đồng bào hoạt động hằng ngày: Thái Nguyên, Hòa Bình, Hà Nội, Hà Giang, Sơn La, Huế, Kon Tum, Gia Lai, Ninh Thuận, Đắk Lắk, Sóc Trăng.

Điểm nhấn trong “Ngày hội gia đình” là chương trình giới thiệu sắc màu văn hóa tỉnh Bình Phước. Trong đó có hoạt động tái hiện Lễ hội sum họp cộng đồng (Tâm r’nglắp bon) của dân tộc M’nông, một trong những lễ hội độc đáo, thường được tổ chức khi cộng đồng dân tộc M’nông muốn thắt chặt mối tương giao với cộng đồng các dân tộc khác thông qua già làng, những người uy tín trong cộng đồng.

“Ngày hội gia đình” tại Làng Văn hóa – Du lịch các dân tộc Việt Nam. Ảnh minh họa / langvanhoavietnam.vn

Chương trình dân ca dân vũ “Âm vang M’nông – Sức sống đại ngàn” giới thiệu nét văn hóa đặc sắc của dân tộc M’nông tỉnh Bình Phước, với các tiết mục trình diễn nhạc cụ truyền thống độc đáo như đàn đá, cồng chiêng; biểu diễn các loại hình nghệ thuật dân gian như ca múa, nhạc, ca ngợi vẻ đẹp đồng bào M’nông; trình diễn trang phục thổ cẩm “Sắc thắm bazan” giới thiệu các trang phục được thiết kế, dệt may từ thổ cẩm truyền thống cách tân, phù hợp với xu thế hiện nay và đi kèm với các trang sức, dụng cụ truyền thống.

Trong khuôn khổ các hoạt động tháng 6, sẽ diễn ra nhiều hoạt động văn hóa, nghệ thuật của đồng bào đang hoạt động hằng ngày tại Làng như: Chương trình giao lưu “Em yêu buôn làng Tây Nguyên” với các hoạt động văn hóa, văn nghệ, diễn xướng dân gian của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên; chương trình giao lưu “Mừng vui ngày hội gia đình”; giới thiệu những nét đẹp trong sinh hoạt văn hóa gia đình, trải nghiệm các trò chơi dân gian, nghề thủ công truyền thống, tìm hiểu văn hóa dân tộc, giới thiệu các điệu dân ca, dân vũ, nhạc cụ dân tộc…

Tạ Tuấn

 

Nguồn: Dulichvn

Nghề làm phỗng đất xứ Kinh Bắc

Làng Đông Khê, xã Song Hồ, Thị xã Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh là ngôi làng cổ gắn liền với nghề làm phỗng đất cổ truyền có tiếng của xứ Kinh Bắc xưa. Giờ đây, sau nhiều thay đổi của cuộc sống, hiệu quả kinh tế từ làm phỗng đất không cao… hiện cả làng chỉ còn một người duy nhất còn lưu giữ được nghề, đó là nghệ nhân Phùng Đình Giáp – nghệ nhân làm Phỗng đất cuối cùng tại Việt Nam.


Nghệ nhân tô màu cho sản phẩm phỗng đất.

Lên 8 tuổi, ông Giáp đã được cha dạy cho cách nặn từng mẫu phỗng đất; đến nay ông Giáp đã có hơn 60 năm trong nghề làm phỗng đất. Với đôi bàn tay chai sạn, ông đã thổi hồn vào từng tác phẩm, tạo nên những kiệt tác độc đáo, góp phần gìn giữ bản sắc văn hóa vùng quê Kinh Bắc. Theo nghệ nhân, quy trình làm phỗng đất rất công phu, tỉ mỉ và nguyên liệu là những sản phẩm có sẵn trong tự nhiên. Đất dùng để làm phỗng phải là đất thó (đất sét) từ đồng ruộng, hoặc ao, hồ sen vào mùa cạn nước. Ðất đào ở độ sâu từ 2,5 đến 3 m, và chỉ lấy khoảng 20 đến 30 cm để có độ mịn, sạch; sau đó đem phơi khô, cho vào cối đập, giã thành bột mịn rồi sàng đến khi có độ mịn mát tay, có mầu xám nhạt là được. Một nguyên liệu khác được sử dụng là giấy gió, giấy được ngâm trong nước 30 ngày đến khi mủn hoàn toàn, tạo thành một chất sền sệt đặc quánh như bột hồ, sau cho trộn với bột đất thó. Vừa trộn tay, vừa dùng chày đập như trộn bánh dầy cho đến khi hỗn hợp này quyện lại tới độ dẻo, mịn, dùng tay vê thử mà không dính là đạt yêu cầu. Sau khi có nguyên liệu là đến giai đoạn nặn phỗng. Phỗng đất phải giữ được nét dân dã mới đúng là phỗng đất, còn nếu cầu kỳ quá, tỉa tót hoa văn để sản phẩm tinh xảo thì lại mất ý nghĩa của phỗng đất. Phỗng đất nặn xong thường được phơi khô, rồi dùng phẩm màu vẽ hoàn thiện, đối với phỗng mộc thì không vẽ màu nhưng phải phơi nắng 10 ngày, sau lấy cật tre vừa phơi nắng, vừa đánh bóng từng nhân vật.

Năm hình tượng trong bộ phỗng đất trung thu.

Sản phẩm phỗng đất chủ đạo là của gia đình ông là bộ phỗng đất Trung thu, bao gồm có 5 loại là: phỗng ông Phật, phỗng ông già, phỗng em bé ôm hoa, phỗng con chim và phỗng con rùa. Hiện nay, để đáp ứng nhu cầu của thị trường, gia đình ông Giáp đã sáng tạo ra nhiều mẫu mã khác nhau, theo đơn đặt hàng của du khách, với các sản phẩm đa dạng như: mẫu 12 con giáp, mẫu sản phẩm mô phỏng từ tranh Đông Hồ với chủ đề vinh hoa phú quý, như: vinh hoa (em bé ôm gà), phú quý (em bé ôm vịt) và các mẫu khác như quần thể chuột đựng nghiên bút, gạt tàn chuột, tê giác, voi… Trong nhiều thời điểm, sân nhà ông đầy ắp tiếng cười của các đoàn khách trong và ngoài nước ghé thăm, làm phim, và nhờ ông chia sẻ kinh nghiệm,… để từ đó lan tỏa giá trị tốt đẹp này đi khắp mọi miền đất nước và đến với bạn bè quốc tế. Ông Giáp chia sẻ: Nặn phỗng đất là nghề gia truyền của gia đình, tôi là đời thứ ba. Không ai biết rõ Phỗng đất ra đời từ bao giờ, nhưng tôi và gia đình sẽ không thể để Phỗng đất biến mất. Ngày nay, nhiều người ngày càng ít mặn mà với đồ chơi dân gian, tôi lại càng phải giữ gìn hơn….

Phỗng đất được giới thiệu và bày bán trong hội trợ truyền thống.

Để bảo tồn và phát huy nghề này, ông Giáp đã truyền lửa, truyền đam mê cho các con, cháu của mình. Anh Phùng Đình Đông, con trai ông Giáp cho biết: Mặc dù còn nhiều khó khăn trong nghề, nhưng gia đình quyết tâm bảo tồn và phát huy nghề cho con cháu mai sau, và mong muốn các cấp chính quyền, nhân dân quan tâm đến nghề phỗng đất để bảo tồn và lan tỏa giá trị truyền thống này. Điều hạnh phúc nhất với gia đình ông đó là những năm gần đây, các gia đình trong thôn xóm mỗi khi Trung thu đều tìm đến nhà ông để đặt một bộ phỗng cho con mình, và bước đầu sản phẩm đã có sự lan tỏa tới nhiều nơi trong cả nước.

Phỗng đất không chỉ là đồ chơi của con trẻ ngày xưa mà còn mang giá trị văn hóa truyền thống, thể hiện hồn cốt quê hương. Tuy phỗng đất ngày nay chưa có nhiều người biết đến, nhưng giá trị của nó sẽ còn vang mãi với thời gian, như một dấu tích về nét đẹp văn hóa của người Bắc Ninh – Kinh Bắc nói riêng và Việt Nam nói chung.

Văn Hải – Duy Thành

Nguồn: Dulichvn

TIN MỚI NHẤT