Du lịch trong nước

Du lịch trong nước, tin tức du lịch trong nước, các tour du lịch trong nước, các địa điểm du lịch trong nước hấp dẫn được chúng tôi tổng hợp và đưa tin hàng ngày đến cho khách du lịch trên khắp mọi miền đất nước có được thông tin du lịch trong nước để có những thông tin hữu ích nhất cho mình và gia đình khi quyết định chọn chuyến du lịch trong nước cho mình và người thân

Đưa mỳ Quảng lên bàn tiệc thế giới

Lần đầu tiên tại cuộc thi “Tinh hoa mỳ Quảng”, người dân và du khách được chứng kiến các đầu bếp chuyên nghiệp chế biến mỳ Quảng từ những nguyên liệu cao cấp như cá chình, tôm càng xanh, tôm hùm…, một biến tấu đầy thú vị cho món ăn dân dã này.


Đầu bếp chuyên nghiệp chế biến món mỳ Quảng tại cuộc thi. Ảnh: Khánh Linh

Dựa trên nguồn nguyên liệu truyền thống tôm, thịt, trứng… nhưng đầu bếp Võ Tấn Tình (Nhà hàng Tôm Càng Xanh, TP.Đà Nẵng) đã nâng tầm món mỳ Quảng lên một đẳng cấp sang trọng và khác biệt, với tôm càng xanh nguyên con bóc vỏ đặt trên những cọng mỳ được bố trí trong chiếc đĩa xinh xắn.

“Tôi muốn chế biến món mỳ Quảng theo kiểu hiện đại nhưng vẫn giữ được hương vị truyền thống nhằm hướng tới đối tượng khách du lịch, đặc biệt là khách quốc tế” – đầu bếp Tình giải thích và cho biết đĩa mỳ này nếu bán giá khoảng 150 nghìn đồng.

Món mỳ Quảng tôm càng xanh. Ảnh: Khánh Linh

Với mục tiêu đưa mỳ Quảng lên bàn tiệc thế giới, cuộc thi “Tinh hoa mỳ xứ Quảng” – Masterchef Quang Noodles 2025 (kết thúc chiều tối 8/6) tại làng Đông Khương, phường Điện Phương, thị xã Điện Bàn thu hút 10 cơ sở kinh doanh mỳ Quảng truyền thống của 10 khối phố trên địa bàn phường Điện Phương cùng 10 đầu bếp chuyên nghiệp trong và ngoài tỉnh tham dự.

Bên cạnh những tô mỳ truyền thống được chế biến và bày biện bắt mắt, gây chú ý nhất tại cuộc thi chính là món mỳ Quảng được các đầu bếp chuyên nghiệp biến tấu với những nguyên liệu cao cấp, khác lạ như cá chuồn, tôm càng xanh, tôm hùm…

Anh Huỳnh Đặng Ngọc Công – đầu bếp Nhà hàng Cua Đỏ (TP.Đà Nẵng) nhìn nhận, đây là một sân chơi thú vị để những đầu bếp như anh tung tẩy, biến tấu món mỳ Quảng bằng những cách thức và nguyên liệu khác biệt nhưng vẫn giữ được hương vị đặc trưng của món mỳ Quảng truyền thống.

Tham gia cuộc thi, đầu bếp Huỳnh Đặng Ngọc Công chọn nguyên liệu chính là cá chình được chế biến tỉ mẩn, cầu kỳ nhằm mang đến một cái nhìn mới, sang trọng hơn trên bàn ăn của thực khách.

Mỳ Quảng truyền thống tham gia cuộc thi. Ảnh: Khánh Linh

Theo ông Phạm Tuấn Hải – Vua đầu bếp, thành viên ban giám khảo, việc kết hợp nguyên liệu và cách chế biến giữa hiện đại và truyền thống rất đặc biệt khiến món mỳ Quảng rất giống món Tây (cũng có nguyên liệu chính, tinh bột, rau, sốt và một món giòn ăn kèm).

“Tôi thật sự bất ngờ khi chứng kiến các đầu bếp kết hợp tôm hùm, tôm càng xanh… làm nguyên liệu chính cho món mỳ Quảng, hay cách bày biện món ăn theo kiểu nho nhỏ… Tôi nghĩ đó là điều đột phá.

Nếu một ngày nào đó các bạn phục vụ khách Tây hãy mang món mỳ Quảng đặt trên bàn, chắc chắn họ sẽ rất kinh ngạc. Hãy tận dụng kiến thức cuộc thi hôm nay để khi khách Tây đến Quảng Nam, Đà Nẵng nhìn món mỳ Quảng khác biệt sẽ phải trầm trồ thích thú. Đó cũng là cách để món mỳ Quảng cất cánh bay xa ra thế giới” – Vua đầu bếp Phạm Tuấn Hải nói.

Khánh Linh

 

Nguồn: Dulichvn

Mãn nhãn với 40 món ăn độc đáo chế biến từ yến sào Khánh Hòa

Lễ hội Ẩm thực Yến sào Khánh Hòa 2025 quy tụ 20 đội thi đến từ khắp mọi miền đất nước, cùng tranh tài chế biến và trình diễn nghệ thuật ẩm thực đặc sắc. Mỗi đội sử dụng nguyên liệu chính là 20 gram yến sào tinh chế từ đảo yến thiên nhiên Khánh Hòa, tạo nên 40 món ăn độc đáo, hấp dẫn, thể hiện sự sáng tạo và đẳng cấp trong nghệ thuật chế biến yến sào.


Chiều 5/6, tại TP Nha Trang, Công ty Yến sào Khánh Hòa đã tổ chức Lễ hội Ẩm thực Yến sào Khánh Hòa năm 2025. Chương trình nằm trong chuỗi sự kiện Liên hoan Văn hóa – Du lịch biển 2025.

Tham gia lễ hội có 20 đội thi đến từ mọi miền đất nước. Ban tổ chức cung cấp cho mỗi đội kinh phí gồm 1,5 triệu đồng và 20 gram yến sào tinh chế đảo yến thiên nhiên Khánh Hòa. Trong 90 phút, mỗi đội thi gồm 3 thành viên sẽ chế biến 2 món ăn, gồm 1 món mặn và 1 món ngọt, dành cho 4 người.

Đây là hoạt động thường niên nhằm mang đến cho người dân và du khách những màn trình diễn nghệ thuật ẩm thực đầy sáng tạo và đặc sắc, tôn vinh được những nét tinh hoa của ẩm thực yến sào.

Với những nguyên liệu trên, các đội thi chế biến, trình diễn nghệ thuật ẩm thực trong 90 phút.

Cuộc thi giúp khán giả cảm nhận được giá trị bổ dưỡng của yến sào đảo yến thiên nhiên Khánh Hòa, góp phần quảng bá những nét đặc sắc của ẩm thực xứ sở “rừng trầm biển yến” đến với du khách.

Tại sự kiện, người dân và du khách được tận thấy những màn trình diễn nghệ thuật đặc sắc, tôn vinh được những nét tinh hoa của ẩm thực yến sào.

Về cơ cấu giải thưởng, cuộc thi gồm một giải Đặc biệt 30 triệu đồng; 2 giải Nhất, 20 triệu đồng/giải; 3 giải Nhì, 15 triệu đồng/giải; 4 giải Ba, 10 triệu đồng/giải; 6 giải Khuyến khích, 5 triệu đồng/giải và 6 giải Nỗ lực 3 triệu đồng/giải.

Thời gian qua, Công ty Yến sào Khánh Hòa luôn là đơn vị đầu ngành trên cả nước thực hiện sứ mệnh phổ biến giá trị cao quý của yến sào thiên nhiên Khánh Hòa, góp phần chăm sóc sức khỏe cộng đồng, phát huy truyền thống ngành nghề yến sào, tôn vinh nét đẹp văn hóa doanh nghiệp, xem đó là nền tảng để phát triển bền vững, nâng tầm thương hiệu, tạo dấu ấn đậm nét cho thương hiệu Yến sào Khánh Hòa Sanest Sanvinest trên thị trường quốc tế.

Trung Nhân

Nguồn: Dulichvn

Ký tự cổ trên vách đá giữa đại ngàn Trường Sơn

Nằm giữa đại ngàn Trường Sơn, nơi thượng nguồn dòng A Vương, huyện Tây Giang, tỉnh Quảng Nam có một vách đá bí ẩn khắc những dòng văn tự cổ tồn tại ngàn năm đang dần hé lộ quá khứ rực rỡ.


Cũng từ đây, câu chuyện khảo cổ, văn hóa và ký ức cộng đồng Cơ Tu đang mở ra hành trình khám phá đầy hấp dẫn của một di sản tường chừng bị lãng quên. Để vào xã Lăng, một xã biên giới của huyện Tây Giang, phải mất chừng một tiếng đồng hồ vượt suối bằng rừng và đi qua những dòng nước xiết, sau đó mới tới được bản Achia – một cụm dân tộc Cơtu nơi thượng nguồn sông A Vương giáp nước bạn Lào, nơi có vách đá bí ẩn bên dòng suối A Vương.

Các nhà nghiên cứu tìm cách dịch nghĩa chữ trên tảng đá. Ảnh: PơLong

Ở nơi có vách đá là một vùng đất khá bằng phẳng, nhưng lại có vách đá cao chừng 7m, chưa tính chỗ nước ngập chừng 3m. Người ta chỉ nhìn thấy một vài dòng chữ còn nổi lên phía trên với những dòng văn tự cổ tồn tại từ lâu đời.

Già làng Bhriu Clói kể lại: “Tháng Giêng năm 1937, khi đó người Pháp đã đến đây lập đồn Sa Mơ. Quá trình phát dọn lập đồn, họ phát hiện những tảng đá khắc chữ lạ nên đã cho bảo vệ dùng vôi tô lại để làm rõ những nét chữ cổ này để chụp ảnh tư liệu. Chính lúc đó, dân làng chúng tôi mới biết trên đá có chữ. Ông nội tôi bảo đó là chữ của thần linh”.

Kể từ đó, người Cơ Tu coi khu vực bia đá là vùng đất thiêng. Qua bao thế hệ, chưa một ai dám xâm phạm, khắc thêm hay di dời dù chỉ một hòn đá. “Chúng tôi giữ như giữ hồn làng, chữ của thần linh” – ông Bhriu Clói nói đầy tự hào.

Mới đây, một đoàn các nhà nghiên cứu văn hóa và ký tự học đã trực tiếp đến khảo sát cụm bia đá này. Dựa trên các mẫu chụp và phân tích văn bản, nhóm xác định được các văn tự khắc tại đây thuộc ba loại ngôn ngữ: Sanskrit (Phạn ngữ), Chăm cổ và một dạng chữ thuộc ngữ hệ Môn-Khmer – được cho là chữ Katu cổ, gắn liền với dân tộc bản địa.

Theo ông Bhriu Hùng – Trưởng phòng Văn hóa – Thông tin huyện Tây Giang, trong rừng sâu, 3 tảng đá lớn án ngữ bên bờ thác được các nhà nghiên cứu đặt tên là A, B và C như cách ghi chép sơ khởi cho một hành trình giải mã đầy hồi hộp. Mỗi văn khắc là một mảnh ghép quý giá, mở dần cánh cửa về một xã hội cổ đại từng hiện diện nơi thượng nguồn Trường Sơn.

3 văn khắc, 3 nội dung khác nhau nhưng hòa quyện thành một bức tranh khái quát về đời sống của một cộng đồng cổ từng sống nơi đây. Trao đổi với báo chí, TS Jaya Thiên – thành viên đoàn nghiên cứu cho biết: “Dựa vào hình thái ký tự, cách sắp đặt văn bản và nội dung, chúng tôi tạm thời xác định niên đại các văn khắc này vào khoảng thế kỷ thứ 5 đến thế kỷ thứ 7 sau Công nguyên. Đây là một trong những bộ văn khắc bằng đá sớm nhất của Champa từng được phát hiện trong điều kiện nguyên sơ như vậy”.

Trong khi đó, ông Arất Blúi – Phó Chủ tịch UBND huyện Tây Giang cho rằng: “Nếu được công nhận, cụm ký tự cổ này sẽ là một điểm nhấn trong hành trình khám phá Tây Giang, từ rừng nguyên sinh, văn hóa Cơ Tu đến di sản khảo cổ có tầm vóc quốc tế. Địa phương cũng đang phối hợp với các viện nghiên cứu để xây dựng đề án quy hoạch khu bảo tồn khảo cổ tại Achia, đi kèm các hoạt động tuyên truyền nâng cao nhận thức người dân và du khách về giá trị của cụm văn khắc”.

Thanh Huyền – Chi Mai

 

Nguồn: Dulichvn

Trải nghiệm du lịch cộng đồng tại làng Mơ H’ra – Đáp ở Gia Lai

Làng Mơ H’ra – Đáp (xã Kông Lơng Khơng, huyện K’Bang, tỉnh Gia Lai) là một trong những làng cổ của đồng bào Ba Na, hiện vẫn lưu giữ được nhiều nét sinh hoạt truyền thống hàng trăm năm qua. Địa phương đang triển khai phục hồi các giá trị di sản văn hóa nhằm phát triển du lịch cộng đồng, tận dụng lợi thế từ cảnh quan thiên nhiên hoang sơ, hùng vĩ và truyền thống văn hóa đặc sắc của người Ba Na.


Cồng chiêng “dẫn lối” du lịch cộng đồng

Với người Ba Na, âm nhạc dân gian – đặc biệt là cồng chiêng – đã ăn sâu vào đời sống tinh thần, trở thành một phần không thể thiếu trong các sinh hoạt cộng đồng. Khi tiếng chiêng trỗi dậy, từ người già đến thanh niên đều có thể hòa nhịp một cách tự nhiên bằng tay, bằng chân – như một phản xạ đã được bồi đắp qua nhiều thế hệ.

Tên gọi Mơ H’ra – Đáp có nghĩa là “làng mới”, trước đây được biết đến là Mơr Cơ Tu – tức là làng do ông Mơr lập nên.

Tên gọi Mơ H’ra – Đáp có nghĩa là “làng mới”, trước đây được biết đến là Mơr Cơ Tu – tức là làng do ông Mơr lập nên. Đây là một trong những làng cổ của người Ba Na, vẫn lưu giữ được nhiều giá trị văn hóa truyền thống. Hiện làng có 209 hộ với 832 nhân khẩu, trong đó người Ba Na chiếm khoảng 96%. Trước kia, cuộc sống người dân còn nhiều khó khăn, chủ yếu dựa vào sản xuất nông nghiệp trên nương rẫy, chỉ vừa đủ sinh nhai.

Già làng Đinh Hmưnh cho biết, người Ba Na xưa nay quen với việc trồng ngô, trỉa lúa, chặt củi đốt lửa, chưa từng nghĩ đến phát triển du lịch. Tuy nhiên, sau khi được chính quyền địa phương vận động, cộng đồng dân cư dần nhận ra tiềm năng văn hóa có thể trở thành lợi thế để phát triển sinh kế.

Hiện nay, làng vẫn bảo tồn nhiều yếu tố văn hóa truyền thống: các bộ cồng chiêng cổ được lưu giữ trong nhiều gia đình; nhiều người biết biểu diễn chiêng, hát dân ca Hơ Amon, Hơ Achoi; nghề dệt thổ cẩm và đan lát được duy trì; các sản vật địa phương như lá mì, rau đắng, cà gai, rượu cần… cũng có thể phát triển thành sản phẩm du lịch đặc trưng.

Với người Ba Na, âm nhạc dân gian – đặc biệt là cồng chiêng – đã ăn sâu vào đời sống tinh thần.

Ngoài ra, các loại nhạc cụ truyền thống như đàn Goong, đàn T’rưng cũng dần được khôi phục trong đời sống hằng ngày. Dù vậy, việc chuyển hóa các giá trị văn hóa thành nguồn sinh kế bền vững vẫn còn là một bài toán khó.

Năm 2018, làng Mơ H’ra – Đáp được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch chọn là một trong ba địa phương trên cả nước thực hiện Dự án “Di sản kết nối”. Đây là bước ngoặt quan trọng, mở ra cơ hội gắn kết giữa bảo tồn di sản và phát triển du lịch cộng đồng.

Đến tháng 3-2019, UBND tỉnh Gia Lai chính thức phê duyệt việc tiếp nhận dự án phát triển du lịch cộng đồng tại huyện K’bang. Làng Mơ H’ra được chọn làm điểm triển khai, với mục tiêu vừa tạo sinh kế cho người dân, vừa bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống.

Ban quản lý du lịch cộng đồng được thành lập, cùng với năm nhóm nghề được lựa chọn để truyền dạy và phát triển như dệt thổ cẩm, đan lát, biểu diễn cồng chiêng, nấu ăn truyền thống và hướng dẫn du lịch.

Ban đầu, chỉ một số người tham gia, nhưng sau đó số lượng ngày càng tăng. Phụ nữ trong làng tiếp tục gìn giữ nghề dệt thổ cẩm, tạo ra các sản phẩm như túi xách, khăn đội đầu, trang phục truyền thống để phục vụ khách du lịch. Người lớn tuổi đóng góp các sản phẩm mây tre đan để trưng bày và bán. Một số hộ gia đình cũng tham gia chế biến món ăn đặc trưng từ nguyên liệu địa phương như heo, gà, cá suối, rau rừng…

Hoạt động du lịch cộng đồng tại Mơ H’ra – Đáp thu hút sự tham gia tích cực của người dân, góp phần mang lại thu nhập ổn định và nâng cao chất lượng cuộc sống. Du khách đến đây không chỉ được tham quan, thưởng thức ẩm thực, mà còn có cơ hội trải nghiệm văn hóa bản địa qua giao lưu, biểu diễn và các sản phẩm truyền thống.

Việc kết hợp giữa bảo tồn văn hóa và phát triển du lịch cộng đồng tại Mơ H’ra – Đáp là hướng đi bền vững, thể hiện sự chủ động của người dân trong việc giữ gìn bản sắc dân tộc, đồng thời mở ra cơ hội phát triển kinh tế ngay tại quê hương.

Hoạt động du lịch cộng đồng tại Mơ H’ra – Đáp thu hút sự tham gia tích cực của người dân.

Vang tiếng chiêng làng cổ

Cồng chiêng hiện diện trong hầu hết các nghi lễ quan trọng của người dân nơi đây, từ lúc chào đời, ăn mừng lúa mới cho đến lễ cưới khi người con gái về nhà chồng. Hiện tại, làng đang lưu giữ 8 bộ cồng chiêng tập thể và 26 bộ thuộc sở hữu của các hộ gia đình.

Nhằm gìn giữ và phát huy di sản quý báu này, làng đã thành lập 5 đội cồng chiêng với khoảng 200 thành viên, độ tuổi từ 9 đến 75. Đặc biệt, đội cồng chiêng nữ đã duy trì hoạt động đều đặn trong nhiều năm. Âm thanh ngân vang từ đôi tay người phụ nữ vừa mạnh mẽ vừa thiết tha, thể hiện sâu sắc tình yêu và tinh thần trách nhiệm trong việc gìn giữ văn hóa dân tộc.

Sự góp mặt tích cực của phụ nữ trong các đội cồng chiêng là minh chứng sinh động cho nỗ lực bảo tồn và phát huy di sản văn hóa của cộng đồng Ba Na.

Làng hiện có hai nghệ nhân ưu tú trong lĩnh vực di sản văn hóa phi vật thể và ba già làng có khả năng truyền dạy kỹ thuật diễn tấu cồng chiêng. Những làn điệu dân ca Hơ Amon, Hơ Achoi cùng các truyền thuyết xưa đang được phục hồi trong không gian sinh hoạt truyền thống, khi ngày càng có nhiều người biết hát, chơi đàn gong và chế tác nhạc cụ dân tộc.

Cồng chiêng hiện diện trong hầu hết các nghi lễ quan trọng của người dân nơi đây.

Âm thanh trong trẻo từ những ống nứa, dây buộc của dàn đàn T’rưng vẫn vang vọng bên dòng suối, gợi nhắc về một bản sắc không phai mờ. Người dân tích cực tham gia bảo tồn và quảng bá các giá trị văn hóa truyền thống.

Nhờ những nỗ lực đó, xã Kông Lơng Khơng hiện dẫn đầu huyện K’bang về công tác bảo tồn và phát huy văn hóa dân tộc. Đây là nền tảng quan trọng để địa phương khai thác hiệu quả tiềm năng du lịch cộng đồng. Việc duy trì các điệu chiêng cổ, tổ chức lễ hội phục dựng đã góp phần đưa không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên – di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại – đến gần hơn với công chúng trong và ngoài nước.

Trong làng, các nhạc cụ truyền thống như cồng chiêng, đàn T’rưng cùng trang phục, vật dụng thổ cẩm đều do chính tay người dân chế tác, dệt và nhuộm. Du khách đến đây có thể trải nghiệm nấu cơm lam, gà nướng, cà đắng; thưởng thức các tiết mục biểu diễn cồng chiêng, múa xoang, đan lát, dệt vải và nghe kể sử thi.

Từ khi phát triển du lịch, người dân vừa tiếp tục làm nông vừa mở rộng trồng rau, chăn nuôi, luyện tập biểu diễn để phục vụ du khách. Lượng khách ghé thăm ngày càng tăng, tạo thêm sinh kế và cải thiện thu nhập.

Với nguồn lực văn hóa đặc sắc, làng Mơ H’ra – Đáp thường được chọn để phục dựng các lễ hội truyền thống như lễ mừng nhà rông mới, lễ mừng lúa mới… Người dân không chỉ có khả năng trình diễn mà còn am hiểu sâu sắc phong tục, tập quán của dân tộc, tạo nên nét riêng hiếm có. Nhiều hộ tiếp tục gìn giữ nghề truyền thống như dệt thổ cẩm, đan lát, làm nhà sàn, chế tác nhạc cụ, ủ rượu ghè và chế biến các món ăn đặc trưng.

Hằng năm, làng tổ chức các nghi lễ dân gian như lễ mừng lúa mới, lễ đóng cửa kho để truyền dạy giá trị văn hóa cho thế hệ trẻ. Với sự hỗ trợ của chính quyền và các đơn vị liên quan, mỗi năm làng phục dựng từ một đến hai lễ hội quy mô cộng đồng, vừa phục vụ bảo tồn, vừa phát triển du lịch.

Không chỉ là điểm đến du lịch văn hóa tiêu biểu, làng Mơ H’ra–Đáp còn là đầu mối kết nối các tuyến du lịch liên vùng như Mơ H’ra–Đáp – làng Vi Rơ Ngheo (xã Đăk Tăng, huyện Kon Plông, Kon Tum) – làng Ốp (phường Hoa Lư, thành phố Pleiku); hoặc từ thành phố Pleiku – thác K50 – làng Mơ H’ra–Đáp – làng kháng chiến Stơ – huyện Ia Grai – thành phố Kon Tum…

Việc phát triển du lịch cộng đồng đang được xem là con đường bền vững để bảo tồn văn hóa Mơ H’ra–Đáp.

Việc phát triển du lịch cộng đồng đang được xem là con đường bền vững để bảo tồn văn hóa, đồng thời giúp người dân nâng cao đời sống ngay trên chính mảnh đất quê hương. Huyện K’bang hiện định hướng khai thác hiệu quả các di sản văn hóa, di tích lịch sử và cảnh quan thiên nhiên sẵn có để xây dựng mô hình du lịch cộng đồng.

Ông Trần Văn Nhơn, Chủ tịch UBND xã Kông Lơng Khơng, khẳng định đây không chỉ là điểm nhấn du lịch cộng đồng của huyện mà còn là mô hình mẫu về phát triển kinh tế gắn với bảo tồn văn hóa dân tộc Ba Na một cách bền vững và thân thiện với môi trường.

Tiêu Dao – Bảo Anh

 

Nguồn: Dulichvn

Đặc sản trông kỳ dị ở vùng biển Việt, khách khen ngon, giòn sần sật như sườn non

Dù có vẻ ngoài xấu lạ, khiến thực khách nhìn khá sợ nhưng loại cá này vài năm gần đây được xem như đặc sản ngon có tiếng ở vùng biển Việt Nam với phần thịt mềm dai, phần sụn giòn sần sật.


Cá mút đá là thực phẩm được ưa chuộng ở một số quốc gia thuộc khu vực châu Âu và châu Á, nhất là Hàn Quốc.

Tại Việt Nam, loại cá này thường được tìm thấy ở các rạn san hô, vùng đá ngầm dưới độ sâu từ 500 đến 1.000m tại khu vực miền Trung và miền Nam, phổ biến nhất là ở vùng biển Khánh Hòa, Bình Định.

Cá mút đá có vẻ ngoài xấu lạ, da trơn, phần đầu giống chạch, lươn, có ria ngắn và đuôi bè ra. Đặc biệt, loại cá này không có xương sống, toàn thân chỉ là sụn nên được nhiều người ưa chuộng, mua về chế biến món ăn.

Chị Lê Vân (tiểu thương ở chợ Đầm, TP Quy Nhơn) cho biết, cá mút đá còn được gọi là cá ninja bởi rất khó đánh bắt. Loài cá này sống ở tầng đáy sâu, thoắt ẩn thoắt hiện với phần da tối màu giúp chúng dễ “ngụy trang”, lẩn trốn.

Khi bắt lên, cá thường cuộn đầu như giấu đi nên còn có tên gọi là cá “giấu đầu hở đuôi”.

Tuy cá mút đá có vẻ ngoài xấu xí nhưng thịt ngọt thanh. Ảnh: Hữu Bộ Vlogs

Nữ tiểu thương cũng cho hay, cá mút đá có 2 loại. Một loại lưng đen có lớp da màu đen ở lưng và trắng phần bụng, thường sống ở khu vực nước nông.

Còn lại là cá mút đá lụa có thân thon dài, với lớp da sáng màu hồng nhạt, sống ở độ sâu 1.000m. Loài cá này cũng được sử dụng để làm thức ăn.

Theo chị Vân, cá mút đá có thể được chế biến thành nhiều món như nhúng lẩu, xào sả ớt, nấu bung với chuối, hầm hoặc kho… nhưng ngon và được ưa chuộng nhất là cá mút đá nướng.

Cá mua về đem làm sạch, lột bỏ lớp da bên ngoài, chặt bớt đầu và đuôi, chỉ giữ lại phần thân toàn sụn.

Cá mút đá nướng chín có thể ăn ngay hoặc chấm với muối tiêu, nước sốt chanh… đều hấp dẫn. Ảnh: Tran Le Thu Trang

Vì loài cá này có mùi tanh đặc trưng nên người ta thường tẩm ướp một số gia vị trước khi nướng. Tùy điều kiện từng nhà và sở thích của từng người mà cá có thể đem ướp với sa tế, ngũ vị hương hay hỗn hợp dầu hào, sả, tỏi, ớt băm nhỏ…

Ướp xong, chờ chừng 15-20 phút cho thịt cá ngấm đều gia vị thì bắt đầu nướng trên bếp củi (hoặc bếp than), giúp món ăn đậm đà, dậy mùi thơm.

Anh Quốc Đạt (Hà Nội) từng có dịp thưởng thức cá mút đá nướng vài lần ở Bình Định nhận xét, món ăn có hương vị lạ miệng, thích hợp làm món nhậu khoái khẩu của cánh mày râu.

“Thịt cá trắng ngần, mềm dai như thịt gà, vị ngọt thơm tự nhiên. Phần sụn thì giòn sần sật khá giống sườn non”, anh miêu tả.

Hiện nay, cá mút đá thường được làm sạch, đóng gói hút chân không để thuận tiện vận chuyển tới nhiều tỉnh thành khắp cả nước, đáp ứng nhu cầu thưởng thức đa dạng của thực khách thập phương.

Thảo Trinh

 

Nguồn: Dulichvn

Thiêng liêng giữa đất trời Tột Bắc

Thời gian qua, du khách đến Hà Giang ngoài Cột mốc km0, Cột cờ Quốc gia Lũng Cú, nhiều người đã tìm đến điểm Tột Bắc, thuộc thôn Séo Lủng, xã Lũng Cú, huyện Đồng Văn. Trên thực địa, đây chính là điểm chóp nón của bản đồ Việt Nam. Nói vậy là bởi cho đến giờ, không ít người vẫn nghĩ đến Cột cờ Quốc gia Lũng Cú là đã đến được điểm chóp nón cao nhất trên bản đồ Việt Nam rồi.


Đứng trên đài vọng cảnh thơ mộng ở mỏm đất thiêng liêng Tột Bắc, nhìn qua phía Tây Bắc là địa phận huyện Phú Ninh của nước bạn Trung Quốc. Khoảng cách là một hẻm vực sông Nho Quế mà có cảm giác gần như một tầm với vậy. Nhưng kỳ thực, đó là một khoảng cách nếu có đi bộ vượt sông và hẻm vực sẽ phải mất hàng giờ đồng hồ, vì thế đó như một phên dậu tự nhiên cực kỳ chắc chắn ở điểm Tột Bắc Tổ quốc.

Du khách tham quan tại điểm Tột Bắc.

Dòng Nho Quế nơi đây đặc biệt hơn bất cứ con sông nào trên mảnh đất Việt Nam. Bởi đây không chỉ là một trong những con sông của Việt Nam ở trên độ cao cao nhất so với mực nước biển, mà còn là con sông ở trong hẻm vực có độ sâu nhất. Kiến tạo địa chất đã tạo nên hẻm vực rất sâu ở địa phận Lũng Cú, nếu đo tại đây có thể độ sâu hẻm vực này ngang ngửa với hẻm vực Tu Sản ở Mèo Vạc. Địa đầu Lũng Cú cũng chính là nơi con sông Nho Quế chảy từ Trung Quốc vào đất Việt Nam, sông núi và hẻm vực sâu hun hút ở nơi đây thực sự tạo nên hùng quan vô cùng đẹp mắt.

Chiều tà đứng trên mỏm Tột Bắc, giữa không gian thanh bình, ta như lạc vào câu hát “chiều biên giới em ơi, có nơi nào cao hơn…” Giữa không gian bao la và phiêu lãng, bồng bềnh mây gió nơi đây, khiến ta không khỏi xúc động xen lẫn sự thiêng liêng giữa đất trời Tột Bắc. Không gian nơi đây khiến cho ai cũng có cảm giác mình như nhỏ bé trước thiên nhiên.

Thấp thoáng bên sườn hẻm vực biên giới, những mỏm đồi đất xen đá, bà con các dân tộc cần cù xới từng vạt đất trồng ngô, hình ảnh đó khiến cho nơi đây bớt đi sự cô liêu. Trong số rất nhiều không gian biên giới Hà Giang đẹp, có lẽ không gian nơi Tột Bắc khơi gợi cảm xúc đặc biệt nhất, thi vị nhất. Ngay cả con đường bê tông đi vào mỏm Tột Bắc với bên dưới là hẻm vực, dù đã được đầu tư mở rộng hơn trước đây, nhưng cũng là một trải nghiệm đầy thú vị với du khách. Không quá dễ đi cho người chưa có nhiều kinh nghiệm lái xe ô tô, đặc biệt là khi phải đi ngược chiều với một ô tô khác ở đoạn đường hẹp này. Tuy nhiên, với người ưa khám phá và mạo hiểm, con đường này đáng để những cặp đôi phượt bằng xe máy, người ngồi sau có đoạn phải… nín thở, ôm chặt người ngồi trước. Còn với người ngồi xe ô tô con, đi qua đoạn đường vào mỏm Tột Bắc, chắc có nhiều đoạn không dám nhìn xuống hẻm vực hun hút như thử thách cảm nhận của mọi người. Những năm qua, nhiều người khi đặt chân đến Cao nguyên đá là phải tìm vào được mỏm Tột Bắc cho bõ sự tò mò, phiêu lưu và cả niềm tự hào được một lần đặt chân đến mỏm đất đầy xúc cảm, tự hào này.

Tấm bia đá ghi tọa đổ điểm địa đầu cực Bắc Tổ quốc.

Nhiều lần đưa bè bạn đặt chân đến mỏm Tột Bắc vào buổi chiều, lần nào tôi cũng có một cảm giác không hiểu sao ở đây thời gian trôi rất nhanh. Có lẽ ở trên cao khoảng 1.400 – 1.500m này, mặt trời như lặn nhanh hơn, không gian biên giới thanh vắng cũng khiến cho ta có cảm giác về thời gian trôi đi mau hơn. Đặc biệt tại đây, trong không gian rất tĩnh giữa mây trời, núi non và hẻm vực có lúc chạm nhau, ta có thể nghe thấy rất rõ tiếng gió giữa trời chiều, một chút rào rạt của nước sông trôi qua những khúc ghềnh đá.

Mỏm Tột Bắc là một không gian check in  rất hấp dẫn cho những người thích trải nghiệm và ghi dấu ấn. Những dãy núi cao, hẻm vực sâu, mây và trời cùng tạo nên cảnh quan hùng vĩ, ảo diệu. Những hôm thời tiết đẹp, không gian cực kỳ trong trẻo, rất lý tưởng cho các bức hình làm hài lòng bất cứ ai kỹ tính. Nơi đây đang trở thành điểm du lịch không thể bỏ qua và rất cần có thêm sự nghiên cứu, xây dựng để nó xứng đáng trở thành một điểm đến, một trải nghiệm đặc biệt bên cạnh những điểm đến nổi tiếng trên Công viên đá. Ở đây không chỉ là điểm đến văn hóa, lịch sử, địa lý, khoa học địa chất mà còn là một điểm đến của lòng tự hào Tổ quốc.

Chính bởi vậy khoảng 65 năm trước, trong điều kiện đường sá khó khăn, nhưng đại nhà văn Nguyễn Tuân cũng đã chịu khó ngao du lên thôn Séo Lủng, với những cảm xúc đặc biệt cho bài viết Mỏm Tột Bắc. Câu chuyện kể về việc nhà văn Nguyễn Tuân lấy một sợi dây nhỏ dong từ mỏm Tột Bắc xuống thẳng đất Mũi Cà Mau và ngạc nhiên khẳng định, đây mới là mỏm Tột Bắc của Tổ quốc ta. Từ đó khẳng định, Hà Giang chính xác là mảnh đất địa đầu cực Bắc Tổ quốc. Trong số những điểm ấn tượng ở Hà Giang, cùng với đại hùng quan Mã Pì Lèng, mỏm Tột Bắc là nơi để lại cảm xúc đặc biệt và thiêng liêng đối với nhà văn được coi là “ngông” nhất làng văn Việt Nam.

Bài, ảnh: Phùng Nguyên

 

Nguồn: Dulichvn

Múa Cà đáo của người Cor ở huyện Trà Bồng là di sản văn hóa phi vật thể quốc gia

Nghệ thuật trình diễn dân gian múa Cà đáo và Tết Ngã rạ của người Cor ở huyện Trà Bồng vừa được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đưa vào danh mục Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia.


Ông Nguyễn Văn Hùng, Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch vừa ký Quyết định số 1649/QĐ-BVHTTDL về việc công bố danh mục Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia đối với nghệ thuật trình diễn dân gian múa Cà đáo của người Cor huyện Trà Bồng; Quyết định số 1655/QĐ-BVHTTDL ngày 3/6 về việc công bố danh mục Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia đối với tập quán xã hội và tín ngưỡng Tết Ngã rạ (sa ní) của người Cor huyện Trà Bồng.

Nghệ thuật múa Cà đáo của người Cor Trà Bồng

Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch yêu cầu Chủ tịch UBND các cấp nơi có 2 di sản văn hóa phi vật thể quốc gia vừa được công nhận, trong phạm vi nhiệm vụ và quyền hạn của mình, thực hiện việc quản lý nhà nước theo quy định của pháp luật về di sản văn hóa.

Hàng năm, vào cuối tháng 10, đầu tháng 11 âm lịch, đồng bào Cor ở huyện Trà Bồng, tỉnh Quảng Ngãi tổ chức Tết Ngã rạ. Đây là một nét văn hóa độc đáo của đồng bào Cor, là lễ hội lớn để mừng mùa lúa kết thúc và bày tỏ lòng biết ơn đối với thần linh. Đây còn là dịp mọi người quây quần bên nhau, truyền cho nhau ngọn lửa để cùng gìn giữ những nét đẹp văn hóa của dân tộc mình.

Múa Cà đáo là một điệu múa cổ truyền đặc sắc, gắn liền với mọi mặt đời sống của

Múa Cà đáo là một điệu múa cổ truyền đặc sắc, gắn liền với mọi mặt đời sống của người Cor ở huyện Trà Bồng, tỉnh Quảng Ngãi. Đây là một phần quan trọng trong đời sống văn hóa, tâm linh của đồng bào, thể hiện bản sắc và sức sống riêng của họ. Các buổi trình diễn múa Cà đáo thường diễn ra trong các lễ hội lớn của làng, thu hút mọi người cùng tham gia. Đây là dịp để các thành viên trong cộng đồng giao lưu, tăng cường sự đoàn kết, gắn bó. Múa cà đáo còn là chất xúc tác để các chàng trai, cô gái nên duyên vợ chồng.

Thành Long

 

Nguồn: Dulichvn

Thương nhớ chè Huế

Tháng 6 này, ở Huế, hoa sen khắp các hồ bung nở thơm ngát. Các bà, các chị bắt đầu vụ mùa thu hoạch sen nhộn nhịp. Sen là một trong những đặc sản nổi tiếng của vùng đất cố đô Huế, các món ăn chế biến từ sen cũng đặc biệt gây thương nhớ, nhất là chè sen.


Chè Huế thể hiện rõ nét cầu kỳ và tinh tế của người Huế.

Thưởng thức chè Huế là một hành trình trải nghiệm văn hóa và tinh hoa ẩm thực đặc trưng của vùng đất cố đô. Từ những món chè cung đình cầu kỳ như chè hạt sen long nhãn, chè bột lọc bọc thịt quay, đến những món chè dân dã như chè đậu xanh, chè khoai tía, chè bắp… món nào cũng làm mê đắm với hương vị dịu ngọt, thơm mát, bùi bùi, thêm chút nước dừa thơm phức.

Có lẽ không ở đâu mà lại có nhiều món chè như Huế. Đến Huế, ngồi bên gánh chè nhỏ ven đường hay trong không gian trầm mặc của một quán chè truyền thống mà thưởng thức, người ta không chỉ cảm nhận được vị ngọt thơm của chè mà còn cảm nhận được nét sâu lắng của đất kinh kỳ xưa.

Như quán Chè Hèm, nằm ẩn mình trong con hẻm nhỏ trên đường Hùng Vương mấy chục năm nay vẫn là địa chỉ quen thuộc của không chỉ người dân đất cố đô mà cả khách du lịch. Chè Hẻm nổi tiếng bởi thực đơn phong phú với gần 20 loại chè khác nhau, từ chè bột lọc heo quay, chè hạt sen… đến chè đậu xanh, đậu đỏ, thạch dừa, thập cẩm, trái cây… cũng chỉ có 15.000đồng/cốc.

Ở Huế có hàng trăm loại chè, thế nhưng đến Huế nên thưởng thức món chè sen. Người Huế nấu chè hạt sen rất cầu kỳ, nhất là chè hạt sen nhãn lồng – một trong những món ăn tao nhã, thể hiện rõ nét sự cầu kỳ và đầy tính nghệ thuật. Các bà, các mẹ vẫn nói với nhau rằng phải là thứ hạt sen hồ Tịnh và nhãn lồng của Huế nấu chén chè mới ngon.

Sen Tịnh Tâm có hạt nhỏ, tròn, bùi nhưng vị rất ngọt và thanh. Sau khi tách vỏ, hạt sen sẽ được lấy tâm để chè không bị đắng, nấu chín bằng nước đường phèn nhẹ, sao cho hạt sen chín mềm nhưng không nát. Nhãn tươi sau khi bóc vỏ, dùng mũi dao nhọn lách nhẹ để lấy phần hạt ra ngoài rồi khéo léo nhồi hạt sen vào giữa quả nhãn…

Cái tinh tế của chè sen Huế không chỉ nằm ở nguyên liệu, mà còn ở cách nấu nhẹ tay và tỉ mỉ. Người Huế không vội vàng, họ tỉ mỉ và kiên nhẫn. Đường phải là đường phèn nấu tan chảy, lọc trong. Hạt sen không được ninh bằng nồi áp suất mà phải nấu từ từ, để giữ được độ bùi mà không bị vỡ…

Chè sau khi nấu sẽ được để nguội, đựng trong chén sứ nhỏ, phía trên thường điểm một vài cánh hoa nhài tươi hoặc hoa bưởi, tạo nên một mùi thơm dịu nhẹ lan tỏa. Không phải ngẫu nhiên mà người ta gọi chè sen Huế là món chè của sự tĩnh lặng, là bởi nó không sặc sỡ, không quá ngọt, không cầu kỳ trong trang trí, nhưng lại có hương vị rất đặc biệt. Nhiều người Huế giờ vẫn giữ thói quen nấu chè sen vào những dịp lễ, Tết, cúng giỗ – như một cách để gìn giữ nếp xưa và sự thanh bạch trong đời sống tinh thần.

Còn với du khách, mỗi lần đến với Huế, đến với dòng sông Hương xanh mát, hiền hòa bên ngọn Ngự Bình hùng vĩ, người ta lại muốn được len lỏi vào ngóc ngách của phố để cùng nhâm nhi những ly chè ngọt thanh, nhè nhẹ tan nơi cuống họng, để cảm nhận từng nét Huế yêu thương, sâu lắng.

Mai Hoa

Nguồn: Dulichvn

Khám phá thác Số 6 giữa thành phố Hà Giang

Cách trung tâm thành phố Hà Giang khoảng 6km, thác Số 6 nằm ở thôn Hà Thành, xã Phương Độ. Dòng thác hiền hòa len lỏi qua những tảng đá lớn nhỏ, bao quanh là những vạt rừng xanh mát quanh năm.


Nhiếp ảnh gia Phạm Hưởng, hiện sinh sống tại thành phố Hà Giang, cho biết thác Số 6 còn giữ được vẻ đẹp hoang sơ, dễ tiếp cận, chỉ cách trung tâm vài cây số, thuận tiện di chuyển bằng ô tô, xe máy hoặc xe đạp. Ảnh: Phạm Hưởng

Không chỉ thu hút bởi khung cảnh yên bình, nơi đây còn là địa điểm chụp ảnh được nhiều người lựa chọn. Ảnh: Phạm Hưởng

“Khu vực thác chưa có đơn vị quản lý, du khách nên chủ động giữ gìn vệ sinh, không xả rác để bảo vệ môi trường”, anh Hưởng lưu ý. Ảnh: Phạm Hưởng

Dưới chân thác là một hồ nước tự nhiên trong vắt, được ví như “hồ bơi thiên nhiên”. Ảnh: Phạm Hưởng

Đây là điểm đến lý tưởng để người dân và du khách ghé thăm, nghỉ ngơi, tận hưởng không khí trong lành. Ảnh: Phạm Hưởng

Vào mùa hè, thác trở thành điểm tránh nóng quen thuộc của người dân địa phương và khách du lịch. Ảnh: Phạm Hưởng

Ngoài tắm mát, khu vực quanh thác còn có nhiều bãi cỏ và bóng cây, phù hợp để cắm trại, tổ chức các hoạt động dã ngoại. Ảnh: Phạm Hưởng

Từ tháng 6 đến tháng 8, dòng chảy mạnh hơn tạo nên cảnh tượng bọt nước trắng xóa – thích hợp với những ai yêu thích trải nghiệm thiên nhiên hoang sơ. Ảnh: Phạm Hưởng

Tuy nhiên, du khách nên theo dõi dự báo thời tiết và chọn ngày nắng ráo để đảm bảo an toàn. Ảnh: Phạm Hưởng

Từ thác Số 6, du khách có thể kết hợp khám phá các bản làng như Nà Thác, Khuổi My, Lùng Vài – nơi nổi bật với ruộng bậc thang mùa nước đổ, lúa xanh hoặc lúa chín vàng rực. Ảnh: Phạm Hưởng

Ngọc Lương

 

Nguồn: Dulichvn

Nghề làm đường mía thủ công đỏ lửa

Giữa nhịp sống hiện đại, một số hộ dân ở huyện Quế Sơn vẫn bám giữ nghề nấu đường mía truyền thống.


Mùa mía năm nay, gia đình ông Trần Danh ở xã Quế An (Quế Sơn) quyết định quay lại với nghề nấu đường mía truyền thống của làng. Ông Danh đầu tư hơn 100 triệu đồng để mua sắm dụng cụ, máy móc ép mía, chảo nấu và khuôn, nhằm phục vụ nhu cầu của người dân trong vùng. Hơn một tháng qua, lò đường của ông liên tục đỏ lửa từ sáng sớm đến chiều muộn, mỗi ngày thu mua khoảng 5 tấn mía cho người dân trong và ngoài địa phương.

Ông Trần Danh chia sẻ: “Mấy năm nay, người dân phát triển diện tích trồng mía nhiều hơn trước, năng suất, sản lượng cũng cao hơn. Trong khi đó, mía ở đây chủ yếu được bán để phục vụ giải khát nhưng nhu cầu tiêu thụ lại ít. Chính vì vậy, tôi quyết định quay lại nghề nấu đường mía để phục vụ bà con”.

Một số người sử dụng bẹ chuối để đựng đường non và đậu phụng rang, mang về cho người thân thưởng thức. Ảnh: Tấn Châu

Mỗi lò nấu đường mía thường có khoảng 6 đến 10 người, chia nhau đảm nhiệm các công đoạn khác nhau. Từ cây mía tươi, những người phụ nữ đảm trách việc ép lấy nước. Sau đó, đàn ông có sức khỏe sẽ đưa nước mía vào nồi lớn, nấu trên bếp củi.

Đứng bên lò nóng hầm hập, khói và hơi nước bao trùm cả không gian, mồ hôi chảy nhễ nhại, ông Giang Ngọc Xanh vẫn không ngừng khuấy liên tục bên nồi nước mía sôi sùng sục, mắt dõi theo màu mật để canh thời gian đường chín tới… “Lâu lắm rồi mới trở lại cái nghề nấu đường truyền thống ông bà để lại. Dù thu nhập không cao, công việc vất vả và cũng dễ bị bỏng nếu bất cẩn, nhưng lò đường đỏ lửa trở lại tôi cảm thấy vui lắm” – ông Xanh nói.

Ông Giang Ngọc Xanh, cũng như nhiều thợ nấu đường mía ở lò ông Danh, đã từng gắn bó với nghề này thời trai trẻ. Sau này, khi khoa học phát triển, đường cát trắng, đường tinh luyện dần thay thế những bát đường đen, nhiều lò nấu đường mía thủ công ở Quế Sơn đã không theo kịp thị trường và ngưng hoạt động trong nhiều năm.

Hiện nay, một số hộ dân ở Quế Sơn đã quay lại với nghề nấu đường mía, gìn giữ truyền thống của cha ông để lại theo cách hiện đại hơn, hiệu quả và đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm.

Nhiều người dân trong vùng đưa mía đến các lò để nấu đường. Du khách khắp nơi cũng tìm đến để trải nghiệm mật đường mía với đậu phụng, hay thưởng thức bánh tráng nhúng đường non ngọt ngào của tuổi thơ, nhớ một thời gian khó.

Ông Nguyễn Bá Ngọc – một du khách từ Đà Nẵng đã tìm đến tận nơi để tìm hiểu, mua mật mía và đường thô về dùng để chế biến cho gia đình. Xen lẫn tiếng máy nổ ép mía, tiếng người nói lao xao, ông Ngọc hỏi chuyện với người chủ lò trong niềm thích thú.

Hầu hết đường nấu ra đều được người dân mua và làm quà tặng.

“Gần một đời người tôi mới có cơ hội tìm hiểu nghề nấu đường mía truyền thống từ trăm năm của người dân nơi đây” – ông Ngọc vui vẻ.

Từ những cánh đồng mía, qua đôi tay cần mẫn của người thợ, vị ngọt bùi của đất trời kết tinh thành từng viên đường mộc mạc. Nghề làm đường mía thủ công ở Quế Sơn – một nghề nhỏ trong rất nhiều nghề truyền thống ở xứ Quảng, nhưng mang trong mình vị ngọt của ký ức và tình yêu quê hương bền bỉ.

Tấn Châu

Nguồn: Dulichvn

TIN MỚI NHẤT