Du lịch trong nước

Du lịch trong nước, tin tức du lịch trong nước, các tour du lịch trong nước, các địa điểm du lịch trong nước hấp dẫn được chúng tôi tổng hợp và đưa tin hàng ngày đến cho khách du lịch trên khắp mọi miền đất nước có được thông tin du lịch trong nước để có những thông tin hữu ích nhất cho mình và gia đình khi quyết định chọn chuyến du lịch trong nước cho mình và người thân

Vẻ đẹp hoang sơ tại bãi biển Cửa Hiền – Nghệ An

Sở hữu vẻ đẹp hoang sơ với bãi đá ven biển độc đáo, biển Cửa Hiền là nơi núi đồi và biển cả giao thoa tạo nên khung cảnh thơ mộng, hứa hẹn sẽ mang lại cho du khách những tấm hình check-in tuyệt đẹp khi về nơi đây.


Biển Cửa Hiền sở hữu vẻ đẹp hoang sơ.

Trải dài từ xã Diễn Trung, huyện Diễn Châu đến xã Nghi Yên, huyện Nghi Lộc (Nghệ An), biển Cửa Hiền cách thành phố Vinh khoảng 30km về phía Bắc với chưa đầy 1 giờ chạy xe máy. Từ Quốc lộ 1A, tại khu di tích Đền Cuông, rẽ theo đường xuống biển khoảng 5km là du khách có thể đến được bãi biển hoang sơ này. Đặc biệt, dự án đường ven biển đang dần hoàn thiện, trải dài như một dải lụa bạc chạy dọc bãi biển thơ mộng.

Cửa Hiền là bãi biển độc đáo ở Nghệ An, du khách có thể cùng lúc ngắm núi đồi và biển cả giao thoa trong cùng một khung hình. Từ lâu, vùng biển này đã thân thuộc, gắn bó máu thịt với người dân cả hai bên huyện. Buổi sáng, khi mặt trời còn lấp ló sau rặng phi lao, những chiếc thuyền nan của ngư dân Diễn Trung đã rẽ sóng ra khơi.

Lùi về phía Nam khoảng 1km, bên cạnh bãi đá là bãi tắm thoai thoải với cát trắng, sóng êm là địa điểm lý tưởng để check-in và thưởng thức hải sản. Chiều muộn, lúc sóng bắt đầu lặng, bên bờ lại hiện lên dáng hình quen thuộc của những người dân làng chài Nghi Yên, cặm cụi dọn rác, nhặt từng vỏ sò, mảnh lưới sót lại sau mỗi đợt thuỷ triều.

Điều đặc biệt là biển Cửa Hiền có những bãi đá tự nhiên hiện lên như một tuyệt tác điêu khắc, với hàng nghìn viên đá lớn, nhỏ xếp chồng tự nhiên, trải dài ra biển. Khi thủy triều rút, bãi đá ở Cửa Hiền lộ ra hoàn toàn, với những khoảng đá nhấp nhô nổi bật giữa bãi cát trải dài, là điểm lý tưởng để du khách dạo chơi và “săn” ảnh. Mỗi tảng đá mang một hình hài riêng, hòn giống chú rùa, hòn lại như đang nâng niu một nụ sen, có hòn như bàn tay ai đó đang vẫy chào, lại có hòn được bàn tay “nhân tạo” cố ý tạo thành dáng người hướng về phía biển… sẽ cho du khách những tấm hình độc đáo. Những khối đá xếp chồng lên nhau, hướng ra biển trời xanh vắt.

Biển Cửa Hiền khi triều xuống.

Khi nước triều rút xuống, du khách có thể đi bộ ra xa, men theo những mỏm đá, cảm nhận sự kỳ diệu khi đứng giữa biển nhưng vẫn không bị ướt chân. Biển ở đây cạn và trong nên du khách có thể nhìn rõ từng đàn cá nhỏ lượn quanh chân, từng con cua ẩn mình trong khe đá. Mỗi một bước đi là một bất ngờ nhỏ, khiến người ta thấy lòng nhẹ tênh như trẻ lại. Bãi đá ven biển Cửa Hiền như một chứng nhân của thời gian với bề mặt xù xì, sẫm màu và những con hà biển bám chặt như lớp vỏ bọc bảo vệ nguyên trạng thiên nhiên hoang sơ.

Trong những ngày nghỉ lễ vừa qua, biển Cửa Hiền thu hút các du khách đến để check-in, lưu giữ những tấm hình đẹp, đặc biệt là các bạn trẻ. Bãi đá trải dài có thể giúp du khách dễ dàng tạo nên những khoảnh khắc nên thơ. Hầu hết du khách đến biển Cửa Hiền đều có cảm giác mộc mạc, hoang sơ mà bình yên lạ thường. Không có sự ồn ào của du lịch đại trà, chỉ có tiếng sóng, tiếng gió và vẻ đẹp nguyên sơ khiến lòng mình nhẹ nhõm hẳn đi.

Không chỉ có bãi đá hoang sơ và rừng xanh đổ bóng ra biển, biển Cửa Hiền còn hiện lên sống động với cuộc sống mưu sinh hối hả của ngư dân nơi đây. Những con thuyền neo đậu trên bãi cát dài, sẵn sàng ra khơi với hy vọng tôm cá đầy khoang mỗi chuyến biển. Vì thế, Cửa Hiền còn nổi tiếng vì hải sản tươi ngon và rẻ, mang đậm hơi thở của làng chài. Ghẹ, mực, cá thu, cá nục… được người dân đánh bắt trong ngày, chế biến đơn giản mà giữ nguyên vị ngọt tự nhiên. Một bữa ăn ngay trên bãi cát, dưới tán dừa, gió biển thổi qua mát rượi – đủ khiến du khách nhớ mãi không quên.

Bãi đá tự nhiên biển Cửa Hiền như một tuyệt tác điêu khắc.

Cửa Hiền mộc mạc như chính cái tên của nó, hiền lành, nguyên sơ, không có hàng quán xô bồ, không có những khu resort hiện đại. Chính vì lẽ đó, nó sở hữu những “viên ngọc quý” mà hiếm nơi nào có được: Bãi cát dài trắng mịn, bãi đá tự nhiên ấn tượng, sự bình yên giữa dòng đời vồn vã…

ĐT

Nguồn: Dulichvn

Trình diễn nghệ thuật tại Quảng trường Ba Đình vào tối 18/5 kỷ niệm sinh nhật Bác Hồ

Nhân dịp kỷ niệm 135 năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh (19/5/1890-19/5/2025), Ban Tuyên giáo và Dân vận Trung ương chỉ đạo, Đài truyền hình Việt Nam, UBND thành phố Hà Nội, Bộ tư lệnh bảo vệ Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh, Công ty cổ phần Netmedia và các đơn vị liên quan phối hợp thực hiện chương trình nghệ thuật đặc biệt mang tên “Người là Hồ Chí Minh” vào tối 18/5 tại Quảng trường Ba Đình, Hà Nội.


Phối cảnh sân khấu chương trình “Người là Hồ Chí Minh”. (Ảnh: Ban tổ chức)

“Người là Hồ Chí Minh” là chương trình nằm trong chuỗi các hoạt động văn hóa nghệ thuật nhằm tuyên truyền sâu rộng, giáo dục các tầng lớp nhân dân nhận thức đầy đủ, sâu sắc về cống hiến vĩ đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam.

Thông qua các tiết mục nghệ thuật và những câu chuyện xúc động, chương trình khắc họa đậm nét hình tượng Người thầy vĩ đại của cách mạng Việt Nam, Anh hùng giải phóng dân tộc, Danh nhân văn hóa kiệt xuất; đồng thời, góp phần tuyên truyền, giáo dục truyền thống yêu nước, lý tưởng cách mạng, tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh đến đông đảo cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là thế hệ trẻ.

Chương trình diễn ra vào 20 giờ 10 phút, ngày 18/5 tại Quảng trường Ba Đình, quận Ba Đình, Hà Nội, được truyền trực tiếp trên kênh VTV1 – Đài Truyền hình Việt Nam; tiếp sóng trên các kênh truyền hình Trung ương, địa phương và các nền tảng truyền thông số.

Chương trình nghệ thuật đặc biệt “Người là Hồ Chí Minh” gồm 3 phần “Nguyễn Sinh Cung – Nguyễn Tất Thành”; “Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh” và “Việt Nam! Kỷ nguyên vươn mình”.

Các tiết mục nghệ thuật được dàn dựng công phu, kết hợp truyền thống và hiện đại giữa ca múa nhạc, hoạt cảnh sân khấu hóa cùng công nghệ trình chiếu 3D mapping làm nổi bật và tạo các điểm nhấn như: Liên khúc ca kịch “Bác Hồ với thiếu nhi” với các tác phẩm: “Đêm qua em mơ gặp Bác Hồ” (Sáng tác: Xuân Giao) – “Chong chóng xanh” (Sáng tác: Lê Anh Thủy và hoạt cảnh: Bác Hồ với thiếu nhi) – “Ai yêu bác Hồ Chí Minh hơn thiếu niên nhi đồng” (Sáng tác: Phong Nhã); “Đêm nghe hát đò đưa nhớ Bác” (Sáng tác: An Thuyên); “Dấu chân phía trước” (Sáng tác: Phạm Minh Tuấn); Mashup “Lá cờ Đảng và Đảng là cuộc sống của tôi” (Sáng tác: Văn An, Nguyễn Đức Toàn); “Mỗi bước đi thêm yêu Tổ quốc” (Sáng tác: Hồ Bắc)…

Chương trình hội tụ các gương mặt nghệ sĩ nổi tiếng như: NSƯT Hoàng Tùng, Viết Danh, Hòa Minzy, Anh Tú, Linh Chi Sao Mai, Hà Quỳnh Như, Thanh Phong, Hoàng Hồng Ngọc, Nhóm Be singer, Huyền Trang, Mai Chi, An Thu An; các nghệ sĩ nhà hát kịch, các nghệ sĩ Nhà hát Ca múa nhạc Việt Nam.

Ông Nguyễn Trung Dũng, Tổng Giám đốc Công ty cổ phần NetMedia, Tổng đạo diễn cho biết, ê-kíp thực hiện chương trình mong muốn cùng khán giả tiếp cận một cách gần gũi chân dung Hồ Chủ tịch gắn với di sản từ những tên gọi tiêu biểu nhất của Bác thông qua các trường đoạn mang tên “Nguyễn Sinh Cung – Nguyễn Tất Thành – Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh” gắn với những phẩm chất cá nhân, đặc trưng văn hóa dân tộc và tinh hoa nhân loại đã hun đúc phẩm chất, trí tuệ, tư duy của Người.

Ngọc Linh

Nguồn: Dulichvn

Bảo tồn và phát huy giá trị Di tích quốc gia Ðình Thuận Hưng (Cần Thơ)

Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch vừa ban hành quyết định xếp hạng Di tích Kiến trúc nghệ thuật cấp quốc gia đối với Ðình Thuận Hưng (phường Thuận Hưng, quận Thốt Nốt, TP. Cần Thơ). Khu vực bảo vệ di tích được xác định theo biên bản và bản đồ khoanh vùng các khu vực bảo vệ di tích có trong hồ sơ. UBND các cấp nơi có di tích được xếp hạng, trong phạm vi nhiệm vụ và quyền hạn của mình, thực hiện việc quản lý nhà nước đối với di tích theo quy định của pháp luật về di sản văn hóa.


Di tích quốc gia Ðình Thuận Hưng.

Mới đây, UBND TP Cần Thơ cũng vừa ban hành công văn về việc triển khai thực hiện quyết định trên của Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch. Cụ thể, nhằm đảm bảo công tác quản lý, bảo tồn và phát huy giá trị di tích, Chủ tịch UBND thành phố giao Giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Chủ tịch UBND quận Thốt Nốt căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ được giao để thực hiện công tác quản lý nhà nước đối với Di tích quốc gia Ðình Thuận Hưng theo quy định pháp luật hiện hành. Các đơn vị cần phối hợp chặt chẽ nhằm triển khai hiệu quả các hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị di tích. Ðồng thời, để tôn vinh giá trị lịch sử, văn hóa của Ðình Thuận Hưng, Chủ tịch UBND thành phố giao Chủ tịch UBND quận Thốt Nốt tổ chức Lễ đón nhận và công bố Quyết định xếp hạng Di tích quốc gia theo quy định, gắn với các ngày lễ, kỷ niệm quan trọng của đất nước và thành phố trong năm 2025.

Theo tài liệu của Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch TP Cần Thơ, Ðình Thuận Hưng được hình thành vào khoảng đầu thế kỷ XIX, ban đầu là ngôi miếu nhỏ bằng cây lá, có tên là “Tòa Miếu Võ”, tại làng Tân Thuận Ðông, thờ “Bổn Cảnh Sơn Hà”, sau đó được dân làng tu bổ dần trở thành ngôi đình. Năm 1848, vua Tự Ðức phong sắc Bổn Cảnh Thành Hoàng, từ đó bà con địa phương đã xây dựng, tu bổ đình ngày càng khang trang. Sau đó, làng Tân Hưng và làng Tân Thuận Ðông sáp nhập thành làng Thuận Hưng, Ðình Tân Hưng cũng được dời về sáp nhập với Ðình Tân Thuận Ðông, lấy tên là Ðình Thuận Hưng.

Ðình Thuận Hưng được xây dựng trên diện tích 1.050m2, theo hình chữ “Nhất”, với kiến trúc rất độc đáo. Mái đình chia làm 2 tầng, riêng chính điện chia làm 3 tầng, lợp ngói. Toàn bộ kiến trúc đình được trang trí hoa văn, họa tiết rất công phu, độc đáo. Kết cấu khung sườn chính điện bằng gỗ, tường xây gạch. Hệ thống trang trí trong đình được chạm trổ đặc sắc, mang nhiều ý nghĩa tốt đẹp. Võ ca xây dựng theo kiểu “tam gian tứ trụ”, mở ra 4 phía. Trước đó, ngày 12-12-2006, UBND TP Cần Thơ đã ban hành quyết định xếp hạng Ðình Thuận Hưng là Di tích Lịch sử – Văn hóa cấp thành phố.

Tin, ảnh: Duy Khôi

Nguồn: Dulichvn

Ẩm thực Sơn La níu chân du khách

Những món ăn mang hương vị núi rừng của đồng bào các dân tộc ở Sơn La được nhiều khách du lịch biết đến và yêu thích, trở thành đặc sản mang đặc trưng của vùng miền, thể hiện nét đặc sắc trong văn hóa ẩm thực của đồng bào nơi đây.


Sơn La có 12 dân tộc anh em sinh sống, mỗi dân tộc có những món ăn đặc trưng, cách chế biến riêng biệt, tạo nên một bức tranh ẩm thực đa dạng, phong phú và đầy màu sắc.

Ẩm thực các dân tộc Sơn La vốn không đến từ những loại sơn hào hải vị đắt tiền, hay những nguyên liệu khó kiếm, mà bắt nguồn từ chính đời sống bình dị thường ngày của đồng bào. Những món ăn truyền thống không quá cầu kỳ, nhưng cũng chẳng thiếu sự tinh tế, đủ để người thưởng thức có thể cảm nhận được trong đó chứa đựng cả câu chuyện về văn hóa của một cộng đồng dân tộc.

Ẩm thực đặc sắc của các dân tộc ở Sơn La để lại nhiều ấn tượng cho du khách.

Ẩm thực đặc sắc của các dân tộc ở Sơn La chính là yếu tố làm nên tính độc đáo, hấp dẫn của du lịch nơi đây. Như đồng bào dân tộc Mông có món thắng cố nổi tiếng được biết đến như đại diện nổi bật cho ẩm thực vùng cao. Đồng bào dân tộc Mường sinh sống ở vùng lòng hồ sông Đà có mẳm cá, đồng bào dân tộc Dao có món thịt chua… bao đời nay vẫn được các thế hệ gìn giữ lưu truyền. Hoặc đơn giản hơn là những món ăn mang đậm hương vị núi rừng như nộm hoa ban giòn ngọt, nộm hoa bó píp thơm bùi, món ăn từ quả núc nác vị ngăm ngăm đắng, rất lạ miệng mà dễ ăn…

Ngoài ra, nhắc đến ẩm thực Sơn La phải kể đến văn hóa ẩm thực của đồng bào dân tộc Thái. Có những món ăn trước đây chỉ đơn giản là sản phẩm được hình thành từ nhu cầu bảo quản đồ ăn quanh năm của đồng bào như thịt hun khói, thịt gác bếp hay cá giảng… nay đã trở thành đặc sản được nhiều người biết đến. Không ít cơ sở sản xuất biết nắm bắt nhu cầu thị trường đã chế biến các món thịt trâu, thịt bò gác bếp, ba chỉ hun khói theo tiêu chuẩn được công nhận là sản phẩm OCOP, sản phẩm nông nghiệp tiêu biểu của tỉnh; xây dựng thương hiệu riêng để bán cho khách hàng gần xa, tạo thu nhập cao cho nhiều gia đình.

Đặc biệt, không thể không kể đến các loại gia vị phong phú và độc nhất của dân tộc Thái. Và có lẽ, cũng chỉ có đồng bào Thái mới có bí quyết sử dụng mắc khén, tỏi, ớt, những loại gia vị cay nồng, bốc nóng để dung hòa hương vị những món ăn đặc trưng của núi rừng như bát chẳm chéo, hay chế biến từ nguyên liệu giản đơn thành mẳm cá, mẳm hén… bảo quản quanh năm, giúp các bữa ăn thêm đậm đà. Những người phụ nữ Thái không những rất tinh tế trong cách chế biến món ăn mà còn khéo léo và sáng tạo khi bày biện mâm cỗ để lấy lòng mọi thực khách từ ánh nhìn. Tất cả đã tạo nên văn hóa ẩm thực của đồng bào Thái, hình thành nên một sản phẩm đặc trưng, hút khách cho du lịch Sơn La.

Những năm qua, ẩm thực dân tộc Thái cũng được đưa vào các nhà hàng, khách sạn, trở thành một phần không thể thiếu tại các khu, điểm du lịch, hấp dẫn du khách. Cùng với đó, để giúp thực khách có sự trải nghiệm trọn vẹn về văn hóa Thái, đa phần các nhà hàng ẩm thực Thái tại Sơn La thường giữ thiết kế nhà sàn truyền thống, không gian mở mang tính kết nối cộng đồng, thực đơn là các món ăn đặc trưng của đồng bào Thái. Trong đó, không thể thiếu các món ăn truyền thống như: thịt khô, cá nướng, thịt gói lá nướng, gỏi cá, cơm lam, canh bon, canh lá vón vén… Ưu tiên nguyên liệu tươi ngon và sẵn có để tạo nên điểm nhấn cho ẩm thực du lịch tại địa phương.

Du khách Nguyễn Thị Thu Huyền đến từ Hà Nội cho biết, chị ấn tượng khi đến Sơn La không chỉ bởi cảnh sắc thiên nhiên đẹp, mà đến đây, chị được thưởng thức ẩm thực phong phú như gà nướng, cá suối, cơm lam, xôi ngũ sắc… mỗi món ăn, có hương vị rất đặc biệt.

Ông Trần Xuân Việt, Phó Giám đốc Sở Văn hóa – Thể thao và Du lịch tỉnh Sơn La cho biết, để xây dựng, bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa ẩm thực, trở thành một trong những sản phẩm du lịch đặc sắc, Sở đã phối hợp với các địa phương, các cơ sở đào tạo tổ chức các lớp tập huấn, bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng chế biến món ăn dân tộc, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm cho các hộ kinh doanh du lịch cộng đồng, nhà hàng, khách sạn.

Cùng với đó, Sở đã khuyến khích, hỗ trợ việc xây dựng các tour, tuyến du lịch gắn với trải nghiệm ẩm thực; tổ chức các cuộc thi ẩm thực… Qua đó, tạo điều kiện cho du khách thưởng thức các món ăn, thức uống ngon, được hòa mình vào “không gian văn hóa bản địa”, cảm nhận bản sắc văn hóa, giá trị truyền thống của các địa phương một cách chân thực nhất.

Ẩm thực của đồng bào các dân tộc miền núi không hấp dẫn thực khách bằng những món ăn cao lương mỹ vị, hay hút mắt bằng cách trang trí nghệ thuật, mà gây dấu ấn bằng chính hương vị đậm chất vùng cao khác biệt, kết hợp với không gian gần gũi, thân thương, níu chân du khách. Việc khai thác, phát triển dịch vụ ẩm thực sẽ tạo ấn tượng tốt đẹp, tăng hiệu quả quảng bá du lịch, việc này đang được các bản du lịch cộng đồng ở Sơn La khai thác để phát triển thành dịch vụ thu hút khách, góp phần phát triển du lịch địa phương.

Hiền Lương

Nguồn: Dulichvn

Đặc sắc ẩm thực Vân Đồn

Khu vực vịnh Bái Tử Long có một phần lớn diện tích nằm ở huyện Vân Đồn. Nơi đây không chỉ nổi tiếng với các bãi biển tuyệt đẹp mà còn có hàng loạt món đặc sản chất lượng, để lại thương nhớ cho du khách.


Món ngon từ cù kỳ

Cù kỳ là một loại cua biển có hai càng to, mai màu nâu, mắt xanh lá cây, thịt săn chắc. Những người dân chài khi bắt được cù kỳ thường mang hấp hoặc nướng để giữ được hương vị đặc trưng. Trong các nhà hàng, cù kỳ được chế biến thành nhiều món khác nhau. Càng cù kỳ có thể rang muối, rang me hoặc bóc lấy thịt để nấu thành món bún cù kỳ. Thân cù kỳ sẽ được xay nhỏ, lọc và trở thành nguyên liệu để nấu nước dùng.

Theo người dân địa phương, thời điểm lý tưởng nhất để thưởng thức cù kỳ ở Quảng Ninh là vào khoảng tháng 3 – 4. Lúc này, cù kỳ mang nhiều gạch, thịt trắng và dày. Đến tháng 5 – 6 là khoảng thời gian cù kỳ sinh sản. Từ tháng 8, khi gió mùa bắt đầu xuất hiện, cù kỳ chui sâu vào hang đá nên khó đánh bắt.

Sá sùng – “nhân sâm của biển cả”

Sá sùng là một trong những đặc sản nổi tiếng của Vân Đồn, được ví như “nhân sâm biển” nhờ giá trị dinh dưỡng cao và hương vị độc đáo. Sá sùng tập trung ở các bãi cát thuộc các xã đảo Minh Châu, Quan Lạn. Sá sùng Vân Đồn được đánh giá là ngon thượng hạng và có giá đắt đỏ nhất trong nước, từ 3 – 6 triệu đồng/kg khô.

Sá sùng tươi thường được chế biến thành nhiều món như canh lá lốt, xào su hào hoặc làm gỏi. Sá sùng khô dùng để nấu nước dùng phở và các món canh cần vị ngọt đậm từ biển cả. Vị dai dai, giòn giòn của sá sùng kết hợp cùng mùi thơm đặc trưng khiến món ăn này trở thành “ngôi sao” trong lòng thực khách mỗi khi đến Vân Đồn.

Hàu biển

Nhờ đặc điểm vùng vịnh lặng sóng, nhiều ghềnh đá, độ mặn cao, vùng biển Vân Đồn trở thành môi trường sống lý tưởng để nuôi hàu sữa. Đến nay, diện tích mặt nước nuôi hàu sữa tại Vân Đồn đã mở rộng với gần 3.700ha, mang lại giá trị kinh tế cao.

Hàu sữa Vân Đồn được đánh giá là giàu protein, kẽm và nhiều vi chất có lợi khác, rất tốt cho sức khỏe. Hàu được chế biến thành nhiều món ăn ngon. Ngoài ăn sống, nướng mỡ hành, người Quảng Ninh còn xốt cà chua ăn kèm rau sống thái nhỏ, rán trứng, nấu cháo. Bên cạnh đó, khi đến Vân Đồn, bạn sẽ được trải nghiệm món ruốc hàu. Ruốc hàu không chỉ thơm ngon mà còn giàu dinh dưỡng, rất thích hợp để làm quà.

Kim Thủy

Nguồn: Dulichvn

Đỉnh Ngũ Chỉ Sơn được xếp hạng là di tích danh lam thắng cảnh cấp tỉnh của Lào Cai

Ngày12/5, UBND tỉnh Lào Cai ban hành Văn bản 1478/QĐ-UBND về việc quyết định xếp hạng đỉnh Ngũ Chỉ Sơn là di tích danh lam thắng cảnh cấp tỉnh.


Núi Ngũ Chỉ Sơn nằm ở xã Ngũ Chỉ Sơn (Sa Pa, Lào Cai) nhìn từ xa trông sừng sững, hùng vĩ giữa trời mây, được mệnh danh là đệ nhất hùng quan của Lào Cai.

Theo đó, Chủ tịch UBND tỉnh Lào Cai quyết định xếp hạng đỉnh Ngũ Chỉ Sơn (xã Ngũ Chỉ Sơn, thị xã Sa Pa) là di tích danh lam thắng cảnh cấp tỉnh.

Khu vực khoanh vùng bảo vệ di tích được xác định theo Biên bản khoanh vùng các khu vực bảo vệ di tích và Bản đồ khoanh vùng các khu vực bảo vệ di tích trong hồ sơ khoa học di tích.

Chủ tịch UBND tỉnh giao Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch, UBND thị xã Sa Pa xây dựng phương án bảo vệ, quản lý, tu bổ và sử dụng di tích danh lam thắng cảnh đỉnh Ngũ Chỉ Sơn theo đúng quy định hiện hành của Nhà nước.

Đỉnh Ngũ Chỉ Sơn nằm ở phía tây nam của xã Ngũ Chỉ Sơn (thị xã Sa Pa, tỉnh Lào Cai). Khu vực nằm trong địa giới của 3 thôn xã Ngũ Chỉ Sơn là thôn Suối Thầu 1, Suối Thầu 2 và Sín Chải. Đỉnh Ngũ Chỉ Sơn có độ cao 2.858 m, được mệnh danh là đệ nhất hùng sơn Tây Bắc, được hình thành cách ngày nay khoảng 260-250 triệu năm. Khu vực Đỉnh Ngũ Chỉ Sơn có diện tích khoảng 200 m2, là điểm cao nhất của dãy Ngũ Chỉ Sơn và cũng là điểm có mặt bằng duy nhất trong toàn bộ dãy núi. Đứng ở đỉnh núi này có thể quan sát được toàn bộ dãy núi. Với vẻ đẹp kỳ vĩ, hoang sơ, sự phong phú của hệ động, thực vật và khí hậu trong lành, đỉnh Ngũ Chỉ Sơn đang ngày càng thu hút đông đảo du khách trong và ngoài nước đến khám phá, chinh phục.

Trong khoảng chục năm trở lại đây, Ngũ Chỉ Sơn đang dần hiện diện như một điểm đến mới lạ, hấp dẫn cho loại hình du lịch khám phá, trải nghiệm và đặc biệt là du lịch địa chất. Với độ cao hơn 2.800 m, những tuyến trekking, leo núi, hay khảo sát địa chất không chỉ là thử thách về thể lực mà còn là hành trình đi qua các lớp thời gian. Khai thác tiềm năng đó một cách bền vững sẽ giúp Ngũ Chỉ Sơn trở thành viên ngọc quý trong hệ thống các công viên địa chất ở Việt Nam – nơi vừa bảo tồn tự nhiên, vừa tạo sinh kế cho cộng đồng.

Trung Kiên

Nguồn: Dulichvn

Làng chiếu truyền thống Bàn Thạch tìm cách phục vụ du khách

Làng chiếu cói Bàn Thạch (thôn Đông Bình, xã Duy Vinh, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam) nằm “lơ lửng” giữa ba dòng sông: Thu Bồn, Ly Ly và Trường Giang đang gặp khó trong thị trường tiêu thụ nên nỗ lực tìm hướng đi mới để làng nghề hồi sinh.


Vang bóng một thuở

Theo nhiều lão niên làng chiếu Bàn Thạch, làng nghề đã ra đời cách đây hơn 300 năm. Một số tư liệu lại cho rằng, làng nghề có lịch sử cũng ngót hơn 400 năm, thời kỳ Trịnh Nguyễn phân tranh. Tại những lễ hội lớn như Festival Huế, Ấn tượng Mỹ Sơn hay Lễ hội Bà Thu Bồn, các lễ hội của miền Trung, Đà Nẵng… từng có sự góp mặt của chiếu Bàn Thạch. Nơi đây, ngoài việc trưng bày sản phẩm chiếu truyền thống, với đủ kích cỡ để bán cho khách du lịch, nghệ nhân còn trình diễn các công đoạn dệt chiếu để du khách chiêm ngưỡng…

Dệt chiếu cói phục vụ du lịch ở thôn Đông Bình. Ảnh: Hoàng Liên

Vùng đất Đông Bình và các thôn phụ cận của xã Duy Vinh từng là vùng trồng cây cói (cây lác) rộng hàng chục héc ta cung cấp nguyên liệu cho nghề dệt chiếu. Làng chiếu Bàn Thạch nổi danh với những chiếc chiếu trắng, chiếu hoa, chiếu trổ, chiếu bông, chiếu nổi… rực rỡ, đẹp và bền chắc.

Thời kỳ đỉnh cao, làng Bàn Thạch có tới hơn 50% cư dân theo nghề dệt chiếu. Chợ Bàn Thạch là ngôi chợ phiên, là nơi duy nhất chỉ bán mỗi chiếu ở Quảng Nam. Chợ này hội đủ các loại chiếu, không chỉ chiếu Bàn Thạch mà chiếu từ các nơi như Bình Định, miền Tây tràn về với hoa văn, mẫu mã đẹp, giá thành đa dạng…

Bà Võ Thị Ngọc, một tiểu thương buôn chiếu Bàn Thạch gắn bó với nghề suốt 40 năm, từ khi bà còn con gái. Ảnh: Hoàng Liên

Bà Võ Thị Ngọc, một tiểu thương buôn chiếu ở làng Bàn Thạch chia sẻ: “Tôi đã theo nghề buôn chiếu 40 năm, không biết có phải duyên kiếp hay không mà gắn bó mãi. Mẹ tôi là một tiểu thương buôn chiếu gần 50 năm ở đây, sau này tôi cũng theo nghề của mẹ. Một thời nghề này vui lắm, thu nhập rất cao, những ghe, xe chở chiếu của chúng tôi chở đi khắp nơi, từ bán ở chợ Bàn Thạch, đi khắp xã Duy Vinh, rồi huyện Duy Xuyên, vào Nam, ra Bắc. Nhưng rồi do biến động thị trường, người tiêu dùng có nhiều sự lựa chọn nên chiếu Bàn Thạch không còn chỗ đứng. Một phần cũng do nhu cầu tiêu thụ của thị trường đã khác xưa”.

Người dân làng chiếu Bàn Thạch mong muốn phát triển du lịch cộng đồng, cũng là cách để níu giữ nghề truyền thống. Ảnh: Hoàng Liên

Mỗi ngày, bà Ngọc thu gom được 30-40 đôi chiếu do người dân Đông Bình làm ra để bỏ mối. Làng chiếu Bàn Thạch hiện còn duy trì 70-80 khung dệt thủ công, song phần lớn các khung dệt này chỉ được người dân sử dụng dệt chiếu lúc nông nhàn hoặc khi có người đặt mua.

Chiếu cói phục vụ du lịch với nhiều kích cỡ. Ảnh: Hoàng Liên

Nỗ lực tìm hướng đi

Một vài hộ dân ở làng Bàn Thạch nỗ lực tìm hướng đi như đầu tư máy móc, thiết bị hiện đại vào các công đoạn dệt chiếu cói, nâng cao năng suất lao động, tạo sản phẩm mới, đẹp mắt, song các cơ sở này cũng không thể cạnh tranh trên thị trường. Một số cơ sở dệt chiếu cói tại Duy Vinh như cơ sở ông Đỗ Hải, bà Võ Thị Trang (thôn Đông Bình), cơ sở dệt chiếu của bà Nguyễn Thị Quế và con gái (thôn Trà Nhiêu) đón đầu xu hướng, thị hiếu của khách du lịch đến với các vùng quê Duy Vinh.

Với thương hiệu “chiếu Bàn Thạch”, “chiếu cói Trà Nhiêu”, các cơ sở này là một trong những điểm đón tiếp du khách đến tham quan, trải nghiệm nghề dệt chiếu. Nơi đây, du khách được hòa mình vào thiên nhiên, tự tay dệt nên những chiếc chiếu nằm, những chiếc chiếu nhỏ bé có thể cầm tay làm quà lưu niệm…

Du khách được các nghệ nhân hướng dẫn cách chẻ lác, phơi lác, nhuộm lác, dệt chiếu… Với mỗi đoàn du khách tới tham quan, các cơ sở này thường được các công ty lữ hành, hướng dẫn viên trích lợi nhuận cho người dân, bên cạnh việc bán sản phẩm. Cơ sở chiếu Bàn Thạch của bà Võ Thị Trang, ông Đỗ Văn Đại, ông Đỗ Hải còn sản xuất ra các sản phẩm chiếu lớn nhỏ, đa dạng kích thước, hoa văn tinh xảo, tạo sự thích thú cho du khách.

“Mỗi chiếc chiếu nhỏ xíu, miếng lót bình trà, nồi cơm… được bán với giá 50 nghìn đồng/cái. Bình quân mỗi thợ lành nghề chỉ cần dệt được 10 sản phẩm/ngày cũng có thể sống được, chưa kể có những khoản phụ thu khác. Trong khi đó, một thợ lành nghề dệt mỗi ngày 2-3 chiếc chiếu nằm, sau khi trừ các khoản chi phí, chỉ thu lại được tầm 50 nghìn đồng/người/ngày” – ông Đỗ Văn Đại nói.

Cánh đồng cói (lác) ở Đông Bình, xã Duy Vinh. Ảnh: Hoàng Liên

Ông Võ Ngọc Thái – Trưởng thôn Đông Bình, xã Duy Vinh cho hay, xu hướng gắn làng nghề truyền thống với phát triển du lịch sinh thái cộng đồng sẽ góp phần giúp người dân làng nghề được hưởng lợi, có thể trụ vững với nghề.

“Hiện, một vài cơ sở dệt chiếu, nấu rượu truyền thống đã có thể “sống được” khi có khách nước ngoài tới tham quan, trải nghiệm. Song, cũng chỉ mới một vài cơ sở được hưởng lợi, trong khi làng nghề còn cả chục hộ còn giữ nghề, còn lưu giữ tới 70 khung dệt chiếu” – ông Thái nói thêm.

Triêu Nhan

Nguồn: Dulichvn

Làng gốm Bát Tràng bảo tồn nghề truyền thống

Làng gốm Bát Tràng cách trung tâm Hà Nội khoảng 13km về phía Đông Nam, là nơi lưu giữ một phần di sản văn hóa phi vật thể quý giá của Việt Nam.


Nghề làm gốm tại Bát Tràng đã có từ thế kỷ 14, được biết đến không chỉ là một ngành sản xuất mà còn là nghệ thuật phản ánh sự tinh tế và sáng tạo của người dân nơi đây. Làng gốm Bát Tràng đã được công nhận là di sản văn hóa phi vật thể quốc gia, khẳng định vị trí đặc biệt trong đời sống văn hóa Việt Nam.

Sản xuất sản phẩm gốm sứ tại lò gốm Hương Hiền, xã Bát Tràng, huyện Gia Lâm, TP Hà Nội.

Hiện nay, hơn 200 doanh nghiệp và khoảng 1.000 gia đình ở làng gốm Bát Tràng đang tham gia sản xuất gốm, với các sản phẩm đa dạng từ vật dụng gia đình đến các tác phẩm nghệ thuật, không chỉ phục vụ thị trường trong nước mà còn xuất khẩu. Điều này không chỉ giúp bảo tồn nghề truyền thống mà còn tạo ra cơ hội phát triển kinh tế cho người dân địa phương. Ông Nguyễn Xuân Hiền, chủ lò gốm Hương Hiền (xã Bát Tràng, huyện Gia Lâm, TP Hà Nội) cho biết: “Bảo tồn nghề gốm Bát Tràng là việc quan trọng để giữ gìn giá trị văn hóa và phát triển kinh tế địa phương. Một cách bảo tồn hiệu quả là kết hợp kỹ thuật làm gốm thủ công với thiết kế sáng tạo để sản phẩm vừa mang đậm nét truyền thống, vừa phù hợp với nhu cầu hiện đại.” Ngoài ra, việc quảng bá gốm Bát Tràng qua các lễ hội, triển lãm và tour du lịch cũng giúp du khách hiểu rõ hơn về giá trị nghề truyền thống. Đặc biệt, du khách không chỉ tham quan mà còn có thể trải nghiệm quy trình làm gốm, tạo ra sản phẩm mang dấu ấn cá nhân. Chính quyền và cộng đồng cũng chú trọng bảo vệ môi trường, giữ gìn không gian làng nghề, giảm thiểu ô nhiễm để phát triển bền vững. Nhờ đó, Bát Tràng không chỉ bảo tồn nghề truyền thống mà còn phát triển hài hòa giữa văn hóa và môi trường.

Bài và ảnh:  Nguyễn Mai

 

Nguồn: Dulichvn

Đặc sản mùa hè ở Ninh Bình ăn giòn sần sật, ngon hơn vào ngày mưa

Sau những trận mưa mùa hè, người dân một số huyện ở Ninh Bình như Gia Viễn, Yên Mô, Nho Quan… lại lần theo các vách núi đá để “săn” đặc sản ngon lạ, vừa giòn sần sật, vừa mềm, có vị thơm của thảo mộc, lá cây.


Nhắc đến đặc sản Ninh Bình, ngoài những món ngon nức tiếng như thịt dê, cơm cháy, gỏi nhệch… còn có 1 món ăn dân dã cũng được nhiều người biết đến với mùi vị ngon lạ, thường xuất hiện vào mùa hè. Đó là ốc núi (hay còn gọi là ốc đá).

Loại ốc này có hình dạng giống ốc sên nhưng mình dẹt, dẹp và nhỏ, xoắn thành nhiều vòng. Vỏ chúng màu đen nhạt hoặc hơi ngả nâu, miệng tròn như đồng xu.

Ốc núi có nhiều ở một số tỉnh thành miền Bắc. Ảnh: Phạm Xoan

Theo người dân địa phương, khi những trận mưa rào đầu hè ập đến là thời điểm ốc núi xuất hiện nhiều nhất. Lúc ấy, bà con lại rủ nhau vào các thung lũng, lên núi, men theo các vách đá hoặc vào trong hang để tìm bắt loại ốc này.

“Sau mỗi trận mưa, ốc núi bám đầy quanh các bờ khe, hốc cây hay miệng hang trên núi. Loại ốc này chỉ cần thấy động là co đầu lại, nhả miệng, rơi lộp bộp xuống đất mà không bị vỡ, nứt vì vỏ khá dày”, chị Quỳnh Loan (ở huyện Nho Quan) chia sẻ.

Theo kinh nghiệm nhiều năm “săn” ốc núi của chị Loan, cứ những khu vực thoáng sạch, có nhiều cây thuốc quý là nơi ốc sinh trưởng tốt, dày ruột, mùi vị đặc trưng do chúng chủ yếu ăn rong rêu, rễ cây, lá, quả, thảo dược…

Những hôm trời nắng, con ốc ẩn mình trong các hang đá, gốc cây. Còn khi trời mưa hoặc đêm tối, ốc bò ra ngoài tìm kiếm thức ăn. Đặc biệt, nếu bắt vào ngày mưa, ốc núi được cho là đạt chất lượng nhất, thịt chắc mẩy và mọng, ăn giòn ngon.

Tuy nhiên, chị thừa nhận việc bắt ốc núi khá vất vả vì người dân phải đi men theo hết núi này đến núi nọ, cặm cụi quanh các vách đá cao.

“Thời điểm thuận tiện nhất để bắt ốc núi là buổi tối và ngày trời mưa nên người đi bắt ốc phải cẩn trọng vì đường đi trơn trượt, thiếu sáng. Chưa kể rừng núi ban đêm còn xuất hiện nhiều loại rắn, rết, côn trùng nguy hiểm”, chị Loan nói thêm.

Ốc núi luộc là món ăn dễ chế biến, được ưa chuộng. Ảnh: Ngọc Việt

Người phụ nữ này cho hay, ốc núi Ninh Bình được ưa chuộng vì giòn ngon, có vị thơm của lá thuốc và dễ chế biến.

Ốc mang về chỉ cần ngâm nước 15-20 phút, cho thêm chút ớt cay (hoặc lá chanh) để ốc nhả hết nhớt và bùn đất (nếu có). Sau đó, người ta rửa ốc với nước vài lần cho sạch rồi sử dụng làm thức ăn.

Món ngon và dễ làm nhất là ốc núi luộc, chấm cùng nước mắm hoặc muối tiêu chanh như các món ốc luộc quen thuộc khác. Ốc sơ chế sạch đem luộc cùng lượng nước vừa đủ, thêm sả, lá chanh để dậy mùi thơm.

Phần nước chấm ốc luộc cũng không cần quá cầu kì, chỉ cần nêm ít gia vị vào mắm như tỏi, ớt, quất, gừng và thêm tí sả, lá chanh thái nhỏ là được.

Ngoài luộc, ốc núi cũng được bà con địa phương làm chín rồi khều lấy ruột, kết hợp cùng hoa chuối rừng thành món nộm giải ngấy thơm ngon hoặc chế biến món xào sả ớt, hấp mẻ…

Ốc núi đá Ninh Bình là đặc sản dân dã hút khách vì ăn dai, giòn sần sật, vị thơm đặc trưng. Ảnh: Đi đâu cuối tuần

Chị Nguyễn Hằng (ở Hà Nội) từng thưởng thức ốc núi Ninh Bình nhiều lần nhận xét, thịt ốc giòn sần sật ở phần đầu và mềm ở phần thân, đuôi. Đặc biệt, thịt rất thơm do loại ốc này thường ăn các loại lá, rễ cây thảo dược mọc tự nhiên trên núi.

Vì loại ốc này sống khỏe, có thể vận chuyển tới một số tỉnh thành lân cận nên chị Hằng thường nhờ người quen ở Ninh Bình đặt mua giúp để mang về chế biến món ăn vặt lạ miệng cho cả gia đình thưởng thức.

“Ốc núi nhẹ nhưng thịt dày nên chế biến xong không bị hao. Món này chỉ cần đem luộc chín tới rồi chấm nước mắm sả, lá chanh là ăn khó ngừng lại được. Phần đầu dai giòn sần sật, còn thân mềm, nhạt nhưng dậy mùi thơm đặc trưng.

Thảo Trinh

 

 

Nguồn: Dulichvn

Khám phá Lễ hội đánh cá suối truyền thống xã Lỗ Sơn

Mỗi độ tháng Ba âm lịch, dòng suối Tló trong vắt lại sôi động với Lễ hội đánh cá suối truyền thống xã Lỗ Sơn, huyện Tân Lạc (Hòa Bình). Lễ hội không chỉ là dịp vui chơi cộng đồng, mà còn là sự kiện văn hóa tâm linh, thể hiện đậm nét tín ngưỡng nông nghiệp đặc trưng của người Mường nơi đây.


Lễ hội đánh cá suối truyền thống xã Lỗ Sơn, huyện Tân Lạc (Hòa Bình) được tổ chức hàng năm thu hút đông đảo người dân và du khách tham gia.

Ngay từ sáng sớm ngày 23/3 năm Ất Tỵ, bà Bùi Thị Hương, 68 tuổi và đông đảo bà con xóm Tân Lập trong trang phục truyền thống dân tộc Mường ra sân khấu chính tham dự Lễ hội đánh cá suối truyền thống năm 2025. Bà Hương là người dân tộc Mường, sinh ra và lớn lên ở xóm Tân Lập. Bà kể: Thời tôi còn nhỏ, lễ hội chưa được tổ chức đông vui nhưng rất trang nghiêm. Trước kia, khi vừa xong vụ cấy, dân làng lại cùng nhau xuống suối đánh cá. Không làm lễ thì người dân không yên tâm làm ăn.

Tương truyền, từ thuở xa xưa, khi mới “đẻ đất, đẻ nước” chưa thành xóm, thành mường, trong vùng có gia đình gồm hai vợ chồng và một người con có tài khai phá đất hoang, đắp đập, đào mương mở mang bản mường, dạy con dân cách trồng lúa nước, đánh cá (tương truyền ông/bà chính là người dạy cho con dân Mường biết cách làm guồng xoay nước để lấy nước từ dưới suối lên các cánh đồng). Để ghi nhớ công ơn, về sau dân trong vùng tôn 3 vị này làm Thành hoàng lập miếu thờ cúng. Xưa kia, đồ tế lễ ngoài xôi, rượu thì nhất thiết phải có 5 con cá to nhất đánh bắt được. Thầy mo thay mặt dân toàn Mường làm lễ khấn ca ngợi công lao của các vị Thành hoàng, cầu cho một năm người dân mạnh khỏe, mùa màng tươi tốt, bội thu…

Cùng người dân và du khách, chúng tôi hoà mình vào không khí của lễ hội. Phần lễ diễn ra tại miếu thờ với nghi thức dâng lễ vật, gồm xôi, rượu, đặc biệt là 5 con cá lớn nhất đánh bắt được trong ngày hội. Thầy mo đại diện dân làng cử hành nghi lễ, khấn mời các vị Thành hoàng phù hộ mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt. Sau phần lễ là phần hội sôi nổi. Những chàng trai người Mường trẻ khoẻ thi tài các nội dung quăng chài, thi đánh cá, chèo bè mảng, thu hút đông đảo người xem reo hò, cổ vũ.

Chị Nguyễn Thị Hoa, du khách đến từ Hà Nội lần đầu tham gia lễ hội hào hứng: Lễ hội rất độc đáo và ý nghĩa. Vừa được thưởng thức các tiết mục múa, hát đậm bản sắc dân tộc Mường, chúng tôi còn được tìm hiểu kỹ thuật đánh cá suối, cảm giác này rất khác với những lễ hội ở thành phố.

Những năm gần đây, phần hội được mở rộng thêm với các môn thể thao, kết hợp giới thiệu ẩm thực, sản phẩm đặc trưng của người Mường các xóm: Úi, Nghẹ, Chiềng Đồi, Tân Lập, Đồi Bẹ, Đá như rượu cần, cơm lam, thịt nướng, các loại cá, cua suối hấp… tạo nên không gian văn hóa – du lịch hấp dẫn.

Đồng chí Bùi Xuân Trường, Chủ tịch UBND xã Lỗ Sơn chia sẻ: Chúng tôi xem đây là di sản văn hóa phi vật thể quý giá, không chỉ giữ gìn mà còn phải phát huy. Năm 2011, lễ hội chính thức được khôi phục, từ đó tổ chức thường xuyên hàng năm. Năm nay, được sự chỉ đạo của huyện, xã đã tổ chức lễ hội với quy mô lớn hơn, có sự tham gia của các cơ quan, đoàn thể. Không chỉ là lễ hội, sự kiện còn mang thông điệp bảo vệ môi trường và bảo tồn hệ sinh thái tự nhiên. Chính quyền địa phương phối hợp các tổ chức văn hóa, truyền thông tuyên truyền người dân không đánh bắt tận diệt, sử dụng phương pháp thân thiện với môi trường để gìn giữ nguồn thủy sản quý giá. Lễ hội cũng là dịp gắn bó cộng đồng, khơi dậy tinh thần đoàn kết trong xây dựng đời sống văn hóa mới. Đối với du khách, đây là cơ hội để khám phá nét văn hóa Mường đặc sắc còn vẹn nguyên qua thời gian.

Giữa nhịp sống hiện đại, Lễ hội đánh cá suối truyền thống xã Lỗ Sơn đưa con người trở về với thiên nhiên. Đó không chỉ là lễ hội của người Mường mà còn là một phần văn hóa Việt, không gian để con người tìm về cội nguồn.

Hương Lan

 

Nguồn: Dulichvn

TIN MỚI NHẤT