Du lịch trong nước

Du lịch trong nước, tin tức du lịch trong nước, các tour du lịch trong nước, các địa điểm du lịch trong nước hấp dẫn được chúng tôi tổng hợp và đưa tin hàng ngày đến cho khách du lịch trên khắp mọi miền đất nước có được thông tin du lịch trong nước để có những thông tin hữu ích nhất cho mình và gia đình khi quyết định chọn chuyến du lịch trong nước cho mình và người thân

Nét đẹp văn hóa của người Ba Na ở Kgiang (Gia Lai)

Đồng bào dân tộc thiểu số Ba Na ở làng Kgiang, xã Kông Lơng Khơng, huyện Kbang, tỉnh Gia Lai xem chiếc gùi như vật dụng thân thuộc. Gùi cùng bà con lên nương trỉa bắp, gùi cùng thiếu nữ vượt suối hái rau rừng, gùi cùng nông dân chuyển thóc về kho.


Nghệ nhân làng Kgiang đang góp phần gìn giữ một nét đẹp văn hóa người Ba Na.

Chiếc gùi gắn bó mật thiết với đời sống là vậy nhưng ít ai biết rằng, để có một chiếc gùi bền, đẹp đòi hỏi người thợ đan ở Kgiang phải rèn giũa cho mình đức tính kiên trì, chịu khó và cả óc sáng tạo.

Người làng Kgiang thường nói Nghệ nhân Ưu tú Đinh Bi là người có đôi bàn tay vàng, bởi đôi bàn tay đó đã làm nên những sản phẩm mang đậm bản sắc văn hóa của đồng bào Ba Na. Nghệ nhân Đinh Bi sinh năm 1954, ông bắt đầu đan gùi từ năm 22 tuổi.

Lần đó, chàng trai Đinh Bi tình cờ qua thăm chú ruột đúng lúc người chú đang tỉ mẩn cài nan tạo họa tiết hoa văn trên chiếc gùi Ba Na. Lặng thầm quan sát và tình yêu bắt đầu nhen nhóm, từ đó Đinh Bi quyết định thử. Giai đoạn đầu mới học đan, mỗi chiếc gùi Đinh Bi thực hiện mất từ 2 đến 3 tháng.

Để có chiếc gùi ưng ý đầu tiên, trước đó ông đã làm hỏng đến bốn chiếc gùi. Từ một người thợ học việc, dần qua thời gian ông tự mày mò cải tiến, tay nghề ngày càng cao. Giờ đây, đôi bàn tay ông cứ chuốt đều đặn, trăm sợi nan như một, sợi nào cũng mỏng, bóng và chắc chắn, sản phẩm làm ra luôn có nét đẹp đặc trưng dễ nhận biết.

Ghi nhận, tôn vinh những cá nhân có nhiều cống hiến xuất sắc trong sự nghiệp gìn giữ, phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể của dân tộc, năm 2022, Nhà nước đã phong tặng nghệ nhân Đinh Bi danh hiệu Nghệ nhân Ưu tú.

Chị Trần Thị Bích Ngọc, cán bộ phụ trách văn hóa-xã hội xã Kông Lơng Khơng cho biết, người nắm giữ được kỹ thuật đan gùi thường dùng hằng ngày trên địa bàn xã còn nhiều, nhưng đan có hoa văn thì chỉ còn hai nghệ nhân.

Tháng 4 vừa qua, tại Hội thi Nghề đan lát, dệt thổ cẩm và ẩm thực truyền thống do Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tổ chức, cả hai nghệ nhân của làng là nghệ nhân Đinh Văn Rinh và Nghệ nhân Ưu tú Đinh Bi xuất sắc đoạt giải nhất và giải nhì.

Để tạo điểm nhấn, nghệ nhân làng Kgiang sử dụng cây đoác, một loài cây họ dừa mọc ở vùng núi cao Sơn Lang, cách làng khoảng 60 km. Cây đoác sau khi phơi nắng khoảng một tuần thì đem chuốt mỏng, lấy phần cật có màu nâu đậm.

Nghệ nhân dùng sợi đoác màu nâu đậm làm nan dọc phối với sợi giang màu trắng nhạt làm nan ngang, hình thành nên cấu trúc họa tiết Brưng (họa tiết có dạng hình thoi, thường trang trí trên thổ cẩm, nhà rông truyền thống của đồng bào dân tộc Ba Na) hài hòa, nổi bật.

Tiến sĩ Vũ Huyền Trang, Chủ nhiệm đề tài Bảo tồn và phát triển dệt thổ cẩm người Ba Na ở xã Kông Lơng Khơng cho biết, họa tiết Brưng theo tiếng bản địa có nghĩa là đôi mắt, trong đan lát, dệt thổ cẩm, nghệ nhân tài tình lồng vào các yếu tố đời sống trở thành hình tượng cách điệu đối xứng gồm tổ hợp: viền mang dáng dấp bậc thang nhà sàn, hình vuông, chữ nhật biểu thị ô cửa, điểm xuyết ở trung tâm là hình tượng đôi mắt (Brưng)…

Để có một chiếc gùi cân đối, mỗi nghệ nhân có một bí quyết. Nghệ nhân Đinh Văn Rinh chia sẻ, một chiếc gùi cân đối dựa trên tỷ lệ chiều cao và diện tích đáy gùi, thường chiều cao bằng 2 + 1/3 lần chiều dài của cạnh đáy là bảo đảm tiêu chuẩn về kích thước.

Bằng đôi tay tài hoa, óc sáng tạo, người nghệ nhân chân chất của buôn làng biến vật thể khô khan trở nên mềm mại và có hồn. Vẫn trên nền chất liệu, hoa văn truyền thống, mới đây, nghệ nhân Đinh Bi tiếp tục cho ra sản phẩm bình hoa độc lạ, đây là sản phẩm mang tính sáng tạo, có độ khó và tính thẩm mỹ cao.

Nghệ nhân Đinh Bi chia sẻ, khó nhất là công đoạn khóa nan, chiết eo tiếp nối từ thân đến miệng bình, kỹ thuật này đòi hỏi sự cẩn thận, chi li từng mắt khóa, công đoạn quan trọng này mất khoảng 3 ngày để làm xong…

Sáng sớm, nhịp sống ngày mới ở làng Kgiang trôi chậm chậm, ngõ xóm trẻ em ríu rít gọi nhau đến trường, máy cày, máy kéo rộn ràng trên đường làng, những người phụ nữ lưng đeo gùi hối hả rảo bước.

Ở một góc hiên nhà sàn, trên nương rẫy hay bên bếp lửa hồng, nghệ nhân làng Kgiang đang mải miết chuốt, vót từng sợi nan, đan dệt nên những nét đẹp cho đời. Tuổi xưa nay hiếm, mắt không còn tinh anh, đôi bàn tay không còn dẻo dai như trước nhưng nghệ nhân làng Kgiang vẫn vững tâm, bền bỉ dành trọn tình yêu với nghề đan, phần vì mưu sinh, phần vì trách nhiệm bảo tồn, gìn giữ nghề xưa của cha ông để lại.

Lê Sỹ

Nguồn: Dulichvn

Gốm sứ Bình Dương – Giá trị văn hóa từ truyền thống đến hiện đại

Bình Dương từ lâu đã nổi tiếng là nơi lưu giữ và phát triển một trong những dòng gốm sứ đặc sắc nhất miền Nam. Không chỉ là sản phẩm thủ công mỹ nghệ, gốm sứ Bình Dương còn là kết tinh của văn hoá, nghệ thuật và tinh thần lao động bền bỉ, không ngừng đổi mới của người dân nơi đây.


Di sản làng nghề truyền thống

Gốm sứ Bình Dương có lịch sử hình thành, gắn liền với quá trình khai phá và định cư của người Việt ở phương Nam. Những làng nghề gốm nổi tiếng như Tân Phước Khánh (Tân Uyên), Lái Thiêu (Thuận An) hay Chánh Nghĩa (Thủ Dầu Một) từng là trung tâm sản xuất gốm sầm uất, với hàng trăm lò nung đỏ lửa ngày đêm.

Các em nhỏ được trải nghiệm một công đoạn làm gốm

Đặc trưng của gốm Bình Dương là sự giao thoa giữa kỹ thuật truyền thống của người Việt và ảnh hưởng mỹ thuật từ Trung Hoa, Kh’me. Những sản phẩm như chum, vại, bình, lọ, tượng… không chỉ có công năng sử dụng mà còn mang nét đẹp riêng biệt, với hoa văn rồng phượng, sen, cá chép – biểu tượng cho sự phồn vinh, may mắn. Đặc biệt, kỹ thuật phủ men tro, men rạn, men lam cổ điển là điểm nhấn giúp gốm Bình Dương có chất riêng không lẫn với các dòng gốm khác.

Gốm Bình Dương phong phú kiểu dáng với những họa tiết tinh xảo được vẽ thủ công

Tại nhiều cơ sở gốm sứ, hiện vẫn duy trì vừa sản xuất, kinh doanh vừa làm nơi trải nghiệm cho nhiều người thích gốm sứ đến học làm gốm. Họ sẽ tự tay nhào nặn những sản phẩm mình ấp ủ, sáng tạo rồi vẽ lên sản phẩm, đem đi nung và coi như đó là một vật lưu niệm ý nghĩa.

Tại Vườn nhà gốm (phường Lái Thiêu, TP.Thuận An), chúng tôi gặp nghệ  nhân Dương Minh Tâm, anh cho biết đã có hơn 20 năm trong nghề gốm. Anh quê ở Củ Chi, TP.Hồ Chí Minh, từng làm gốm khắp các vùng từ Bến Cát đến Tân Uyên và nhiều cơ sở khác. Hiện anh thường xuyên hướng dẫn khách làm gốm trực tiếp tại xưởng.

Anh cho biết, các sản phẩm ở đây là gốm Nam bộ bao gồm các dòng gốm Biên Hòa (Đồng Nai), gốm Lái Thiêu (Bình Dương). Gốm Nam bộ luôn làm cho mọi người thích thú bởi sự đa dạng về loại hình, công dụng cũng như về kiểu dáng và màu men, phong phú về đề tài thể hiện…

Một số sản phẩm tại Vườn nhà gốm

Người trẻ với hành trình gìn giữ nghề xưa

Giữa thời đại công nghiệp hoá, nhiều làng nghề truyền thống dần mai một. Tuy nhiên, gốm sứ Bình Dương vẫn giữ được sức sống nhờ vào những người trẻ đam mê, sẵn sàng kế thừa và đổi mới.

Không ít sinh viên mỹ thuật, thiết kế công nghiệp cũng chọn thực tập và khởi nghiệp với gốm Bình Dương. Họ mang đến những ý tưởng mới – từ bình gốm trang trí mang hơi thở đương đại, đến sản phẩm ứng dụng như bộ ly tách, gạch ốp nghệ thuật. Đây là tín hiệu đáng mừng, cho thấy nghề gốm không chỉ là quá khứ mà đang sống động trong hiện tại.

Các sản phẩm gốm hiện đại thường được thợ vẽ tay ngẫu nhiên, đường nét mộc mạc. Điểm nhấn vẫn là sự mộc mạc, đơn sơ, không cầu kỳ, trau chuốt, mang yếu tố thủ công và gửi chút hoài niệm cho những điều xưa cũ.

Tại các cơ sở làm gốm, sứ ở Bình Dương, nhiều bạn trẻ sau khi tốt nghiệp Đại học Mỹ Thuật hay các trường nghề, thậm chí đơn giản chỉ là có năng khiếu với mỹ thuật cũng đã chọn cho mình con đường mưu sinh với gốm sứ. Họ vừa học, vừa làm với ngành nghề truyền thống này với mong muốn ngày càng tiến bộ hơn với đam mê của mình.

Giá trị văn hoá  –  mỹ thuật được nâng tầm

Gốm sứ Bình Dương không chỉ có giá trị kinh tế mà còn là di sản văn hoá cần được gìn giữ. Mỗi sản phẩm gốm là một tác phẩm nghệ thuật mang dấu ấn văn hoá bản địa – từ chất liệu đất, kỹ thuật nung cho đến hoạ tiết, kiểu dáng. Qua từng đường nét chạm khắc, người xem cảm nhận được bàn tay tài hoa và tâm hồn sáng tạo của nghệ nhân.

Ngoài các cơ sở làm gốm sứ lớn như Minh Long, Minh Sáng, Vườn nhà gốm… nhiều doanh nghiệp làm du lịch tại địa phương cũng bắt đầu khai thác yếu tố văn hoá gốm vào các tour trải nghiệm – nơi du khách có thể tự tay làm gốm, hiểu về lịch sử và quá trình sáng tạo phía sau từng sản phẩm. Điều này không chỉ tạo nguồn thu mà còn giúp nâng cao nhận thức cộng đồng về giá trị của nghề thủ công truyền thống.

Những người chuyên sưu tầm đồ gốm thỉnh thoảng gặp nhau để giới thiệu những món đồ xưa cũ

Trong dòng chảy hiện đại, gốm sứ Bình Dương vẫn giữ được bản sắc – như một nhịp cầu nối giữa quá khứ và hiện tại. Giá trị của gốm không chỉ nằm ở hình dáng hay công dụng, mà còn là câu chuyện văn hoá, là dấu ấn thời gian còn đọng lại trong từng thớ đất, lửa và bàn tay người thợ.

Gốm sứ Bình Dương hôm nay không chỉ là niềm tự hào của người dân địa phương, mà còn là minh chứng sống động cho sức sống của văn hoá truyền thống trong lòng hiện đại.

Giải thích thêm cho niềm đam mê và cần thiết phải lưu giữ sản phẩm thủ công truyền thống cũng như nét mỹ thuật trên sản phẩm gốm, ông Nguyễn Hữu Phúc, Chủ nhiệm Câu lạc bộ cổ vật TP.Thuận An cho hay, hiện nay câu lạc bộ của ông có gần 50 thành viên có chung niềm đam mê đồ xưa, cổ ở TP.Hồ Chí Minh, Bình Dương, Đồng Nai và một số tỉnh miền Tây. Mọi người đến với nhau bởi thích sưu tập đồ cổ nhiều thể loại: Đồ gốm, đồ gỗ, tranh, ảnh… Đồ gốm xưa thường được ứng dụng trong trang trí nhà cửa, là những bình hoa, lục bình hay những bức tranh gốm đẹp, gạch… Gốm có nhiều loại từ đồ dùng gia dụng, đồ thờ tự, đồ dùng trong các gia đình trí thức, quý tộc xưa và cái quý của gốm là độc bản. Có những loại người ta chỉ làm 1 – 2 mẫu hoặc làm để biếu, tặng nên giá trị của nó ngày càng cao.

Nghề gốm có trên vùng đất Bình Dương từ hàng ngàn năm trước, qua việc khai quật hàng loạt các di tích khảo cổ như Cù Lao Rùa, Mỹ Lộc, Dốc Chùa, Phú Chánh… có niên đại cách ngày nay từ 2.000 đến 3.500 năm. Đến giữa thế kỷ XIX, gốm sứ Bình Dương với danh xưng gốm Lái Thiêu đã theo những thương thuyền đi khắp lục tỉnh Nam kỳ và sang tận Campuchia. Những trung tâm gốm sứ thời thịnh đó là Tân Phước Khánh (TX.Tân Uyên), Lái Thiêu (TP.Thuận An) và Phú Cường, Chánh Nghĩa (TP.Thủ Dầu Một). Đây là 3 trung tâm được xem là cái nôi gốm sứ truyền thống ở Bình Dương, góp phần tạo nên nét đẹp văn hóa đặc trưng của tỉnh Bình Dương.

Xuất phát từ những cái nôi gốm sứ truyền thống, gốm sứ Bình Dương đã tạo nên nhiều thương hiệu nổi tiếng, không những chứa đựng các giá trị về lịch sử, văn hóa dân tộc mà còn góp phần vào sự tăng trưởng kinh tế của địa phương và cứ như thế, dòng chảy của gốm sứ vẫn còn mãi với thời gian.

Quỳnh Như

Nguồn: Dulichvn

Độc đáo đàn tre Goong Cla của đồng bào Chơ Ro

Đàn tre Goong Cla gắn liền với đời sống văn hóa, tinh thần của người Chơ Ro cả khi chung vui cùng cộng đồng hay một mình trên rẫy. Đàn được sáng tạo để người Chơ Ro gửi gắm những ước mơ và truyền tải kho tàng âm nhạc độc đáo của người Chơ Ro.


Đồng bào dân tộc Chơ Ro (còn có tên gọi khác là Châu Ro, Giơ Ro) hiện có khoảng 30.000 người, cư trú tập trung chủ yếu ở các tỉnh Đồng Nai, Bình Dương, Bình Phước và Bà Rịa – Vũng Tàu. Đồng bào Chơ Ro còn lưu giữ được vốn văn hóa truyền thống phong phú. Trong đó đàn tre Goong Cla là một nhạc cụ độc đáo, sáng tạo của người dân Chơ Ro.

Nghệ nhân Điểu Liệt, người biết chế tác đàn Goong Cla và chơi được nhiều bài hát nhất hiện nay ở Đồng Nai.

Nghệ nhân Điểu Liệt ở xã Túc Trưng, huyện Định Quán, tỉnh Đồng Nai cho biết, người Chơ Ro hiện nay vẫn giữ được nhiều phong tục, tập quán và nghi lễ truyền thống như lễ cúng thần lúa, cúng thần rừng, lễ hội cầu mưa, lễ dựng cây nêu, lễ mừng cơm mới và các lễ thức trong chu kỳ vòng đời. Trong các nghi lễ ấy, ngoài cồng chiêng thì cây đàn tre Goong Cơ La là nhạc cụ không thể thiếu.

Từ xa xưa, cây đàn tre gắn liền với đời sống văn hóa, tinh thần của người Chơ Ro cả khi chung vui cùng cộng đồng hay một mình trên rẫy. Đàn Goong Cla được sáng tạo ra để gửi gắm những nỗi lòng, niềm mong mỏi, ước mơ vào cuộc sống. Đó là những lời tự sự, là tiếng lòng sâu kín khó giãi bày nhưng mang tính giáo dục sâu sắc gửi cho con cháu đời sau. Đàn Goong Cla trở nên độc đáo vì truyền tải được kho tàng âm nhạc của người Chơ Ro một cách giản dị, tự nhiên.

Nghệ nhân Điểu Liệt đệm đàn Goong Cla trong một tiết mục biểu diễn tại Lễ Sayangva của người Chơ Ro

Nghệ nhân Điểu Liệt kể rằng, từ nhỏ ông được nghe tiếng đàn tre của những người già trong làng, lớn lên môi trường cuộc sống thay đổi nhiều nên cây đàn tre dần vắng bóng trong các gia đình, những người trẻ không còn biết chơi loại nhạc cụ này. Vì niềm tự hào và yêu say tiếng đàn tre mà từ nhiều năm nay ông đã mày mò chế tác và chơi loại nhạc cụ này.

Đàn Goong Cơ la được làm bằng ống tre có độ dài khoảng 40-60cm, gồm có 2 phần là thân đàn và 6 dây đàn trên ống. Nguyên liệu tốt nhất để chế tác đàn là loại tre chừng 5 tuổi, vì tre già quá cũng không tốt nhưng non quá thì không thích hợp. Tre làm đàn phải là ống tre gai tròn, vỏ bóng và mỏng, mọc trên những đồi cao. Bởi nếu chọn tre mọc dưới thấp cây sẽ nhiều nước, cho ra âm thanh không trong thanh.

Tuy hình dáng đơn giản nhưng để hoàn thành một cây đàn Goong Cla phải trải qua rất nhiều công đoạn: “Làm cái đàn này phải tìm tre phù hợp, cũng không có tiêu chuẩn nhất định mà chỉ chọn tre bằng kinh nghiệm thôi. Lấy tre về rồi phơi héo héo, sau đó làm dây đàn. Nếu để khô quá dây sẽ dễ đứt, nếu phơi non quá tre dễ bị mọt. Đàn này ngày xưa là không có ai dạy mình cả. Mình biết giai điệu và nhớ từ nhỏ, mình tự mày mò mình làm cái này mình đánh luôn được” – Nghệ nhân Điểu Liệt chia sẻ.

Tuy có cấu tạo đơn giản, kỹ thuật chơi đàn không quá phức tạp nhưng để sử dụng được cây đàn tre một cách thành thục, âm thanh phát ra đúng ý nhạc công là cả một quá trình học hỏi lâu dài và bền bỉ. Không gian chơi đàn rất đa dạng nhưng nhiều hơn cả vẫn là nơi thanh vắng như trên nương rẫy hay những lúc một mình. Với đàn tre Goong Cla là sự giản đơn nhưng vô cùng hiệu quả bởi tiếng đàn mang lại xúc cảm đặc biệt cho chính người chơi cũng như những người thưởng thức âm thanh giai điệu của tiếng đàn.

Người Chơ Ro rất quý trọng đàn tre vì đây là sản phẩm được sinh ra từ núi rừng. Đàn tre thân thuộc gắn bó với đồng bào ở hầu hết các sự kiện lớn nhỏ của cộng đồng, trong các dịp vui cũng như những lúc suy tư, giãi bày tâm sự. Đặc biệt, bài hát được thể hiện thường xuyên chính là bài ru con, bởi cuộc sống của đồng bào gắn kết mật thiết với núi rừng nương rẫy. Cha mẹ thường xuyên phải đi làm từ mờ sáng đến tối mịt mới về, ông bà sẽ thay cha mẹ để chăm sóc con trẻ. Âm thanh tiếng đàn tre nhẹ nhàng, êm ái sẽ đưa con trẻ chìm sâu vào giấc ngủ ngon.

Tuy nhiên, với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật cũng như sự giao thoa văn hóa giữa các dân tộc diễn ra ngày một mạnh mẽ, nhiều loại hình giải trí chiếm lĩnh đã tác động không nhỏ đến sức sống của cây đàn tre. Ông Đặng Thanh Hiếu, Trưởng phòng Dân tộc thành phố Long Khánh, tỉnh Đồng Nai cho biết: Hiện nay đàn Goong Cla gần như đã mai một. Ở Long Khánh có 2 người biết chế tác và chơi đàn này nhưng chỉ chơi được 1 bài. Còn nghệ nhân Điểu Liệt là người duy nhất có thể chơi được 9 bài.

Nghệ nhân Điểu Liệt biểu diễn độc tấu với đàn Goong Cla

Trước sự mai một của tiếng đàn tre trong đời sống cộng đồng, ngành văn hóa tỉnh Đồng Nai đã và đang có những biện pháp cụ thể nhằm khắc phục và đưa lên sân khấu thông qua những dịp giao lưu quảng bá hay hội thi hội diễn. Thành phố Long Khánh cũng đang hỗ trợ mở lớp để nghệ nhân Điểu Liệt truyền dạy chế tác và đánh đàn tre cho giới trẻ Chơ Ro. Hy vọng trong tương lai không xa tiếng đàn tre Goong Cơ La sẽ vang lên trên khắp bản làng của người Chơ Ro.

Thu Hà

 

Nguồn: Dulichvn

Gỏi lá, món ăn độc đáo, hấp dẫn ở vùng cao Kon Tum

Thưởng thức gỏi lá Kon Tum là cả một nghệ thuật, là sự kết tinh phong cách ẩm thực của đồng bào các dân tộc vùng cao tỉnh Kon Tum. Vượt ra ngoài biên giới Việt Nam, gỏi lá Kon Tum mang đậm hương vị núi rừng Tây Nguyên từng 2 lần đã được công nhận top 10 đặc sản Việt Nam đạt giá trị ẩm thực châu Á.


Đúng như tên gọi của món ăn đặc sản gỏi lá Kon Tum này, dù không chỉ một lần thưởng thức gỏi lá nhưng tôi vẫn cảm thấy nhạc nhiên khi nhìn đến mâm gỏi đầy lá bầy trên bàn ăn. Chị Hương, chủ quá gỏi lá nổi tiếng trên phố Trần Cao Vân, Kon Tum chia sẻ: Mâm gỏi lá Kon Tum nhiều là nhất có tới 70 loại lá khác nhau, tùy theo mùa và nhu cầu của khách. Tuy nhiên, ít nhất mỗi mâm gỏi lá cũng phải từ 30 vị lá trở lên mới đúng là gỏi lá Kon Tum. Mùa khô, người dân có điều kiện đi rừng hái lá chính là mùa mâm gỏi lá đầy đủ nhất ở Kon Tum. Còn vào mùa mưa, mâm gỏi lá thường chỉ có chừng 30 loại lá, hầu hết là các loại lá cây có thể tìm thấy trong vườn nhà.

Theo chị Hương giới thiệu, các loại lá có thể hái trong vườn cho món gỏi lá có thể kể ra như rau cải, mơ lông, đinh lăng, sung, tía tô, lá ổi, xoài, sấu, lê rừng, diếp cá, các loại rau thơm… Ngoài ra, có nhiều loại lá cây rừng chỉ có ở Tây Nguyên, mang đến hương vị đặc trưng của núi rừng cho món gỏi lá như lá bứa, sầm, ngành ngạnh, trâm, mật gấu, vừng, diệp tân…

Gỏi lá Kon Tum là sự kết tinh phong cách ẩm thực của đồng bào các dân tộc tỉnh vùng cao Kon Tum.

Để làm nhân cho món gỏi lá còn có thịt ba chỉ luộc thái mỏng hoặc thái con chì, tôm luộc rồi xao khô loại nhỏ, bì trộn thính, tiêu hạt, muối hạt và ớt chỉ thiên.

Món gỏi lá Kon Tum ngoài cá loại lá là thứ quan trọng nhất thì không thể thiếu nước chấm. Nước chấm gỏi lá có hương vị đặc biệt được tạo thành từ hèm rượu. Gạo nếp được ủ lên men, sau đó ủ chung với tôm, thịt, sau đó xay nhuyễn sau đó trộn đều với hành khô thái sợi phi thơm, mẻ, sa tế vào nấu với lửa riu riu trên bếp rồi nêm thêm gia vị đến khi vừa ăn.

Thưởng thức gỏi lá Kon Tum là cả một nghệ thuật.

Để thưởng thức món gỏi lá cũng rất cầu kỳ bởi vì không thể cứ kẹp lá với thịt là thành gỏi.  Người ăn gỏi lá cần khéo léo cuốn những chiếc lá thành hình phễu bằng cách lấy một lá to ở ngoài cùng như lá rau cải, rau xà lách rồi chọn tất cả những loại lá nhỏ hơn xếp từng lớp từng lớp, cuộn lại theo hình tròn hoặc rẻ quạt tạo thành một cuốn hình phễu, sau đó, gắp một miếng thịt luộc vào giữa phễu lá, múc một muỗng nhỏ nước chấm sền sệt rưới lên trên, thêm trên đó vài sợi bì thính, một con tôm nhỏ, một hạt tiêu đen ở chính giữa, nếu ăn cay có thể thêm miếng ớt chỉ thiên. Một cuốn gỏi lá hoàn chỉnh sẽ như một bông hoa nhỏ cánh màu xanh của lá, nhị màu vàng cam của tôm tô điểm bởi hạt tiêu đen, vừa một miệng ăn.

Điều đặc biệt càng khiến cho mốn gỏi lá luôn hấp dẫn, mới mẻ bởi mỗi miếng gỏi lá, người ăn chỉ có thể cuốn 5-7 loại lá khác nhau để cho miếng không quá to, vừa miệng, lần cuốn sau lại thay những loại lá khác. Cứ như vậy, cuốn đổi vị hết mấy chục loại lá khiến mỗi miếng gỏi lá đều mang hương vị riêng, sắc thái riêng hấp dẫn trong suốt bữa ăn.

Mâm gỏi lá Kon Tum nhiều là nhất có tới 70 loại lá khác nhau.

Chị Hương cho biết, hầu hết các loại lá trong món gỏi lá đều mang dược tính lành, có tác dụng tốt cho việc tiêu hóa, mát gan, thanh nhiệt với những hương vị rất trái ngược như chua, cay, ngọt, đắng nhưng khi kết hợp lại, tạo nên một món ăn không bao giờ ngán, lại rất đơn giản, dân dã trong khâu chế biến. Món gỏi lá không chỉ chinh phục vị giác của người dân bản địa mà những năm trở lại đây, du khách cả trong và ngoài nước đến Kon Tum đều rất ấn tượng và thích thú với món ăn truyền thống có phần giản đơn nhưng lại đậm chất núi rừng của đồng bào. Gỏi lá thực sự đã để lại ấn tượng khó quên cho bất kỳ ai đặt chân đến vùng đất Kon Tum.

Món gỏi lá Kon Tum chinh phục vị giác du khách trong và ngoài nước.

Thư Vũ

 

Nguồn: Dulichvn

Đặc sản vùng đất cố đô Hoa Lư

Cố đô Hoa Lư là một trong 4 vùng lõi của khu quần thể di sản thế giới Tràng An, Ninh Bình. Điểm đến này không chỉ hấp dẫn du khách trong và ngoài nước với phong cảnh sơn thủy hữu tình, mà những món ngon cũng mang lại cho du khách những trải nghiệm đặc biệt.


Món ăn gợi nhớ Ninh Bình có món ăn dung dị – cơm cháy nhưng lại có sự hấp dẫn, lôi cuốn rất riêng. Sự khác biệt ở chỗ cơm ở đây được sử dụng nguyên liệu hoà trộn giữa hai loại gạo khô và dẻo, qua nhiều công đoạn phơi khô, chiên phồng để cho ra được những mẻ cơm cháy giòn rụm, thơm phức.

Cơm cháy Ninh Bình hấp dẫn du khách.

Cơm cháy thường sẽ ăn chung với ruốc hoặc hành lá phi thơm, lạ miệng hơn khi ăn cùng thịt dê, tim cật và nước sốt đậm đà. Đây cũng là đặc sản được Tổ chức kỷ lục châu Á công nhận theo bộ tiêu chí “Giá trị ẩm thực châu Á”; Tổ chức kỷ lục Việt Nam công nhận – Top 50 món ăn đặc sản nổi tiếng Việt Nam.

Về nguồn gốc của món cơm cháy, theo lời kể của người dân xã Ninh Thắng, huyện Hoa Lư, cuối thể kỷ 19, ở Ninh Bình có thanh niên tên Đinh Hoàng Thăng, anh ra Hà Nội làm công cho một hiệu ăn lớn. Sau đó, do không lấy được con gái ông chủ, Hoàng Thăng nghỉ việc, trở về quê nhà.

Quá trình làm việc, anh đã học được nhiều bí quyết chế biến các món ăn nên mở một nhà hàng, lấy món chủ đạo là cơm cháy. Sau này Đinh Hoàng Thăng lại được ông chủ cũ mời cộng tác mở nhiều nhà hàng mới và gả con gái. Từ thành công của ông, nhiều cửa hàng khác cũng mọc lên, món cơm cháy Ninh Bình ra đời từ đó.

Hiện nay, vùng đất Hoa Lư đang thu hút rất nhiều khách du lịch. Họ đến đây thưởng lãm cảnh sắc thiên nhiên và đặc biệt muốn một thưởng thức các món đặc sản của vùng đất cố đô này, trong đó có món cơm cháy sốt dê. Theo người dân địa phương, dê được chăn thả trên những ngọn núi nên thịt săn chắc và thơm ngon. Ngoài các món nướng, hấp, dê tái chanh, nem dê, dê xào lăn, dê luộc chấm tương gừng thì cơm cháy sốt dê chưa bao giờ khiến thực khách thất vọng.

Cùng với cơm cháy sốt dê, một đặc sản Ninh Bình không thể bỏ qua chính là món nem chua Yên Mạc được sáng tạo dựa trên món nem chua cung đình Huế, mang một hương vị khác biệt và đặc trưng. Và ngon nhất ở vùng Yên Mạc là nem xã Yên Mỗ. Theo người xưa kể lại, vào thời nhà Nguyễn, có cụ Phạm Thận Duật giữ chức Thượng thư trong triều đình nhà Huế, người làng Yên Mộ Thượng. Cụ có người con gái tên là Phạm Thị Thư, từ nhỏ đã theo cha vào kinh thành Huế. Thấy cha thích món nem chua Huế, cô Thư đã học hỏi các đầu bếp trong cung đình để làm cho cha ăn và mời khách.

Sau này bà Phạm Thị Thư về lại quê rồi truyền lại cách làm món nem này cho ông Phạm Xủy (cháu cụ Phạm Thận Duật). Ông Xủy sau này đã mở quán nem chua và thu hút được rất nhiều khách nhờ vị ngon đặc biệt. Người dân trong vùng cứ nhà có cỗ bàn là lại tìm mua món nem chua Yên Lạc. Khách phương xa về với vùng đất này cũng đều tìm mua mang về làm quà.

Được làm từ phần thịt lợn nạc thái mỏng kết hợp với bì heo luộc, mì chính và muối, sau đó được gói lại bằng lá ổi và lá chuối tăng thêm hương vị cho món ngon. Để thưởng thức đúng vị nem chua Yên Mạc, bạn nên kết hợp ăn nem với lá đinh lăng, lá sung hoặc lá mơ. Món ngon này có thể thưởng thức cùng rượu cần Nho Quan. Đây là loại rượu của người Mường sinh sống tại vùng đất Nho Quan làm nên. Với hương vị đặc biệt của những nguyên liệu quen thuộc gạo nếp, lúa, khoai, và đặc biệt là men rượu được làm từ các loại trái cây, lá rừng như lá ổi, củ gừng, củ riềng,… được ủ trong một thời gian để lên men, tạo nên hương vị rượu nồng nàn, thơm ngon.

Danh sách đặc sản vùng đất cố đô Hoa Lư còn nhiều nhưng hai món chủ đạo trên thì bạn nhớ đừng bỏ qua khi ghé thăm vùng đất này.

Hà Thành

Nguồn: Dulichvn

Bảo tồn nghề dệt thổ cẩm truyền thống dân tộc Mông xã Pà Cò

Những năm gần đây, cùng với định hướng phát triển kinh tế du lịch, nghề dệt thổ cẩm truyền thống dân tộc Mông ở xã Pà Cò (Mai Châu, Hòa Bình) từng bước được bảo tồn và phát huy, trở thành nét văn hóa bản địa đặc sắc, góp phần cải thiện đời sống đồng bào dân tộc thiểu số.


Những tấm vải thổ cẩm đa sắc màu, họa tiết hoa văn tinh tế được dệt nên từ những đôi bàn tay khéo léo của phụ nữ xóm Pà Cò 1, xã Pà Cò (Mai Châu, Hòa Bình).

Chị Mùa Y Gánh, nghệ nhân dệt thổ cẩm xã Pà Cò cho biết: Nghệ nhân nghề dệt thổ cẩm giờ còn rất ít. Trong nhịp sống hiện đại, trang phục may sẵn, vải dệt họa tiết thổ cẩm sản xuất theo dây chuyền bán nhiều ngoài chợ, giá rẻ. Vì vậy, nghề trồng lanh, dệt thổ cẩm của người Mông dần bị mai một. Phụ nữ Mông biết nghề nhưng ít khi    thực hành.

Từ năm 2018, mô hình du lịch cộng đồng được xây dựng và phát triển ở một số xóm, đưa Pà Cò trở thành điểm đến hấp dẫn. Bên cạnh sức hút cảnh quan thiên nhiên, các sản phẩm du lịch trải nghiệm, trong đó có nghề dệt thổ cẩm truyền thống được đông đảo du khách yêu thích. Từ đây, nghề dệt được khôi phục,   sản phẩm ngày càng phong phú, không chỉ để làm trang phục váy áo, khăn, mũ sử dụng trong sinh hoạt gia đình, mà phần lớn đáp ứng nhu cầu mua sắm đồ lưu niệm, quà tặng của du khách.

Cũng như các phụ nữ dân tộc Mông, chị Sùng Y Thanh ở xóm Pà Cò 1, xã Pà Cò đã theo mẹ trồng lanh, kéo sợi, thành thạo thao tác may, thêu thùa từ thuở chưa về nhà chồng. Chị Thanh chia sẻ: Để tạo ra những sản phẩm thổ cẩm hay bộ trang phục truyền thống phải qua nhiều công đoạn. Mỗi công đoạn từ trồng lanh, se sợi, in sáp, nhuộm chàm, thêu, may… đều đòi hỏi sự tỉ mỉ, khéo léo của người làm. Vì vậy mà trước đây và bây giờ, người phụ nữ Mông tài giỏi, chăm chỉ, khéo tay hay không được đánh giá qua tay nghề dệt vải lanh.

Vụ trồng lanh ở Pà Cò diễn ra khoảng tháng 3, tháng 4 hàng năm. Kỳ cây lanh cho thu hoạch vào khoảng tháng 7, tháng 8, bà con đem lanh phơi nắng cho khô rồi tước thành sợi. Sợi lanh được đưa vào cối giã mềm và nối lại, cuốn thành từng cuộn tròn mang đi giặt, sau đó luộc cho    sợi lanh mềm và trắng thì mang ra nắng phơi khô. Kết thúc công đoạn làm lanh, người Mông dùng guồng chia sợi trước khi mắc vào khung cửi để dệt.

Sau công đoạn dệt thành vải, chị em dùng bút làm bằng đồng hơ nóng lên để vẽ vào lớp sáp ong tạo hoa văn in vào vải rồi đem đi nhuộm chàm, khi vải có màu sẫm nhúng vào nước sôi, sáp ong chảy ra để lại những hoa văn màu xanh lơ. Tiếp đó là công đoạn thêu, họa tiết hoa văn trên nền trang phục của người Mông chủ yếu là những khối hình vuông, hình thoi, hình chữ nhật… được làm thủ công nên mất nhiều thời gian.

Cũng qua hoạt động du lịch, những sản phẩm dệt thủ công được nhiều người chú ý. Một số cơ sở đến tận nơi tìm hiểu và giới thiệu, kết nối tiêu thụ mặt hàng dệt thổ cẩm. Trên địa bàn 2 xã đã hình thành một số nhóm nghề quy tụ chị em phụ nữ cùng thực hiện công việc. Chị Sùng Y Gánh, thành viên nhóm nghề xóm Pà Cò 1 cho biết: Từ khi tham gia công việc tạo ra sản phẩm hàng hóa, tôi tự hào và ý thức hơn việc bảo tồn nghề truyền thống của dân tộc Mông. Đây cũng là nguồn thu nhập hỗ trợ đáng kể cho sinh hoạt gia đình.

Theo chị Sùng Y Thanh, nghề dệt thổ cẩm giờ không chỉ một số phụ nữ lớn tuổi làm, mà chị em tuổi trung niên cũng tích cực tham gia, trẻ em gái cũng được hướng dẫn, học hỏi để giữ nghề và truyền lại cho các thế hệ sau. Đến nay, các hộ làm homestay tiếp tục phát huy vai trò kết nối du lịch làng nghề để đa dạng hoạt động trải nghiệm cho điểm đến. Tại xã đã thành lập được 1 làng nghề dệt thổ cẩm truyền thống và một số nhóm nghề dệt; 2 điểm trưng bày và giới thiệu hàng lưu niệm thổ cẩm do các nghệ nhân của làng nghề, nhóm nghề thực hiện, 100% sản phẩm được dệt thủ công.  

Các làng nghề, nhóm nghề còn chủ động chào hàng, mang sản phẩm đến các cơ sở dịch vụ du lịch địa phương để giới thiệu, xúc tiến tiêu thụ, đồng thời giúp quảng bá để sản phẩm nghề dệt chứa đựng tinh hoa văn hóa dân tộc Mông Pà Cò ngày một vươn xa.

Bùi Minh

 

Nguồn: Dulichvn

Trăm năm lừng danh Chợ Lớn – TP. Hồ Chí Minh

Danh từ Chợ Lớn xuất hiện từ thế kỷ thứ 17, theo nghĩa đen là một cái chợ lớn hơn những cái chợ khác trong khu vực. Theo quá trình lịch sử, Chợ Lớn từng là tên của tỉnh Chợ Lớn, thành phố Chợ Lớn, đô thành Sài Gòn – Chợ Lớn. Và trung tâm huyện lỵ của tỉnh Chợ Lớn xưa, là vùng Trung Huyện. Hiện nay, địa danh phường Chợ Lớn là khu vực thuộc các phường trung tâm của Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh.


Chợ Lớn hôm nay có vị trí thông thương thủy bộ rất quan trọng với Đông Nam Bộ, Đồng bằng sông Cửu Long. (Ảnh Hoàng Việt Trung)

Đồng chí Thanh Bình, Phó ban Tuyên giáo và Dân vận Huyện ủy Bến Lức cho biết, Nhà Long Hiệp (huyện Bến Lức, tỉnh Long An) là nơi đồng chí Lê Quang Sung chủ trì Hội nghị thành lập Tỉnh ủy Chợ Lớn tháng 11/1930 và trở thành Bí thư Tỉnh ủy đầu tiên. Dưới sự lãnh đạo của ông, phong trào cách mạng không ngừng phát triển, nhiều cuộc đấu tranh gây tiếng vang lớn. Khi bị địch bắt, ông tiếp tục xây dựng tổ chức Đảng bí mật ngay trong nhà tù.

Theo ghi chép, tỉnh Chợ Lớn xưa gồm một phần đất của Thành phố Hồ Chí Minh và tỉnh Long An hiện nay, gồm địa bàn các quận 5, 6, 8, 10, 11, Bình Tân, huyện Bình Chánh (thuộc Thành phố Hồ Chí Minh) và các huyện Đức Hòa, Đức Huệ, Cần Đước, Cần Giuộc, Bến Lức (thuộc tỉnh Long An). Và trong tỉnh Chợ Lớn, còn có đơn vị cấp huyện, quận, đơn cử như là Trung Huyện, gồm toàn bộ huyện Bình Chánh, quận Bình Tân và các huyện Cần Giuộc, Cần Đước, Bến Lức bây giờ. Không chỉ đánh giặc, nhân dân Chợ Lớn-Trung Huyện còn diệt giặc dốt, làm kinh tế để tạo kinh tài cho Nam Bộ và toàn quốc kháng chiến trường kỳ.

Theo hồi ức của ông Phan Văn Sít, nguyên Chánh Văn phòng Huyện ủy Trung Huyện, cuối tháng 11/1946, tại Căn cứ Vườn Thơm đã diễn ra Hội nghị Tỉnh ủy mở rộng. Hội nghị đã được nghe Trung ương Đảng chỉ thị cho Nam Bộ “phải kết hợp đấu tranh vũ trang với đấu tranh của quần chúng; bảo vệ, xây dựng chính quyền cách mạng ở nông thôn, thành thị; đoàn kết tôn giáo. Ông Sít còn làm Trưởng Bình dân học vụ xóa mù chữ cho tá điền, dù năm đó ông chỉ mới học hết lớp nhất. Còn theo hồi ức của ông Trần Văn Khá, nguyên Chánh Văn phòng Tỉnh ủy Chợ Lớn, trong tình thế căng thẳng, công tác phát triển và củng cố cơ sở Đảng vẫn được thực hiện tốt. Năm 1947, có 20 xã có chi bộ hoặc chi bộ ghép, để phát triển cơ sở, hầm bí mật được xây dựng cả trong vùng địch chiếm. Công tác phá tề, diệt tề đạt kết quả cao, nhiều ban hội tề bị giải tán hoặc buộc phải giải tán, nhiều tên tề ác bị trừng trị. Việc huy động vật chất trong dân cũng đạt kết quả lớn, riêng số nguyên liệu đồng đóng góp cho quân giới đã được hơn 20 tấn, trong đó có cả những mâm đồng, lư thờ… để chế tạo vũ khí.

Tại lần họp mặt truyền thống lần thứ 39, năm 2025 đồng chí Nguyễn Đô Lương, Trưởng Ban liên lạc truyền thống Chợ Lớn- Trung Huyện cho rằng, vì chỉ cách Sài Gòn khoảng 10 km đường chim bay, từ năm 1946, Huyện ủy Trung Huyện thuộc Tỉnh ủy Chợ Lớn đã xây dựng làng căn cứ đầu não kháng chiến của tỉnh Chợ Lớn. Đây còn là nơi đặt Trường Mác- Lênin đầu tiên của tỉnh. Còn theo đồng chí Nguyễn Đăng Minh Xuân, Bí thư Huyện ủy Bến Lức, do vị trí tiếp giáp Đồng Tháp Mười (là căn cứ của Xứ ủy Nam Bộ lúc đó), Vườn Thơm trở thành “trạm” đón tiếp, trung chuyển. Từ tháng 5 đến tháng 9/1948, quân Pháp đã mở hai cuộc càn quét lớn vào đây, đến ngày 28/9/1948, Bí thư Thành ủy Sài Gòn Lê Văn Sĩ đã hy sinh cùng 87 cán bộ, chiến sĩ khác.

Những ngày đầu kháng chiến ở mảnh đất phương nam này không chỉ có đạn pháo, hy sinh mà còn có những cuộc tình rất thật, rất đẹp. Từ sự vun đắp của đồng chí Lê Văn Sĩ (trước lúc hy sinh), cô gái Ngô Thị Huệ đã nên duyên với chàng thanh niên Nguyễn Văn Linh (sau này là Tổng Bí thư của Đảng ta). Bà Huệ kể trong hồi ký: “Tháng 4/1947, tôi được triệu tập về dự Hội nghị cán bộ Thành ủy Sài Gòn (tổ chức tại Căn cứ Vườn Thơm thuộc Trung Huyện của tỉnh Chợ Lớn). Tại đây, anh Ba Duẩn (nguyên Tổng Bí thư Lê Duẩn) và anh Mười Cúc (nguyên Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh) nhắc nhở chúng tôi phải hết sức thông cảm với đồng bào “hồi cư” sau khi “tiêu thổ kháng chiến” vì mỗi người đều có hoàn cảnh riêng nhưng tuyệt đại đa số đều giữ trọng lòng yêu nước”. Theo bà Ngô Thị Huệ, sau đó một năm, đồng chí Nguyễn Văn Linh và bà nên duyên chồng vợ. Quà cưới là 100 trái gòn dùng để làm gối nằm tân hôn. Phòng hoa chúc cũng được bố trí trong căn cứ. Lễ cưới nơi bưng biền vô cùng hạnh phúc…

Mới đây, tại kỳ họp thứ 22 Hội đồng nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh khóa X, nhiệm kỳ 2021-2026 đã thống nhất thông qua Nghị quyết về việc tán thành chủ trương sắp xếp đơn vị hành chính cấp xã của thành phố. Trong đó, phường Chợ Lớn hôm nay sẽ bao gồm các phường 11,12,13,14 của Quận 5. Phường có diện tích 1,67km2, có lẽ là phường có nhiều chợ nhất cả nước như: Chợ Đồng Khánh, Chợ Đại Quang Minh, Chợ Kim Biên, Chợ Tân Thành, Chợ Vật tư, Chợ Phùng Hưng, Chợ Hà Tôn Quyền, Chợ Vật liệu xây dựng, Chợ Xã Tây; là phường có mật độ bệnh viện dày nhất trong cả nước như: Chợ Rẫy, Hùng Vương, Phạm Ngọc Thạch, Truyền máu huyết học, Răng hàm mặt Trung ương, Đại học Y dược, Công an Thành phố; là phường có nhiều di tích kiến trúc nghệ thuật cấp quốc gia như: Hội quán Tuệ Thành, Hội quán Nghĩa An, Hội quán Nhị Phủ, Hội quán Hải Nam, Hội quán Ôn Lăng, Đình Minh Hương, Hội quán Nghĩa Nhuận, Hội quán Lệ Châu, Hội quán Hà Chương, Hội quán Quỳnh Phủ.

Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân Quận 5 Nguyễn Võ Xuân Kỳ cho biết, sau nửa thế kỷ, khi cả nước chào đón kỷ niệm 50 năm Ngày Giải phóng hoàn toàn miền nam, thống nhất đất nước, Chợ Lớn hết sức tự hào có các đơn vị được Ủy ban nhân dân thành phố công nhận đạt danh hiệu “50 doanh nghiệp tiêu biểu có thương hiệu và sản phẩm chủ lực của Thành phố Hồ Chí Minh” là: Bệnh viện Chợ Rẫy, Bệnh viện Đại học Y dược, Bệnh viện Hùng Vương và Công ty cổ phần thực phẩm Cholimex. Với những dấu ấn vàng son về lịch sử, văn hóa, kinh tế, những người con vùng Chợ Lớn có thể yêu và tự hào vì mình đã sinh ra, lớn lên hoặc đã từng cư trú, từng học tập, công tác ở nơi này.

Dương Minh Anh

Nguồn: Dulichvn

Bất ngờ bò lá giang

Trưa đất núi hâm hấp, nóng nung. Ai cũng uể oải, chẳng biết nhắm với thức gì cho trơn miệng. Ông bạn già đề đạt với cô chủ: “Cho món gì đó nhanh nhanh, nước nước, thơm thơm”. Lát sau, một tô lớn bốc khói, đầy sắc màu đặt lên bàn.


Đầu tiên là hương ngon ngót của lá é trắng và ớt xiêm, hòa với mùi lá giang chua nhẹ cùng vị thịt bò tươi nóng. Màu xanh của é trắng – ớt xiêm tươi, đượm chút phớt đỏ của lá giang và thịt bò nấu chín. Mắt mũi ông nào cũng chợt hấp háy, thế là mỗi người mỗi chén gắp húp liên tục, xuýt xoa. Nhẹ nhàng, nhanh gọn mà đậm đà, ngọt thơm thấm thía. Ai nấy đều bất ngờ trước sự “lợi khẩu” của tô canh chua bò lá giang.

Món canh chua bò lá giang.

Hỏi ra mới biết, đây là một kiểu nấu canh chua của người Tây Nguyên, tuyệt đối không nêm nước mắm. Chỉ cần ít thịt bò nạc xắt lát, đem tái trong nước sôi rồi vớt ra. Tiếp tục nấu chín nồi nước tái với lá giang để nguyên lá. Nêm muối vừa miệng. Sau đó đổ thịt bò trở lại nồi nước, rắc lên một ít ớt xiêm xanh đập giập và nắm lá é trắng. Ai thích bột nêm thì thêm tí. Vậy là có tô canh bò lá giang thơm lừng, nghi ngút.

Người nào ăn cay – mặn thì có thể đâm thêm chén muối ớt, thích thì thêm dĩa rau é trắng. Không chỉ để nhâm nhi, món bò lá giang dùng để ăn với cơm, bún, mì hoặc bánh tráng đều ngon miệng. Chỉ cần chịu khó một chút, món này ai nấu cũng được. Đơn giản, nhanh chóng chỉ trong mươi phút nhưng dư vị của món canh chua thịt bò nấu lá giang thì hết sức ấn tượng!

Hùng Phiên

 

Nguồn: Dulichvn

Khánh Hòa giữ gìn vẻ đẹp cho các di tích

Mới đây, UBND tỉnh Khánh Hòa đã có văn bản gửi các sở, ngành, địa phương liên quan về việc tăng cường quản lý di tích và hoạt động bảo quản, tu bổ, phục hồi di tích lịch sử – văn hóa, danh lam thắng cảnh. Đây là sự nhắc nhở cần thiết, nhằm nâng cao nhận thức của mọi người đối với vấn đề bảo vệ, giữ gìn các di tích trên địa bàn tỉnh.


Hạn chế những hành vi xâm hại di tích

Cách đây mấy năm, trong một lần đến xã Ninh Phú (thị xã Ninh Hòa), chúng tôi đã không khỏi bất ngờ với cách “tân trang” một ngôi đình có tuổi đời hơn 220 năm. Nhìn những bức tường vôi được ốp gạch men sáng bóng, các bức tượng được tô vẽ bằng màu sơn công nghiệp tươi mới… khiến chúng tôi không khỏi băn khoăn. Tất nhiên, sau đó cơ quan chức năng đã vào cuộc kịp thời để khắc phục việc trùng tu đình theo đúng quy định. Thế nhưng, qua đó cũng phần nào thể hiện cho việc nếu chúng ta buông lỏng, lơi là trong công tác tu bổ, tôn tạo các di tích lịch sử, văn hóa rất dễ dẫn đến những hành động xâm hại đến vẻ đẹp vốn có của di tích. Trong thực tế, đây đó chúng ta vẫn thấy xuất hiện những hành vi như: Viết, vẽ bậy lên di tích; lấn chiếm diện tích khuôn viên di tích; sử dụng không gian di tích vào các mục đích không đúng quy định; nạn trộm cắp đồ thờ tự, hiện vật quý của di tích… thỉnh thoảng vẫn diễn ra, gây dư luận không tốt. Theo Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, qua theo dõi thực tế, đơn vị nhận thấy bên cạnh việc nhiều tỉnh, thành phố trong cả nước đã làm tốt công tác bảo vệ và phát huy giá trị di tích, vẫn còn hiện tượng tu bổ, tôn tạo, xây dựng công trình phát huy giá trị di tích không theo đúng quy định của pháp luật; không đúng với nội dung thẩm định của cơ quan chuyên môn và của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, làm ảnh hưởng tới giá trị di tích, tạo dư luận không tốt trong xã hội về công tác quản lý di tích và hoạt động bảo quản, tu bổ, phục hồi di tích.

Di tích quốc gia đặc biệt Tháp Bà Pô Nagar được quản lý chặt chẽ và phát huy hiệu quả giá trị trong hoạt động du lịch.

Một điều đáng mừng đối với tỉnh Khánh Hòa, khi hằng năm có nhiều di tích được tu bổ, tôn tạo, nhưng phần lớn đều được triển khai theo đúng trình tự, quy trình các bước một cách chặt chẽ. Vì thế, trường hợp như ngôi đình ở xã Ninh Phú chỉ là chuyện hi hữu. Theo báo cáo của Trung tâm Bảo tồn di tích tỉnh, từ cuối tháng 4 và nửa đầu tháng 5-2025, đơn vị đã khảo sát việc tôn tạo di tích đình Hội Phước; báo cáo kinh tế kỹ thuật tu bổ, tôn tạo di tích đình Đảnh Thạnh; lập hồ sơ xếp hạng danh lam thắng cảnh Suối Tiên (huyện Diên Khánh); khảo sát tu bổ di tích Miếu Hội đồng (thị xã Ninh Hòa); phối hợp hoàn thiện hồ sơ đề nghị điều chuyển tài sản công Dự án Tái hiện căn cứ Đồng Bò (TP. Nha Trang); hướng dẫn tu bổ, phục dựng đình Sơn Đừng (huyện Vạn Ninh); thực hiện đo bản đồ tọa độ VN-2000 điều chỉnh khoanh vùng các khu vực bảo vệ di tích đã xếp hạng trên địa bàn TP. Nha Trang và TP. Cam Ranh theo thực trạng; hoàn chỉnh hồ sơ khoa học Danh lam thắng cảnh Mũi Đôi – Hòn Đôi (Hòn Đầu) theo ý kiến của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch…

Quan tâm thường xuyên, liên tục

Trong văn bản chỉ đạo, UBND tỉnh đã yêu cầu UBND các địa phương tăng cường hơn nữa vai trò, trách nhiệm trong việc quản lý, bảo vệ, phát huy giá trị di tích và hoạt động bảo quản, tu bổ, phục hồi di tích; kiểm soát chặt chẽ quy trình kiểm kê, xếp hạng mới di tích, gắn kết chặt chẽ với chương trình, kế hoạch tu bổ, tôn tạo, phát huy giá trị di tích. Tổ chức tuyên truyền rộng rãi về ý nghĩa, giá trị của các di tích, lý do bảo quản, tu bổ, phục hồi di tích và công khai nội dung dự án tu bổ di tích trước khi triển khai để nhân dân được biết… UBND tỉnh cũng đề nghị Sở Tài chính, Sở Xây dựng phối hợp với Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch; UBND các địa phương thực hiện các quy định về bảo quản, tu bổ, phục hồi di tích theo quy định của Luật Di sản văn hóa. Triển khai thực hiện đúng các nội dung thẩm định dự án, báo cáo kinh tế – kỹ thuật, thiết kế bản vẽ thi công tu bổ di tích đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, cơ quan chức năng của bộ thỏa thuận, góp ý, để bảo đảm bảo vệ, giữ gìn được yếu tố gốc tạo nên giá trị di tích…

Theo ông Nguyễn Văn Nhuận – Giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch, thực hiện chỉ đạo của UBND tỉnh, sở sẽ phối hợp với các cơ quan báo chí, truyền thông trên địa bàn tỉnh để tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật, nâng cao nhận thức và ý thức chấp hành pháp luật về di sản văn hóa. Căn cứ hướng dẫn của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch để tham mưu UBND tỉnh ban hành văn bản về hoạt động quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa trên địa bàn được đưa vào các danh mục kiểm kê, được xếp hạng, ghi danh, công nhận trong các danh mục của quốc gia, các danh sách, danh mục của UNESCO trên địa bàn tỉnh.

Giang Đình

 

Nguồn: Dulichvn

Độc đáo trang phục dân tộc Lô Lô đen

Dân tộc Lô Lô ở Cao Bằng chủ yếu là Lô Lô đen với gần 3.000 người, chiếm 0,54% dân số toàn tỉnh và chiếm 59% tổng số người Lô Lô ở Việt Nam. Người Lô Lô đen sinh sống tập trung tại các xã: Kim Cúc, Cô Ba, Hồng Trị (Bảo Lạc) và Đức Hạnh (Bảo Lâm). Tuy là một dân tộc ít người, đời sống còn nhiều khó khăn nhưng người Lô Lô luôn có ý thức giữ gìn bản sắc văn hóa, thể hiện rõ trong việc gìn giữ trang phục truyền thống của dân tộc mình.


Ấn tượng đầu tiên của khách du lịch khi đến các bản người Lô Lô đen chắc hẳn là trang phục của người phụ nữ. Bởi những bộ trang phục này thường rất cầu kỳ từ quần, áo, khăn, mũ và được trang trí các loại hoa văn tinh xảo như hình tam giác, hình vuông, mặt trời… Kỹ thuật trang trí bằng cách khâu vá các mảnh vải màu lên trang phục. Mỗi chi tiết, hoa văn đều thể hiện nét đẹp tín ngưỡng, văn hóa truyền thống riêng.

Trang phục của người Lô Lô đen có màu đen làm chủ đạo. Phụ nữ Lô Lô đen mặc áo chàm tự dệt, là loại áo ngắn, xẻ ngực, cổ tròn. Kích thước một áo trung bình chỉ dài khoảng 40 cm, rộng vai 40 – 42 cm. Vì vậy khi mặc, thường để hở phần bụng. Ngày nay, phần bụng hở được mặc thêm một áo lót mỏng màu trắng hoặc xanh da trời bằng vải phin. Hai ống tay áo hẹp, hình búp măng. Phần dưới nách được khâu thêm miếng vải hình tam giác cân làm cho áo có hình cánh dơi.

Việc trang trí trên tay áo tạo thành hai phần rõ rệt. Phần nửa tay áo từ bả vai xuống đến khuỷu tay được khâu bằng bốn đường vải màu đỏ hay màu hồng cách đều nhau tạo thành vòng tròn khép kín. Phần từ khuỷu tay đến cổ tay là các khoanh vải màu (đỏ, xanh, vàng nối nhau), thường là 9 khoanh, có thể rộng bằng nhau hoặc to nhỏ khác nhau. Gấu áo và nẹp áo được viền bằng vải hoa, rộng khoảng 1 cm để trang trí. Trên đường viền gấu áo và nẹp áo có khâu nối ba đường chỉ xanh, vàng, trắng. Phía trong nẹp áo cả hai bên được khâu thêm một mảnh vải.

Áo phụ nữ Lô Lô đen có 4 hoặc 5 khuy cài bằng vải hay đính cúc đồng. Phần sống lưng áo là nơi tập trung các mảng trang trí hoa văn nhiều nhất, nơi thể hiện bàn tay khéo léo, óc thẩm mỹ, sáng tạo của phụ nữ Lô Lô đen. Miếng vải trang trí rộng 10 – 12 cm, chạy suốt từ cổ áo đến gấu áo. Mảnh trang trí này được tạo bởi các mảnh vải hình tam giác cân, hình vuông ghép lại tạo thành ba hoặc bốn hình vuông to, giữa hai ô vuông ghép vải có đường thêu hình sóng nước bằng chỉ màu trắng. Kỹ thuật ghép vải và thêu hoa văn cầu kỳ đã tạo cho chiếc áo của phụ nữ Lô Lô đen vừa rực rỡ, vừa trầm ấm bởi phần trang trí trên thân áo chỉ chiếm một vị trí khiêm tốn ở giữa lưng.

Phụ nữ dân tộc Lô Lô đen tự tay cắt, khâu trang phục của mình.

Theo bà Chi Thị Vàng, xóm Khuổi Khon, xã Kim Cúc (Bảo Lạc), do đặc điểm của áo Lô Lô là mặc hở phần bụng, khoe vòng eo của người phụ nữ nên trẻ em Lô Lô khi còn nhỏ mặc áo chui đầu, cổ tròn, áo được mở một đoạn trước ngực và cài bằng hai cúc đồng để trẻ dễ chui đầu khi mặc. Áo thường có thân dài che kín mông. Quần trẻ em cũng cắt kiểu quần chân què giống quần người lớn. Tuy nhiên riêng với trẻ em gái, khi đến 8 tuổi bắt đầu quấn vải quanh bụng để khi lớn có được vòng eo thon gọn, mặc áo mới đẹp.

Phụ nữ Lô Lô đen mặc quần cắt may từ vải chàm, là loại quần chân què, cạp lá tọa, dài khoảng 70 – 75 cm, rộng 45 – 48 cm, không thêu thùa hoa văn. Khi sử dụng, phía ngoài quần choàng thêm một tấm vải chàm từ sau ra đằng trước và cuộn chặt lại trước bụng. Tấm vải này có tác dụng cuộn chặt cạp quần, tạo dáng cho phụ nữ đẹp hơn.

Phụ nữ Lô Lô quấn xà cạp cũng được làm từ vải chàm, là loại xà cạp có hình dáng như một tam giác nhọn, cạnh rộng 30 cm, đầu nhọn có dây vải dài để buộc. Khi dùng áp đầu rộng vào cổ chân, sau khi quấn xong dùng dây vải quấn ngược lại và buộc nối ở phía cổ chân để xà cạp không bị tụt.

Đặc biệt hơn cả là khăn đội đầu của phụ nữ Lô Lô. Chính kiểu quấn khăn đội đầu của chị em phụ nữ đã tạo ra nét độc đáo trong trang phục của dân tộc Lô Lô đen. Chị Dương Thị Thào, xóm Cà Mèng, xã Đức Hạnh (Bảo Lâm) cho biết: Khăn đội đầu của phụ nữ Lô Lô đen gồm ba loại (hai khăn đen bằng vải chàm và một khăn bằng vải trắng). Khăn trắng là loại khăn hình chữ nhật, có chiều dài khoảng trên 100 cm, rộng 30 cm. Khăn đen bằng vải chàm, có hai loại: một loại dài khoảng 150 cm, rộng 40 cm. Một loại dài khoảng 130 cm, rộng 15 cm (đã gấp nếp và thêu trang trí ở hai đầu). Khi đội khăn, phụ nữ Lô Lô búi gọn tóc lên đỉnh đầu, dùng khăn trắng quấn nhiều vòng trong cùng và để chừa lại một đoạn đủ quấn một vòng ngoài cùng. Tiếp đến dùng khăn vải chàm rộng quấn hai vòng quanh đầu và quấn nốt vòng khăn trắng bên ngoài những vòng khăn đen, sau đó hất một đầu dải khăn đen về phía sau lưng. Dải khăn này dài chấm thắt lưng. Cuối cùng quấn chiếc khăn chàm hẹp phía ngoài, một đầu dải khăn cũng được luồn mối và hất ra phía sau lưng. Dải khăn này chỉ dài quá vai người đội một chút.

Trang phục nam giới Lô Lô đen tương đồng với trang phục nam của các dân tộc khác của Cao Bằng.

Kỹ thuật quấn khăn của phụ nữ Lô Lô đen phải đạt hai tiêu chuẩn, đó là khăn phải phủ kín đầu và đồng thời phải “khoe” được cả ba loại khăn quấn trên đầu ra ngoài. Với phương pháp quấn khăn này đã tạo nên phong cách riêng độc đáo cho chị em phụ nữ Lô Lô đen.

Ngoài bộ y phục, phụ nữ Lô Lô đen thường đeo túi trầu được khâu bằng vải chàm, có kích thước 10 cm x 8 cm, được luồn bằng hai sợi dây kết bằng các sợi chỉ màu. Hai đầu dây được xâu từ 10 – 12 đồng xu để trang trí. Khi đeo túi, những đồng xu này được khoe về phía trước bụng. Túi trầu được đồng bào sử dụng như một vật trang điểm cho người phụ nữ. Đồng thời, phụ nữ Lô Lô đen còn sử dụng nhiều trang sức bằng bạc rất đa dạng như: vòng cổ, vòng tay, xà tích… Bạc với người Lô Lô đen không chỉ mang yếu tố thẩm mỹ, tâm linh mà còn là thứ hồi môn của bố mẹ cho con gái khi đi lấy chồng.

Nam giới Lô Lô đen mặc khá đơn giản với trang phục khá tương đồng với nam của các dân tộc Tày, Nùng, Sán Chỉ. Bộ trang phục của họ gồm có: khăn quấn đầu được làm bằng vải chàm, dài chừng 2 m, rộng 40 cm, không có trang trí. Khi dùng, khăn được gấp thành bốn lần theo chiều dọc và quấn nhiều vòng quanh đầu như đội khăn xếp của người Kinh, mối khăn được giắt phía sau gáy. Áo được khâu bằng vải chàm, cắt 5 thân, dài trên đầu gối, khoét nách, xẻ tà 2 bên, cổ tròn, cài cúc lệch sát nách phải. Khuy áo bằng đồng hoặc nhựa. Từ nách áo xuống gấu áo được đáp một mảnh vải rộng khoảng 10 cm để làm cho thân áo xòe rộng dần. Nam giới Lô Lô đen mặc quần khâu bằng vải chàm, kiểu chân què, ống rộng, cạp lá tọa. Trong những dịp lễ, tết, hội hay cưới xin, nam giới Lô Lô đen thường mặc quần bằng vải màu xanh.

Bộ trang phục là một phần của đời sống, gắn kết đời sống sinh hoạt và tâm linh của người Lô Lô. Trước sự biến đổi của thời gian, cuộc sống ngày càng gần hơn với sự giao lưu hội nhập nhưng bộ trang phục này luôn là niềm tự hào của người dân Lô Lô trên những bản vùng cao.

Thanh Thúy

 

Nguồn: Dulichvn

TIN MỚI NHẤT