Du lịch trong nước

Du lịch trong nước, tin tức du lịch trong nước, các tour du lịch trong nước, các địa điểm du lịch trong nước hấp dẫn được chúng tôi tổng hợp và đưa tin hàng ngày đến cho khách du lịch trên khắp mọi miền đất nước có được thông tin du lịch trong nước để có những thông tin hữu ích nhất cho mình và gia đình khi quyết định chọn chuyến du lịch trong nước cho mình và người thân

Khánh Hòa giữ gìn vẻ đẹp cho các di tích

Mới đây, UBND tỉnh Khánh Hòa đã có văn bản gửi các sở, ngành, địa phương liên quan về việc tăng cường quản lý di tích và hoạt động bảo quản, tu bổ, phục hồi di tích lịch sử – văn hóa, danh lam thắng cảnh. Đây là sự nhắc nhở cần thiết, nhằm nâng cao nhận thức của mọi người đối với vấn đề bảo vệ, giữ gìn các di tích trên địa bàn tỉnh.


Hạn chế những hành vi xâm hại di tích

Cách đây mấy năm, trong một lần đến xã Ninh Phú (thị xã Ninh Hòa), chúng tôi đã không khỏi bất ngờ với cách “tân trang” một ngôi đình có tuổi đời hơn 220 năm. Nhìn những bức tường vôi được ốp gạch men sáng bóng, các bức tượng được tô vẽ bằng màu sơn công nghiệp tươi mới… khiến chúng tôi không khỏi băn khoăn. Tất nhiên, sau đó cơ quan chức năng đã vào cuộc kịp thời để khắc phục việc trùng tu đình theo đúng quy định. Thế nhưng, qua đó cũng phần nào thể hiện cho việc nếu chúng ta buông lỏng, lơi là trong công tác tu bổ, tôn tạo các di tích lịch sử, văn hóa rất dễ dẫn đến những hành động xâm hại đến vẻ đẹp vốn có của di tích. Trong thực tế, đây đó chúng ta vẫn thấy xuất hiện những hành vi như: Viết, vẽ bậy lên di tích; lấn chiếm diện tích khuôn viên di tích; sử dụng không gian di tích vào các mục đích không đúng quy định; nạn trộm cắp đồ thờ tự, hiện vật quý của di tích… thỉnh thoảng vẫn diễn ra, gây dư luận không tốt. Theo Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, qua theo dõi thực tế, đơn vị nhận thấy bên cạnh việc nhiều tỉnh, thành phố trong cả nước đã làm tốt công tác bảo vệ và phát huy giá trị di tích, vẫn còn hiện tượng tu bổ, tôn tạo, xây dựng công trình phát huy giá trị di tích không theo đúng quy định của pháp luật; không đúng với nội dung thẩm định của cơ quan chuyên môn và của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, làm ảnh hưởng tới giá trị di tích, tạo dư luận không tốt trong xã hội về công tác quản lý di tích và hoạt động bảo quản, tu bổ, phục hồi di tích.

Di tích quốc gia đặc biệt Tháp Bà Pô Nagar được quản lý chặt chẽ và phát huy hiệu quả giá trị trong hoạt động du lịch.

Một điều đáng mừng đối với tỉnh Khánh Hòa, khi hằng năm có nhiều di tích được tu bổ, tôn tạo, nhưng phần lớn đều được triển khai theo đúng trình tự, quy trình các bước một cách chặt chẽ. Vì thế, trường hợp như ngôi đình ở xã Ninh Phú chỉ là chuyện hi hữu. Theo báo cáo của Trung tâm Bảo tồn di tích tỉnh, từ cuối tháng 4 và nửa đầu tháng 5-2025, đơn vị đã khảo sát việc tôn tạo di tích đình Hội Phước; báo cáo kinh tế kỹ thuật tu bổ, tôn tạo di tích đình Đảnh Thạnh; lập hồ sơ xếp hạng danh lam thắng cảnh Suối Tiên (huyện Diên Khánh); khảo sát tu bổ di tích Miếu Hội đồng (thị xã Ninh Hòa); phối hợp hoàn thiện hồ sơ đề nghị điều chuyển tài sản công Dự án Tái hiện căn cứ Đồng Bò (TP. Nha Trang); hướng dẫn tu bổ, phục dựng đình Sơn Đừng (huyện Vạn Ninh); thực hiện đo bản đồ tọa độ VN-2000 điều chỉnh khoanh vùng các khu vực bảo vệ di tích đã xếp hạng trên địa bàn TP. Nha Trang và TP. Cam Ranh theo thực trạng; hoàn chỉnh hồ sơ khoa học Danh lam thắng cảnh Mũi Đôi – Hòn Đôi (Hòn Đầu) theo ý kiến của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch…

Quan tâm thường xuyên, liên tục

Trong văn bản chỉ đạo, UBND tỉnh đã yêu cầu UBND các địa phương tăng cường hơn nữa vai trò, trách nhiệm trong việc quản lý, bảo vệ, phát huy giá trị di tích và hoạt động bảo quản, tu bổ, phục hồi di tích; kiểm soát chặt chẽ quy trình kiểm kê, xếp hạng mới di tích, gắn kết chặt chẽ với chương trình, kế hoạch tu bổ, tôn tạo, phát huy giá trị di tích. Tổ chức tuyên truyền rộng rãi về ý nghĩa, giá trị của các di tích, lý do bảo quản, tu bổ, phục hồi di tích và công khai nội dung dự án tu bổ di tích trước khi triển khai để nhân dân được biết… UBND tỉnh cũng đề nghị Sở Tài chính, Sở Xây dựng phối hợp với Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch; UBND các địa phương thực hiện các quy định về bảo quản, tu bổ, phục hồi di tích theo quy định của Luật Di sản văn hóa. Triển khai thực hiện đúng các nội dung thẩm định dự án, báo cáo kinh tế – kỹ thuật, thiết kế bản vẽ thi công tu bổ di tích đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, cơ quan chức năng của bộ thỏa thuận, góp ý, để bảo đảm bảo vệ, giữ gìn được yếu tố gốc tạo nên giá trị di tích…

Theo ông Nguyễn Văn Nhuận – Giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch, thực hiện chỉ đạo của UBND tỉnh, sở sẽ phối hợp với các cơ quan báo chí, truyền thông trên địa bàn tỉnh để tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật, nâng cao nhận thức và ý thức chấp hành pháp luật về di sản văn hóa. Căn cứ hướng dẫn của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch để tham mưu UBND tỉnh ban hành văn bản về hoạt động quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa trên địa bàn được đưa vào các danh mục kiểm kê, được xếp hạng, ghi danh, công nhận trong các danh mục của quốc gia, các danh sách, danh mục của UNESCO trên địa bàn tỉnh.

Giang Đình

 

Nguồn: Dulichvn

Độc đáo trang phục dân tộc Lô Lô đen

Dân tộc Lô Lô ở Cao Bằng chủ yếu là Lô Lô đen với gần 3.000 người, chiếm 0,54% dân số toàn tỉnh và chiếm 59% tổng số người Lô Lô ở Việt Nam. Người Lô Lô đen sinh sống tập trung tại các xã: Kim Cúc, Cô Ba, Hồng Trị (Bảo Lạc) và Đức Hạnh (Bảo Lâm). Tuy là một dân tộc ít người, đời sống còn nhiều khó khăn nhưng người Lô Lô luôn có ý thức giữ gìn bản sắc văn hóa, thể hiện rõ trong việc gìn giữ trang phục truyền thống của dân tộc mình.


Ấn tượng đầu tiên của khách du lịch khi đến các bản người Lô Lô đen chắc hẳn là trang phục của người phụ nữ. Bởi những bộ trang phục này thường rất cầu kỳ từ quần, áo, khăn, mũ và được trang trí các loại hoa văn tinh xảo như hình tam giác, hình vuông, mặt trời… Kỹ thuật trang trí bằng cách khâu vá các mảnh vải màu lên trang phục. Mỗi chi tiết, hoa văn đều thể hiện nét đẹp tín ngưỡng, văn hóa truyền thống riêng.

Trang phục của người Lô Lô đen có màu đen làm chủ đạo. Phụ nữ Lô Lô đen mặc áo chàm tự dệt, là loại áo ngắn, xẻ ngực, cổ tròn. Kích thước một áo trung bình chỉ dài khoảng 40 cm, rộng vai 40 – 42 cm. Vì vậy khi mặc, thường để hở phần bụng. Ngày nay, phần bụng hở được mặc thêm một áo lót mỏng màu trắng hoặc xanh da trời bằng vải phin. Hai ống tay áo hẹp, hình búp măng. Phần dưới nách được khâu thêm miếng vải hình tam giác cân làm cho áo có hình cánh dơi.

Việc trang trí trên tay áo tạo thành hai phần rõ rệt. Phần nửa tay áo từ bả vai xuống đến khuỷu tay được khâu bằng bốn đường vải màu đỏ hay màu hồng cách đều nhau tạo thành vòng tròn khép kín. Phần từ khuỷu tay đến cổ tay là các khoanh vải màu (đỏ, xanh, vàng nối nhau), thường là 9 khoanh, có thể rộng bằng nhau hoặc to nhỏ khác nhau. Gấu áo và nẹp áo được viền bằng vải hoa, rộng khoảng 1 cm để trang trí. Trên đường viền gấu áo và nẹp áo có khâu nối ba đường chỉ xanh, vàng, trắng. Phía trong nẹp áo cả hai bên được khâu thêm một mảnh vải.

Áo phụ nữ Lô Lô đen có 4 hoặc 5 khuy cài bằng vải hay đính cúc đồng. Phần sống lưng áo là nơi tập trung các mảng trang trí hoa văn nhiều nhất, nơi thể hiện bàn tay khéo léo, óc thẩm mỹ, sáng tạo của phụ nữ Lô Lô đen. Miếng vải trang trí rộng 10 – 12 cm, chạy suốt từ cổ áo đến gấu áo. Mảnh trang trí này được tạo bởi các mảnh vải hình tam giác cân, hình vuông ghép lại tạo thành ba hoặc bốn hình vuông to, giữa hai ô vuông ghép vải có đường thêu hình sóng nước bằng chỉ màu trắng. Kỹ thuật ghép vải và thêu hoa văn cầu kỳ đã tạo cho chiếc áo của phụ nữ Lô Lô đen vừa rực rỡ, vừa trầm ấm bởi phần trang trí trên thân áo chỉ chiếm một vị trí khiêm tốn ở giữa lưng.

Phụ nữ dân tộc Lô Lô đen tự tay cắt, khâu trang phục của mình.

Theo bà Chi Thị Vàng, xóm Khuổi Khon, xã Kim Cúc (Bảo Lạc), do đặc điểm của áo Lô Lô là mặc hở phần bụng, khoe vòng eo của người phụ nữ nên trẻ em Lô Lô khi còn nhỏ mặc áo chui đầu, cổ tròn, áo được mở một đoạn trước ngực và cài bằng hai cúc đồng để trẻ dễ chui đầu khi mặc. Áo thường có thân dài che kín mông. Quần trẻ em cũng cắt kiểu quần chân què giống quần người lớn. Tuy nhiên riêng với trẻ em gái, khi đến 8 tuổi bắt đầu quấn vải quanh bụng để khi lớn có được vòng eo thon gọn, mặc áo mới đẹp.

Phụ nữ Lô Lô đen mặc quần cắt may từ vải chàm, là loại quần chân què, cạp lá tọa, dài khoảng 70 – 75 cm, rộng 45 – 48 cm, không thêu thùa hoa văn. Khi sử dụng, phía ngoài quần choàng thêm một tấm vải chàm từ sau ra đằng trước và cuộn chặt lại trước bụng. Tấm vải này có tác dụng cuộn chặt cạp quần, tạo dáng cho phụ nữ đẹp hơn.

Phụ nữ Lô Lô quấn xà cạp cũng được làm từ vải chàm, là loại xà cạp có hình dáng như một tam giác nhọn, cạnh rộng 30 cm, đầu nhọn có dây vải dài để buộc. Khi dùng áp đầu rộng vào cổ chân, sau khi quấn xong dùng dây vải quấn ngược lại và buộc nối ở phía cổ chân để xà cạp không bị tụt.

Đặc biệt hơn cả là khăn đội đầu của phụ nữ Lô Lô. Chính kiểu quấn khăn đội đầu của chị em phụ nữ đã tạo ra nét độc đáo trong trang phục của dân tộc Lô Lô đen. Chị Dương Thị Thào, xóm Cà Mèng, xã Đức Hạnh (Bảo Lâm) cho biết: Khăn đội đầu của phụ nữ Lô Lô đen gồm ba loại (hai khăn đen bằng vải chàm và một khăn bằng vải trắng). Khăn trắng là loại khăn hình chữ nhật, có chiều dài khoảng trên 100 cm, rộng 30 cm. Khăn đen bằng vải chàm, có hai loại: một loại dài khoảng 150 cm, rộng 40 cm. Một loại dài khoảng 130 cm, rộng 15 cm (đã gấp nếp và thêu trang trí ở hai đầu). Khi đội khăn, phụ nữ Lô Lô búi gọn tóc lên đỉnh đầu, dùng khăn trắng quấn nhiều vòng trong cùng và để chừa lại một đoạn đủ quấn một vòng ngoài cùng. Tiếp đến dùng khăn vải chàm rộng quấn hai vòng quanh đầu và quấn nốt vòng khăn trắng bên ngoài những vòng khăn đen, sau đó hất một đầu dải khăn đen về phía sau lưng. Dải khăn này dài chấm thắt lưng. Cuối cùng quấn chiếc khăn chàm hẹp phía ngoài, một đầu dải khăn cũng được luồn mối và hất ra phía sau lưng. Dải khăn này chỉ dài quá vai người đội một chút.

Trang phục nam giới Lô Lô đen tương đồng với trang phục nam của các dân tộc khác của Cao Bằng.

Kỹ thuật quấn khăn của phụ nữ Lô Lô đen phải đạt hai tiêu chuẩn, đó là khăn phải phủ kín đầu và đồng thời phải “khoe” được cả ba loại khăn quấn trên đầu ra ngoài. Với phương pháp quấn khăn này đã tạo nên phong cách riêng độc đáo cho chị em phụ nữ Lô Lô đen.

Ngoài bộ y phục, phụ nữ Lô Lô đen thường đeo túi trầu được khâu bằng vải chàm, có kích thước 10 cm x 8 cm, được luồn bằng hai sợi dây kết bằng các sợi chỉ màu. Hai đầu dây được xâu từ 10 – 12 đồng xu để trang trí. Khi đeo túi, những đồng xu này được khoe về phía trước bụng. Túi trầu được đồng bào sử dụng như một vật trang điểm cho người phụ nữ. Đồng thời, phụ nữ Lô Lô đen còn sử dụng nhiều trang sức bằng bạc rất đa dạng như: vòng cổ, vòng tay, xà tích… Bạc với người Lô Lô đen không chỉ mang yếu tố thẩm mỹ, tâm linh mà còn là thứ hồi môn của bố mẹ cho con gái khi đi lấy chồng.

Nam giới Lô Lô đen mặc khá đơn giản với trang phục khá tương đồng với nam của các dân tộc Tày, Nùng, Sán Chỉ. Bộ trang phục của họ gồm có: khăn quấn đầu được làm bằng vải chàm, dài chừng 2 m, rộng 40 cm, không có trang trí. Khi dùng, khăn được gấp thành bốn lần theo chiều dọc và quấn nhiều vòng quanh đầu như đội khăn xếp của người Kinh, mối khăn được giắt phía sau gáy. Áo được khâu bằng vải chàm, cắt 5 thân, dài trên đầu gối, khoét nách, xẻ tà 2 bên, cổ tròn, cài cúc lệch sát nách phải. Khuy áo bằng đồng hoặc nhựa. Từ nách áo xuống gấu áo được đáp một mảnh vải rộng khoảng 10 cm để làm cho thân áo xòe rộng dần. Nam giới Lô Lô đen mặc quần khâu bằng vải chàm, kiểu chân què, ống rộng, cạp lá tọa. Trong những dịp lễ, tết, hội hay cưới xin, nam giới Lô Lô đen thường mặc quần bằng vải màu xanh.

Bộ trang phục là một phần của đời sống, gắn kết đời sống sinh hoạt và tâm linh của người Lô Lô. Trước sự biến đổi của thời gian, cuộc sống ngày càng gần hơn với sự giao lưu hội nhập nhưng bộ trang phục này luôn là niềm tự hào của người dân Lô Lô trên những bản vùng cao.

Thanh Thúy

 

Nguồn: Dulichvn

Mùa quay mật ong hoa cà phê trên Tây Nguyên

Tháng 4, hoa cà phê nở rộ trắng muốt khắp triền đồi, tỏa hương thơm ngát. Đây chính là thời điểm người nuôi ong ở Đắk Lắk bước vào mùa thu hoạch mật ong hoa cà phê – sản vật nức tiếng của núi rừng Tây Nguyên. Nhiều địa phương đã xây dựng thành công thương hiệu mật ong làm sản phẩm đặc trưng vùng, được chứng nhận sản phẩm trong Chương trình “Mỗi xã một sản phẩm” (OCOP).


Những thùng ong đặt dưới tán cây trong rẫy cà phê. Ảnh: Lê Hường

Chuẩn bị vào mùa ong đi lấy mật hoa cà phê, từ trước Tết Nguyên đán, người làm nghề nuôi ong đã phải đưa đàn ong đến các chủ vườn, rẫy cà phê xin đặt tổ. Khi những cầu ong óng ánh sắc vàng, căng tràn mật ngọt, người nuôi ong căn cứ vào lượng mật, tính toán ngày thu hoạch. Theo kinh nghiệm, mỗi thùng ong có 7-10 cầu, khoảng 7-10 ngày, cầu ong đầy mật là lúc phải lấy mật để ong làm lứa mật mới.

Gắn bó với ong hơn 30 năm, ông Vũ Hữu Cao, sinh năm 1977, trú tại xã Cư Suê, huyện Cư M’gar hiểu rõ nghề nuôi ong trên cao nguyên đất đỏ. Ông Cao chia sẻ: “Gia đình tôi có 900 đàn ong, đạt sản lượng khoảng 60 tấn mật/năm. Việc nuôi ong đã giúp gia đình tôi ổn định cuộc sống, có thêm kinh phí để lo cho các con ăn học. Nghề nuôi ong đòi hỏi người nuôi phải có sự kiên trì, tỉ mỉ và hiểu biết về đặc tính sinh trưởng, phát triển của ong, cũng như nắm vững quy luật và chu kỳ hoa để ong có thể làm mật theo mùa. Người nuôi ong phải yêu nghề mới có thể làm tốt và gắn bó lâu dài nghề, bởi nghề nuôi ong đối diện với không ít rủi ro. Nếu chẳng may ong hút phải những bông hoa có dư lượng thuốc bảo vệ thực vật, ong sẽ chết. Người nuôi ong chuyên nghiệp phải lưu ý lựa chọn những khu vực cà phê canh tác an toàn”.

Hơn 10 năm nuôi ong, đến nay, anh Đinh Quốc Thanh, ở xã Ea Drông, thị xã Buôn Hồ có khoảng 300 thùng ong, trung bình mỗi năm thu hoạch hơn 15 tấn mật. Anh Thanh chia sẻ: “Để đàn ong khỏe mạnh, năng suất, chất lượng mật cao, người nuôi chăm sóc đàn ong cẩn thận. Thường xuyên kiểm tra, vệ sinh thùng ong đảm bảo thùng ong luôn khô ráo, sạch sẽ để phòng tránh các loại bệnh. Tùy thuộc vào thời tiết để có biện pháp chăm sóc ong phù hợp, trời lạnh thì chống rét, nắng thì chống nóng. Quan trọng nữa là chú ý theo mùa hoa để di chuyển đàn ong đến những vùng có nhiều hoa cho ong lấy mật. Việc nuôi ong không chỉ mang lại giá trị kinh tế cho người làm nghề nuôi ong, mà còn bảo vệ môi trường sinh thái vì ong nhạy cảm với khói bụi, các hóa chất, giúp gia đình tôi nâng cao ý thức trong việc thu gom, xử lý rác, giảm thiểu sử dụng thuốc bảo vệ thực vật trong sản xuất nông nghiệp. Ngoài ra, ong còn giúp thụ phấn cho hoa, tăng năng suất cây trồng”.

Mùa thu hoạch mật cũng là mùa đẹp nhất của vùng đất Tây Nguyên – nơi rừng núi trập trùng, bạt ngàn cà phê bung nở trắng xóa, tạo nên một bức tranh thiên nhiên hùng vĩ mà dịu dàng, vừa khoáng đạt, vừa thơ mộng. Trong cái nắng nhẹ vàng óng của tháng 3, những đàn ong chăm chỉ vút bay giữa biển hoa, cần mẫn thu nhặt từng giọt mật tinh hoa từ đất trời. Cảnh tượng ấy không chỉ gợi lên vẻ đẹp của sự cần lao, mà còn khiến lòng người như dịu lại giữa nhịp sống hối hả.

Đối với những người nuôi ong nơi đây, mỗi mùa mật là một mùa hy vọng. Họ sống hòa mình với thiên nhiên, gắn bó với từng tổ ong như những người bạn đồng hành thân thiết. Cuộc sống tuy không hào nhoáng, nhưng chất chứa trong đó là niềm vui giản dị, bền bỉ và một tình yêu lớn với nghề. Người nuôi ong thuộc từng mùa hoa, rành từng hướng gió, hiểu được khi nào ong sẽ “ăn mật” nhiều nhất, hay khi nào cần di chuyển đàn ong đi nơi khác để tránh rét, tránh mưa. Mỗi chuyến đi theo đàn ong là một hành trình rong ruổi, lặng lẽ giữa đại ngàn, giữa trời đất rộng lớn, nhưng thấm đẫm tình người và tình quê.

Sau khi mật được thu hoạch, quá trình bảo quản mật ong cũng đòi hỏi sự tỉ mỉ không kém. Mật ong nguyên chất thường được đựng trong các chai thủy tinh sạch, đậy kín để tránh hơi ẩm, ánh sáng và nhiệt độ cao – những yếu tố có thể ảnh hưởng đến chất lượng mật. Mỗi mẻ mật đều được người thợ quan sát kỹ lưỡng: màu sắc phải trong, độ sánh phải đạt, hương thơm phải giữ được nét đặc trưng nguyên bản. Có những người còn thử mật bằng cách nhỏ vài giọt lên lá chuối khô – nếu giọt mật tròn, đặc và không thấm lan thì đó là mật ngon, nguyên chất. Từng chai mật vàng sóng sánh, thơm dịu ấy chính là kết tinh của biết bao công sức, mồ hôi và cả tình yêu thầm lặng dành cho nghề.

Với người dân nơi đây, mật ong không chỉ đơn thuần là sản phẩm nông nghiệp. Nó là biểu tượng của sự gắn bó giữa con người với thiên nhiên, giữa lao động chân chính với thành quả ngọt lành. Một giọt mật vàng sóng sánh là một giọt thời gian, một chút tinh hoa của đất trời và cả một phần tâm huyết của những người thợ ong chân chất, hiền lành, luôn cần mẫn gìn giữ và truyền lại nghề cho các thế hệ mai sau.

Dùng dao cắt sạch sáp thừa trước khi cho vào thùng quay mật. Ảnh: Lê Hường

Chị Nguyễn Thị Minh Tâm, Đội trưởng Đội dịch vụ quay mật Minh Tâm tại huyện Cư M’gar – người có hơn 15 năm gắn bó với nghề quay mật ong, chia sẻ đầy tâm huyết: “Thu hoạch mật ong là một công việc không chỉ đòi hỏi sức khỏe, mà còn yêu cầu người thợ phải thật nhanh tay, nhanh mắt và đặc biệt khéo léo. Mọi thao tác đều phải được thực hiện trong một khoảng thời gian rất ngắn. Nếu quá trình thu hoạch kéo dài, ong sẽ kịp thời hút lại mật đã làm ra, nhộng ong non sẽ bị yếu đi, thậm chí có thể chết vì bị xáo trộn môi trường sống. Điều đó không chỉ ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe và khả năng sinh sản của đàn ong, mà còn khiến năng suất mật giảm mạnh”. Theo chị Tâm, mỗi trại ong thường có hàng chục đến hàng trăm thùng ong và đội quay mật phải hoàn thành toàn bộ công việc trong vòng 4 giờ đồng hồ – một khoảng thời gian ngắn ngủi nhưng đầy áp lực. Đó là thời điểm “vàng” để can thiệp mà không gây tổn hại đến tổ ong, đồng thời bảo đảm thu được lượng mật tối ưu, trước khi đàn ong có cơ hội thay đổi cấu trúc hoạt động.

Theo số liệu từ Chi cục Chăn nuôi và Thú y tỉnh Đắk Lắk, toàn tỉnh hiện có khoảng 1.500 hộ nuôi ong với quy mô gần 200.000 đàn ong – một con số cho thấy sự phát triển mạnh mẽ và bền vững của nghề nuôi ong tại địa phương. Đắk Lắk, với lợi thế khí hậu nhiệt đới và diện tích rừng trồng cà phê, điều, cao su lớn, là một trong những vùng nuôi ong trọng điểm của cả nước. Sản lượng mật ong hàng năm của tỉnh đạt trên 10.000 tấn, chiếm khoảng 30% tổng sản lượng mật ong toàn quốc. Đây là một đóng góp không nhỏ vào kim ngạch xuất khẩu nông sản, với thị trường tiêu thụ trải rộng khắp các quốc gia phát triển như châu Âu, Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc…

Tuy nhiên, bên cạnh những tín hiệu tích cực, ngành nuôi ong xuất khẩu của Đắk Lắk cũng đang phải đối mặt với không ít thách thức. Các thị trường nhập khẩu ngày càng siết chặt quy định về chất lượng, truy xuất nguồn gốc và vệ sinh an toàn thực phẩm. Nhiều lô hàng mật ong đã bị kiểm tra gắt gao về dư lượng kháng sinh, độ ẩm, độ nguyên chất… khiến người nuôi ong phải thay đổi phương pháp chăm sóc, sử dụng chế phẩm sinh học thay cho thuốc hóa học truyền thống. Không chỉ vậy, việc áp dụng mức thuế nhập khẩu cao ở một số quốc gia còn làm giảm tính cạnh tranh của mật ong Việt Nam so với các nước bạn trong khu vực.

Ngoài ra, biến đổi khí hậu – với những thay đổi thất thường của thời tiết, mùa hoa rút ngắn hoặc không nở đúng chu kỳ cũng ảnh hưởng nặng nề đến việc khai thác mật. Những năm gần đây, hạn hán kéo dài, mưa trái mùa xuất hiện nhiều hơn, khiến ong khó khăn trong việc tìm nguồn hoa ổn định. Điều này dẫn đến sản lượng mật giảm rõ rệt, trong khi chi phí duy trì đàn ong lại tăng cao. Trước tình hình đó, người nuôi ong buộc phải thích nghi bằng cách thay đổi lịch di chuyển đàn ong, đầu tư thêm vào thiết bị bảo vệ tổ ong và học hỏi các mô hình nuôi ong bền vững, thân thiện với môi trường.

Nghề nuôi ong, quay mật vốn dĩ không ồn ào, không hoa mỹ, nhưng lại ẩn chứa trong đó một giá trị bền vững, lâu dài. Đó là sự kết nối giữa con người và thiên nhiên, giữa trí tuệ và lao động cần cù. Mỗi giọt mật thu được là thành quả của cả một quá trình thầm lặng, đòi hỏi sự nhẫn nại, lòng đam mê và cả niềm tự hào của những người thợ ong chân chất nơi đại ngàn Đắk Lắk.

Lê Hường

Nguồn: Dulichvn

Lan tỏa di sản Hồ Chí Minh

Nhân kỷ niệm 135 năm Ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh (19/5/1890 – 19/5/2025), Khu Di tích Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Phủ Chủ tịch tổ chức chuỗi hoạt động ý nghĩa, nhằm tri ân, tưởng nhớ và lan tỏa sâu sắc hơn nữa những giá trị vĩ đại mà Người để lại tới toàn thể nhân dân trong nước và bạn bè quốc tế.


Triển lãm 135 ảnh tư liệu Bác Hồ tại Khu Phủ Chủ tịch (1954 – 1969). Ảnh: V.H.

Đến với Triển lãm Quốc gia “Chủ tịch Hồ Chí Minh – Tinh hoa dân tộc, tầm vóc thời đại”, công chúng được xem rất nhiều hình ảnh, tài liệu quý giá được sưu tầm, khai thác từ các cơ quan lưu trữ, bảo tàng, di tích, thư viện, cơ quan thông tấn, báo chí trong và ngoài nước.

Qua các hình ảnh, tài liệu trưng bày triển lãm đã khắc họa tầm vóc, giá trị di sản của Người trong lịch sử dân tộc và thời đại, thể hiện sự tôn kính và lòng biết ơn vô hạn đối với vị Lãnh tụ đã dành trọn đời mình cho tự do, độc lập của dân tộc và hạnh phúc của nhân dân.

Cũng trong dịp này đã diễn ra triển lãm 135 ảnh tư liệu Bác Hồ tại Khu Phủ Chủ tịch (1954 – 1969). Triển lãm trưng bày 135 bức ảnh tư liệu đặc sắc, được Khu Di tích Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Phủ Chủ tịch dày công sưu tầm, hệ thống. Đây là những khoảnh khắc chân thực, sống động về các hoạt động của Bác trong không gian Khu Phủ Chủ tịch, nơi Người đã sống và làm việc trong 15 năm cuối cùng (1954 -1969), điểm dừng chân lâu nhất trong hành trình 79 mùa xuân của cuộc đời Chủ tịch Hồ Chí Minh.

135 bức ảnh không chỉ là tư liệu quý giá mà còn là cầu nối gợi lại những kỷ niệm thiêng liêng, sâu sắc về Người; là ký ức đẹp đẽ, thân thương, nhắc nhở mỗi người về một cuộc đời bình dị mà vĩ đại, luôn dành trọn tình yêu thương cho đồng bào và đất nước, mãi mãi tỏa sáng trong lòng mỗi người dân Việt Nam và bạn bè quốc tế.

Phòng Hiện vật kể chuyện với trưng bày chuyên đề “Bác Hồ với miền Nam – Miền Nam với Bác Hồ” mang đến cho người xem rất nhiều cảm xúc. Trưng bày là hoạt động đặc biệt ý nghĩa, khắc họa chân thực và xúc động tình cảm thiêng liêng, sâu nặng giữa Chủ tịch Hồ Chí Minh và đồng bào, chiến sĩ miền Nam ruột thịt.

Với 45 tài liệu, hiện vật gốc được tuyển chọn kỹ lưỡng từ Khu Di tích Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Phủ Chủ tịch, Bảo tàng Lịch sử Quốc gia, gia đình Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Bảo tàng Nguyễn Chí Thanh và nhiều nguồn tư liệu quý khác, trưng bày đưa người xem sống lại những năm tháng lịch sử hào hùng, với tình cảm sâu nặng của Chủ tịch Hồ Chí Minh dành cho miền Nam ruột thịt cũng như tình cảm thủy chung son sắt của miền Nam thương nhớ gửi đến Người.

Cùng với các hoạt động trưng bày, trong dịp này cuốn sách “135 chuyện kể về Bác Hồ” cũng được ra mắt, cuốn sách tập hợp 135 câu chuyện kể chân thực, giản dị mà sâu sắc, được ghi lại từ ký ức của những cán bộ, chiến sĩ và đồng bào đã từng sống, làm việc và học tập gần Chủ tịch Hồ Chí Minh trong thời kỳ từ năm 1954 đến 1969.

Qua từng trang sách, hình ảnh vị lãnh tụ kính yêu hiện lên vừa chân thực vừa sống động: “Người là Cha, là Bác, là Anh” với lối sống vô cùng khiêm tốn, giản dị.

Mỗi câu chuyện, mỗi ký ức trong cuốn sách không chỉ tái hiện chân thực về cuộc đời giản dị, thanh cao của Bác, mà còn chứa đựng những bài học vô giá về đạo đức cách mạng, về lối sống và nhân cách lớn lao của Người.

Chương trình trải nghiệm di sản Hồ Chí Minh dành cho học sinh tại Khu Di tích Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Phủ Chủ tịch cũng là một hoạt động vô cùng ý nghĩa, nhằm giáo dục truyền thống, bồi dưỡng lòng yêu nước và khơi dậy tình cảm kính yêu Bác Hồ trong thế hệ trẻ. Chương trình nổi bật với hoạt động “Nghe hiện vật kể chuyện”; tham gia giao lưu, chia sẻ cảm nhận và tham quan nơi ở, làm việc của Bác. Qua đó, các em hiểu hơn về cuộc đời, tư tưởng và tấm gương đạo đức của Bác Hồ.

V. Hà

Nguồn: Dulichvn

Nhà hát ngoài trời tại Sunset Town vào Guinness thế giới

Nhà hát ngoài trời tại Sunset Town, TP. Phú Quốc (Kiên Giang) vừa được tổ chức Guinness thế giới (Guinness World Records) công nhận kỷ lục là nhà hát ngoài trời sở hữu màn chiếu nước và sức chứa lớn nhất thế giới.


Sân khấu ngoài trời nhìn từ Cầu Hôn.

Ngày 15/5, Sở Du lịch tỉnh Kiên Giang cho biết tổ chức Guinness thế giới vừa công nhận kỷ lục đối với nhà hát ngoài trời tại Sunset Town vì sở hữu màn chiếu nước và sức chứa lớn nhất thế giới.

Nhà hát có màn chiếu nước 1.000m2, sức chứa trên khán đài 5.000 chỗ ngồi, tổng vốn 1.600 tỷ đồng, do tập đoàn Sun Group đầu tư.

Quy mô của nhà hát ngoài trời tại Sunset Town thậm chí lớn gấp 2 lần so với nhà hát ngoài trời Wings of Time (Singapore 2.500 chỗ ngồi); Legend of Pangu (Trung Quốc 1.500 chỗ ngồi).

Nhà hát ngoài trời tại Sunset Town nổi tiếng với show diễn “Kiss of the Sea – Nụ hôn của biển” hàng đêm, được trình diễn với quy mô và công nghệ trình chiếu trên mặt nước tiên tiến đẳng cấp quốc tế.

Khách du lịch xem màn pháo hoa rực rỡ trong show diễn Kiss of the Sea tại sân khấu ngoài trời.

Show diễn “Kiss of the Sea – Nụ hôn của biển” kể về câu chuyện tình yêu giữa một chàng trai Phú Quốc và một cô gái đến từ thiên hà xa xôi, được thể hiện qua sự kết hợp của công nghệ trình chiếu hiện đại, âm nhạc, ánh sáng, nước, lửa, laser và pháo hoa… mang đến trải nghiệm nghệ thuật đa giác quan độc đáo cho khán giả. Trong show diễn còn có sự xuất hiện của chó xoáy và dugong (bò biển) là hai loài đặc trưng của Phú Quốc giúp đỡ chàng trai chống lại thế lực bên ngoài để đến được với tình yêu của mình…

Với sự kết hợp giữa nghệ thuật và công nghệ, Kiss of the Sea không chỉ là show diễn thông thường mà là kiệt tác nghệ thuật đẳng cấp thế giới.

Với việc nhà hát ngoài trời tại Sunset Town đạt kỷ lục Guinness thế giới, Phú Quốc có hai kỷ lục, do trước đó cáp treo 3 dây vượt biển Hòn Thơm cũng được tổ chức này công nhận là dài nhất thế giới. Đây được xem là trái ngọt của sự nỗ lực không ngừng về các dự án làm đẹp cho những vùng đất và đưa hình ảnh Việt Nam ra thế giới của Tập đoàn Sun Group trong việc đầu tư, xây dựng các khu phức hợp du lịch đẳng cấp khắp cả nước…

Tin và ảnh: Trung Hiếu

Nguồn: Dulichvn

Thành Nhà Hồ: Những phát hiện quan trọng dưới lòng đất

Kết quả khai quật khảo cổ học tại di sản văn hóa thế giới Thành Nhà Hồ thời gian qua đã thu được những thành tựu vô cùng quan trọng.


Một mặt bằng kiến trúc tổng thể của một kinh đô cổ dần được phát lộ, cho phép chúng ta nhìn nhận một cách rõ nét về quy hoạch kiến trúc và cách thức xây dựng, bố trí các kiến trúc kinh thành của một triều đại phong kiến quân chủ Việt Nam những năm cuối thế kỷ 14 đầu thế kỷ 15.

Thành nhà Hồ được UNESCO công nhận là Di sản Văn hóa Thế giới vào năm 2011. Sau 14 năm được công nhận, nơi đây trở thành điểm đến du lịch nổi tiếng của tỉnh Thanh Hóa, mỗi năm đón hàng trăm nghìn lượt khách tham quan.

Từ những bức tường thành và cổng thành còn tồn tại hiện hữu, khảo cổ học đã phát hiện nhiều kiến trúc quan trọng trong Thành Nhà Hồ như: Điện Hoàng Nguyên (chính điện); Đông Thái Miếu; Tây Thái Miếu…cùng hệ thống di vật, hiện vật vô cùng độc đáo và giá trị

Tiến sĩ Nguyễn Bá Linh, Giám đốc Trung tâm bảo tồn Di sản Thành Nhà Hồ cho biết, từ những bức tường thành và cổng thành còn tồn tại hiện hữu, khảo cổ học đã phát hiện nhiều kiến trúc quan trọng trong Thành Nhà Hồ như: Điện Hoàng Nguyên (chính điện); Đông Thái Miếu; Tây Thái Miếu…cùng hệ thống di vật, hiện vật vô cùng độc đáo và giá trị.

Những phát hiện khảo cổ quan trọng đó đã minh chứng rõ nét Thành Nhà Hồ là một kinh đô cổ được quy hoạch và xây dựng hoàn chỉnh, bài bản, quy chuẩn với đầy đủ đền đài, miếu mạo, cung điện, đường xá và được sử dụng xuyên suốt trong nhiều triều đại quân chủ phong kiến Việt Nam với tư cách là trung tâm hành chính – chính trị – quân sự của quốc gia và khu vực lúc bấy giờ.

Tiến sĩ Nguyễn Bá Linh nói: “Quá trình khai quật khảo cổ học đã thực hiện 10 năm nay. Quy định của UNESCO phải khai quật khảo cổ học và nghiên cứu thật kỹ mới trùng tu và bảo tồn. Vì vậy giai đoạn đầu khi được công nhận, việc bảo tồn tính toàn vẹn danh hiệu là quan trọng nhất. Trong những năm qua tỉnh và ngành văn hóa đã ban hành nhiều văn bản, thực hiện hàng loạt quy định, quy chế để bảo vệ tính toàn vẹn, tính xác thực đó”.

Đáng chú ý, Đàn tế Nam Giao Tây Đô là một kiến trúc quan trọng tổng thể khu di sản Thành Nhà Hồ. Khai quật, khảo cổ học đã xác định được cơ bản diện mạo của một đàn tế cổ với nền móng kiến trúc còn tồn tại gần như nguyên vẹn. Các vòng tường đàn và các cấp nền đàn được phát lộ và nằm gọn trong vòng tay ngai của dãy Đốn Sơn – nơi tọa lạc của đàn tế….

Từ kết quả này, các cơ quan chức năng và nhà khoa học tỉnh Thanh Hóa đã bảo tồn khẩn cấp, giữ nguyên hiện trạng để phục vụ nhu cầu tham quan của người dân, du khách. Trong những năm qua Du lịch Thành Nhà Hồ đã có nhiều đổi mới, đáp ứng nhu cầu của khách tham quan khi đến với Di sản. Nhiều sản phẩm du lịch hấp dẫn đã và đang được được triển khai trong khu vực di sản, được du khách yêu thích.

Những hiện vật thu được từ cuộc khai quật, khảo cổ học đã nói lên câu chuyện văn hoá của nhiều triều đại nối tiếp nhau trong lịch sử tồn tại và phát triển của kinh thành Tây Đô

Bạn Bùi Việt Trang, một du khách tham quan tại Thành Nhà Hồ chia sẻ: “Trong tưởng tượng của mình Thành Nhà Hồ chỉ là cổng tường bằng đá, nhưng khi bước chân vào đây thì gồm trưng bày cổ vật và được hướng dẫn tham quan, nơi đây còn có nhiều hồ sen đẹp, tạo cho mình cảm giác thanh bình và yêu quê hương mình hơn”.

Tiến sĩ Nguyễn Bá Linh, Giám đốc Trung tâm bảo tồn Di sản Thành Nhà Hồ cho biết thêm, hiện nay, đã đưa vào khai thác trưng bày “không gian văn hoá nông nghiệp vùng Tây Đô”, với mục đích trưng bày và giới thiệu đến công chúng, nhất là thế hệ trẻ hiểu hơn về nông cụ canh tác truyền thống, về đời sống mộc mạc chân chất, tinh thần lao động cần cù, sáng tạo của người nông dân, chứa đựng những nét sinh hoạt văn hoá dung dị, thuần phát của con người, của làng quê Việt Nam góp phần chung tay gìn giữ những giá trị di sản văn hoá vật chất, tinh thần và những tinh hoa của tiền nhân.

Tiến sĩ Nguyễn Bá Linh cho biết: “Hiện tại chúng tôi tận dụng tài nguyên văn hóa vốn có của vùng đất Vĩnh Lộc, là làng cổ, lối sống, đình chùa, miếu mạo, di tích phụ cận để phát triển du lịch.Hiện tại Trung tâm bảo tồn di sản Thành Nhà Hồ đã mở 3 tuyến tham quan du lịch trọng điểm, 1 tuyến tham quan du lịch làng cổ; 1 tuyến thăm quan tâm linh vùng đệm; 1 tuyến tham quan thắng cảnh vùng đệm; lái xe điện của chúng tôi đã lái đến các điểm đó rồi, du khách rất hài lòng”.

Những hiện vật thu được từ cuộc khai quật, khảo cổ học đã nói lên câu chuyện văn hoá của nhiều triều đại nối tiếp nhau trong lịch sử tồn tại và phát triển của kinh thành Tây Đô. Để tiếp nối và phát huy những giá trị bất biến từ những hiện vật khai quật được, đồng thời đem những giá trị đó đến gần hơn với cộng đồng và công chúng, Trung tâm Bảo tồn Di sản Thành Nhà Hồ đã đưa vào khai thác “không gian trưng bày hiện vật ngoài trời”, trưng bày “mô hình súng thần công và những cải cách của triều Hồ”, khai thác “không gian trưng bày đá xây thành” làm điểm check in mới tại Cổng Nam. Tổ chức các chương trình giáo dục di sản cho các em học sinh trên địa bàn huyện Vĩnh Lộc nhằm đẩy mạnh các hoạt động tuyên truyền, giáo dục truyền thống, lịch sử của dân tộc, phát huy tính tích cực, năng động, sáng tạo, trong tuổi trẻ học đường thông qua các hoạt động học tập và vui chơi lành mạnh, góp phần định hướng lối sống đẹp, ý thức tôn trọng, giữ gìn và phát huy những giá trị bản sắc văn hoá của địa phương, quê hương, đất nước.

Sỹ Đức

 

Nguồn: Dulichvn

Khám phá nghề thêu ren độc đáo ở vùng đất Cố đô Hoa Lư

Nằm giữa khung cảnh thiên nhiên hùng vĩ của quần thể danh thắng Tràng An – Tam Cốc – Bích Động, làng nghề thêu ren Văn Lâm thuộc xã Ninh Hải, TP. Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình, là một điểm đến không thể bỏ qua đối với những ai yêu thích văn hóa truyền thống và nghệ thuật thủ công tinh xảo.


Nghề thêu ren Văn Lâm đã được công nhận là di sản văn hoá phi vật thể quốc gia. Hiện nay sản phẩm của các làng nghề ngày càng trở nên tinh xảo, đáp ứng nhu cầu của thị trường và hướng đến sản xuất quà tặng, quà lưu niệm mang đậm bản sắc văn hoá của vùng đất và con người Cố đô Hoa Lư, phục vụ khách du lịch.

Nghề thêu ren tại làng Văn Lâm đã có từ hàng trăm năm trước. (Ảnh: XL).

Theo truyền thuyết, nghề thêu ren tại Văn Lâm có nguồn gốc từ thế kỷ XIII, khi vua Trần Thái Tông nhường ngôi cho con và về vùng núi Vũ Lâm tu hành. Bà Trần Thị Dung, vợ Thái sư Trần Thủ Độ, đã truyền dạy cho người dân địa phương nghề thêu ren cung đình. Trải qua hơn 700 năm, nghề thêu ren Văn Lâm đã phát triển và trở thành một phần không thể thiếu trong đời sống văn hóa của người dân nơi đây.

Ngoài ra, theo các nghệ nhân cao tuổi cho biết, nghề thêu ren ở đây có tuổi đời trên 700 năm. Sau một thời gian dài bị mai một, đến năm 1910, ông Đinh Ngọc Hênh và Đinh Ngọc Xoang ở làng Văn Lâm đã học được nghề thêu ren để truyền dạy cho dân làng. Kể từ đó đến nay, Văn Lâm có thêm nghề thêu ren và được lưu giữ đến tận bây giờ. Từ khi có nghề thêu ren, làng Văn Lâm bước vào thời kỳ hưng thịnh. Cả làng như một công xưởng, nhà nhà làm nghề, người người theo nghề.

Những người thợ chú trọng, tỉ mỉ thêu  từng chi tiết nhỏ.

Sản phẩm thêu ren Văn Lâm rất đa dạng, từ khăn trải bàn, rèm cửa, vỏ chăn ga, gối, đến tranh thêu với các họa tiết tùng, cúc, trúc, mai, hoa sen, phong cảnh Ninh Bình, Nhà thờ đá Phát Diệm. Những sản phẩm này không chỉ phục vụ nhu cầu trong nước mà còn được xuất khẩu sang nhiều quốc gia như Nhật Bản, Hàn Quốc, Mỹ, Anh, Pháp, Italia, Tây Ban Nha .

Để bảo tồn và phát triển nghề thêu ren, xã Ninh Hải đã tổ chức các cuộc thi như “Bàn tay vàng thêu ren”, tạo sân chơi cho các nghệ nhân thể hiện tài năng và sáng tạo. Ngoài ra, việc kết hợp du lịch trải nghiệm tại làng nghề đã thu hút đông đảo du khách trong và ngoài nước, góp phần nâng cao giá trị kinh tế và văn hóa cho địa phương .

Làng nghề thêu ren Văn Lâm không chỉ là nơi sản xuất những sản phẩm thủ công tinh xảo mà còn là biểu tượng của sự kiên trì, sáng tạo và lòng yêu nghề của người dân nơi đây. Với hơn 700 năm lịch sử, nghề thêu ren Văn Lâm xứng đáng được bảo tồn và phát huy như một phần di sản văn hóa quý báu của dân tộc.

Các sản phẩm thêu ren của Văn Lâm ngày nay đa dạng thể loại, mẫu mã. (Ảnh: XL).

Với sự sáng tạo không ngừng, các nghệ nhân đất Văn Lâm đã làm ra rất nhiều sản phẩm thêu ren độc đáo, được người tiêu dùng đánh giá cao. Trong số các tác phẩm này, nhiều sản phẩm đã đạt chứng nhận OCOP 4 sao, xuất khẩu sang các thị trường khó tính trên thế giới.

Song song với phát triển du lịch qua các danh lam thắng cảnh, việc thúc đẩy hoạt động trải nghiệm làng nghề đã giúp nghề thêu ren của xã Ninh Hải ngày càng được du khách biết đến nhiều hơn. Cùng với đó, mỗi dịp lễ hội là điều kiện thuận lợi để quảng bá các nét đẹp văn hóa địa phương nhất là các sản phẩm thủ công truyền thống.

Nếu du khách có dịp đến Ninh Bình, đừng quên ghé thăm làng nghề thêu ren Văn Lâm để trải nghiệm và cảm nhận vẻ đẹp tinh tế của nghệ thuật thêu ren truyền thống nơi Cố đô lịch sử.

Thu Thảo

 

Nguồn: Dulichvn

Quảng Ninh: Hấp dẫn lễ hội Hoa sim biên giới từ 17-18/5

Nơi miền biên giới thiêng liêng, hùng vĩ địa đầu Đông Bắc đất nước, có một loài hoa biểu trưng cho tình yêu quê hương đất nước, tình yêu đôi lứa… đó là hoa sim. Loài hoa mộc mạc, thủy chung và sức sống mạnh mẽ nay tiếp tục là biểu tượng cho tinh thần mến khách khi chính thức trở thành thương hiệu của du lịch miền biên giới Hải Sơn – Móng Cái.

 


Hoa sim nơi biên giới trở thành thương hiệu của du lịch miền biên giới Hải Sơn- Móng Cái.

Kể từ năm 2022, Lễ hội Hoa sim biên giới chính thức được tổ chức, gắn với các hoạt động phát triển du lịch cộng đồng tại xã Hải Sơn. Qua đó, không chỉ góp phần quảng bá vùng đất thiêng nơi chiến sĩ, đồng bào là cột mốc sống của lòng dân, cột mốc sống văn hóa Việt nơi biên cương Tổ quốc, mà còn là cách đưa đồng bào nơi đây tham gia vào hoạt động du lịch cộng đồng, nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống cho bà con. Đồng thời, đây còn là hoạt động để Móng Cái tiếp tục cụ thể hóa và triển khai thực hiện các chương trình, kế hoạch về phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn và phát triển khu du lịch quốc gia Trà Cổ, Móng Cái, Quảng Ninh.

Hải Sơn có cảnh quan tuyệt sắc cùng những giá trị đặc biệt như: Khu di tích lịch sử quốc gia Pò Hèn, Làng bích họa rực rỡ giữa núi rừng Đông Bắc, thác 72 gian – hồ Tràng Vinh, Núi Panai, Mã Thầu Sơn, Đồi Sim và nhiều nét văn hóa, nghệ thuật truyền thống đặc sắc, nghệ thuật ẩm thực đặc biệt, trò chơi dân gian độc đáo… của đồng bào dân tộc nơi đây mà chủ yếu là đồng bào dân tộc thiểu số. Những năm gần đây, được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, tinh thần cần cù lao động vượt khó vươn lên của đồng bào, đời sống vật chất tinh thần của người dân Hải Sơn đã đổi thay vượt bậc. Bà con tích cực phát triển kinh tế, trong đó có du lịch, dịch vụ. Và Lễ hội hoa sim biên giới qua bốn lần tổ chức càng là cơ hội để bà con tham gia làm kinh tế du lịch và hoàn thiện nhanh các dịch vụ phục vụ du lịch theo hướng chuyên nghiệp, hiện đại nhưng vẫn mang những đặc trưng và phát huy tốt bản sắc văn hóa vùng đồng bào, tạo dấu ấn khác biệt, nổi trội trong hành trình du lịch Móng Cái.

Lễ hội Hoa sim biên giới chính thức được tổ chức từ năm 2022.

Đến với lễ hội Hoa sim biên giới, du khách sẽ được hòa mình vào các hoạt động văn hóa đặc sắc, phong phú đậm đà bản sắc dân tộc, các hoạt động trải nghiệm du lịch cộng đồng và đặc biệt có cơ hội thưởng thức các món ăn đặc sản của đồng bào vùng cao người Dao, người Sán Chỉ như: Khau nhục, thịt gà, vịt, ngan, dưa chua úp thảm, trám muối giềng, tàu xì, củ cải mặn…; các món bánh truyền thống như: Bánh chưng lưng gù, bánh chưng dài, bánh tro, cơm ba màu…

Các hoạt động nhằm bảo tồn, phát huy, tôn vinh, giới thiệu, quảng bá các hình ảnh, tiềm năng lợi thế và khai thác những giá trị văn hóa truyền thống, đặc sắc của đồng bào các dân tộc thành phố Móng Cái nói chung và UBND xã Hải Sơn, các xã miền núi biên giới nói riêng; thu hút khách du lịch đến tham quan, trải nghiệm, tạo việc làm và nâng cao thu nhập cho nhân dân.

Mỗi năm, lễ hội này đã thu hút hàng chục ngàn người dân và du khách tới tham dự, khẳng định giá trị của sản phẩm du lịch mới gắn với phát triển du lịch tâm linh, du lịch trải nghiệm và du lịch cộng đồng xã Hải Sơn, góp phần bảo tồn và phát huy giá trị văn hoá đặc sắc của đồng bào các dân tộc; tạo việc làm, nâng cao thu nhập cho nhân dân nhờ du lịch.

Đặc biệt hơn, Lễ hội Hoa sim biên giới 2025 có một hoạt động rất nổi bật được đón chờ, đó là Giải chạy Móng Cái Half Marathon với hàng ngàn vận động viên từ mọi miền tham dự. Các vận động viên sẽ có cơ hội độc đáo để chiêm ngưỡng những đồi sim nở tím rực, tham gia các hoạt động văn hóa đặc sắc: trò chơi dân gian, bóng đá nữ, chợ phiên, ẩm thực vùng cao (gà đồi, cá suối, lợn bản, xôi ngũ sắc…) và cơ hội trải nghiệm không gian văn hoá các dân tộc, gian hàng trưng bày sản vật địa phương cùng nhiều bất ngờ thú vị. Lễ hội hoa sim chính là điểm chạm của cảm xúc – nơi thiên nhiên, thể thao và văn hóa hội tụ, mở ra hành trình khám phá đầy năng lượng và đậm chất riêng của Móng Cái. Móng Cái Half Marathon 2025 sẽ chính thức diễn ra vào ngày 17-18/5/2025, trong khuôn khổ Lễ hội Hoa sim biên giới – sự kiện không thể bỏ lỡ của những tâm hồn yêu chạy bộ, yêu thiên nhiên và văn hóa Việt.

Hiện nay, công tác chuẩn bị cho Lễ hội Hoa sim biên giới năm 2025 đang được gấp rút hoàn tất những phần việc đảm bảo chu đáo nhất, ấn tượng nhất. Với điều kiện thời tiết tốt, những triền đồi sim nơi đây đã rực sắc tím thủy chung, bung nở gọi mời như tấm lòng của người đồng bào đang náo nức đón chờ du khách.

Mặc dù chưa đến chính hội nhưng những ngày này, Hải Sơn đã đón khá đông du khách. Lưu giữ những tấm ảnh kỷ niệm với sắc tím hoa sim, hít thở không khí trong lành vùng cao, phóng tầm mắt thu trọn vẻ đẹp miền biên giới thiêng liêng hùng vĩ, thưởng thức những món ăn vô cùng ngon miệng… còn gì tuyệt vời hơn khi hò hẹn du lịch tại Hải Sơn.

“Sắc tím biên cương, kết nối di sản”- Lễ hội Hoa sim biên giới – “thương hiệu” du lịch miền biên giới thiêng liêng hùng vĩ đã sẵn sàng chào đón quý du khách vào các ngày 17-18/5/2025.

Thu Hằng (Trung tâm TTVH Móng Cái)

 

Nguồn: Dulichvn

Quà tặng độc đáo từ lá dừa

Với đôi bàn tay khéo léo và tinh thần vượt khó, một người phụ nữ khuyết tật ở Cần Thơ đã biến những tàu lá dừa chân quê, bình dị thành những món quà du lịch mang đậm bản sắc miền Tây. Không chỉ nuôi sống chính mình, bà còn góp phần lan tỏa giá trị truyền thống trong từng sợi đan nhỏ bé.


Các sản phẩm làm bằng lá dừa của bà Ngọc.

Chúng tôi muốn nói về bà Đỗ Thị Ngọc (53 tuổi), ngụ tại khu vực Bình Chánh, phường Long Hòa, quận Bình Thủy. Sinh ra trong gia đình đông con và nghèo khó, lên 5 tuổi, bà không may bị sốt bại liệt để lại di chứng khiến đôi chân yếu ớt, phải ngồi xe lăn từ nhỏ. Nhưng nghịch cảnh không khuất phục ý chí, càng không ngăn nổi đôi tay khéo léo và tâm hồn giàu nghị lực của người phụ nữ ấy.

Bà Ngọc bắt đầu học nghề đan nón lá từ khi còn trẻ. Công việc vừa sức này đã gắn bó với bà suốt hàng chục năm, trở thành nguồn thu nhập chính, giúp bà tự nuôi sống bản thân, vừa san sẻ gánh nặng cùng gia đình.

Những năm sau, trong một lần ngồi bán nón tại điểm du lịch, bà tình cờ bắt gặp vài món đồ chơi bằng lá dừa. Đấy cũng là thời điểm bà Ngọc bén duyên với loại lá tưởng chỉ dùng để lợp mái nhà ở quê, nào ngờ lại biến thành những món quà du lịch xinh xắn, dễ thương.

Bà Ngọc kể: “Khi mới bắt đầu, cũng thất bại nhiều, sản phẩm chưa đẹp, mẫu mã còn đơn điệu, nhưng tôi tự nhủ phải cố gắng mỗi ngày để có nhiều sản phẩm ưng ý”. Thế là bà mày mò, học thêm qua mạng, ghi nhớ cách làm, cách gấp. Dần dần, bà Ngọc làm được những hình cào cào, chim chóc, cá, tôm dân dã, sau đó là những sản phẩm cầu kỳ hơn như nón lá, hoa hồng, giỏ xách và cả mô hình máy bay lên thẳng.

Hơn 15 năm qua, bến Ninh Kiều dường như đã quá quen thuộc với hình ảnh của bà Ngọc. Có lúc ngồi bên chiếc bàn thấp, có lúc ngồi trực tiếp trên chiếc xe thân quen với bó lá dừa tươi bên cạnh, bà Ngọc thoăn thoắt đan từng món quà mộc mạc. Mỗi sản phẩm bà làm ra không chỉ là hàng hóa mưu sinh, mà còn là một lát cắt của ký ức quê nhà, là lời kể về miền Tây sông nước bằng chất liệu đời thường nhất.

Chính vì thế, nhiều du khách, nhất là người Việt xa quê ghé Cần Thơ, khi cầm trên tay con cào cào bằng lá dừa do bà Ngọc làm, đã không khỏi xúc động. Một du khách đến từ Thành phố Hồ Chí Minh bày tỏ: “Nhìn con cào cào bằng lá dừa tôi chợt nhớ thời thơ ấu, khi lũ trẻ chúng tôi chờ ba đi làm đồng về, rồi hí hửng đón lấy con cào cào ba tết vội từ tàu lá. Giờ cuộc sống đủ đầy, nhưng cảm xúc thì khó tìm. Món quà này mộc mạc mà ý nghĩa, bởi nó nhắc tôi về tuổi thơ nghèo nhưng đầm ấm”.

Gặp gỡ bà Ngọc rồi chuyện trò, mới thấy phía sau hành trình bền bỉ ấy không chỉ là ý chí cá nhân, mà còn có sự đồng hành lặng lẽ của người chồng, một điểm tựa ấm áp. Ông thường phụ giúp bà di chuyển, chuẩn bị nguyên liệu, thu dọn hàng hóa, khi rảnh còn san sẻ cả việc cơm nước.

Bên cạnh nỗ lực của bản thân và sự đồng hành từ gia đình, bà Ngọc còn nhận được tình yêu thương từ những chị em bạn hàng quanh khu vực bến Ninh Kiều. Trong dòng người buôn bán tấp nập, từ người bán vé số, đến các hàng rong, quản lý bến tàu,… ai cũng quý mến bà vì đôi tay khéo léo và ý chí vượt khó vươn lên.

Chính vì vậy, không ít lần họ sẵn lòng giúp bà lấy lá, dựng bàn, giữ hàng, hay đơn giản là hỏi han, động viên mỗi ngày. Tình cảm ấy tuy giản dị mà ấm lòng, là nguồn động viên giúp bà thêm vững vàng trên hành trình gắn bó với nghề.

Nhận định về bà Ngọc, ông Lê Văn Báu, Trưởng khu vực Bình Chánh, phường Long Hòa, quận Bình Thủy cho biết: “Bà Ngọc là tấm gương tiêu biểu về ý chí vươn lên trong cuộc sống. Dù khiếm khuyết về thể chất, bà vẫn sống tự lập, chăm chỉ làm việc và lan tỏa những giá trị tốt đẹp đến cộng đồng. Bà cũng nhiều lần tổ chức dạy đan lá dừa cho trẻ em ở địa phương. Đó là điều rất đáng quý”.

Khi được hỏi về nguyên liệu và giá bán, bà Ngọc chia sẻ: nguyên liệu để làm những chiếc nón lá là những tàu dừa tươi, được chọn từ phần lá non, mềm và dẻo, giúp dễ tạo dáng phần chóp và vành. Riêng các mô hình như cào cào, chim chóc, cua… được làm từ lá dừa nước, loại lá cứng hơn, giữ phom dáng tốt và bền hơn theo thời gian. Về giá cả, mỗi chiếc nón được bán với giá 20.000 đồng, còn các con vật nhỏ là 10.000 đồng/ chiếc. Mức giá ấy được bà giữ nguyên suốt từ ngày đầu gắn bó với nghề.

Không chỉ là người lao động giỏi nghề, bà Ngọc còn là người âm thầm “giữ lửa” văn hóa địa phương theo cách riêng của mình. Trong từng nếp gấp của lá dừa, từng đường đan mộc mạc, bà kể cho du khách câu chuyện về miền Tây chân thành, dung dị, trọng nghĩa tình và yêu lao động.

Giữa nhịp sống thị thành hối hả, câu chuyện về bà Ngọc, người phụ nữ yếu thế, tự mưu sinh bằng đôi tay, không chỉ là minh chứng cho nghị lực vượt khó, sự sáng tạo không ngừng, cho thấy có những điều nhỏ bé vẫn góp phần tạo nên ý nghĩa lớn lao, làm đẹp cho cuộc sống.

Mỹ Hạnh

Nguồn: Dulichvn

Thơm mát bánh thạch đen

Thạch đen Tràng Định từ lâu đã nổi tiếng bởi hương vị thơm ngon, thanh mát. Bên cạnh thạch đen truyền thống, những năm gần đây, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của thị trường, một số hộ dân trên địa bàn thị trấn Thất Khê, huyện Tràng Định, tỉnh Lạng Sơn đã khéo léo làm ra món bánh thạch đen nhân đỗ xanh, tạo nên một món tráng miệng mới mẻ, hấp dẫn, được nhiều khách hàng trong và ngoài tỉnh yêu thích.


Chị Đường Thùy Dung xếp bánh thạch đen nhân đỗ xanh vào hộp

Trong cái nắng oi ả những ngày đầu tháng 5/2025, chúng tôi có dịp đến thăm cơ sở sản xuất thạch đen Dung Bộ, khu Bản Mới, thị trấn Thất Khê. Trong lúc đang tất bật chuẩn bị các nguyên liệu để làm bánh thạch đen nhân đỗ xanh, chị Đường Thùy Dung, chủ cơ sở cho biết: Gia đình tôi làm thạch đen để bán từ khoảng 8 năm nay, đầu năm 2024, nhận thấy nhu cầu của khách hàng ngày càng cao nên gia đình tôi đã làm thử món bánh thạch đen nhân đỗ xanh và được nhiều khách hàng ủng hộ. Trung bình mỗi tháng, gia đình tôi làm được từ 1.000 – 2.000 hộp bánh thạch đen nhân đỗ xanh, với giá bán 40.000 đồng/hộp (10 cái). Thị trường tiêu thụ chủ yếu là trên địa bàn tỉnh và một số tỉnh, thành khác như: Hà Nội, Bắc Giang, Bắc Ninh…

Cũng giống như thạch đen, bánh thạch đen được làm từ những nguyên liệu thủ công, dễ kiếm. Phần vỏ bánh được chế biến từ cây thạch đen, còn nhân bánh làm từ đỗ xanh và đường kính. Để làm được bánh thạch đen nhân đỗ xanh giòn, ngon, màu đẹp mắt, việc lựa chọn nguyên liệu rất quan trọng. Theo đó, người làm thường sử dụng cây thạch nương để nấu thạch. Cây thạch sau khi phơi khô, rửa sạch sẽ cho vào nồi ninh với nước từ 4 – 6 tiếng, sau đó vớt ra lọc sạch nhiều lần rồi cho bột năng hòa vào nước cốt thạch, đun trên bếp khoảng 2 tiếng đồng hồ.

Đối với phần nhân bánh làm từ đỗ xanh, người làm phải chọn đỗ xanh ngon, hạt căng mẩy, vàng óng. Sau khi ngâm nước từ 3 đến 4 tiếng, đỗ xanh được đồ cho mềm rồi xay nhuyễn và trộn với đường, sau đó tiếp tục nhào nặn cho nhân dẻo rồi chia thành từng phần nhỏ để làm nhân bánh. Tùy theo khẩu vị mỗi người mà người làm có thể giảm lượng đường để nhân có vị ngọt sao cho phù hợp.

Theo những người làm bánh thạch đen nhân đỗ xanh tại thị trấn Thất Khê, những chiếc bánh trông có vẻ đơn giản nhưng người làm lại phải trải qua rất nhiều công đoạn và đòi hỏi sự khéo léo, tỉ mỉ. Đặc biệt, khâu đổ thạch và nhân cần phải làm liền tay, người làm đổ thạch ra cốc nhựa nhỏ, sau đó khéo léo cho phần nhân vào giữa lòng thạch để lớp nhân nằm gọn trong vỏ thạch. Nếu không làm liền tay thạch sẽ bị đông lại, khi thêm nhân sẽ không kết dính với nhau.

Những chiếc bánh thạch đen nhân đỗ xanh thành phẩm có hình tròn, sau khi để nguội sẽ được đóng hộp, giá bán dao động từ 35.000 – 40.000 đồng/hộp. Khác với thạch đen truyền thống, có thể bảo quản trong tủ lạnh lên tới hàng tuần, bánh thạch đen nhân đỗ xanh chỉ để được từ 2 – 3 ngày do phần nhân đỗ xanh có thời gian bảo quản ngắn hơn, nếu không bảo quản lạnh sẽ dễ bị hỏng, do đó, các hộ làm bánh thạch đen nhân đỗ xanh thường làm bánh và bán luôn trong ngày.

Chị Trần Thị Phương, phường Quan Hoa, quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội cho biết: Qua mạng xã hội Facebook, tôi biết đến món bánh thạch đen nhân đỗ xanh của huyện Tràng Định và đặt mua về ăn thử. Tôi thấy bánh khi ăn rất lạ miệng, bánh dai, giòn, thơm, có vị bùi và ngậy của đỗ xanh nhưng vẫn rất thanh mát nên cả gia đình tôi rất yêu thích. Chính vì vậy tôi thường xuyên đặt mua bánh này để ăn và làm quà cho người thân.

Ông Nguyễn Đức Thọ, Phó Chủ tịch UBND thị trấn Thất Khê cho biết: Thạch đen Tràng Định là một món ăn được nhiều người yêu thích. Hiện nay, ngoài làm thạch đen truyền thống, trên địa bàn thị trấn có 3 hộ làm bánh thạch đen nhân đỗ xanh để cung cấp ra thị trường trong và ngoài tỉnh. Thời gian tới, để lan tỏa, phát triển sản phẩm, bên cạnh tuyên truyền các hộ thực hiện tốt công tác đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm, chính quyền thị trấn sẽ phối hợp với các đơn vị liên quan tạo điều kiện để đưa sản phẩm đi trưng bày tại các hội nghị, sự kiện trong và ngoài huyện để quảng bá sản phẩm; đồng thời tuyên truyền, định hướng các hộ xây dựng sản phẩm OCOP (chương trình mỗi xã một sản phẩm), UBND thị trấn sẽ hỗ trợ, hướng dẫn các cơ sở chuẩn bị hồ sơ, thủ tục đăng ký để phấn đấu xây dựng, qua đó góp phần tăng thêm sự đa dạng của các sản phẩm làm từ cây thạch đen trên thị trường.

Không chỉ là món ăn tráng miệng mới lạ, bánh thạch đen nhân đỗ xanh còn là thực phẩm có nhiều công dụng với sức khỏe. Món bánh này có thể thưởng thức ngay khi làm xong nhưng để ngăn mát tủ lạnh từ 1 – 2 tiếng trước khi ăn sẽ ngon hơn. Với vị thanh mát của thạch đen, vị ngọt bùi của đỗ xanh, tất cả hòa quyện với nhau tạo nên hương vị độc đáo, thơm ngon mà không ngấy được rất nhiều khách hàng trong và ngoài tỉnh yêu thích. Nếu có dịp đến với huyện Tràng Định, du khách đừng quên thưởng thức món bánh độc đáo này để cảm nhận một hương vị rất riêng này.

Hiểu Lam – Kim Chi

Nguồn: Dulichvn

TIN MỚI NHẤT