Du lịch trong nước

Du lịch trong nước, tin tức du lịch trong nước, các tour du lịch trong nước, các địa điểm du lịch trong nước hấp dẫn được chúng tôi tổng hợp và đưa tin hàng ngày đến cho khách du lịch trên khắp mọi miền đất nước có được thông tin du lịch trong nước để có những thông tin hữu ích nhất cho mình và gia đình khi quyết định chọn chuyến du lịch trong nước cho mình và người thân

Về Đá Bạc ngắm biển, khám phá rừng, tìm về lịch sử

Nằm ven biển Tây, với diện tích tự nhiên 211,9 km2, dân số 47.069 người, xã Đá Bạc như một Cà Mau thu nhỏ, có rừng, biển và cụm đảo nổi tiếng Hòn Đá Bạc.


Khu Di tích lịch sử Quốc gia hòn Đá Bạc, nơi ghi dấu chiến công vang dội của ngành an ninh Việt Nam, thu hút đông du khách trong và ngoài nước đến tham quan, tìm hiểu.

Là địa phương có tiềm năng lớn về phát triển du lịch, điểm đến nổi tiếng nhất là Khu Di tích lịch sử Quốc gia hòn Đá Bạc, nơi ghi dấu chiến công vang dội của ngành an ninh Việt Nam.

Không những thế, trên bản đồ du lịch tỉnh Cà Mau, xã Đá Bạc gần như ôm trọn hành trình điểm đến của miệt rừng U Minh Hạ, gồm: Vườn Quốc gia U Minh Hạ (1 trong 3 vùng lõi của Khu dự trữ sinh quyển Mũi Cà Mau, được UNESCO đưa vào danh sách các khu dự trữ sinh quyển của thế giới, đang được tỉnh mời gọi đầu tư khu du lịch sinh thái trọng điểm); các điểm du lịch sinh thái cộng đồng nổi tiếng (Cà Mau ECO, Mười Ngọt, Láng Sen Garden và nhiều điểm du lịch nông nghiệp tiềm năng…).

Vườn Quốc gia U Minh Hạ, 1 trong 3 vùng lõi của Khu dự trữ sinh quyển Mũi Cà Mau, được UNESCO đưa vào danh sách các khu dự trữ sinh quyển của thế giới.

Sản phẩm du lịch sông nước tại Cà Mau ECO.

Điểm du lịch sinh thái Láng sen Garden.

Gác kèo ong mật là sản phẩm độc đáo của Điểm Du lịch sinh thái cộng đồng Mười Ngọt, mang đặc trưng xứ rừng U Minh Hạ.

Với lợi thế có rừng, biển, lúa và hoa màu… xã Đá Bạc có nhiều tiềm năng phát triển du lịch nông nghiệp.

Được thiên nhiên ưu đãi về khí hậu, môi trường trong lành, mát mẻ, để thu hút khách du lịch trong, ngoài nước đến tham quan, nghỉ dưỡng, xã Đá Bạc cần đa dạng hoá sản phẩm du lịch, đầu tư cơ sở hạ tầng, khu vui chơi, giải trí… Hy vọng, thời gian tới, ngành du lịch Cà Mau sẽ có nhiều cách làm phong phú, sáng tạo và đa dạng hơn, góp phần cùng xã Đá Bạc đưa ngành du lịch địa phương phát triển.

Huỳnh Lâm

 

Nguồn: Dulichvn

Những người kể chuyện lịch sử thời hiện đại

Giữa nhịp sống hối hả, có những người lặng lẽ giữ gìn và lan toả ký ức lịch sử dân tộc theo cách đặc biệt, đó là những thuyết minh viên tại các khu di tích lịch sử. Họ không chỉ là người dẫn đường, mà còn là “người kể chuyện lịch sử”, góp phần thắp sáng tinh thần yêu nước, khơi dậy lòng tự hào trong mỗi thế hệ.


Dọc tuyến Quốc lộ 1, ghé về phường Giá Rai, Di tích Lịch sử Nọc Nạng hiện ra trầm mặc giữa vùng đất từng nhuốm máu cách mạng. Đây là nơi ghi dấu cuộc nổi dậy anh dũng của anh em Mười Chức chống thực dân và tay sai gần một thế kỷ trước. Đón chúng tôi tại khu di tích là thuyết minh viên Nguyễn Thị Mận, trong bộ bà ba, đầu đội nón lá, với nụ cười hiền hậu. Dáng vẻ mộc mạc ấy mang đậm nét đặc trưng của phụ nữ Nam Bộ, khiến ai gặp cũng dễ có cảm tình.

Chị Nguyễn Thị Mận thuyết minh cho khách đến tham quan Di tích lịch sử Nọc Nạng.

Cùng vài du khách khác, chúng tôi theo chân chị Mận tham quan và lắng nghe chị kể chuyện. Chất giọng trầm ấm, nhịp kể dứt khoát nhưng sâu lắng, những thông tin lịch sử khô khan như được thổi hồn trở nên sống động, cuốn hút. Nhiều vị khách đã không ngần ngại bày tỏ sự cảm phục và trân quý khi nghe chị kể lại những trang sử hào hùng gắn với vùng đất này.

Khi khách rời đi, chị Mận ngồi lặng bên góc nhà lưu niệm và trải lòng: “Tính đến nay, tôi đã gắn bó với nghề thuyết minh được hơn 11 năm, làm việc ở nhiều nơi như: Di tích Căn cứ Cái Chanh, Đền thờ Chủ tịch Hồ Chí Minh, nơi thành lập chi bộ Đảng đầu tiên của tỉnh Bạc Liêu… và nay là Di tích lịch sử Nọc Nạng. Mỗi nơi đều mang cảm xúc riêng, nhưng điểm chung là sự tự hào. Tôi chưa từng có ý định từ bỏ công việc này, bởi tôi hiểu rõ giá trị và ý nghĩa của nó. Được góp phần gìn giữ lịch sử và truyền lửa cho thế hệ trẻ là điều khiến tôi hạnh phúc mỗi ngày”.

Khu mộ phần gia đình anh em nông dân Mười Chức trong khu di tích.

Gắn bó với Di tích Lịch sử Nọc Nạng, chị Mận không chỉ là người thuyết minh, mà còn là người chăm sóc, giữ gìn từng phần mộ như gìn giữ ký ức của chính người thân. “Dù đã công tác ở nhiều di tích trong tỉnh, nhưng nguyện vọng của tôi là được gắn bó ở đây cho đến khi nghỉ làm. Tôi xem và chăm sóc mộ phần của gia đình Mười Chức như người thân của mình vậy. Mỗi ngày, tôi đều cúng nước trên bàn tổ đường, quét dọn khu mộ. Thỉnh thoảng, tôi cũng mua trái cây cúng ở khu mộ”, chị Mận cho biết thêm.

Không riêng gì Nguyễn Thị Mận, hành trình “kể chuyện lịch sử” còn có sự góp mặt của chị Lê Thị Bé Sáu, thuyết minh viên Khu Di tích Căn cứ Cái Chanh (xã Ninh Thạnh Lợi). Với chị Bé Sáu, được sống trong không gian lịch sử, kể lại những câu chuyện oanh liệt của quê hương mỗi khi có khách ghé thăm là vinh dự lớn lao. Qua năm tháng, chị đã thuộc nằm lòng từng hiện vật, từng câu chuyện gắn với nơi đây.

Chị Lê Thị Bé Sáu, thuyết minh về Khu Di tích Căn cứ Cái Chanh cho đoàn cán bộ Trung ương và nguyên lãnh đạo tỉnh Bạc Liêu (cũ) đến tham quan. Ảnh: Phan Thanh Cường

Giọng kể của chị Bé Sáu đầy xúc cảm, khi chỉ vào từng hiện vật, truyền tải những thông tin đậm chất lịch sử và truyền cho người nghe niềm tự hào bất tận: “Đây là cái lu năm xưa đặt tại Căn cứ Cái Chanh cho cán bộ của ta trú ẩn khi có pháo kích hay máy bay bắn phá. Đây là chiếc xuồng lườn được đồng chí Võ Văn Kiệt sử dụng để thuận tiện di chuyển trên những kênh rạch chằng chịt trong thời gian hoạt động tại huyện Hồng Dân. Chiếc xuồng là của gia đình ông Võ Văn Đại, một cơ sở nuôi giấu cách mạng ở ấp Tà Ben, xã Ninh Hoà. Còn đây là kỷ vật của cán bộ lãnh đạo Căn cứ Tỉnh uỷ Bạc Liêu, cây kéo của chùa Vĩnh Đức dùng để cắt vải may cờ, chuẩn bị giải phóng Bạc Liêu. Đây là lá cờ Thượng toạ Thích Hiển Giác, Trụ trì chùa Vĩnh Đức treo trên ngọn cây me trước chùa ngày 30/04/1975”.

Mỗi hiện vật, mỗi câu chuyện được kể bằng tất cả tâm huyết, không chỉ tái hiện lịch sử mà còn truyền cảm hứng mạnh mẽ về tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc cho người nghe. Những thuyết minh viên như Nguyễn Thị Mận, Lê Thị Bé Sáu… không chỉ làm công việc giới thiệu lịch sử mà chính là những “người giữ lửa ký ức”.

Họ bền bỉ lan toả giá trị truyền thống trong lặng thầm, như những nhịp cầu nối quá khứ với hiện tại và tương lai. Trong dòng chảy hiện đại, khi người trẻ dần rời xa sử sách, chính những câu chuyện từ trái tim của họ là lời nhắc nhở sâu sắc về một thời hào hùng mà chúng ta không được phép lãng quên.

Hoàng Lam

Nguồn: Dulichvn

Tinh hoa ẩm thực của đồng bào Mông

Ở nơi Cao nguyên đá lộng gió, nơi những bản làng của người Mông ẩn hiện giữa mây ngàn, mèn mén không chỉ là một món ăn mà còn là hồn cốt của bản làng, là sự giao hòa dung dị giữa con người và thiên nhiên, là biểu tượng văn hóa mang đậm bản sắc dân tộc Mông.


Phụ nữ vùng cao tỉnh Tuyên Quang thu hoạch và treo ngô sau mùa vụ. Ảnh PV

Mèn mén được chế biến hoàn toàn thủ công từ hạt ngô, loại lương thực chủ lực trên những triền núi cao, đất dốc, khí hậu khắc nghiệt không trồng được lúa nước. Ngô sau khi thu hoạch được phơi khô, tách hạt và đưa vào cối đá để xay thành bột. Người Mông vẫn giữ tập quán dùng sức người để giã, xay bột, một phần để lưu giữ truyền thống, một phần giữ hương vị đặc trưng mà máy móc không thể thay thế. Sau khi xay mịn, bột ngô được làm ẩm rồi đồ chín hai lần bằng chõ gỗ – một công đoạn đòi hỏi sự tỉ mỉ và kinh nghiệm.

Mèn mén có hương vị giản dị mà lạ lùng bởi sự thơm ngậy mùi ngô, ăn tơi mà bùi. Mèn mén gắn liền với nhịp sống sinh hoạt, tín ngưỡng và quan niệm của người Mông. Đó là món ăn dâng cúng tổ tiên trong ngày lễ trọng, là cơm nắm người đi rừng mang theo bên mình, là phần quà của mẹ gói trong lá chuối cho con đem xuống chợ. Qua từng lớp mèn mén tơi xốp, là bao ký ức, niềm tin và cả sự nhọc nhằn của người phụ nữ Mông “thổi hồn” vào từng bữa cơm nhà.

Ngày nay, khi đời sống người dân miền Cao nguyên đá đang từng bước phát triển, nhưng với đồng bào Cao nguyên đá, mèn mén vẫn là món ăn của bản sắc, của cội nguồn. Bằng sự giản dị và mộc mạc, mèn mén không chỉ nuôi sống bao thế hệ trên Cao nguyên đá, mà còn góp phần làm nên diện mạo độc đáo của nền văn hóa ẩm thực các dân tộc vùng cao.

Hải Đăng

Nguồn: Dulichvn

Chuyện kể bên hồ Nong Dùng

Điều khiến lòng du khách xao động khi đặt chân đến hồ Nong Dùng chính là màu nước. Không phải thứ nước xanh ngắt thường thấy của ao hồ miền núi mà là một màu xanh ngọc thuần khiết, sâu thẳm và lặng lẽ như một bí mật cất giấu giữa núi dựng phía xa. Dưới nắng, mặt nước ánh lên như có lớp men ngọc mỏng mịn phủ trên bề mặt long lanh…


Chúng tôi biết đến hồ Nong Dùng (xã Hữu Liên, tỉnh Lạng Sơn) không phải từ một tấm bản đồ du lịch, mà từ câu chuyện kể trong chuyến xe ngược về xứ Lạng. Một người bạn từng cắm trại ở đó nói: Nếu có nơi nào khiến người ta tin rằng cổ tích là có thật thì chắc là ở hồ Nong Dùng.

Hồ nước ấy xanh đến mức tưởng như được rót ra từ chén ngọc quý của nàng tiên, đánh rơi xuống thung lũng Hữu Liên vào một buổi chiều quên lối về. Những chiếc bè tre chở khách du lịch lướt trên mặt hồ và chuồn chuồn thì đậu thẳng xuống mặt nước như đang soi gương…

 Quang cảnh một góc hồ Nong Dùng. Ảnh: Nguyên Đức

Không cần thêm lý do, một sáng cuối tuần, chúng tôi khởi hành về Lạng Sơn, nơi có Khu du lịch sinh thái xã Hữu Liên dần trở thành chốn đi về của những ai cần sự tĩnh lặng. Vượt qua gần 120 cây số từ Hà Nội, rẽ khỏi Đường tỉnh 243, Nong Dùng hiện ra bất ngờ với một mặt hồ phẳng lặng nằm giữa rừng núi bao la. Nước hồ xanh một màu xanh ngọc bích, phản chiếu bóng trời và núi dựng phía xa. Xung quanh là những thảm cỏ xanh mướt trải dài tới tận chân núi, vài bụi lau già ngả đầu trong gió. Cảm giác như lạc vào một miền cổ tích trong truyện cổ xưa cũ.

Ông Hoàng Tám, người chèo bè nổi tiếng nhất vùng, đứng đó tự bao giờ. Dáng ông cao, rắn rỏi, mái tóc hoa râm cuốn gọn dưới chiếc khăn nâu bạc màu. Ông bảo mình là “người con của hồ”, từ thuở trai trẻ đã làm bè, câu cá, thả lưới trên mặt nước này. Chiếc bè được ghép từ những thân tre rừng rỗng ruột, kết lại bằng dây mây và dựng khung, lợp mái lá rừng. Bè nhẹ nhưng vững chắc, trôi êm như không chạm nước. Ở Khu du lịch sinh thái xã Hữu Liên có gần chục chiếc bè tre và ba chục chiếc thuyền kayak để du khách có thể lựa chọn thuê dùng.

Chúng tôi theo bè tre của ông Hoàng Tám ra giữa lòng hồ. Mỗi nhịp chống chèo là một vòng tròn nhỏ lan xa, mặt nước khẽ rung nhẹ, bóng nắng chập chờn trên làn sóng lăn tăn. Chuồn chuồn chao liệng trên cao rồi bất ngờ đậu xuống, đôi cánh mảnh như tơ, khẽ rung nhè nhẹ như gõ vào gió. Ông Tám cười bảo: “Ở đây, đến chuồn chuồn cũng không vội”.

Điều khiến lòng du khách xao động khi đặt chân đến hồ Nong Dùng chính là màu nước. Không phải thứ nước xanh ngắt thường thấy của ao hồ miền núi mà là một màu xanh ngọc thuần khiết, sâu thẳm và lặng lẽ như một bí mật cất giấu giữa núi dựng phía xa. Dưới nắng, mặt nước ánh lên như có lớp men ngọc mỏng mịn phủ trên bề mặt long lanh. Gió thoảng qua, mặt hồ gợn nhẹ, không phải là những con sóng mà là những nét vẽ run rẩy của cổ tích, khiến lòng người chùng lại, tưởng như chỉ cần bước chân xuống đó là sẽ lạc vào một thế giới khác.

Ông Tám kể chuyện chậm rãi như sóng nước mặt hồ. Đến giữa lòng hồ, như để du khách cảm nhận cái mênh mang của đất trời nơi đây, ông cắm cây sào dài, ngồi thảnh thơi trên bè, mắt nhìn ra mặt nước lấp lánh ánh nắng. Giọng ông trầm ấm, thong thả như đang kể lại một điều thiêng liêng cất giữ trong lòng bao năm: “Hồi nhỏ, bà ngoại tôi vẫn bảo cái hồ này là chén ngọc của cô tiên trên trời đánh rơi xuống lúc đi ngang thung lũng Hữu Liên. Thành ra ai uống nước hồ, ai ngồi lâu bên nó cũng hóa hiền, hóa mộng mơ…”. Ông cười, nụ cười của người đã sống cả đời với mặt nước, nơi mà mỗi con cá bơi lội, mỗi làn gió thổi qua đều gợi nhớ về một thời xa xưa.

Đến trưa, chúng tôi cập vào một bãi cỏ lớn bên hồ. Xa xa là bốn chiếc thuyền kayak dựng bên lán cỏ, nhóm bạn trẻ đang chuẩn bị bữa nướng dã ngoại. Mùi thịt nướng, tiếng ghi-ta, tiếng người trò chuyện hòa vào nhau, khẽ khàng như không muốn phá vỡ sự yên ắng của thung lũng.

Chiều đến là lúc hồ Nong Dùng khoác lên mình vẻ đẹp huyền hoặc khó gọi thành tên. Mặt trời bắt đầu rút về sau lưng núi, những tia nắng cuối cùng rơi lấp lánh trên mặt nước, vỡ ra thành những mảnh vàng, mảnh bạc. Những tia nắng không còn rực rỡ mà mềm như lụa, nghiêng nghiêng trút xuống lòng hồ trong vắt. Mặt nước khẽ gợn, như vừa thở một hơi dài sau ngày nắng. Ven hồ, cây sấu già in bóng xuống mặt nước, từng chiếc lá đung đưa như vẫy chào ngày đang khép lại. Chuồn chuồn vẫn bay là là mặt nước, đôi cánh mảnh khảnh bắt lấy tia nắng còn sót lại, lấp lánh như thủy tinh. Lũ cá lặng lẽ bơi bên dưới, đôi khi nhô đầu đớp mặt nước, tạo nên những vòng sóng tròn tròn, lan ra như những chiếc chuông nước ngân khẽ.

Nền trời chuyển màu chậm rãi, từ xanh ngọc đến cam đào rồi ngả dần sang tím nhạt, từng đàn cò trắng bắt đầu bay về tổ, sải cánh qua dãy núi đá vôi, bóng lướt ngang trời như nét cọ phóng khoáng của họa sĩ. Tiếng vỗ cánh vang vọng trong không gian yên ắng, lẫn vào âm thanh khe khẽ của cỏ cây trở mình đón gió. Phía xa, những vệt sáng cuối ngày nhẹ nhàng đáp xuống cánh đồng cỏ ngả màu mật ong, vẽ lên mặt đất những ánh vàng dài như dải lụa. Vài chú ngựa thảo nguyên vẫn còn thong dong gặm cỏ, bóng đổ dài và mềm, gợn lên cảm giác bình yên nguyên sơ. Chúng di chuyển chậm rãi giữa ánh chiều loang loáng.

Không ai bảo ai, tất cả như chững lại. Ngay cả tiếng ghi-ta từ bãi cắm trại phía xa cũng ngập ngừng, có lẽ người chơi đàn cũng đang mải ngắm hoàng hôn mà quên tấu nhạc. Lúc ấy, hồ Nong Dùng không còn là một địa danh mà là một bức tranh sống động, nơi ánh sáng, gió, nước, cây cỏ và động vật cùng hòa tấu một bản nhạc không lời của đất trời.

Cảnh vật ấy, cái chậm rãi, tĩnh tại, cái dịu dàng buông xuống như chiếc khăn mỏng của chiều muộn, khiến người ta không muốn rời đi. Có thứ gì đó vừa mong manh, vừa vĩnh cửu ở lại trong lòng, như thể thời gian đã tan loãng vào mặt hồ. Trong ánh chiều ấy, ông Hoàng Tám không chèo nữa. Ông chỉ ngồi đó, nhìn xa xăm, bàn tay chạm nhẹ lên thân bè đã bạc màu. Hình như ông đang nghe hồ kể chuyện, những câu chuyện chỉ người sống đủ lâu ở đây mới hiểu được.

Trại bên hồ bắt đầu sáng đèn. Những chiếc lều vải màu be, những ngọn đèn nhỏ nhấp nháy như sao sa rơi xuống đất. Gió đêm tràn về mát rượi, mang theo mùi đất ẩm và cỏ dại. Chúng tôi ngồi quây quần quanh bếp lửa, nghe tiếng lửa reo tí tách, lòng thấy ấm áp và bình yên lạ thường.

Tối đến, giữa tiếng đàn và tiếng gió núi, tôi chợt nhớ đến câu nói của ông Hoàng Tám: “Nong Dùng không cần tô vẽ gì đâu. Nó đẹp sẵn rồi, như cô gái Tày chỉ mặc váy chàm, cài một chiếc trâm bạc là đã khiến người ta không nỡ rời mắt”. Có lẽ vì thế, Nong Dùng không chỉ là một điểm đến. Với những ai từng đặt chân tới, nó là một khoảng trời dịu dàng để trở về, nơi những bè tre vẫn lặng lẽ trôi, nơi chuồn chuồn vẫn chạm nước mỗi chiều, nơi mà con người tìm lại được tiếng nói thầm thì của thiên nhiên và chính mình.

Ghi chép của Nguyên An

Nguồn: Dulichvn

Độc đáo thanh âm đàn đá ở vùng cực Đông tổ quốc

Từ những phiến đá tưởng như vô tri, người dân xã Tuy An Đông, tỉnh Đắk Lắk đã tạo nên một loại nhạc cụ đặc biệt mang tên đàn đá. Đàn đá ở Tuy An không chỉ nối dài âm thanh của đàn đá cổ nức tiếng, mà còn trở thành điểm nhấn hấp dẫn du khách trong hành trình khám phá di sản ở vùng đất cực đông Tổ quốc.


Trong không gian hoài cổ với rất nhiều hiện vật bằng đá tại di tích quốc gia đặc biệt Gành Đá Đĩa, xã Tuy An Đông, tỉnh Đắk Lắk (huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên cũ), từ xa, du khách đã bắt đầu nghe văng vẳng tiếng đàn đá đang hòa tấu nhiều bản nhạc khác nhau. Những bài hát truyền thống cách mạng như: Cô gái vót chông, Tiếng đàn Ta lư, Cô gái Pako,… hay những bài nhạc trẻ mới nổi được các cô gái biểu diễn một cách thuần thục. Tiếng đàn đá réo rắt hòa cùng âm thanh hiện đại khiến người nghe thích thú.

Anh Nguyễn Văn Sơn, du khách đến từ thành phố Hà Nội hào hứng: “Trước khi bước vào đây mình đã nghe thấy từ xa rồi, mình nói với con của mình, đấy là tiếng đàn đá, và con của mình cũng nghe khá nhiều lần. Mình thấy đàn đá, một nhạc cụ đặc biệt đến từ sinh hoạt, cuộc sống hàng ngày của người dân ở các địa phương. Đây cũng là loại đàn gắn liền với công việc sản xuất hàng ngày của họ trên đồng ruộng”.

Trong không gian hoài cổ ở di tích quốc gia đặc biệt Gành Đá Đĩa, tiếng đàn đá trở thành điểm nhấn với những thanh âm trong trẻo, réo rắt.

Khéo léo dùng hai chiếc búa gỗ gõ lên những thanh đá dài ngắn khác nhau, tạo nên giai điệu mộc mạc mà cuốn hút, chị Mai Thị Hàng, nhân viên tại điểm du lịch trong Di tích Gành Đá Đĩa chia sẻ, suốt 4 năm qua, chị được nhiều du khách biết đến với tên gọi “nghệ nhân chơi đàn đá”. Từ sự tò mò ban đầu, đến nay, chị thực sự đam mê và dành thời gian mỗi ngày để tập luyện và khám phá loại nhạc cụ đặc biệt này.

“Chúng em vừa tự học và vừa có thầy dạy riêng nữa, đánh được rất nhiều bài, nhạc Tây Nguyên cũng có, nhạc trẻ cũng có, Bolero cũng có. Thường thường thiên về nhạc Tây Nguyên, nhưng mà nay chúng em tập nhiều nhạc trẻ đang hot để cho khách đến biết. Buổi sáng thì chúng em làm việc, buổi chiều thì có thời gian tập luyện tay và tập luyện nốt để đánh, chúng em tự rà nốt và làm nhạc theo”, chị Mai Thị Hàng chia sẻ.

Không chỉ ở Gành Đá Đĩa, tại di tích Tháp Nhạn, phường Tuy Hòa, tỉnh Đắk Lắk, các nghệ nhân trẻ – hầu hết là nữ – cũng đang góp phần đưa đàn đá đến gần hơn với công chúng. Chị Phạm Thị Mỹ Linh, ở xã Tuy An Đông, tỉnh Đắk Lắk bộc bạch: “Học để chơi được một bài đàn đá mất khoảng 5-6 tháng. Trong vòng 5-6 tháng đó, hai tháng đầu tập luyện tay rất nhiều. Làm quen với búa là điều quan trọng nhất khi bắt đầu chơi đàn đá, một ngón trỏ và một ngón cái để cầm thanh búa, còn những ngón sau thả lỏng và bám sát ở phía sau, để khi đánh sẽ có đòn bẩy nâng búa lên, để tiếng đàn đá sẽ thanh”.

Du khách thích thú tìm hiểu và trải nghiệm bộ đàn đá được phục chế với hàng chục thanh đá.

Theo các nhà khoa học, đàn đá là loại nhạc cụ gõ cổ nhất của Việt Nam, với âm thanh vang vọng và trong trẻo. Tại Bảo tàng Phú Yên, bộ đàn đá Tuy An được phát hiện năm 1992, hiện đang lưu giữ và trưng bày như một trong những cổ vật quý. Bộ đàn đá này có niên đại khoảng 2.500 – 3.000 năm, vượt trội so với các bộ đàn đá khác về âm sắc vì còn đủ bộ, nguyên vẹn và có thang âm hoàn chỉnh.

Bà Ly Ca, nhân viên bảo tàng, giới thiệu: “Bộ đàn đá Tuy An được chế tác từ đá riolit pocia, gồm có 8 thanh, và những thanh này có độ dài và độ ngắn khác nhau, chính vì vậy đã tạo nên âm thanh khác biệt của các thanh đá”.

Từ bộ nguyên bản chỉ 8 thanh, các nghệ nhân địa phương đã phát triển thành nhiều bộ lớn hơn, có bộ lên đến 35 thanh, để thể hiện được cả những bản nhạc có quãng trầm sâu và tiết tấu phức tạp. Ông Nguyễn Minh Nghiệp, chủ điểm du lịch Hồn Xưa, người tiên phong chế tác và sáng tạo thêm đàn đá từ chất liệu đá Tuy An kể, từ năm 2013, ông bắt đầu tìm hiểu về đàn đá cổ Tuy An rồi sưu tầm và chế tác thêm những bộ đàn đá mới.

Các nữ nghệ nhân trẻ đang góp phần đưa đàn đá đến gần hơn với công chúng.

“Tìm hiểu về đá, rồi mình nghiên cứu về bộ đàn đá cổ Tuy An, tìm chất liệu đá của đàn đá Tuy An để sáng tác lại những bộ đàn đá chuẩn với nốt nhạc hiện đại bây giờ. Mình tìm được viên đá thô về mình đục đẽo, mình làm sao cho nó gọn lại như bộ đàn đá Tuy An chỉ có mười mười mấy thanh mà mình phát triển lên là hiện giờ là hai mươi mấy thanh hoặc ba mươi mấy thanh. Hiện giờ bộ mà mình làm nhiều nhất là 35 thanh. Thanh đá ít thì quãng trầm không có, bộ càng nhiều thanh thì mới có quãng trầm”, ông Nguyễn Minh Nghiệp chia sẻ.

Không chỉ là nhạc cụ cổ, đàn đá Tuy An ngày nay đã trở thành một phần của sản phẩm du lịch văn hóa độc đáo nơi cực Đông Tổ quốc. Những khối đá thô sơ qua bàn tay con người đã trở thành nhạc khí mới với âm thanh trong trẻo, không chỉ thu hút du khách mà còn gắn liền với đời sống, nghệ thuật và bản sắc của mảnh đất Tuy An, tỉnh Đắk Lắk ngày nay.

H Xíu

 

Nguồn: Dulichvn

Món ngon từ xuyến chi

Trước nhà tôi có khoảnh đất trống. Sau một vài cơn mưa, xuyến chi chen nhau vươn mình xanh mướt. Thi thoảng, tôi lại hái những đọt xuyến chi mơn mởn về chế biến thành một vài món ăn vừa lạ miệng vừa ngon như xào tỏi, nấu canh hay luộc.


Vào google, gõ từ “xuyến chi”, tôi có được rất nhiều kết quả từ tên gọi, nguồn gốc đến công dụng của loài cây này. Thì ra, từ hơn 50 năm trước, xuyến chi đã được trồng nhiều ở một số vùng tại châu Phi vì dễ canh tác và có thể sử dụng làm rau ăn. Theo một số tài liệu khoa học, rau xuyến chi có hương vị đặc trưng, giàu dinh dưỡng. Còn trong Đông y, xuyến chi được coi là bài thuốc, có công dụng thanh nhiệt, giải độc và dùng vào chữa trị một số bệnh đơn giản như bị côn trùng cắn, viêm sưng họng, tiêu chảy.

Sau một vài cơn mưa, vạt xuyến chi chen nhau vươn mình xanh mướt. Ảnh: Tuệ Nguyên

Là người yêu hoa cỏ, đến giờ, tôi cũng không nhớ được rằng mình đã chụp bao nhiêu tấm ảnh về loài thảo mộc dân dã này, chủ yếu là ảnh những bông hoa mỏng manh với sắc trắng tinh khôi điểm xuyết nhụy vàng gợi vẻ dịu dàng, tinh tế. Xuyến chi ra hoa quanh năm, nhưng đẹp nhất là vào mùa xuân và mùa thu. Và, vào khoảng thời gian đó, loài hoa cỏ nho nhỏ xinh xinh ấy đã để thương để nhớ trong trái tim biết bao người.

Khi coi xuyến chi là một loài rau giúp thực đơn bữa cơm gia đình thêm phong phú, đổi vị, lại giảm bớt việc đi chợ và có phần tiết kiệm, tôi thường làm một số món đơn giản như luộc, xào tỏi hoặc nấu canh. Sau khi lựa hái những ngọn xuyến chi xanh non, tôi đem vào nhà rửa sạch, ngâm khoảng 10 phút với nước muối pha loãng và để ráo nước.

Món rau xuyến chi xào tỏi. Ảnh: Tuệ Nguyên

Món tôi hay làm nhất là rau xuyến chi xào tỏi. Để rau bớt đi vị đăng đắng cùng mùi hơi hăng hắc, tôi thường chần xuyến chi qua nước sôi rồi mới đem xào. Vốn dĩ xuyến chi đã là một loại rau giàu dinh dưỡng, khi kết hợp với tỏi sẽ đem đến sự thơm ngon, hấp dẫn không ngờ.

Thực ra, lý do khiến tôi yêu thích và hay làm món rau xuyến chi xào tỏi là bởi tôi đã đọc được thông tin trên trang web của Nhà thuốc Long Châu rằng, món ăn này không những ngon miệng mà còn mang lại nhiều lợi ích cho sức khỏe, nhất là việc chống viêm, chống ô xy hóa, hỗ trợ hệ tiêu hóa…

Còn món luộc thì lại khá đơn giản, như cách làm với các loại rau thông thường khác như rau cải, rau muống; khi ăn thì chấm với nước mắm hoặc nước tương tùy sở thích mỗi người. Với món canh, tôi hay nấu với thịt heo băm nhỏ. Khi nấu canh, cho thịt nạc băm nhỏ vào xào sơ với dầu ăn, hành khô rồi cho nước vào đun sôi, sau đó nêm gia vị và cuối cùng là bỏ rau xuyến chi vào nấu chín.

Vào lúc chiều muộn, khi trời bất ngờ thắp lên một đôi giọt nắng vàng nhạt, tôi thường ra trước nhà ngó nghiêng vạt xuyến chi non xanh đang đu đưa theo gió. Con hẻm nhỏ thoai thoải dốc trong lòng phố với gần 20 nếp nhà-nơi gia đình tôi đã gắn bó được hơn 20 năm như đẹp hơn, yên bình hơn với màu xanh non của vạt xuyến chi, màu xanh dịu của trời, màu vàng nhẹ của nắng, màu trắng ngà của những bức tường… Và chính những khoảnh khắc bình yên ấy càng khiến tôi yêu hơn cuộc sống này.

Tuệ Nguyên

Nguồn: Dulichvn

Miền Tây xứ Thanh: Chạm vào hồn đất, say trong hơi thở bản làng

Giữa rừng xanh bạt ngàn và tiếng suối reo róc rách, nơi những ngọn núi nối tiếp mây trời, các bản làng nơi miền Tây xứ Thanh đang thức dậy trong nhịp sống mới, chậm rãi nhưng đầy sức sống.


Không phải bằng những khu nghỉ dưỡng sang trọng hay những tuyến du lịch ồn ào, mà bằng tiếng cười giòn tan của người Thái, Mường, Dao… vang bên bếp lửa, bằng những bữa cơm đượm hương rừng và những điệu múa xòe say lòng người.

Du khách khám phá vẻ đẹp nguyên sơ của miền Tây xứ Thanh – nơi những cung đường giữa ruộng bậc thang và núi rừng xanh thẳm trở thành điểm hẹn của trải nghiệm, kết nối văn hóa

Du lịch cộng đồng ở đây không chỉ mang đến một chuyến đi, mà là hành trình đi sâu vào tâm hồn văn hóa, gắn kết giữa người và đất, giữa du khách và cộng đồng, giữa hiện tại và truyền thống.

Pù Luông thức giấc, bản làng đổi thay

Khi bình minh còn ngái ngủ giữa những đám mây trắng lững lờ trôi trên thung lũng, Pù Luông “viên ngọc xanh” giữa lòng xứ Thanh đã khẽ lay mình, đánh thức từng giọt sương đêm đọng lại trên những bông lúa non.

Những con đường đất đỏ vắt qua sườn đồi, dẫn lối du khách vào một thế giới vừa quen vừa lạ: nơi thiên nhiên chưa bị bàn tay bê tông hóa xâm lấn, nơi con người vẫn sống hòa mình với núi rừng, và nơi văn hóa vẫn còn ngân vang trong từng câu hát, điệu múa giữa đêm lửa hồng.

Từng bản làng như bản Đôn, bản Bầm, bản Hiêu hay bản Son, Bá, Mười… đều mang một vẻ đẹp riêng, tự nhiên, bình dị và chân thực.

Ở bản Đôn, những homestay mộc mạc bằng tre nứa, lợp mái lá cọ nằm nép mình bên ruộng bậc thang. Mỗi sáng, chủ nhà những người Thái bản địa đón khách dậy sớm đi bộ giữa sương, men theo những bậc ruộng, nghe tiếng chim gọi nhau thức dậy, ngửi mùi cỏ cây ngai ngái.

Bữa sáng không phải buffet nhiều món, mà là nắm xôi nếp nương nóng hổi, vài con cá suối nướng lá dong và chén trà rừng ấm nóng. Chỉ thế thôi mà khiến người ta nhớ mãi.

Phụ nữ Thái ở xã Thường Xuân trình diễn điệu múa truyền thống trong Lễ hội mừng cơm mới – một trong những hoạt động gắn kết văn hóa và phát triển du lịch cộng đồng

“Tôi từng đi nhiều nơi: Sa Pa, Mộc Châu, Hà Giang… nhưng cảm giác ở Pù Luông là rất khác”, anh Trần Văn Dũng, một du khách đến từ Hà Nội tâm sự. “Ở đây, không gian mang tính chữa lành. Mọi thứ rất thật, rất gần. Tôi không phải khách đến rồi đi, mà là người được sống cùng họ cùng ăn, cùng làm, cùng ngồi bên bếp lửa nghe kể chuyện xưa…”.

Nơi đây, văn hóa dân tộc Thái không phải thứ để trưng bày mà là một phần đời sống. Mỗi ngôi nhà sàn đều là kho tàng lịch sử sống. Mỗi người phụ nữ không chỉ là chủ nhà, mà còn là nghệ nhân dệt vải, người gìn giữ bài hát ru, là “người kể chuyện” cho những ai chịu lắng nghe.

Những đêm giao lưu văn nghệ không sân khấu, không đèn màu chỉ có ánh lửa bập bùng, tiếng khèn ngân lên từ trái tim là dịp để du khách và người dân nối nhịp cầu văn hóa, giữa hiện tại và ký ức.

Cái hay của Pù Luông là ở chỗ: bản sắc không bị pha loãng bởi du lịch hóa. Du khách đến đây để sống chậm lại, để hít căng lồng ngực mùi rừng, để biết thế nào là “nếp nhà” của người Thái, để rửa trôi khói bụi phố thị bằng một chén rượu cần say ngọt trong ánh mắt thân thiện của người lạ đã hóa thân quen.

Từ bản Năng Cát đến bản Mạ: “Đi để yêu, ở để nhớ”

Câu chuyện du lịch cộng đồng không chỉ dừng lại ở Pù Luông, mà tiếp tục lan tỏa tới những bản làng nhỏ bé nơi rẻo cao xứ Thanh, nơi những ‘viên ngọc thô’ đang dần bừng sáng. Không nhờ vào sự hào nhoáng bề ngoài, mà bằng chiều sâu văn hóa và vẻ đẹp chân thực, mộc mạc khiến lòng người rung động.

Bản Năng Cát (xã Linh Sơn) nằm lọt giữa rừng già nguyên sinh, tựa lưng vào thác Ma Hao trắng xóa. Bản nhỏ chỉ vài chục nóc nhà, nhưng mỗi ngôi nhà sàn đều chứa đựng một đời sống văn hóa phong phú.

Người dân bản Bút (xã Nam Xuân) kiên trì truyền dạy nghề dệt thổ cẩm cho thế hệ trẻ và du khách – gìn giữ từng sợi ký ức văn hóa giữa nhịp sống hiện đại

Người dân nơi đây vẫn dệt thổ cẩm bằng khung cửi gỗ, nhuộm chàm bằng lá cây rừng, đun bếp bằng củi nứa và mời khách bằng món cá suối nướng trong ống tre, dẻo thơm mùi khói.

Tại đây, du khách không chỉ “tham quan” mà được “tham gia”: đạp nước gặt lúa, thu hoạch măng, tìm củ đinh lăng, bắc bếp nấu cơm, học làm bánh trôi nhân đậu xanh…


Người dân không chỉ mở cửa đón khách, mà còn mở lòng đón bạn. Họ không ngại dạy, không tiếc truyền, bởi họ tin: càng nhiều người biết, thì văn hóa càng sống lâu.

Một bước chân khác đưa ta đến bản Mạ (xã Thường Xuân) nơi đang từng bước thay đổi theo hướng du lịch cộng đồng. Những homestay giản dị nhưng đầy đủ tiện nghi bắt đầu mọc lên. Người dân được tập huấn làm du lịch tử tế: từ chào đón khách, phục vụ bữa ăn, hướng dẫn trải nghiệm, đến cách bảo vệ môi trường, xử lý rác thải.

Đồng bào Thái biểu diễn khặp Thái trong một sự kiện văn hóa cộng đồng – nơi văn hóa không chỉ được bảo tồn mà còn lan tỏa đến du khách gần xa

Ở bản Mạ, du khách có thể cùng chủ nhà lên đồi hái chè, chăm đàn lợn đen trong chuồng, hay cùng lũ trẻ ra đồng tát nước bắt cá. Đêm xuống, trong cái se lạnh của núi rừng, mọi người quây quần bên bếp củi, cùng uống rượu ngô, nghe tiếng khèn ngân vang hòa trong tiếng lá xào xạc.

Ấm lòng hơn cả là ánh mắt tự hào của người dân khi kể về nếp nhà, nếp bản, về những mùa lúa cũ, những lễ hội đã qua…

Người phụ nữ ở bản Bút, xã Nam Xuân bồi hồi kể: “Ngày trước chúng tôi sợ khách, nghĩ người dưới xuôi khác mình nhiều lắm. Giờ thấy họ thích nghe mình hát, thích học mình dệt, thấy con nít nhà mình được mặc váy xòe lên múa là vui lắm. Du lịch đến không chỉ cho mình thêm cái ăn, mà còn cho thêm niềm tin”.

Ở miền Tây xứ Thanh, du lịch cộng đồng không chỉ là phương thức mưu sinh mới, mà là sợi dây kết nối giữa quá khứ và tương lai, giữa văn hóa truyền thống và sự phát triển bền vững.

Du lịch cộng đồng: Không chỉ phát triển, mà còn giữ hồn

Trước làn sóng đô thị hóa và sự cạnh tranh khốc liệt giữa các điểm đến, du lịch cộng đồng xứ Thanh đã chọn cho mình một con đường khác, lặng lẽ nhưng kiên định: con đường bảo tồn văn hóa làm gốc, lấy trải nghiệm làm điểm tựa, lấy con người làm trung tâm.

Nhiều năm qua, các cơ quan văn hóa – du lịch của tỉnh đã vào cuộc mạnh mẽ: từ quy hoạch các vùng du lịch cộng đồng trọng điểm, đào tạo kỹ năng quản lý homestay, đến tổ chức lớp tập huấn văn nghệ dân gian, hỗ trợ đạo cụ, trang phục biểu diễn… Tất cả đều nhằm mục tiêu: để người dân làm chủ bản sắc của mình.

Bà Nguyễn Thị Mai Hương, Giám đốc Trung tâm Xúc tiến Du lịch và Văn hóa Điện ảnh tỉnh Thanh Hóa chia sẻ: “Du lịch cộng đồng không thể là cuộc chơi một chiều. Chỉ khi người dân thấy mình là trung tâm, là người kể chuyện, thì văn hóa mới thật sự sống trong du lịch. Chúng tôi không hướng đến những điểm đến đông khách nhất, mà là điểm đến đậm đà nhất”.

Tuy nhiên, hành trình giữ hồn văn hóa giữa dòng chảy phát triển không dễ dàng. Vẫn còn những bản làng khó tiếp cận, nhất là mùa mưa. Vẫn còn những người trẻ muốn bỏ bản đi làm ăn xa. Vẫn còn nỗi lo về sự đồng bộ trong quy hoạch, về rập khuôn mô hình, đánh mất cái riêng.

Vì thế, phát triển du lịch cộng đồng không chỉ là chuyện hôm nay, mà là chuyện dài hơi, đòi hỏi sự kiên trì, thấu cảm và đầu tư đúng cách. Đó là chuyện về việc giữ lại tiếng khèn cổ, là chuyện về đôi bàn tay người mẹ đang dạy con gái dệt thổ cẩm, là chuyện về cách một bản làng nhỏ bé có thể khiến trái tim người thành phố rung động.

Miền Tây xứ Thanh, nơi rừng xanh chưa mất tiếng chim, nơi những ngọn núi vẫn đón mây chiều bằng sự tĩnh tại, đang dần trở thành điểm đến không ồn ào mà thấm sâu.

Không có cao ốc, không cần sân khấu, những bản làng nơi đây vẫn kể được câu chuyện riêng của mình bằng nếp nhà, bằng hương rượu cần, bằng khúc hát giao duyên trên sàn gỗ cũ.

Giữa thế giới công nghiệp hóa đang ngày một vội vã, giữa những chuyến đi bị lập trình bởi lịch trình chật kín, thì một đêm ở Pù Luông, một buổi sáng ở bản Năng Cát, một nụ cười của người phụ nữ Mường bên bếp lửa… lại trở thành những điểm chạm cảm xúc thật sự.

Có lẽ, điều níu chân du khách không nằm ở những gì quá cầu kỳ, mà ở chính cái giản dị đến tinh tế của đời sống bản địa.

Và nếu có ai hỏi đâu là “đặc sản” của du lịch cộng đồng miền Tây xứ Thanh, thì xin được trả lời: ấy là lòng người bình dị, tử tế, và chan chứa yêu thương.

Nguyễn Linh

 

Nguồn: Dulichvn

Con voi và những di sản văn hóa của dân tộc M’nông

Tại Đắk Lắk, cộng đồng dân tộc M’nông có các nhóm M’nông Gar, M’nông Preh, M’nông Rlăm, M’nông Kuênh, trong đó tộc người M’nông Preh ở Buôn Đôn và M’nông Rlăm ở Lắk từ lâu đời gắn bó với nghề nuôi voi, thuần dưỡng voi.


Là loài vật gắn bó với cuộc sống của con người, tài sản có giá trị lớn nhất, mang lại lợi ích nhiều nhất cho buôn làng, voi nhà được xem là thành viên của cộng đồng.

Loài vật này là nhân tố không tách rời các hoạt động như giao tiếp, ứng xử xã hội, nghi lễ, lễ hội truyền thống, phong tục tập quán, định chế luật tục, diễn xướng dân gian, nghệ thuật tạo hình của các dân tộc, trong đó, nổi bật nhất là tri thức dân gian liên quan đến nghề săn bắt và thuần dưỡng voi rừng mà ngày nay thay thế bằng nghề nuôi voi nhà của người M’nông.

Lễ cúng voi nhập buôn của dân tộc M’nông Preh.

Đồng bào M’nông sở hữu một kho tàng đồ sộ về lời nói vần (Nao m’pring). Đây là phương tiện lưu truyền, phổ biến tri thức dân gian về cuộc sống mưu sinh như săn bắt, hái lượm, kinh nghiệm làm rẫy, hoa màu, chăn nuôi, thời vụ và ứng xử xã hội. Lời nói vần biểu đạt, vận dụng trong nhiều loại hình văn hóa dân gian như sử thi, thần thoại, truyền thuyết, ca dao, tục ngữ, đặc biệt là trong trường ca/sử thi cổ sơ (ot n’drong) của dân tộc M’nông. Có thể thấy bức tranh sinh động, đầy màu sắc huyền thoại miêu tả về con voi trong các sử thi; những câu ca dao, tục ngữ, thành ngữ… có vần điệu, mượn hình ảnh con voi bằng lối ví von, so sánh với ý nghĩa sâu sắc để truyền dạy khuôn phép ứng xử cộng đồng; các bài cúng/khấn nguyện thần linh liên quan đến nghề nuôi voi, săn bắt và thuần dưỡng voi rừng…

Theo tín ngưỡng của đồng bào M’nông, voi là con vật đứng hàng đầu trong loài vật. Họ tin rằng thần voi (thần Nguăch Ngual) và hồn voi là lớn nhất và quan trọng nhất, cai quản, chăn nuôi đàn voi trong rừng và đàn voi nhà ở buôn làng. Vị thần này được coi là phúc thần, là người mang đến sự may mắn và hạnh phúc cho đồng bào. Trong hoạt động lễ hội truyền thống của người M’nông, chưa có hình thức thờ cúng nào được coi trọng như hình thức cúng con voi. Nghi lễ cúng voi có nhiều loại và nhiều hình thức rất phong phú: cúng trước khi đi săn, cúng trong lúc đi săn trong rừng; cúng khi voi mới được mua về; cúng voi nhập buôn; cúng đặt tên cho voi; cúng sức khỏe cho voi; cúng các công cụ săn voi mới vừa được làm xong; cúng khi voi ốm; cúng để cầu phúc thường xuyên cho voi; cúng khi bán voi; cúng khi voi sinh nở; cúng khi mất voi; cúng khi voi được tìm thấy lại; cúng cắt ngà voi; cúng khi bán ngà voi; cúng voi con bắt đầu tập chuyên chở…

Dân tộc M’nông sáng tạo ra nhiều tác phẩm điêu khắc về chủ đề con voi. Nổi bật nhất là hình tượng ngà voi ở nhà mồ với mô típ cặp ngà voi gắn trên nồi đồng, đôi chim công đậu trên cặp ngà voi, cặp ngà voi và hình rau dớn… Các mẫu thức trang trí này thực sự là những tác phẩm điêu khắc mang nhiều dấu ấn, gắn bó với tâm hồn, tình cảm của bộ phận dân cư sinh sống bằng nghề săn bắt và thuần dưỡng voi rừng nổi tiếng một thời ở Buôn Đôn. Mẫu thức ngà voi, chim công, nồi đồng càng thể hiện chủ đề rõ nét hơn: nếu ngà voi biểu hiện sự hùng mạnh, nồi đồng nói lên sự no ấm và chim công biểu đạt vẻ đẹp rực rỡ, cao sang. Trong các mẫu thức này ngà voi ở vị trí trung tâm. Tất cả toát lên sự hài hòa với ngôn ngữ điêu khắc mộc mạc, chân chất, đường nét, hình khối vừa nhẹ nhàng vừa khỏe khoắn, chắt lọc những điểm chính của sự vật gần gũi nhất, quý giá nhất để tạo nên một biểu tượng đẹp.

Voi con ở bến nước buôn Trí.

Nếu voi rừng và voi nhà là tài nguyên thiên nhiên có một không hai của tỉnh Đắk Lắk thì những di sản văn hóa vật thể và phi vật thể liên quan đến loài voi của dân tộc M’nông là tài nguyên nhân văn đặc sắc, góp phần tạo nên giá trị, tiềm năng du lịch, văn hóa độc đáo của địa phương.

Việc nghiên cứu, sưu tầm các di sản nhân văn liên quan đến loài voi, đặc biệt là các di sản văn hóa phi vật thể như lời nói vần, lễ hội, luật tục, tri thức dân gian, nghệ thuật điêu khắc, diễn xướng, phục sức cổ truyền… liên quan đến con voi là việc làm cần thiết và cấp bách nhằm bảo tồn và phát huy di sản quý giá, phục vụ cho sự phát triển văn hóa, du lịch ở địa phương; đồng thời góp phần cung cấp những tri thức dân gian để có thể vận dụng trong hoạt động bảo tồn voi rừng và voi nhà trước nguy cơ giảm sút về số lượng như hiện nay.

Tấn Vịnh

Nguồn: Dulichvn

Về với Khu di tích căn cứ Sa Lôn – Lâm Đồng

Khu di tích căn cứ Tỉnh ủy Bình Thuận trong kháng chiến chống đế quốc (Khu di tích căn cứ) đóng trên cánh rừng Sa Lôn xã Đông Giang, tỉnh Lâm Đồng là địa chỉ được nhiều đoàn khách, đơn vị đánh giá là “trường học” sinh động.


Du khách về với Khu di tích căn cứ Sa Lôn

Tự hào truyền thống dân tộc

Từ phường Phan Thiết theo quốc lộ 28 và đường tỉnh ĐT 714 về hướng Tây Bắc khoảng 60 km sẽ đến điểm di tích căn cứ Tỉnh ủy Bình Thuận trong kháng chiến chống Mỹ. Khu di tích nằm trong cánh rừng Sa Lôn có diện tích 10,94 ha, dưới những tán cây cổ thụ cao lớn, mát rượi.

Theo ông Võ Cáp – Trưởng Ban Quản lý Khu di tích căn cứ: Thời chiến tranh ác liệt, căn cứ của Tỉnh ủy địa phương đã phải di chuyển nhiều nơi. Trong đó, rừng Sa Lôn là vị trí được chọn lâu nhất, với 3 lần, trong thời gian 8 năm không liền mạch từ khoảng năm 1954 – 1970. Tại đây đã có 6 vị Bí thư Tỉnh ủy từng ở, làm việc để lãnh đạo, chỉ đạo phong trào đấu tranh cách mạng. Căn cứ này đã diễn ra nhiều sự kiện quan trọng như lễ truy điệu Chủ tịch Hồ Chí Minh ngày 9/9/1969, Đại hội Đảng bộ tỉnh vào tháng 7/1970… Với những dấu ấn đặc biệt đó, Khu di tích căn cứ Sa Lôn được xếp hạng di tích cấp tỉnh vào tháng 10/2017. Đồng thời, được phục dựng, tu bổ, tôn tạo các di tích gốc và xây dựng hạng mục phụ trợ đưa vào sử dụng đầu năm 2023. Hiện Khu nhà tưởng niệm trưng bày 277 hiện vật là các tư liệu, hình ảnh, vật dụng gắn liền với cán bộ, chiến sĩ trong quãng thời gian chiến tranh ác liệt, gian khổ, minh chứng hào hùng cho một thời tuổi trẻ sẵn sàng dâng hiến.

Để di chuyển lên khu di tích gốc, gồm hầm, chòi nghỉ chân, hội trường, bếp Hoàng Cầm, hệ thống mương thoát nước… du khách đi bộ theo con đường độc đạo với các bậc tam cấp trải dài gần 1 km. Qua lời giới thiệu của hướng dẫn viên, mọi người đều cảm nhận được đây thực sự là một vùng đất huyền thoại, vang lên bản anh hùng ca bất diệt của lòng yêu nước và ý chí kiên cường chống giặc ngoại xâm của dân tộc.

Khách tham quan tìm hiểu tại Khu di tích căn cứ

Đi để hiểu và hành động

Dang rộng cánh tay, hít một hơi thật khoan khoái giữa thiên nhiên hoang sơ chỉ có thanh âm trong trẻo của tiếng chim, tiếng nước róc rách và hương sắc hoa rừng, chị Minh Tú (Đồng Nai) cho biết: Đến đây không chỉ được tham quan các di tích, mà còn có cơ hội cảm nhận không khí của một thời kỳ cách mạng đầy gian khổ nhưng hào hùng, đồng thời tĩnh lặng, suy ngẫm về những giá trị cao đẹp mà dân tộc ta đã trải qua.

Hành trình trải nghiệm thú vị của du khách

Điểm thú vị nữa là khu di tích nằm trên tuyến đường kết nối các tour du lịch sinh thái từ xã miền núi Đông Giang, La Dạ sang Đồng Kho, rồi đến phường Bảo Lộc. Vì thế, khách tham quan sẽ có cơ hội trải nghiệm văn hóa bản địa độc đáo với các sản phẩm đặc sản của núi rừng Sa Lôn như: mật ong rừng, măng khô, chuối hột rừng, rượu cần, lá bép. Mỗi sản vật đều mang đậm bản sắc ẩm thực của đồng bào dân tộc K’Ho, Raglai.

Những chuyến về nguồn chính là hoạt động thiết thực, biết để trân trọng, tự hào, nêu cao tinh thần, trách nhiệm bảo tồn và phát huy giá trị lịch sử, văn hóa truyền thống. Hiện Ban Quản lý Khu di tích căn cứ đang xây dựng nội dung và tạo mã QR Code các nguồn tài liệu, hiện vật trưng bày, nhà bia và hầm trú ẩn, lán trại tại đây. Song song đó, kết nối các tour, tuyến du lịch và nghiên cứu, đưa mô hình dịch vụ phù hợp nhằm thu hút ngày càng đông khách đến tham quan, trải nghiệm.

Thùy Linh

Nguồn: Dulichvn

Ram bánh mướt gói tình quê Hà Tĩnh

Ở mảnh đất Hà Tĩnh “chảo lửa túi mưa” có một thứ quà quê dân dã, độc lạ khiến ai đi xa cũng nhớ về. Một món ăn phía trong nóng giòn, ngoài mềm ướt, tưởng như nghịch lý nhưng lại hòa quyện gói trọn vị quê – ram bánh mướt Hà Tĩnh.


Món ram bánh mướt Hà Tĩnh.

Nét độc lạ của món ram: Theo tiếng Nghệ, “ram” là một danh từ dùng để chỉ món nem rán theo tiếng phổ thông. “Bánh mướt” là cách gọi khác của “bánh ướt”, “bánh cuốn”. Tuy nhiên ram bánh mướt Hà Tĩnh lại có nét đặc trưng riêng của vùng “quê Nghệ Tĩnh”.

Nguyên liệu chính làm ram không có gì xa lạ ngoài thịt lợn nạc băm nhuyễn, trứng, miến, mộc nhĩ, hành, tiêu, rau thơm, gia vị. Tất cả trộn đều ướp một chút cho đậm vị tạo thành nhân bên trong của ram. Điều tạo nên sự khác biệt của món ram Hà Tĩnh chính là phần vỏ của nó được cuốn từ vỏ ram Hà Tĩnh phơi sương từ những nguyên liệu đơn giản qua quá trình sản xuất khéo léo và kinh nghiệm lâu năm. Gạo và mật mía được chọn lọc kĩ càng, trộn theo tỷ lệ, sau đó xay thành bột và tráng thành những lớp bánh mỏng, rồi được phơi sương và phơi nắng để tạo độ dẻo, dai và màu sắc đặc trưng. Vỏ ram này không có chất bảo quản, không có phụ gia, có độ mềm mịn, không bị rách khi cuốn và khi chiên lên có độ giòn rụm, màu vàng đẹp mắt. Lấy vỏ ram phơi sương cuộn phần nhân vào bên trong rồi đen rán trong chảo mỡ đã sôi cho đến khi ram chuyển sang màu vàng đều là ta đã có món ram đặc trưng của Hà Tĩnh.

Đặc trưng riêng của bánh mướt: Không giống như “bánh cuốn” của miền Bắc hay “bánh ướt” của miền Nam, bánh mướt Hà Tĩnh có vị thanh nhẹ, ít dầu mỡ. Bánh mướt được làm từ gạo tẻ, ngâm trong nước sạch nhiều giờ cho từng hạt gạo ngấm nước, nở đều và mềm rồi mới đem đi nghiền thành bột. Đến đó cũng chưa thể tráng ngay thành bánh được, phải để bột lắng trong nước từ 2 tiếng trở lên, người ta gọi là ủ bột. Để khi tráng, bánh mới nở phồng, ăn mới dẻo dai.

Bếp tráng bánh bao giờ cũng phải đủ nhiệt, để nước trong nồi luôn sôi. Một muỗng bột nước rưới lên khung vải, cán đều cho mỏng tang, đậy vung lại và chờ đợi trong chốc lát. Dùng đũa bếp mỏng nhắc bánh lên cái rá sạch úp ngược hay mành mành. Từng chiếc, từng chiếc một là ta đã có một đĩa bánh mướt hương vị rất riêng biệt của mảnh đất miền Trung nhiều nắng gió.

Cách ăn ram bánh mướt đặc trưng đúng kiểu Hà Tĩnh: Có ram, có bánh mướt nhưng nếu thiếu nước mắm chanh tỏi ớt và cốc nước chè xanh thì chưa đủ gói trọn vị quê. Sự kết hợp giữa ram chiên giòn nóng hổi và bánh mướt dẻo dai, mềm mượt làm cho món ăn trở nên đặc biệt hơn bao giờ hết. Trước khi ngồi vào bàn ăn chờ Ram đang rán, bánh đang tráng, thực khách tự mình làm nước chấm mắm chanh tỏi ớt theo khẩu vị của riêng mình. Đây là điều thú vị trong khi thưởng thức món quà quê này. Chủ quán luôn dành sẵn một bàn có đầy đủ ớt cay xanh đỏ, tỏi tía, nước mắm muối thủ công mà người dân nơi đây hay gọi là “nước mắm vại”, đường, mì chính, cối, chày, dao kéo…

Người ăn tự lựa chọn thành phần, đâm trộn và pha chế theo khẩu vị của mình tạo nên thứ nước mắm chấm màu cánh dán sánh quyện cùng hương vị cay thơm của tỏi ớt. Chiếc ram nóng hổi giòn rụm được cuộn tròn trong lớp bánh mướt mềm dẻo chấm vào chén mắm tự làm khiến cho bao người ăn một lần là nhớ mãi về món ăn vừa giản dị, dân dã nhưng vẫn rất đặc trưng, tinh tế. Khi ăn bạn sẽ cảm nhận được độ giòn, dẻo béo nhưng không hề ngấy. Sau khi thưởng thức món ram bánh mướt, một cốc nước chè xanh mát lạnh được nấu từ những lá chè xanh tươi. Lá chè sẽ được người bán chuẩn bị từ ngày trước, chọn loại lá chè thật tươi ngon và om trong khoảng thời gian nhất định để ra được loại nước chè chuẩn nhất. Bánh mướt mềm và ram giòn tan kết hợp nước mắm đậm đà, sau đó được cân bằng với vị chát nhẹ của nước chè xanh tạo nên một trải nghiệm ẩm thực độc đáo và khó quên.

Ram bánh mướt với những đặc trưng và hương vị độc đáo là món thức quê dân giã và là cả một phần hồn quê luôn nằm trong tâm khảm của bao người con Hà Tĩnh.

Anh Quang

 

Nguồn: Dulichvn

TIN MỚI NHẤT