Du lịch trong nước

Du lịch trong nước, tin tức du lịch trong nước, các tour du lịch trong nước, các địa điểm du lịch trong nước hấp dẫn được chúng tôi tổng hợp và đưa tin hàng ngày đến cho khách du lịch trên khắp mọi miền đất nước có được thông tin du lịch trong nước để có những thông tin hữu ích nhất cho mình và gia đình khi quyết định chọn chuyến du lịch trong nước cho mình và người thân

Hương vị thịt chua trên đất Tổ

Trong chuyến hành hương về đất Tổ, thành kính dâng nén hương thơm trước các vua Hùng, du khách còn được cảm nhận tình đất và người Phú Thọ qua các sản vật địa phương nổi tiếng, trong đó có đặc sản thịt chua. Với những công thức chế biến khác nhau, thịt chua Phú Thọ vẹn nguyên hương vị nồng đậm và trở thành niềm tự hào ẩm thực của vùng đất Tổ. 


Du khách thích thú với sản phẩm thịt chua Phú Thọ.

Có nhiều nơi sản xuất thịt chua nhưng vị thịt chua Phú Thọ vẫn là sự lựa chọn hàng đầu, khi đến đất Tổ ai cũng muốn đem về. Thịt chua có vị bùi bùi, béo béo của thịt lợn sạch kết hợp với thính rang thơm ngất ngây. Được chế biến từ những nguyên liệu dân giã với sự hòa quyện của các gia vị được tẩm ướp theo bí quyết gia truyền, trải qua quá trình lên men, một đặc sản của núi rừng đã được tạo nên bởi chính đôi bàn tay khéo léo của người dân Phú Thọ.

Chị Hồng, bán hàng tại khu vực đền Hùng chia sẻ: Không biết món thịt chua có nguồn gốc từ khi nào, chỉ biết rằng đây là món ăn không thể thiếu của người dân Phú Thọ. Nguyên liệu, chế biến khá dễ dàng, phần thịt để làm món ăn này chủ yếu là mông và bì lợn. Thịt sau khi mua về được treo trong tủ lưới để ráo nước, sau đó lọc hết phần mỡ, gân và thái mỏng. Phần bì lợn là đặc trưng giúp món ăn giòn nhưng công đoạn làm khá kỳ công. Bì lợn sau khi sơ chế sạch được áp qua trong chảo không dầu đến khi mặt ngoài hơi đổi màu trắng ngà. Sau đó bì lợn được rửa sạch lại, để ráo nước, thái mỏng, khi thái có màu trắng trong, trộn đều với phần thịt và ướp gia vị bao gồm: Tỏi, bột canh, mì chính… trong vòng một giờ đồng hồ. Khi phần thịt và bì đã ngấm gia vị thì cho thính là bột ngô xay vào trộn đều, cho nguyên liệu đã trộn đều vào các lọ, ống nứa đã chuẩn bị sạch sẽ trước đó và phủ kín lượt lá ổi và nilon bên trên tránh để không khí lọt vào. Thịt sẽ tự lên men trong vòng 3 đến 5 ngày tùy thời tiết… Bột thính ngô cũng là một trong những nguyên liệu quan trọng và không thể thiếu để làm nên món thịt chua đậm vị. Thính được làm từ ngô phơi khô sau đó nghiền thành bột và rang thơm. Ngày nay, bên cạnh thính ngô, người dân còn sử dụng thính gạo. Gạo làm thính là loại gạo nương thơm ngon, được rang với lửa vừa, đảo đều tay để không bị cháy. Khi nghiền thành bột, gạo có màu vàng đẹp và mùi thơm đượm. Thịt sau khi trộn với thính sẽ được đậy lại bằng vải sạch, không để bụi bẩn lẫn vào…

Điều kiện để thịt lên men tự nhiên và chuẩn vị là được để trong ống bương khô và phải để ở những nơi thoáng mát, sạch sẽ. Theo kinh nghiệm của những người làm thịt chua lâu năm, cây nứa khô có tính chất hút ẩm nên thịt khi đổ ra ráo, không ướt. Một số gia đình muốn ăn nhanh thì họ để trên gác bếp, hơi nóng của bếp lửa sẽ làm thịt chua nhanh. Bên cạnh những món ăn cổ truyền của dân tộc trong những ngày Tết, thịt chua ăn kèm rau mơ, lá sung là món ăn không thể thiếu trên mâm cỗ của người Phú Thọ.

Anh Hùng Cường, du khách đến từ Thành phố Hồ Chí Minh sau khi trải nghiệm món thịt chua cho biết: Được nghe nhiều về món ăn này nhưng lần đầu thưởng thức tại đất Tổ thấy rất ngon, tôi sẽ mua làm quà cho gia đình và bạn bè.

Sản phẩm thịt chua của Cơ sở sản xuất Thanh Sơn Foods.

Hiện nay, một số công ty đã có thương hiệu trên thị trường như: Công ty Cổ phần sản xuất và thương mại Trường Foods, Công ty Trách nhiệm hữu hạn chế biến thực phẩm Hồng Chi Foods, Cơ sở sản xuất Thanh Sơn Foods và một số cơ sở khác đã sản xuất món thịt chua với quy trình sản xuất đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm, đặc biệt sản phẩm được đựng trong ống nứa đẹp mắt, là món quà thân thiện với môi trường.

H.C

Nguồn: Dulichvn

Nghệ nhân Êđê và hành trình giữ hồn thổ cẩm

Người miệt mài ngồi bên khung dệt là nghệ nhân H’Jih Ayun. Những tiếng lách cách như là nhịp đập của thời gian, là hơi thở văn hóa, là linh hồn của người Êđê được chắt lọc qua bao thế hệ.


Giữa những chuyển động không ngừng của cuộc sống hiện đại, ở Buôn Knia, xã Ea Tul, huyện Čư̆ M’Gar, tỉnh Đắk Lắk vẫn vang lên âm thanh mộc mạc, quen thuộc mà thiêng liêng: tiếng khung cửi thổ cẩm Êđê. Người miệt mài ngồi bên khung dệt là nghệ nhân H’Jih Ayun. Những tiếng lách cách như là nhịp đập của thời gian, là hơi thở văn hóa, là linh hồn của người Êđê được chắt lọc qua bao thế hệ.

Sinh ra trong một gia đình có truyền thống dệt thổ cẩm, từ thuở nhỏ H’Jih Ayun đã được bà và mẹ truyền dạy từng đường kim, mũi chỉ. Tiếng khung cửi nhịp nhàng, màu sắc nhuộm từ lá cây, rễ cỏ, họa tiết thổ cẩm cất lời kể chuyện… tất cả đã thấm vào tâm hồn, nuôi dưỡng tình yêu bền bỉ với nghề dệt.

Nghệ nhân H’Jih Ayun đang dạy học viên dệt hoa văn (ảnh:Bùi Văn Cọ)

Cuộc sống mưu sinh lam lũ với rẫy nương không làm H’Jih Ayun lùi bước. Những đêm khuya, dưới ánh đèn dầu le lói, bà vẫn cặm cụi bên khung cửi, đôi tay thoăn thoắt đưa sợi – như đang dệt nên ký ức, niềm tin, lời hứa thầm lặng: “Phải giữ cho bằng được nghề dệt thổ cẩm của dân tộc mình.” Và rồi không chỉ giữ được nghề, bà lại tiếp nối trao truyền nghề dệt thổ cẩm cho thế hệ sau.

Nghệ nhân H’Jih Ayun tâm sự: chỉ cần người trẻ có tình yêu với văn hóa Êđê, bà sẵn sàng truyền dạy hết lòng. Gần hai thập kỷ qua, bà đã truyền nghề cho hàng trăm lượt học viên, nhiều người trong số đó đã tự làm, tự bán sản phẩm, cải thiện thu nhập, góp phần lan tỏa nét đẹp văn hóa đến cộng đồng.

“Năm nay tôi đã 67 tuổi rồi. Trước đây, tôi tham gia dạy nghề trong các hợp tác xã dệt thổ cẩm, cả trong và ngoài huyện. Từ năm 2008, tôi bắt đầu giảng dạy tại Trung tâm dạy nghề của tỉnh, trung bình mỗi năm dạy hai lớp. Giờ đây, tôi cũng không còn nhớ mình đã đứng lớp bao nhiêu lần nữa”, nghệ nhân H’Jih Ayun nói.

Với nghệ nhân H’Jih Ayun, mỗi tấm thổ cẩm là một câu chuyện. Hoa văn không chỉ để trang trí mà là ký hiệu văn hóa. Từ đường thẳng, hình vuông, hình thoi, đến hình cây cỏ, chim thú… tất cả mang ý nghĩa riêng biệt: sự hài hòa, sức mạnh, sự gắn bó với thiên nhiên. Bằng bàn tay khéo léo, ánh mắt tỉ mỉ và trái tim yêu nghề sâu sắc, bà không chỉ dệt nên những tấm vải rực rỡ sắc màu mà còn dệt nên tình yêu văn hóa và niềm tự hào dân tộc.

Nghệ nhân H’Jih Ayun tâm sự: “Chúng tôi là những người phụ nữ truyền nghề, và hành trình ấy không ít gian nan – từ đường sá xa xôi đến việc di chuyển nguy hiểm. Nhưng điều khiến chúng tôi luôn thấy vui và tự hào chính là được làm công việc này. Tôi thật sự biết ơn Nhà nước, Trung tâm dạy nghề của tỉnh và các huyện đã tạo điều kiện để tôi cùng nhiều nghệ nhân khác có cơ hội truyền dạy nghề dệt thổ cẩm cho thế hệ sau. Niềm vui lớn nhất của chúng tôi là được góp phần giữ gìn nghề truyền thống, để các em nhỏ trong buôn làng tiếp tục nối dài giá trị văn hóa của dân tộc mình”.

Các cô gái Êđê ở Buôn Knia, xã Ea Tul trong sắc màu thổ cẩm

Những tấm thổ cẩm không chỉ đẹp mà còn chất chứa biết bao giọt mồ hôi, sự nhẫn nại và cả lòng tự hào. Mỗi tấm vải có khi mất hàng tuần, thậm chí hàng tháng để hoàn thiện, nhưng giá trị văn hóa mà nó mang theo thì còn mãi.

Đối với chị H’Hương Niê, ở xã Ea Tul, được học hỏi từ nghệ nhân cao tuổi như bà H Jih Ayun là cơ hội tốt để thoả niềm đam mê dệt thổ cẩm và góp phần lưu giữ, phát triển nét văn hóa đặc sắc của dân tộc mình. Chị H’Hương Niê cho biết: “Tôi nhận thấy trong buôn làng, người Êđê hiện nay chỉ còn những phụ nữ lớn tuổi là còn biết dệt trang phục và chăn thổ cẩm, còn lớp trẻ thì gần như không còn ai theo nghề. Chính vì vậy, sau khi tốt nghiệp cấp 3, tôi quyết định theo học nghề dệt tại trường Cao đẳng nghề. Sau khi hoàn thành khóa học, tôi trở về buôn làng và tiếp tục học thêm từ các nghệ nhân lớn tuổi để hiểu sâu hơn về kỹ thuật và giá trị truyền thống của nghề dệt thổ cẩm”.

 Làm sao để thổ cẩm không chỉ hiện diện trong lễ hội, mà còn là món đồ dùng hàng ngày, là món quà lưu niệm cho du khách khi ghé thăm buôn làng Êđê? Những trăn trở với nghề đã giúp Nghệ nhân H’Jih tạo ra nhiều sản phẩm thổ cẩm cuốn hút du khách. Anh Thành Trung – du khách đến từ Thành phố Hồ Chí Minh, chia sẻ:

“Tôi cũng là một người làm thời trang, và điều đặc biệt tôi cảm nhận được ở thổ cẩm chính là sự biến tấu tinh tế – một sự kết hợp hài hòa giữa yếu tố hiện đại và truyền thống. Khi chạm tay vào, các sản phẩm thủ công thường mang đến cảm giác thô ráp bề mặt, nhưng khi mặc vào lại bất ngờ vì độ mịn và sự mềm mại rất dễ chịu”.

Trong hành trình gìn giữ bản sắc văn hóa, có những con người lặng thầm như bà H’Jih Ayun – không ồn ào, không phô trương, nhưng lại tỏa sáng bằng chính sự bền bỉ, tình yêu và lòng tự hào dân tộc. Mỗi tấm thổ cẩm được dệt nên không chỉ là sản phẩm thủ công, mà còn là kết tinh của truyền thống, là thông điệp văn hóa gửi gắm đến mai sau.

Zawut

 

Nguồn: Dulichvn

Cá ồ nướng muối ớt đậm đà vị biển

Ở vùng biển Bình Định, đặc biệt là các địa phương ven biển như huyện Phù Cát, Phù Mỹ, TX Hoài Nhơn, TP Quy Nhơn…, cá ồ nướng muối ớt là món ăn dân dã nhưng đậm đà bản sắc.


Ảnh: H.Y

Cá ồ nơi đây thường là loại cá nhỏ, thân thon dài, thịt đỏ tươi, săn chắc và thơm đặc trưng. Khi còn tươi rói vừa kéo lưới lên, cá được làm sạch rồi ướp với hỗn hợp gia vị gồm sả băm, gừng, hành, ớt, tỏi, muối hột giã nhỏ. Cách ướp cũng rất riêng ở xứ biển có đủ vị ngọt, cay, mặn nhưng chỉ ướp khoảng một phần ba hỗn hợp ban đầu để cá thấm nhẹ, phần còn lại dùng trong lúc nướng.

Người Bình Định có bí quyết nướng cá ồ rất khéo. Cá được nướng trên lửa than riu riu, vừa chín tới, lớp da bắt đầu xém vàng thì người nướng quét từng lớp gia vị còn lại lên mình cá. Cứ cách vài phút lại rưới đều, để gia vị thấm từ từ vào từng thớ thịt, dậy lên mùi thơm hấp dẫn khó cưỡng.

Cá ồ nướng muối ớt thường ăn nóng với rau sống, bánh tráng và nước mắm chanh tỏi ớt. Vị ngọt đậm đà, cay cay nơi đầu lưỡi, thơm lừng mùi sả gừng khiến món ăn này trở thành đặc sản trong những bữa cơm quê đậm tình người xứ Nẫu.

Bùi Nghĩa

Nguồn: Dulichvn

Tranh ghép từ gốm Biên Hòa (Đồng Nai) đặc sắc của họa sĩ Mai Văn Nhơn

Festival Gốm truyền thống Biên Hòa – Đồng Nai dự kiến sẽ khai mạc vào ngày 27-4. Nhân dịp này, Báo Đồng Nai Online trân trọng giới thiệu một số tác phẩm tranh ghép gốm của họa sĩ Mai Văn Nhơn. Trong đó, họa sĩ đã sử dụng nguyên liệu gốm Biên Hòa – Đồng Nai để tạo nên những bức tranh đặc sắc, mang đậm tính nghệ thuật.


Tranh ghép (mosaic) gốm là loại hình mỹ thuật kết hợp giữa hội họa và gốm thủ công, trong đó các mảnh gốm được cắt, nung và sắp đặt thành một bố cục hoàn chỉnh như một bức tranh. Quá trình thực hiện gồm nhiều công đoạn công phu: từ phác thảo; chọn màu men và nung gốm ở nhiệt độ cao; sau đó cắt từng mảnh gốm và ghép lại trên nền tranh theo bố cục đã phác thảo. Chính sự kết hợp giữa chất liệu truyền thống và kỹ thuật tạo hình hiện đại đã làm nên nét độc đáo cho dòng tranh này.

Mỗi tác phẩm không chỉ là một bức tranh, mà còn là sự kết tinh của cảm xúc, kỹ thuật và tâm huyết mà họa sĩ Mai Văn Nhơn dành cho quê hương và nghệ thuật gốm truyền thống. Qua những mảnh ghép tưởng chừng rời rạc, ông đã thổi hồn vào đất, lửa và men gốm, kể nên những câu chuyện mang đậm bản sắc Biên Hòa – Đồng Nai.

Bác là Việt Nam

Chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh được thể hiện bằng kỹ thuật tranh ghép từ gốm Biên Hòa, với dáng vẻ uy nghiêm, giản dị mà sâu lắng. Tác phẩm từng được trưng bày tại Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam năm 2017, là một điểm nhấn nghệ thuật giàu cảm xúc và giá trị lịch sử.

Đại tướng của lòng dân

Chân dung Đại tướng Võ Nguyên Giáp được thể hiện bằng tranh ghép gốm Biên Hòa. Tác phẩm được phóng tác từ một bức ảnh nổi tiếng, thể hiện gương mặt đôn hậu, truyền tải ý chí kiên cường trong phong thái điềm đạm, bao dung của một vị tướng vì dân.

Thiên thai

Tác phẩm chân dung nhạc sĩ Văn Cao, thể hiện bằng gốm Biên Hòa với kỹ thuật men xám đa sắc. Văn Cao hiện lên mơ màng, hòa vào không gian huyền ảo của thiên thai, nơi âm nhạc, con người và thiên nhiên như quyện làm một.

Vó ngựa trời Nam

Chân dung Thi tướng Huỳnh Văn Nghệ – nhà lãnh đạo quân sự tài ba trong kháng chiến chống Pháp ở miền Đông Nam Bộ. Bức tranh được phóng tác từ ảnh chụp tại Chiến khu Đ, khắc họa hình ảnh ông cưỡi ngựa, lưng mang súng, tay cầm gươm, oai phong tiến về phía trước.

Mẹ và biển

Tác phẩm dùng chất liệu kết hợp giữa gốm Biên Hòa và sơn dầu, lấy cảm hứng từ những người mẹ miền Trung có chồng con lênh đênh giữa biển khơi. Khuôn mặt mẹ với ánh nhìn xa xăm được thể hiện bằng kỹ thuật mosaic tinh tế, phản chiếu nỗi khắc khoải, niềm hy vọng và tình yêu vô bờ.

Hồn xưa phố cũ

Bức tranh khắc họa chân dung họa sĩ Bùi Xuân Phái – biểu tượng của tình yêu phố cổ Hà Nội – được thể hiện bằng chất liệu gốm, acrylic và sơn dầu, gợi lên nỗi hoài niệm quá khứ và khát vọng gìn giữ giá trị văn hóa giữa dòng chảy hiện đại.

Đôi mắt Tà Lài

Chân dung em bé Châu Ro ở làng Tà Lài (Đồng Nai), với đôi mắt ngây thơ, truyền cảm hứng cho bức tranh ghép gốm rực rỡ. Tác phẩm sử dụng gốm Biên Hòa để tôn vinh vẻ đẹp hồn nhiên và văn hóa bản địa, lan tỏa câu chuyện cộng đồng qua nghệ thuật đương đại.

Bà mẹ Cù Lao

Chân dung người mẹ Nam Bộ hiền hậu với nụ cười đôn hậu và ánh mắt đầy yêu thương. Tác phẩm được chuyển thể từ tranh sơn dầu thập niên 1990 của chính họa sĩ Mai Văn Nhơn sang tranh ghép gốm Biên Hòa, tái hiện chân thực nét thời gian và sự hy sinh thầm lặng của người bà, người mẹ xứ Cù Lao.

Đắc Nhân

Nguồn: Dulichvn

Làng nghề truyền thống Ninh Bình – Nơi mang đến cho du khách những trải nghiệm chân thực

Ninh Bình nằm ở vùng cực Nam của đồng bằng châu thổ sông Hồng, là cửa ngõ vào các tỉnh phía Nam, nơi đây không chỉ nổi tiếng với những danh thắng thiên nhiên hùng vĩ như Tràng An, Tam Cốc – Bích Động hay chùa Bái Đính, mà còn là vùng đất giàu truyền thống lịch sử và văn hóa. Một trong những yếu tố góp phần làm nên nét độc đáo trong hành trình khám phá Ninh Bình của du khách chính là các làng nghề thủ công truyền thống. Đây không chỉ là nơi lưu giữ những tinh hoa của cha ông mà còn đang từng bước trở thành điểm đến trải nghiệm hấp dẫn, đóng góp tích cực vào phát triển du lịch địa phương theo hướng bền vững.


Tại Ninh Bình, nhiều làng nghề truyền thống đã tồn tại hàng trăm năm, gắn bó mật thiết với đời sống người dân địa phương. Tiêu biểu có thể kể đến làng thêu ren Văn Lâm (xã Ninh Hải, thành phố Hoa Lư), làng đá mỹ nghệ Ninh Vân (thành phố Hoa Lư), làng gốm Gia Thủy (huyện Nho Quan), làng rượu Kim Sơn, làng Sinh Dược (huyện Gia Viễn), gốm Bồ Bát (huyện Yên Mô)… Mỗi làng nghề là một kho tàng văn hóa, một câu chuyện lịch sử được truyền lại qua nhiều thế hệ, thể hiện sự khéo léo, tinh tế và óc sáng tạo của người thợ.

Một trong những xu hướng phát triển du lịch hiện nay là du lịch trải nghiệm – nơi du khách không chỉ tham quan, chụp ảnh mà còn trực tiếp tham gia vào các hoạt động bản địa. Nhận thấy tiềm năng từ các làng nghề, ngành du lịch Ninh Bình đã từng bước kết nối các điểm tham quan sinh thái – văn hóa với làng nghề truyền thống, tạo nên những tour du lịch trải nghiệm đầy cuốn hút.

Tại làng thêu Văn Lâm, du khách có thể tận tay thử thêu những đường kim mũi chỉ trên nền vải, được nghệ nhân hướng dẫn tỉ mỉ và kể lại những câu chuyện thú vị về nghề. Ở làng đá Ninh Vân, khách có thể xem tận mắt quy trình chọn đá, đục đẽo, mài giũa để tạo thành các tác phẩm nghệ thuật kỳ công. Đến làng Sinh Dược, du khách được tham quan, trải nghiệm các quy trình sản xuất ra các sản phẩm từ thảo dược như: xà bông Sinh dược, muối ngâm chân thảo dược, tinh dầu, dầu gội đầu,….

Sự kết hợp giữa làng nghề và du lịch không chỉ tạo ra giá trị văn hóa mà còn mang lại hiệu quả kinh tế thiết thực. Nhiều hộ dân làng nghề có thêm thu nhập nhờ bán sản phẩm thủ công, mở xưởng trải nghiệm, cung cấp dịch vụ ăn uống, lưu trú cho du khách. Bên cạnh đó, việc thu hút khách du lịch đến với làng nghề cũng góp phần giữ gìn, bảo tồn các giá trị di sản phi vật thể vốn đang dần mai một bởi sự phát triển của công nghiệp và hiện đại hóa.

Làng nghề không chỉ đơn thuần là nơi sản xuất hàng hóa, mà đã và đang trở thành không gian văn hóa sống động, nơi giao thoa giữa quá khứ và hiện tại. Nhờ đó, mỗi chuyến đi đến Ninh Bình không chỉ là hành trình thưởng ngoạn cảnh đẹp thiên nhiên mà còn là dịp để du khách “sống chậm” và kết nối sâu sắc hơn với văn hóa bản địa. Với sự hỗ trợ đồng bộ từ chính quyền, cộng đồng và ngành du lịch, chắc chắn làng nghề Ninh Bình sẽ tiếp tục phát huy vai trò, góp phần xây dựng một hình ảnh Ninh Bình giàu bản sắc, thân thiện và hấp dẫn trong lòng du khách trong nước và quốc tế.

Nguyễn Loan

Nguồn: Dulichvn

Gỏi cá cơm sông Trường Giang

Dù có bận rộn mấy, cuối tuần tôi cũng sắp xếp chạy ù về nhà. Đôi khi, chỉ để chờ món ăn mà từ lâu không thể tìm được ở bất cứ hàng quán nào nữa, chỉ còn lại trong ký ức ngày bé: gỏi cá cơm.


Gỏi cá cơm sông Trường Giang. Ảnh: B.N

Nếu dọc biển Tam Thanh, Tam Tiến, người ta dễ dàng tìm thấy món gỏi trứ danh làm từ cá trích vừa bắt lên từ biển tươi cong óng ánh, thì gỏi cá cơm hiếm hoi tìm thấy ở Núi Thành – nơi sông Trường Giang lặng lẽ chảy qua.

Không phải là thứ cá cơm than bắt lên từ biển, cá cơm để làm gỏi là cá cơm rào – được bắt từ rớ giữa lòng sông vùng gần cửa biển, chỉ có vào lúc xuân sắp chuyển hè.

Con cá cơm vớt lên trong suốt, tươi rói, được chuyển ngay lên chợ phiên nửa buổi và mẹ tôi nhanh tay mua về. Cá được làm sạch, bỏ đầu, rút bớt xương sống, rửa qua giấm, sau đó được ngâm trong nước chanh.

Thịt cá tái chanh chuyển từ trong suốt sang trắng nõn, thơm phức, rồi trộn với chuốt chát, rau thơm, thêm cải cay thái sợi nhỏ, nước mắm ngon, đậu phụng rang vàng, bóp thêm ít bánh tráng nướng giòn là có thể được cho lên đĩa.

Ngồi trước hiên nhà, khi nắng cuối xuân còn chưa gay gắt, gió thổi mát rượi từ ngoài đồng thơm hương lúa non và bẻ bánh tráng xúc miếng gỏi cá. Màu xanh mát mắt của rau và ẩn trong đó là thớ cá trắng nõn ngọt lừ, muốn tan ra trong miệng, thêm chút vị cay thơm của ớt tỏi đủ để xuýt xoa, cảm nhận mỹ vị nhân gian cũng chỉ có thế này.

Cái ngon của gỏi cá cơm là cái ngon của sự vội vàng, mớ cá bắt vội từ rớ sông – vội vàng cho phiên chợ – vội vàng làm cá để chỉ khoảng 30 phút sau đĩa gỏi đã được bê ra – và sự vội vàng tranh nhau ăn nếu không sẽ hết mất – vì mẹ tôi mỗi lần làm chỉ làm 1 chén cá cơm thôi, để vừa vặn sự tươi ngon và thòm thèm.

Hương vị gỏi cá cơm cũng đến từ sự ban sơ giản đơn của nguyên liệu. Hầu như thứ nào cũng có từ vườn nhà, từ giọt nước mắm vàng ươm mẹ ủ từ vựa cá cơm than năm ngoái, đến mớ đậu phụng rang cả vỏ mẹ giữ từ mùa cũ, cọng rau thơm hay húng lủi mẹ trồng nơi gốc cây xoài, trái chuối chát xin được từ hàng xóm.

Nó cũng đến từ sự yêu thương và cưng chiều của mẹ tôi – dành cho đứa con gái dùng nửa bộ não chỉ để nghĩ đến món ăn, thỉnh thoảng nằm trong lòng mẹ thủ thỉ “mẹ ơi tự nhiên con thèm…” là hôm sau thấy mẹ tất tả đi chợ mua về nấu nướng.

Nó cũng bắt nguồn từ những hoài niệm thuở bé của tôi, ngồi dòm ba và các chú hàng xóm nói cười rổn rảng bên dĩa gỏi mẹ làm, xoa đầu tôi rằng còn bé chưa được ăn gỏi đâu, để rồi mong mình lớn thật nhanh chỉ để cho “bụng đủ cứng” mà thử cái món gỏi mọi người cứ xuýt xoa mong chờ mỗi mùa ra giêng.

Và vị ngọt của gỏi cả cơm cũng gói cả nỗi niềm tôi dành cho khúc sông quanh năm lặng thầm chảy ra biển, dành cho những con cá con tôm bé xíu vẫn nuôi tôi lớn tới bây giờ.

Để rồi cứ qua mùa gió đầu hè, đi đâu rồi cũng muốn quay về khúc sông ấy, chờ rớ lên rổ cá cơm rào – nghe lòng thòm thèm và rạo rực như gió sông bốn mùa thổi mãi…

Lê Bảo Ngọc

Nguồn: Dulichvn

Quảng Ninh: Lần đầu tiên tổ chức Lễ hội Du lịch biển Vân Đồn 2025

Trong hai ngày 26 và 27/4 tới đây, huyện Vân Đồn lần đầu tổ chức Lễ hội Du lịch biển Vân Đồn với chủ đề “Khúc tình ca của biển” tại bãi biển thôn Ninh Hải, xã Minh Châu. Sự kiện này không chỉ là cơ hội quảng bá vẻ đẹp của địa phương, tạo cơ hội giao lưu, kết nối cộng đồng và thu hút du khách trong và ngoài nước, mà còn là dịp để tôn vinh vẻ đẹp văn hóa, thiên nhiên của vùng đất biển đảo giàu tiềm năng này.


Lễ hội diễn ra tại bãi biển thôn Ninh Hải – một trong những bãi biển đẹp nhất của đảo Minh Châu với nhiều hoạt động sôi nổi, hấp dẫn như: Các hoạt động trải nghiệm thể thao, ẩm thực, âm nhạc… tạo điểm nhấn để thu hút khách du lịch đến tham quan, trải nghiệm và nghỉ dưỡng.

Bãi biển Minh Châu – Nơi diễn ra sự kiện Lễ hội Du lịch biển Vân Đồn 2025.

Một trong những điểm nhấn của Lễ hội là sự kiện công bố và biểu diễn lần đầu tiên ca khúc “Đặc khu Vân Đồn” do Nhạc sỹ Lê Đăng Vệ sáng tác. Ca khúc này thể hiện niềm tự hào, tôn vinh vẻ đẹp và tiềm năng phát triển của Vân Đồn, như lời mời gọi du khách đến khám phá vẻ đẹp và tiềm năng phát triển của Vân Đồn. Lễ hội còn mang đến những màn trình diễn âm nhạc đặc sắc, góp phần tạo không khí vui tươi, sôi động cho sự kiện.​

Lễ hội là dịp để người dân và du khách gặp gỡ, giao lưu, chia sẻ và quảng bá những hình ảnh đẹp về khu du lịch Quan Lạn – Minh Châu nói riêng và huyện Vân Đồn nói chung. Thông qua sự kiện, địa phương kỳ vọng thu hút 2 triệu lượt khách du lịch trong năm 2025, trong đó khu du lịch Quan Lạn – Minh Châu đạt 408.500 lượt khách.​ Đây là sự kiện đánh dấu khởi đầu đầy ấn tượng cho hành trình của Vân Đồn vươn tầm trên bản đồ du lịch biển đảo Việt Nam.

Ngân Hà (Trung tâm TT & VH Vân Đồn)

Nguồn: Dulichvn

Hà Giang: Khâu Vai ngày trở lại

Có một phiên chợ không phải để bán mua mà chỉ còn tình yêu đọng lại của đôi trai gái yêu nhau nhưng không đến được với nhau. Phiên chợ “độc nhất vô nhị” chỉ diễn ra duy nhất một ngày vào 27.3 âm lịch hàng năm – Chợ Phong lưu Khâu Vai đã trở thành biểu trưng độc đáo của miền đá cao nguyên Mèo Vạc.


Trải qua hơn 100 năm, chuyện tình đẫm lệ của chàng Ba và nàng Út đã để lại niềm tiếc thương cho bao người khi yêu nhau nhưng không đến được với nhau. Tình yêu của họ gây ra hiềm khích giữa hai dòng tộc, để tránh cuộc đối đầu đẫm máu, họ buộc phải rời xa nhau và hẹn thề hàng năm đến ngày 27.3 âm lịch sẽ tìm về nơi chia tay thuộc xã Khâu Vai (Mèo Vạc) để hát cho nhau nghe, kể với nhau những thầm kín ấp ủ trong lòng suốt một năm xa cách, rồi hôm sau lại trở về với cuộc sống thường ngày. Dần dần, chợ Phong lưu Khâu Vai được hình thành, mới đầu chỉ là nơi hẹn hò của những đôi trai gái đã lỡ dở tình duyên, yêu nhau nhưng không đến được với nhau. Giờ đây, trở thành phiên chợ hẹn hò, từ người trẻ đến người già và du khách tìm về để trải nghiệm, cảm nhận những giá trị nhân văn độc đáo của phiên chợ. Niềm tự hào được nhân lên khi năm 2021 tập quán xã hội và tín ngưỡng Chợ Phong lưu Khâu Vai được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể Quốc gia; đây cũng là lễ hội đặc sắc nhất vùng Công viên Địa chất toàn cầu Unesco Cao nguyên đá Đồng Văn.

Lễ dâng hương miếu Ông, miếu Bà là hoạt động không thể thiếu trong lễ hội Chợ Phong lưu Khâu Vai.

Đến hẹn lại lên, khi đất trời Cao nguyên đá được điểm tô bởi sắc đỏ hoa gạo, sắc trắng hoa ban nở trắng rừng; những tia nắng ấm áp xen qua nương ngô xanh ngút ngàn trên triền núi xua đi cái rét ngọt miền sơn cước cũng là lúc diễn ra phiên Chợ Phong lưu Khâu Vai. Năm nay, lễ hội được tổ chức theo quy mô cấp tỉnh với chủ đề “Khâu Vai ngày trở lại”, nhằm giới thiệu cho du khách cũng như bảo tồn các giá trị văn hóa truyền thống, những giá trị mang tính nhân văn cao đẹp của truyền thuyết Chợ Phong lưu Khâu Vai; ca ngợi tình yêu đôi lứa trong sáng, có sức hấp dẫn, lôi cuốn và làm lay động lòng người; tạo sức lan tỏa trong cộng đồng về những giá trị tốt đẹp trong cuộc sống hiện đại ngày nay, góp phần xây dựng và phát triển những chuẩn mực đạo đức xã hội, tình yêu đôi lứa.

Nếu như hàng năm các hoạt động chính chủ yếu diễn ra tại xã Khâu Vai thì năm nay diễn ra tại trung tâm thị trấn Mèo Vạc. Du khách đến với lễ hội được khám phá nét đẹp văn hóa của đồng bào các dân tộc vùng Cao nguyên đá qua không gian chợ đêm Mèo Vạc, Làng Văn hóa du lịch cộng đồng dân tộc Mông, thôn Pả Vi Hạ, xã Pả Vi; khám phá, trải nghiệm vẻ đẹp khu vực Mê cung đá, xã Khâu Vai; đi thuyền trên sông Nho Quế ngắm hẻm vực Tu Sản; đi bộ chinh phục Vách đá trắng; tham gia hoạt động Lễ cầu duyên tại miếu Ông – miếu Bà tại xã Khâu Vai… để rồi thêm một lần vấn vương, thương nhớ về mảnh đất không chỉ đẹp bởi núi non hùng vỹ, bởi sự kỳ ảo của sương trắng bồng bềnh giữa đỉnh trời mây phủ với đá tai mèo dựng đứng xám một màu trùng điệp, mà còn đẹp ở trong câu chuyện tình yêu huyền thoại.

Văn nghệ tái hiện chuyện tình giữa chàng Ba và nàng Út.

Chợ Phong lưu Khâu Vai huyền thoại khiến những ai đã từng đến và trải nghiệm chắc hẳn sẽ không thể nào quên hình ảnh các chàng trai, cô gái dân tộc xúng xính trang phục truyền thống vượt núi, băng rừng từ sáng sớm để về tìm gặp nhau ở phiên chợ. Những đôi chân hăm hở vượt đèo, lội suối mặc cho rừng sâu, núi cao, mặc những mỏm đá tai mèo nham nhở, họ vẫn một lòng tìm về phiên chợ để chờ đợi người thương, bởi họ hiểu rằng nếu không gặp được người mình từng yêu sẽ thêm một năm nữa nhớ mong. Dù gặp nhau cũng chỉ để trao nhau một ánh nhìn, một cái nắm tay rất vội, uống cùng nhau chén rượu nồng và ôn lại chuyện xưa. Có khá nhiều đôi vợ chồng cùng rủ nhau đến chợ, khi đến nơi, mỗi người lại tự đi tìm bạn cũ của mình mà không có sự ghen tuông. Họ coi đó là những giây phút được phép “ngoài chồng, ngoài vợ” và khi “cửa lòng” khép lại là lúc họ trở về với cuộc sống thường nhật.

Những ngày diễn ra lễ hội Chợ Phong lưu Khâu Vai, tại các địa điểm tổ chức sự kiện như Mê cung đá, khu nhà sàn xã Khâu Vai, quảng trường trung tâm huyện đều được tu sửa, trang hoàng. Hệ thống băng rôn, pano tuyên truyền về lễ hội cũng đã được treo tại nhiều nút giao thông quan trọng, góp phần lan tỏa sức hút của phiên chợ đến đông đảo du khách. Đồng thời, chú trọng đảm bảo an ninh trật tự, vệ sinh môi trường và an toàn thực phẩm. Các phương án phân luồng giao thông, bố trí khu vực lưu trú, dịch vụ hậu cần cho du khách được tính toán kỹ lưỡng; thường xuyên kiểm tra các điểm du lịch, cơ sở kinh doanh dịch vụ lưu trú và nhà hàng, quán ăn phục vụ khách du lịch, đảm bảo chấp hành nghiêm túc việc niêm yết giá và bán hàng theo đúng giá niêm yết, không xảy ra tình trạng ép giá… để du khách có trải nghiệm thực sự thoải mái khi đến với lễ hội.

Dù chỉ diễn ra vỏn vẹn một ngày nhưng phiên chợ tình yêu huyền thoại – Chợ Phong lưu Khâu Vai cũng đủ để lòng người thổn thức tìm về trải nghiệm một Mèo Vạc hoang sơ, kỳ vỹ, mê đắm lòng người, khiến “Khâu Vai ngày trở lại” thực sự là một trải nghiệm đáng nhớ giữa đất trời cao nguyên.

Bài, ảnh: Kim Tiến

 

Nguồn: Dulichvn

Cao Bằng: Bảo tồn ngôn ngữ gốc của các dân tộc để bảo tồn văn hóa truyền thống

Ngôn ngữ là những công cụ mạnh mẽ nhất để bảo tồn và phát triển di sản vật thể và phi vật thể của tất cả các dân tộc. Ngôn ngữ đóng vai trò quan trọng trong quá trình phát triển bởi nó bảo đảm sự đa dạng về văn hóa và giúp các nền văn hóa có thể giao thoa, trao đổi với nhau. 


Ngôn ngữ các dân tộc là công cụ mạnh mẽ nhất để bảo tồn và phát triển di sản. Tất cả những việc thúc đẩy sự phổ biến các ngôn ngữ mẹ đẻ không chỉ nhằm khuyến khích sự đa dạng về ngôn ngữ và giáo dục đa ngôn ngữ mà còn để nâng cao nhận thức về truyền thống ngôn ngữ và văn hóa trên khắp thế giới và truyền đi tinh thần đoàn kết dựa trên sự khoan dung, sự hiểu biết và đối thoại.

Ngôn ngữ đóng vai trò quan trọng trong quá trình phát triển bởi nó bảo đảm sự đa dạng về văn hóa và giúp các nền văn hóa có thể giao thoa, trao đổi với nhau. Ngôn ngữ cũng giúp tăng cường hợp tác, xây dựng xã hội tri thức toàn diện, bảo tồn các di sản văn hóa và tạo điều kiện tiếp cận với một nền giáo dục có chất lượng cho mọi người. Mỗi tiếng nói đều là nguồn ngữ nghĩa độc đáo để hiểu, viết và mô tả thực tế thế giới. Tiếng mẹ đẻ cùng với sự đa dạng của ngôn ngữ có ý nghĩa quan trọng để xác định bản sắc của các cá nhân như là nguồn sáng tạo và phương tiện để biểu hiện văn hóa, bảo đảm sự phát triển lành mạnh của xã hội. Một nền văn hóa hòa bình chỉ có thể được xây dựng trong một không gian, nơi tất cả mọi người có quyền sử dụng tiếng mẹ đẻ của họ một cách tự do và đầy đủ trong tất cả các hoàn cảnh khác nhau của cuộc sống.

Chính sách bảo tồn và phát huy ngôn ngữ các dân tộc thiểu số của Đảng, Nhà nước ta là nhất quán, đúng đắn và thể hiện đầy đủ nguyên tắc bình đẳng, đoàn kết giữa các dân tộc cùng chung sống trên lãnh thổ Việt Nam. Từ Đại hội lần thứ nhất của Đảng (tháng 3/1935) đã xác định: “Các dân tộc được dùng tiếng mẹ đẻ của mình trong sinh hoạt chính trị, kinh tế, văn hóa”. Chủ trương đó được quán triệt xuyên suốt qua các giai đoạn cách mạng của dân tộc. Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ V, khóa VIII tiếp tục xác định: “Bảo tồn và phát triển ngôn ngữ, chữ viết các dân tộc thiểu số. Đi đôi với việc sử dụng ngôn ngữ, chữ viết phổ thông, khuyến khích thế hệ trẻ thuộc đồng bào các dân tộc thiểu số học tập, hiểu biết và sử dụng thành thạo tiếng nói, chữ viết của dân tộc mình”. Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX khẳng định: “Ngoài tiếng phổ thông, các dân tộc có chữ viết riêng được khuyến khích học chữ dân tộc… dùng tiếng nói dân tộc và chữ viết của các dân tộc có chữ viết trên các phương tiện thông tin đại chúng ở vùng dân tộc”.

Lày cỏ tại các lễ hội xuân góp phần bảo tồn ngôn ngữ dân tộc. Ảnh Thế Vĩnh

Cao Bằng là địa bàn định cư phát triển của trên 95% đồng bào các dân tộc thiểu số, tạo nên sự phong phú, đa dạng về ngôn ngữ của các dân tộc. Tuy nhiên, xu hướng hội nhập văn hóa đã làm mai một ngôn ngữ mẹ đẻ của nhiều dân tộc thiểu số. Nhận diện sớm vấn đề, vì vậy trong nhiều năm qua, đi đôi với phát triển kinh tế, công tác bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống qua ngôn ngữ của các dân tộc thiểu số đã được các cơ quan chức năng, các cấp, các nhà ngôn ngữ, các nhà văn hóa học bảo tồn và phát huy các giá trị. Tỉnh triển khai nhiều giải pháp nhằm bảo tồn và phát triển tiếng nói, góp phần bảo tồn bản sắc văn hóa của cộng đồng các dân tộc thiểu số trong điều kiện hội nhập đang diễn ra sâu rộng.

Thực trạng hiện nay tại Thành phố, thị trấn, thị tứ không có mấy người trẻ còn có thể nói được tiếng mẹ đẻ của dân tộc mình, chỉ còn người già nói được tiếng mẹ đẻ, lớp trung niên còn bập bõm được đôi ba câu tiếng nói của dân tộc mình. Qua quá trình nghiên cứu cho thấy, có nhiều nguyên nhân dẫn đến nguy cơ mai một ngôn ngữ của các dân tộc thiểu số. Quá trình hội nhập vùng miền, hội nhập quốc tế, đặc biệt là khu vực thành phố, thị trấn, thị tứ…; trong mỗi gia đình và cộng đồng không thường xuyên sử dụng ngôn ngữ dân tộc mình; môi trường sống quá biệt lập hoặc giao thoa trong khu vực mà dân tộc thiểu số khác có dân số đông hơn; điều kiện kinh tế – xã hội phát triển lên cũng rất dễ kéo theo nguy cơ làm mai một ngôn ngữ; vấn đề truyền dạy không được quan tâm, chú trọng; sự hỗ trợ của các cơ quan chuyên môn, chính quyền địa phương chưa thật sự mang lại hiệu quả. Để khắc phục mọi trở ngại cho mục tiêu nghiên cứu, bảo tồn và phát huy ngôn ngữ các dân tộc thiểu số trong cộng đồng các dân tộc, cơ quan chức năng các cấp cần tiếp tục xây dựng kế hoạch, cần có các giải pháp hữu hiệu, những quyết sách đúng đắn để tiếp tục bảo tồn, phát huy ngôn ngữ các dân tộc. Đặc biệt từ trong từng gia đình, dòng họ, khu dân cư, trong từng dân tộc phải chủ động truyền dạy tiếng mẹ đẻ cho các thế con cháu.

Dù trải qua nhiều thăng trầm, nhưng đồng bào các dân tộc, các nhà ngôn ngữ, các nhà khoa học đã luôn nỗ lực bảo tồn ngôn ngữ, ngôn ngữ nói và ngôn ngữ các dân tộc. Bởi, ngôn ngữ hồn cốt của dân tộc. Ngôn ngữ là công cụ của tư duy, của giao tiếp, ngôn ngữ đồng thời là công cụ để truyền tải cả một nền văn hóa, một tinh thần dân tộc. Việc bảo tồn, gìn giữ và phát huy những giá trị ngôn ngữ dân tộc thiểu số cũng là bảo tồn, gìn giữ và phát huy những giá trị, bản sắc văn hóa của các dân tộc thiểu số trong cộng đồng các dân tộc thiểu số.

Ngôn ngữ không chỉ là công cụ mạnh mẽ nhất để bảo tồn và phát triển di sản vật thể và phi vật thể của từng dân tôc, mà còn giữ vai trò quan trọng trong quá trình phát triển của nhân loại, đảm bảo sự đa dạng về văn hóa và thúc đẩy quá trình giao thoa, kế thừa tinh hoa của các nền văn hóa của mỗi dân tộc.

Thiên Phước

Nguồn: Dulichvn

Ninh Bình: Sức sống di sản nghề cói Kim Sơn

Sau khi được công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia, nghề cói Kim Sơn (Ninh Bình) đã có bước phát triển rõ rệt. Người dân hưởng lợi trực tiếp từ việc tăng giá trị sản phẩm, mở rộng thị trường và phát triển du lịch làng nghề.


Giá trị các sản phẩm từ cói ngày càng được nâng cao. Ảnh: Đình Minh.

Người dân hưởng lợi

Dưới cái nắng ở vùng ven biển Ninh Bình giữa tháng 4, những bàn tay chai sạn của người thợ vẫn miệt mài đan từng sợi cói óng ả. Công việc tưởng chừng giản đơn ấy giờ đây mang một ý nghĩa hoàn toàn khác, khi nghề cói Kim Sơn là Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia từ ngày 25/4/2024.

Tại cơ sở sản xuất cói của bà Phan Thị Ngoãn (trú xóm An Cư 2, xã Thượng Kiệm), không khí lao động hăng say thấy rõ, những người thợ đang miệt mài làm ra từng sản phẩm. Bà Ngoãn cho biết, nghề đan cói ở Thượng Kiệm đã gắn liền với bao thế hệ, nay được công nhận là di sản, người dân rất mừng.

Theo bà Ngoãn, nghề cói Kim Sơn có lịch sử hình thành từ thế kỷ XIX, gắn liền với công cuộc khai hoang lấn biển của cư dân vùng đồng bằng Bắc bộ. Cây cói, loài thực vật ưa nước mặn, đã trở thành nguồn nguyên liệu quý giá để người dân sáng tạo nên những sản phẩm độc đáo. Từ những tấm chiếu cói thô sơ ban đầu, qua bàn tay khéo léo của các nghệ nhân, đã phát triển thành hàng trăm loại sản phẩm tinh xảo như túi xách, mũ, thảm trang trí, đồ lưu niệm…

“Nghề đan cói ngày xưa được coi là nghề phụ, tranh thủ lúc nông nhàn mới làm. Nhưng hiện nay, giá trị các sản phẩm từ cói ngày càng được nâng cao, lại được công nhận là nghề di sản nên số lượng đơn hàng và thu nhập của người dân đã tăng lên rất nhiều. Hiện nay, cơ sở của tôi đang tạo việc làm thường xuyên cho 6 lao động với mức thu nhập từ 300 nghìn đồng/người/ngày. Năm 2024, từ việc sản xuất, bán trực tiếp và đấu nối thu mua, bán hộ các sản phẩm từ cói cho hơn 100 hộ dân, trừ hết chi phí đi, tôi có lãi gần 300 triệu đồng” – bà Ngoãn nói.

Chị Nguyễn Thị Nguyệt (trú xóm An Cư 2) cho biết: Bản thân chị có thâm niên hơn 10 năm làm nghề đan cói. Trước kia, các sản phẩm chỉ là chiếu, thảm… nhưng nay, nghề đã phát triển, đơn hàng đến nhiều nên phải liên tục cập nhập mẫu mã mới, phục vụ thị hiếu ngày càng cao của thị trường. “Nếu có tay nghề tốt, chăm chỉ làm việc thì một người thợ có thể kiếm được 400 nghìn đồng/ngày. Cái hay của nghề là không bị bó buộc thời gian, ngồi ở đâu cũng làm được, nên rất tiện cho những người hay bận bịu việc đồng áng và gia đình như tôi” – chị Nguyệt nói.

Nâng cao giá trị làng nghề

Ông Nguyễn Khải Hoàn – Chủ tịch UBND xã Thượng Kiệm cho biết: Hiện nay, tại địa phương, có khoảng 1.200 hộ dân đang làm nghề đan cói. Theo ông Hoàn, trong những năm gần đây, nghề này phát triển rất mạnh, nhiều cơ sở xuất khẩu các sản phẩm từ cói ra sang Nhật Bản, Hàn Quốc và các nước châu Âu, thu lợi nhuận lớn. “Riêng năm 2024, nguồn thu từ việc sản xuất, chế biến các sản phẩm từ cói trên địa bàn đã đạt gần 40 tỷ đồng” – ông Hoàn tự hào nói.

Trao đổi với phóng viên Báo Đại Đoàn Kết, ông Trần Anh Khôi – Phó Trưởng Phòng Nông nghiệp và Môi trường, UBND huyện Kim Sơn cho biết: Trên địa bàn huyện, hiện có gần 30 doanh nghiệp sản xuất các sản phẩm từ cói, thu hút khoảng 1.000 lao động thường xuyên. Ngoài ra, còn có hàng chục nghìn lao động là nông dân, người lao động tận dụng thời gian nông nhàn, cũng đan cói và có thu nhập tốt. “Các sản phẩm từ cói ở Kim Sơn đã xuất khẩu tới gần 20 quốc gia, trong đó, nhiều sản phẩm đã đạt chứng nhận OCOP của tỉnh như gương cói, túi cói, bình hoa… Năm 2024, doanh thu từ việc chế biến cói trên địa huyện ước đạt gần 200 tỷ đồng”- ông Khôi nói.

Ông Phạm Văn Sang – Trưởng phòng Văn hóa và Thông tin, UBND huyện Kim Sơn cho biết: Hiện nay, toàn huyện có 25 làng nghề truyền thống, trong đó, chủ yếu là các làng nghề làm cói. Đằng sau những kết quả đã đạt được, ông Sang cho rằng, vẫn còn rất nhiều khó khăn và thách thức để gìn giữ và nâng cao giá trị nghề làm cói truyền thống. Trong đó, vấn đề nghiêm trọng nhất là tình trạng biến đổi khí hậu khiến diện tích trồng cói ngày càng thu hẹp; làn sóng đô thị hóa kéo theo tình trạng thiếu hụt lao động khi nhiều thanh niên chọn làm công nhân thay vì theo đuổi nghề; cùng với đó, là sự cạnh tranh khốc liệt từ các mặt hàng công nghiệp giá rẻ…

Để tìm ra hướng đi bền vững trong thời gian tới, ông Sang cho biết thêm: UBND huyện cũng đã phối hợp với Trung tâm xúc tiến du lịch của tỉnh, manh nha ý tưởng hình thành tour du lịch, kết nối các địa điểm trên địa bàn như: Nhà thờ Phát Diệm – Cầu ngói Phát Diệm – Bãi Ngang – Cồn Nổi – làng cói Kim Sơn… “Nếu triển khai được, ngoài việc đi khám phá các điểm du lịch, du khách có thể tận mắt chứng kiến quy trình làm ra sản phẩm, từ khâu trồng cói, thu hoạch đến đan lát thành phẩm. Chúng tôi xác định, bảo tồn nghề cói không chỉ là giữ gìn di sản văn hóa, mà còn là phát triển kinh tế bền vững” – ông Sang nói.

Đình Minh

 

Nguồn: Dulichvn

TIN MỚI NHẤT