Du lịch trong nước

Du lịch trong nước, tin tức du lịch trong nước, các tour du lịch trong nước, các địa điểm du lịch trong nước hấp dẫn được chúng tôi tổng hợp và đưa tin hàng ngày đến cho khách du lịch trên khắp mọi miền đất nước có được thông tin du lịch trong nước để có những thông tin hữu ích nhất cho mình và gia đình khi quyết định chọn chuyến du lịch trong nước cho mình và người thân

Hà Giang: Giữ mạch nguồn và lợi thế của văn hóa truyền thống

Những năm qua, huyện Đồng Văn (Hà Giang) đã tận dụng tài nguyên văn hóa quý giá của đồng bào các dân tộc trên địa bàn thành nguồn lực quan trọng trong việc thúc đẩy du lịch phát triển bền vững.


Đồng Văn là huyện vùng cao, biên giới của tỉnh, là nơi sinh sống của 18 dân tộc anh em, trong đó dân tộc Mông chiếm 87,7%, còn lại là các dân tộc Tày, Hoa, Kinh, Lô Lô, Pu Péo, Giáy… Huyện được thiên nhiên ban tặng nhiều danh lam, thắng cảnh đẹp và hùng vĩ, khí hậu mát mẻ trong lành và có nhiều di sản Địa chất nổi tiếng. Đặc biệt, nằm trong vùng lõi Công viên địa chất toàn cầu UNESCO Cao nguyên đá Đồng Văn, với 25 điểm di sản địa chất cùng với các lễ hội truyền thống được bảo tồn, gìn giữ và tổ chức hàng năm đã thu hút lượng lớn du khách tới tìm hiểu và trải nghiệm.

Người Cờ Lao xã Sính Lủng thi đan lát trong Ngày hội văn hóa dân tộc.

Theo báo cáo của cơ quan chuyên môn, trên địa bàn huyện Đồng Văn có 13 lễ hội được tổ chức thường niên, trong đó có 11 lễ hội truyền thống và 2 lễ hội văn hoá. Một số lễ hội được tổ chức thường niên đã có dấu ấn riêng như: Lễ hội Gầu Tào xã Phố Cáo, lễ hội Hoa Tam giác mạch, lễ hội Khèn mông. Các lễ hội dân gian còn lại được các xã, thị trấn tổ chức với quy mô nhỏ hơn nhưng hết sức trang trọng, linh thiêng, vẫn đảm bảo sự hấp dẫn, giúp bảo tồn và phát huy những phong tục tập quán tốt đẹp của dân tộc theo hướng lành mạnh, tiến bộ, tiết kiệm. Đặc biệt, tại các lễ hội đều chú trọng các hoạt động văn hóa dân gian, dân ca, dân vũ, các trò chơi, môn thể thao dân tộc. Qua đó, đáp ứng nhu cầu tâm linh và giải trí của nhân dân, góp phần giáo dục đạo lý “uống nước nhớ nguồn”, tạo sự gắn kết trong cộng đồng. Đến nay, các lễ hội được bảo tồn và duy trì đã góp phần quảng bá hình ảnh của huyện đến với khách du lịch trong và ngoài nước, trở thành một sản phẩm độc đáo phục vụ khách du lịch, thu hút du khách đến địa bàn; góp phần thúc đẩy phát triển KT-XH của địa phương.

Bên cạnh bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa trong các lễ hội truyền thống, huyện Đồng Văn cũng dành nguồn lực tôn tạo các di tích lịch sử trên địa bàn huyện, mở rộng các tour, tuyến du lịch tìm hiểu văn hóa, lịch sử. Hiện, trên địa bàn huyện có 12 di tích lịch sử – văn hóa được xếp hạng, trong đó có 4 di tích cấp Quốc gia, 8 di tích cấp tỉnh. Bên cạnh đó, huyện cũng tập trung quảng bá 5 di sản văn hóa phi vật thể được ghi danh vào danh mục di sản cấp Quốc gia gồm: Lễ cúng tổ tiên của người Lô Lô xã Lũng Cú; nghệ thuật trang trí trên trang phục của người Lô Lô đen xã Lũng Cú; lễ ra đồng (pặt oong) của dân tộc Pu Péo xã Phố Là; lễ cúng thần rừng của dân tộc Pu Péo xã Phố Là; tập quán xã hội và tín ngưỡng lễ cúng rừng của người Cờ Lao xã Sính Lủng.

Lễ hội Gầu tào được tổ chức thường niên tại xã Phố Cáo.

Song song với đó, huyện cũng khai thác các giá trị văn hóa đặc sắc của đồng bào vùng cao trong đời sống hàng ngày. Trong đó, không gian văn hóa chợ phiên Đồng Văn đã và đang được bảo tồn, được du khách trong nước và quốc tế vô cùng yêu thích. Hiện nay, trên địa bàn huyện có các chợ phiên: Chợ trung tâm huyện Đồng Văn, chợ Lũng Phìn, Sà Phìn, Phố Cáo và một số chợ xã, thị trấn thường xuyên duy trì hoạt động để Nhân dân trao đổi hàng hóa, nông sản. Huyện đã xây dựng không gian văn hóa chợ phiên gắn với khai thác phát triển du lịch phục vụ khách tham quan trải nghiệm.

Đồng chí Nguyễn Văn Chinh, Phó Chủ tịch UBND huyện Đồng Văn cho biết: Xác định phát triển du lịch bền vững luôn song hành với bảo tồn văn hóa. Thời gian qua, huyện Đồng Văn luôn khuyến khích, tạo điều kiện cho việc sưu tầm, bảo tồn, phát huy văn hóa truyền thống các dân tộc gắn với xây dựng đời sống văn hóa; thực hiện tốt các chính sách hỗ trợ bảo tồn, gìn giữ văn hóa truyền thống gắn với phát huy vai trò nòng cốt của các nghệ nhân dân gian. Với lượng khách du lịch đến huyện ngày càng tăng đã khẳng định sự thành công của Đồng Văn trong việc khai thác giá trị văn hóa truyền thống để phát triển du lịch. Thời gian tới, huyện sẽ tiếp tục duy trì tổ chức các lễ hội truyền thống như lễ hội hoa Tam giác mạch, lễ hội Khèn Mông; tôn tạo các điểm di tích, tạo điểm nhấn để thu hút khách du lịch. Đồng thời động viên, khuyến khích bà con chung tay bảo tồn văn hóa dân tộc, góp phần phát triển du lịch. Từ đó, xây dựng huyện Đồng Văn trở thành điểm đến thân thiện, an toàn, hấp dẫn.

Bài, ảnh: My Ly

 

Nguồn: Dulichvn

Phong vị ẩm thực miền Trung

Nói tới ẩm thực miền Trung, người ta lại nhớ về một phong vị đặc trưng. Đó là sự tinh tế, độc đáo trong một tổng thể hài hòa nhưng lại vô cùng trân trọng nét riêng. Mỗi vùng đều có những đặc sản riêng biệt, không pha trộn, không lẫn với nhau… nhưng lại có điểm chung là gây thương nhớ chỉ sau một lần thưởng thức.


Ăn một lần là nhớ đất Cố đô

Kết quả khảo sát của các nhà nghiên cứu cho thấy, trong kho tàng ẩm thực Việt Nam có khoảng 1.700 món thì Huế sở hữu hơn 1.300 món ăn và thức uống với hệ ẩm thực cung đình, hệ ẩm thực chay Phật giáo, hệ ẩm thực dân gian mà mỗi hệ đã có hàng trăm món với chất liệu, cách chế biến, cách thưởng thức vô cùng phong phú.

Bất kể hệ ẩm thực nào của Huế cũng làm say lòng thực khách, nhưng muốn khám phá hết có lẽ phải dày công lắm. Bởi nếu theo kiểu “cưỡi ngựa xem hoa”, dừng chân ở Huế chừng tuần lễ thì nhiều người vẫn chỉ tìm được những món khá phổ biến, dễ ăn kiểu bún bò, cơm hến, rồi các loại bánh, các loại chè.

Món cao lầu Hội An (Quảng Nam).

Thèm bánh Huế thì tới chợ An Cựu. Ở Huế nổi tiếng có chợ Đông Ba, nhưng ngôi chợ đã đi vào thơ, vào nhạc này mùa du lịch thường quá tải thành ra các món ăn ở đây khá xô bồ. Vậy nên người yêu Huế chọn ghé chợ An Cựu, chợ của người Huế. Chiều đến, ngay đầu chợ có những hàng quà mời gọi đầy hấp dẫn. Gánh bánh đầy đủ bánh bột lọc, bánh ram ít, bánh nậm, bánh bèo, bánh ướt. Bà bán hàng tuổi chừng 70, giọng Huế thân thương giới thiệu từng loại bánh.

So với Hà Nội thì các loại bánh này được làm tại Huế nhỏ hơn, bột mịn hơn, nước chấm đẫm ớt cay nồng rất Huế, tha hồ mà xuýt xoa.

Tới món chè ăn chơi chơi Huế cũng có tới vài chục loại. Bởi thế người ta hay ta ví von nếu Hà Nội có 36 phố phường thì xứ Huế cũng có đến 36 thứ chè. Quán chè Cung Đình Huế trên đường Lê Lợi nổi tiếng trong bản đồ du lịch Huế dù đây chỉ là một quán vỉa hè và quán chủ yếu bán về đêm. Khách vòng trong vòng ngoài, đến muộn không có chỗ mà ngồi. Ở đây có món chè mà du khách đều muốn thử: chè bột lọc heo quay. Nghe có vẻ lạ, lạ bởi sự kết hợp giữa chè và thịt, hai vị mặn ngọt trong một cốc chè có vẻ không liên quan. Nhưng nếu một lần thưởng thức, chắc chắn bạn sẽ hỏi, chẳng biết bằng sự tài tình ra sao mà các O, các mệ Huế “chế” có thể chế biến ra món chè độc nhất vô nhị ấy, để rồi ăn một lần là thương nhớ đất Cố đô.

Mỹ vị nhân gian

Không chỉ Huế, ấn tượng ẩm thực miền Trung còn là các món ngon của thành phố đáng sống – Đà Nẵng. Nếu ở Huế có bún bò thì Đà thành có bánh tráng cuốn thịt heo, bún mắm nêm, gỏi cá Nam Ô, bánh xèo… Trong đó phải kể tới món bánh tráng cuốn thịt heo gây thương nhớ.

Giờ thì món ăn này đã xuất hiện ở nhiều tỉnh, thành nhưng thưởng thức bánh tráng cuốn thịt heo ở Đà thành quả rất khác. Bánh tráng được đem phơi sương, thơm nức mùi gạo, dai và dẻo khiến chiếc cuốn thật xinh xẻo. Thịt heo xen kẽ hai lớp mỡ nạc được sơ chế, mang luộc đến chín tới rồi thái lát mỏng. Nhờ vậy mà miếng thịt béo ngậy, mềm mại.

Đĩa rau củ quả thì vô cùng đa dạng: Rau thơm, xà lách, tía tô, diếp cá, lá cóc non, lá bạc hà, rau đắng, xoài non, chuối xanh, dứa, khế chua, bắp chuối bào, dưa chuột lát mỏng… Đặc biệt bát mắm nêm hương vị đậm đà chính là hồn cốt của món ăn, giúp món bánh tráng cuốn thịt heo trở nên đặc sắc.

Người đầu bếp có bí quyết pha mắm nêm rất độc đáo, để làm sao bát mắm thành phẩm có vị mặn đậm đà, xen lẫn vị ngọt thanh của đường, hoà cùng vị cay nồng của ớt và thoang thoảng vị chua ngọt và thơm của dứa. Háo hức trải bánh tráng vào đĩa, lấy các loại rau củ kèm thịt heo cuốn lại rồi chấm vào mắm nêm thưởng thức, tưởng như những mệt mỏi của chuyến đi tan biến hết.

Và sẽ thật là thiếu sót nếu tới Đà Nẵng mà không nhắc tới mỹ vị nhân gian gỏi cá Nam Ô. Tên gọi món ăn theo nơi khởi nguồn là làng chài Nam Ô có tuổi đời trăm năm, nằm ở cửa sông Cu Đê, dưới chân đèo Hải Vân. Trước đây, gỏi cá Nam Ô chỉ dành cho người dân vùng biển chế biến trong bữa ăn gia đình. Nhưng sau món ăn trở thành đặc sản với hai loại gỏi ướt và gỏi khô.

Cá để làm món gỏi ngon nhất là cá trích có thịt ngọt, săn chắc. Với món gỏi cá khô, thịt cá trích sau khi phi lê được tái chín với dấm, chanh sau đó ép ráo nước trước khi trộn với thính và gia vị. Phần nước ép cá được nấu sôi, cho thêm nước mắm ngon của làng chài Nam Ô, thêm ớt bột, bột năng và bột ngọt, đậu phộng giã nhuyễn để có món nước chấm gỏi sền sệt, chua ngọt và bùi rất dễ ăn.

Phần thịt sau khi ép ráo nước được trộn với các gia vị cay nóng như ớt, gừng để khử mùi tanh và trộn thêm thính để có màu sắc bắt mắt, chút mè rang vàng để dậy mùi thơm của món gỏi. Khi thưởng thức món gỏi khô dùng kèm với bánh tráng cuốn gỏi cá kèm các loại rau rừng tươi ngon cùng loại nước chấm hấp dẫn khiến vị giác như bùng nổ.

Còn khi ghé thăm Hội An, điểm đến nằm bên dòng sông Hoài – thành phố nhỏ nhắn và cổ kính vừa được Tạp chí du lịch nổi tiếng của Mỹ Travel & Leisure vinh danh đẹp thứ 4 thế giới, thì đừng quên món cao lầu. Món ngon này vẫn gây tranh cãi nhưng càng tranh cãi thì thực khách càng tò mò. Cao lầu là một loại mì màu vàng, dùng kèm với một ít nước dùng (hầm từ xương heo), có thịt xá xíu, tôm, thịt heo, ăn kèm với một số loại rau sống và bánh đa chiên.

Trao đổi về việc gìn giữ các món ăn truyền thống, nghệ nhân ẩm thực Lê Đình Cộng cho rằng, đặc trưng của mỗi món ăn, mỗi địa phương có yêu cầu riêng. Không bảo thủ thì món ăn Huế thành món ăn Nam bộ, món ăn Bắc thành món ăn Nam ngay. Với ẩm thực miền Trung và riêng với Huế ông Cộng bảo, cũng là do họ khó tính và bảo thủ mà giữ được.

Hà Thành

 

 

Nguồn: Dulichvn

Hà Nội: Bảo tồn, phát huy giá trị di sản lịch sử – văn hóa Đan Phượng

UBND huyện Đan Phượng (Hà Nội) sẽ tổ chức Hội thảo khoa học “Bảo tồn, phát huy giá trị di sản lịch sử – văn hóa quê hương Đan Phượng và danh nhân Tô Hiến Thành” vào ngày 19/2 tới đây.


Thực hiện Nghị quyết số 45-NQ/HU ngày 15/7/2022 của Huyện ủy Đan Phượng về phát triển công nghiệp văn hóa giai đoạn 2022 – 2025, định hướng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; Kế hoạch số 244/KH-UBND ngày 15/12/2022 của UBND huyện Đan Phượng về thực hiện nghị quyết số 45-NQ/HU, UBND huyện Đan Phượng tổ chức Hội thảo khoa học “Bảo tồn, phát huy giá trị di sản lịch sử – văn hóa quê hương Đan Phượng và danh nhân Tô Hiến Thành”.

Cán bộ, chính quyền và Nhân dân xã Hạ Mỗ (huyện Đan Phượng) đón nhận Bằng xếp hạng di tích lịch sử cấp TP miếu Hàm Rồng ngày 9/2/2025.

Hội thảo dự kiến tổ chức vào ngày 19/2 tại hội trường UBND huyện Đan Phượng. Phó Chủ tịch UBND huyện Đan Phượng Đào Thị Hồng cho biết, ngoài việc cụ thể hóa các Nghị quyết, chương trình, kế hoạch, chỉ đạo của TP và huyện trong công tác quản lý, bảo vệ, phát huy giá trị di tích, hội thảo hướng tới việc tiếp tục bổ sung, làm rõ, sáng tỏ hơn vị trí, quy mô, vai trò của Thành cổ Ô Diên trong quá trình tồn tại ở thế kỷ thứ VI; thân thế, cuộc đời, sự nghiệp, đóng góp của danh nhân Tô Hiến Thành; công tác bảo tồn hệ thống di sản văn hoá liên quan đến Thành cổ Ô Diên và danh nhân Tô Hiến Thành.

Cùng với đó, làm cơ sở khoa học để thực hiện tốt hơn công tác quản lý, bảo tồn, tu bổ tôn tạo, quy hoạch và phát huy giá trị cụm di tích gắn với phát triển du lịch của huyện, để nơi đây thực sự trở thành điểm tham quan du lịch hấp dẫn của TP. Đồng thời kết nối, khai thác, phát triển các sản phẩm du lịch văn hóa, lịch sử, cách mạng của Thủ đô; là trung tâm sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng, nơi tổ chức lễ hội truyền thống của Nhân dân trong huyện, tạo điều kiện thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội.

 “Hội thảo sẽ bổ sung, làm rõ về vùng cửa sông Nhuệ cổ; phân tích, đánh giá vị trí, quy mô, vai trò của Thành cổ Ô Diên trong quá trình tồn tại ở thế kỷ thứ VI. Đồng thời phân tích, làm rõ công tác bảo tồn hệ thống di tích lịch sử, văn hóa thờ các nhân vật triều đại Tiền Lý và danh nhân Tô Hiến Thành; xác định vị trí, vai trò của hệ thống di sản văn hóa liên quan đến vùng cửa sông Nhuệ cổ – Thành Ô Diên và danh nhân Tô Hiến Thành trong bối cảnh phát triển chung của huyện Đan Phượng và TP Hà Nội” – bà Đào Thị Hồng nhấn mạnh.

Hội thảo cũng hướng tới đề xuất giải pháp phát huy giá trị di sản văn hoá liên quan đến Thành cổ Ô Diên, Nhà nước Vạn Xuân, danh nhân Tô Hiến Thành ở vùng đất Đan Phượng nói riêng, đồng bằng Bắc Bộ nói chung (hướng đến tầm nhìn năm 2050). Cùng với đó là công tác tu bổ tôn tạo di tích và định hướng trong công tác tu bổ tôn tạo di tích; công tác lập và quy hoạch cụm di tích.

Ngoài ra, phát huy giá trị cụm di tích đền Văn Hiến, đình Vạn Xuân, miếu Hàm Rồng, đền Chính Khí, chùa Hải Giác gắn với phát triển du lịch tham quan, trải nghiệm trong phát triển công nghiệp văn hóa của Thủ đô và huyện; huy động mọi nguồn lực để bảo tồn, tôn tạo, đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng dịch vụ, phát huy điểm đến, làm nền tảng, nguồn lực thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội của huyện Đan Phượng.

Dự kiến, hội thảo sẽ có sự góp mặt của Cục Di sản văn hóa (Bộ VHTTDL); lãnh đạo Ban Tuyên giáo Thành ủy Hà Nội; lãnh đạo các sở, ban, ngành: VHTT, Du lịch, Quy hoạch – Kiến trúc, GTVT, TN&MT, Viện Quy hoạch xây dựng Hà Nội, Trung tâm Xúc tiến đầu tư, thương mại, du lịch Hà Nội, Ban Quản lý di tích và danh thắng Hà Nội; các Viện nghiên cứu, Hội khoa học…

Ngọc Tú

Nguồn: Dulichvn

Phú Thọ: Lễ hội truyền thống hút du khách

Phú Thọ là vùng đất cội nguồn với hàng trăm lễ hội truyền thống được tổ chức trong mùa Xuân. Lễ hội truyền thống có sức thu hút lớn với du khách trong và ngoài tỉnh. Trong những ngày đầu Xuân Ất Tỵ 2025, đã có hơn 300 nghìn khách tới tham quan các khu, điểm di tích, tham gia các lễ hội truyền thống, góp phần không nhỏ trong thúc đẩy du lịch của tỉnh phát triển.


Rước kiệu trong Lễ hội Đền Mẫu Âu Cơ, xã Hiền Lương, huyện Hạ Hoà, Phú Thọ

Trong tháng Giêng, ở khắp các địa phương trong tỉnh đều có nhiều lễ hội được tổ chức như: Huyện Thanh Sơn có lễ hội đình Khoang (xã Hương Cần), lễ hội đình Thạch Khoán (xã Thạch Khoán), lễ hội đình Thủ Rồng (xã Yên Lãng); huyện Yên Lập có lễ hội mở cửa rừng của người Mường; huyện Hạ Hòa có lễ hội Đền Mẫu Âu Cơ, lễ hội Đền Chu Hưng; huyện Lâm Thao có lễ hội Trò Trám, lễ hội Rước chúa gái; huyện Thanh Thủy có lễ hội đền Lăng Sương; huyện Thanh Ba có lễ hội đền Du Yến; thành phố Việt Trì có lễ hội đền Vân Luông (lễ hội cướp bông, ném chài), lễ hội truyền thống làng Mộ Chu Hạ… Nhiều lễ hội đã trở thành Di sản văn hóa phi vật thể Quốc gia như lễ hội vật đuổi giải đình Vĩnh Mộ, xã Cao Xá, huyện Lâm Thao tổ chức vào ngày 7 tháng Giêng hàng năm…

Một số lễ hội văn hóa truyền thống đang từng bước trở thành sản phẩm du lịch để du khách tìm hiểu, khám phá và trải nghiệm các hoạt động văn hóa như: Cờ người, đu trà, bịt mắt bắt vịt, kéo co, đẩy gậy, tung còn, tham gia rước nước, giã bánh giầy… Mỗi lễ hội mang một sắc thái và giá trị riêng, người dân địa phương và du khách cùng tham gia, tạo không khí vui tươi, phấn khởi để bắt đầu một năm mới với hy vọng mùa màng tốt tươi, lao động sản xuất hiệu quả, đời sống người dân càng ấm no. Đối với các lễ hội truyền thống của đồng bào Mường còn trình diễn đâm đuống, diễn tấu cồng chiêng, múa sênh tiền, trống đất, trống đu, hát Ví Rang… Thông qua các lễ hội văn hóa truyền thống, góp phần quảng bá hình ảnh quê hương, con người và những món ẩm thực phong phú, đa dạng, hấp dẫn của tỉnh, đồng thời nâng cao ý thức, trách nhiệm của người dân trong việc bảo tồn các giá trị văn hóa của dân tộc, của địa phương; nâng cao ý thức thực hiện nếp sống văn minh trong lễ hội và phát huy các di sản văn hóa vùng Đất Tổ của người dân, để mùa Xuân trẩy hội thêm ý nghĩa.

Đi lễ ở Đền Mẫu Âu Cơ trong ngày chính hội, chị Nguyễn Thị Phương Nhung ở Cổ Nhuế, Hà Nội cho biết: Mỗi năm gia đỉnh tôi đều đi lễ ở Đền Mẫu và Đền Hùng với mong muốn trong năm mới, cả gia đình được mạnh khỏe, bình an. Tham gia lễ hội, chúng tôi được tìm hiểu về tín ngưỡng thờ mẫu và nghi lễ tế nữ quan trọng Lễ hội Đền Mẫu Âu Cơ. Đến đây, không chỉ được tham quan, bái lễ, tôi thấy năm nay, có rất nhiều điểm check in đẹp cho du khách, chúng tôi có thể lưu lại những hình ảnh đẹp ngày Tết.

Với các sản phẩm du lịch đa dạng, phong phú như: Du lịch văn hóa; du lịch tâm linh; du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng; du lịch cộng đồng… cùng những nét độc đáo, mang đậm bản sắc văn hóa vùng Đất Tổ đã làm cho các sản phẩm du lịch thêm phong phú, thu hút du khách tìm hiểu, khám phá và trải nghiệm. Khi khách du lịch đến với lễ hội sẽ kéo theo một số nhu cầu thiết yếu như đi lại, lưu trú, nghỉ dưỡng, ăn uống, mua sắm đặc sản địa phương, nhất là các sản phẩm OCOP. Từ nguồn “tài nguyên” vô giá từ các lễ hội truyền thống gắn với phát triển du lịch đã và đang góp phần thúc đẩy kinh tế – xã hội của tỉnh phát triển.

Phương Thanh

 

Nguồn: Dulichvn

Quảng Nam: Làng nghề xứ Quảng và những ưu tư thời cuộc

Đằng sau không khí chộn rộn hội làng mùa xuân, còn đó ưu tư nơi những người thợ bởi sự chật vật của làng nghề trước xu thế thời cuộc.


Khách quốc tế nghe giới thiệu về các mặt hàng lưu niệm được trưng bày tại Nhà đón tiếp và trưng bày sản phẩm mộc truyền thống Kim Bồng. Ảnh: Quốc Tuấn

Nguy cơ mai một

Ra tết, nhiều làng nghề, nhất là ở khu vực phía bắc của tỉnh chộn rộn mở hội truyền thống. Trong hai ngày tổ chức hội làng (11 và 12 tháng Giêng), làng mộc Kim Bồng (xã Cẩm Kim, TP.Hội An) đón hàng nghìn lượt du khách trẩy hội, mua sắm tại phiên chợ quê. Dù vậy, dãy cơ sở sản xuất mộc nằm phía sau Nhà đón tiếp và trưng bày sản phẩm mộc truyền thống Kim Bồng thì vẫn khá vắng vẻ.

Ông Phạm Xuân Nguyên – chủ một cơ sở sản xuất tại đây cho biết: “Rất ít du khách ghé lại cơ sở, nếu có thì chủ yếu ngắm nghía tham quan chứ không mua hàng. Các sản phẩm điêu khắc của cơ sở, trong đó có cả sản phẩm đã được công nhận là sản phẩm OCOP cũng chỉ bán lai rai, cầm chừng. Công việc chính của tôi và một số anh em thợ là làm mộc dân dụng thì mới duy trì sinh kế được”.

Thị trường tiêu thụ của chiếu truyền thống sụt giảm bởi xu hướng của người tiêu dùng có sự thay đổi. Ảnh: Quốc Tuấn

Còn tại Điện Bàn, lễ cúng giỗ tổ làng đúc đồng Phước Kiều (12 tháng Giêng), chỉ có sự tham dự của các bô lão và một số thợ còn lại của làng Phước Kiều (phường Điện Phương). Hiện chỉ còn chưa đến 10 hộ trong làng còn làm nghề.

Ông Dương Ngọc Tiển – Giám đốc Công ty TNHH Dịch vụ thương mại Đồng Phước Kiều cho hay, trước đây theo phong tục thì khi tổ chức cúng giỗ tổ làng đúc đồng Phước Kiều thì cả làng phải đến dự nhưng dần dần vãn dần, lớp trẻ không kế thừa được. Hy vọng năm tới sau phần lễ sẽ tổ chức được phần hội để gắn kết các thế hệ của làng, duy trì một sự kiện văn hóa đặc sắc của quê hương.

Theo Sở NN&PTNT, trên địa bàn tỉnh hiện có khoảng 14 làng nghề hoạt động sản xuất cầm chừng, không duy trì thường xuyên. Trong đó, một số làng nghề khả năng mai một rất lớn, tập trung ở những làng nghề như mây tre đan, nón lá, dệt chiếu, dệt vải, dệt thổ cẩm… Còn theo Sở KH-CN, hơn 50% nghề và làng nghề truyền thống trên địa bàn tỉnh ra đời dựa trên nguồn nguyên liệu sẵn có tại địa phương.

Hiện nay, nhiều nghề thủ công gặp khó khăn về nguyên liệu (dệt chiếu, dệt lụa, gốm, chổi đót…). Do đó, cần rà soát, thống kê lại các nguồn nguyên liệu hiện có, mức độ đáp ứng nhu cầu của các làng nghề để có cơ chế hỗ trợ, khuyến khích việc duy trì, khôi phục các vùng nguyên liệu. Ngoài ra, cần có sự phối hợp với một số tỉnh thành khác để chia sẻ, cung ứng, giải quyết sự khan hiếm về nguồn nguyên liệu tại chỗ.

Chấp nhận và thích ứng

Do đặc thù của làng nghề là nhiều cơ sở ngành nghề nông thôn đều làm một nghề giống nhau, sản xuất ra sản phẩm tương tự nhau, mẫu mã đơn điệu, giá bán sản phẩm còn cao…

Các làng nghề phải liên tục cải tiến mẫu mã, phù hợp với thị hiếu thị trường để tồn tại. Trong ảnh: Du khách tìm hiểu hàng lưu niệm từ nghề đan lát Cẩm Kim. Ảnh: Quốc Tuấn

Bên cạnh đó, thói quen của phần lớn người tiêu dùng đã có sự thay đổi, chuyển sang dùng những sản phẩm tiện lợi hơn, như nệm thay cho chiếu; rỗ, rá bằng nhựa thay cho rỗ, rá làm từ mây tre đan; mũ vải thay cho nón lá… dẫn đến sản phẩm làm ra tiêu thụ chậm.

Theo các chuyên gia, làng nghề muốn phát triển và vươn xa cần tự tái cơ cấu bền vững theo trình tự: Tái cơ cấu sản phẩm, tập trung phát triển các sản phẩm truyền thống hiện có của làng nghề nhưng phù hợp với thị hiếu khách hàng. Cùng với đó là sáng tạo ra các sản phẩm mới và phải khai thác tối đa dư địa không gian thương mại điện tử.

Năm ngoái, dự án “Hội An – Làng nghề lên số” đã được nhận giải thưởng quốc tế Kotler Awards 2024 ở hạng mục “Công nghệ số và đổi mới sáng tạo có tầm ảnh hưởng”, mở ra nhiều triển vọng về duy trì sức sống làng nghề dựa vào môi trường số. Tuy nhiên, làng nghề tại Hội An có những lợi thế đặc trưng để tồn tại mà ở hầu hết khu vực khác trên địa bàn tỉnh rất khó so sánh là dựa vào du lịch.

Ông Phạm Viết Tích – Giám đốc Sở NN&PTNT cho biết, đối với những nghề, làng nghề đang bị mai một và có khả năng mất đi thì cơ quan chức năng xác định bảo tồn là chính. Từ đó tiến hành điều tra, xây dựng dự án để duy trì các hộ hoặc nhóm hộ nghề, nghệ nhân hoạt động “trình diễn” nhằm lưu giữ, truyền nghề và phục vụ nhu cầu du lịch, văn hóa.

Còn với những nghề, làng nghề có khó khăn thì hỗ trợ và tạo điều kiện cho các nghệ nhân, thợ có tay nghề cao và các cơ sở trong làng nghề duy trì ổn định sản xuất các sản phẩm độc đáo phục vụ sinh hoạt, các lễ hội của cộng đồng. Sau đó, từng bước sẽ phát triển các sản phẩm có giá trị kinh tế cao, đáp ứng nhu cầu, thị hiếu của người tiêu dùng trong nước và xuất khẩu.

Quốc Tuấn

Nguồn: Dulichvn

Hà Giang: Lễ hội Lồng Tông chùa Sùng Khánh năm 2025

Sáng 12.2, UBND xã Đạo Đức (Vị Xuyên, Hà Giang) khai mạc Lễ hội Lồng Tông chùa Sùng Khánh Xuân Ất Tỵ năm 2025. Tham dự lễ hội có lãnh đạo huyện Vị Xuyên, đông đảo người dân, du khách.


Nhân dân xã Đạo Đức (Vị Xuyên) tham gia thi cấy lúa tại lễ hội.

Lễ hội Lồng Tông là lễ hội truyền thống độc đáo của đồng bào dân tộc Tày, được xã Đạo Đức tổ chức thường niên trong nhiều năm qua. Lễ hội là ngày hội xuống đồng mang theo ước nguyện của Nhân dân các dân tộc trên địa bàn xã cầu mong một năm mới có nhiều sức khỏe, mưa thuận, gió hòa, mùa màng bội thu, mọi nhà đều ấm no, hạnh phúc; lễ hội cũng là dịp để bày tỏ lòng thành kính, biết ơn với thiên nhiên trời, đất, với tổ tiên, với các bậc thánh hiền. Thông qua các hoạt động tại lễ hội góp phần quan trọng bảo tồn, phát huy văn hóa truyền thống và giá trị di tích, đẩy mạnh quảng bá du lịch, thúc đẩy phát triển KT – XH của địa phương.

Người dân và du khách dâng hương chùa Sùng Khánh.

Tại lễ hội diễn ra Lễ dâng hương chùa Sùng Khánh, ngôi chùa được xây dựng từ thời nhà Trần, năm Bính Thân 1356, được xếp hạng di tích lịch sử cấp Quốc gia, là nơi còn lưu giữ 2 bảo vật quốc gia độc bản là tấm bia đá gốc thời vua Trần Dụ Tông dựng năm 1367 và quả chuông đồng đúc năm 1705. Cùng với đó, các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể thao truyền thống như: Múa, hát Then, thi cấy lúa, tung còn, kéo co, đẩy gậy, đi cà kheo, trưng bày trang phục và nông sản địa phương diễn ra sôi nổi, thu hút đồng đảo người dân và du khách tham gia.

Vui hội tung còn.

Tin, ảnh: An Giang

 

Nguồn: Dulichvn

Quảng Ninh: Sôi động du lịch văn hóa tâm linh

Đi lễ đền, chùa đầu năm là một trong những nét đẹp văn hóa tâm linh của người Việt. Những ngày đầu xuân Ất Tỵ 2025, các điểm du lịch tâm linh, di tích, danh thắng trên địa bàn tỉnh thu hút lượng lớn khách thập phương hành hương về du xuân, tham quan, chiêm bái.


Du khách thành tâm lễ phật đầu năm tại Khu di tích quốc gia đặc biệt Yên Tử (TP Uông Bí).

Từ đầu năm 2025 đến nay, hàng vạn tăng ni, phật tử và du khách về Khu di tích quốc gia đặc biệt Yên Tử (TP Uông Bí) để chiêm bái, vãn cảnh. Hội xuân Yên Tử diễn ra trong 3 tháng, là hội xuân lớn nhất cả nước. Ban Tổ chức đã đưa vào nhiều hoạt động văn hoá đặc sắc để phục vụ du khách, như: Đêm Hội hoa đăng, cầu nguyện quốc thái dân an; tổ chức các trò chơi dân gian, biểu diễn văn nghệ truyền thống tại khu vực Làng Nương Yên Tử; giới thiệu ẩm thực của đồng bào dân tộc Dao Thanh Y dưới chân núi Yên Tử… Với sự chuẩn bị chu đáo, từ mùng 1 Tết đến nay, Khu di tích quốc gia đặc biệt Yên Tử đã đón gần 200.000 lượt khách du xuân, lễ Phật.

Chị Nguyễn Hà Linh (du khách Hà Nội) chia sẻ: Đi lễ đầu xuân tại Yên Tử đã trở thành thông lệ nhiều năm của gia đình tôi. Khi đến đây, tôi cảm thấy rất bình yên, mặc dù trong không khí lễ hội đầu năm đông đúc, nhộn nhịp nhưng công tác chuẩn bị được thực hiện chỉn chu, bài bản, văn minh. Hạ tầng tại Khu di tích danh thắng Yên Tử cũng được đầu tư đồng bộ, giúp du khách vừa có thể du xuân, chiêm bái, vừa có thể nghỉ dưỡng, chăm sóc sức khỏe và tinh thần.

Lễ hội Tiên Công (TX Quảng Yên) thu hút đông nhân dân, du khách thập phương về tham dự. Ảnh: Ánh Tuyết (Trung tâm TT-VH TX Quảng Yên).

Không chỉ ở Yên Tử, TX Quảng Yên được xem là vùng đất của di tích và lễ hội, với rất nhiều hội xuân lớn, nhỏ, bắt đầu ngay từ những ngày đầu năm mới, thu hút đông người dân và du khách. Nổi bật trong chuỗi hoạt động du xuân là sức hút từ Khu di tích lịch sử quốc gia đặc biệt Bạch Đằng – nơi đã đón gần 100.000 lượt khách từ mùng 1 Tết đến nay, tăng 10,1% so với cùng kỳ 2024. Bên cạnh đó, các hoạt động lễ hội, trải nghiệm văn hóa truyền thống được tổ chức phong phú, như: Lễ hội Tiên Công (xã Hiệp Hòa), Lễ hội Nhị vị Tiên Công (xã Liên Hòa), Lễ hội Cầu ngư (phường Tân An), hội chùa làng ở các chùa trên địa bàn thị xã… góp phần tạo nên không khí sôi động trong những ngày đầu xuân. Từ mùng 1 Tết đến nay, TX Quảng Yên đã đón 250.000 lượt khách. Ông Ngô Đình Dũng, Trưởng Phòng Văn hóa – Thông tin TX Quảng Yên, chia sẻ: Để phát triển du lịch dịp đầu xuân Ất Tỵ 2025, thị xã đã quan tâm chỉ đạo và kiểm tra công tác đảm bảo các điều kiện tổ chức lễ hội, đảm bảo an toàn phòng, chống cháy nổ, hướng dẫn việc thực hiện chỉnh trang di tích, bao sái đồ thờ tự, trang trí khánh tiết và các điều kiện đón khách thập phương đến chiêm bái, du xuân. Đồng thời, chỉ đạo tổ chức các lễ hội ở các di tích lịch sử – văn hóa, cơ sở thờ tự, cơ sở tín ngưỡng, tôn giáo đảm bảo đúng theo nghi lễ truyền thống, góp phần tuyên truyền, giới thiệu quảng bá phát huy giá trị di tích.

Quảng Ninh là một trong những tỉnh có kho di sản văn hóa lớn, phong phú, đa dạng, đặc sắc với hơn 600 di sản văn hóa vật thể là những đình, chùa, đền, miếu, danh lam thắng cảnh. Trên địa bàn tỉnh có hơn 118 lễ hội, trong đó có khoảng 80 lễ hội diễn ra vào mùa xuân, tiêu biểu: Lễ hội Tiên Công (TX Quảng Yên); lễ hội Yên Tử; lễ hội đền, chùa Hang Son, lễ hội đình Đền Công, lễ hội chùa Phổ Am (TP Uông Bí); lễ hội chùa Ngọa Vân, lễ hội chùa Quỳnh Lâm (TP Đông Triều); lễ hội đình Đầm Hà (huyện Đầm Hà); lễ hội đình Lục Nà (huyện Bình Liêu); lễ hội đền Cửa Ông (TP Cẩm Phả); lễ hội đình Vạn Ninh (TP Móng Cái)….

Theo báo cáo của Sở Du lịch, hiện khoảng 120 di tích, di sản nằm trong các điểm tour, tuyến du lịch cố định của Quảng Ninh, trong đó có những di tích được các đơn vị lữ hành lựa chọn để thiết kế nhiều sản phẩm riêng, trọn gói để đưa vào khai thác. Vào dịp Tết Nguyên đán mỗi năm (từ mùng 1 – 6/1 Âm lịch), Quảng Ninh đón khoảng 70-100 vạn du khách, thì 70% du khách đến các di tích, di sản trên địa bàn.

Ban Quản lý Di tích quốc gia đặc biệt đền Cửa Ông – Cặp Tiên kiểm tra tại các cơ sở kinh doanh thực hiện các biện pháp đảm bảo ATVSTP. Ảnh: Bảo Long (Trung tâm TT-VH TP Cẩm Phả)

Theo ông Nguyễn Hà Hải, Giám đốc Công ty CP Du lịch & Dịch vụ Hòn Gai – Chi nhánh Quảng Ninh, ngay sau Tết, các công ty lữ hành đã đón lượng lớn khách du xuân, lễ chùa đầu năm. Các tour du lịch văn hóa tâm linh tại Quảng Ninh có lịch trình 1-3 ngày, giá từ 500.000 đồng – 3 triệu đồng/người được quan tâm nhất, do phù hợp với quỹ thời gian, kinh tế số đông. Hiện tại, lượng bán tour du lịch văn hóa tâm linh trong tháng Giêng vẫn tốt nhưng khách không đặt sớm, xu hướng đặt sát ngày vẫn phổ biến.

Để du lịch tâm linh phát triển đúng hướng, mang lại những giá trị truyền thống, tinh thần, giá trị văn hóa lịch sử, UBND tỉnh đã ban hành Kế hoạch số 6970/KH-UBND (ngày 16/11/2015), triển khai thực hiện Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh của tỉnh giai đoạn 2016-2020, với mục tiêu: Phát triển kinh tế nhanh, bền vững; chuyển dịch và tăng tốc độ phát triển kinh tế theo hướng công nghiệp “xanh”. Trong đó, tập trung đầu tư trực tiếp nhiều nhất cho du lịch, xây dựng Uông Bí – Đông Triều – Quảng Yên trở thành trung tâm du lịch văn hoá – lịch sử – tâm linh đặc sắc.

Bám sát định hướng trên, tỉnh đã dành nhiều nguồn lực, đẩy mạnh xã hội hóa, tập trung bảo tồn, tôn tạo, phát huy hiệu quả giá trị văn hóa lịch sử các di tích, danh thắng trên địa bàn tỉnh; chú trọng xây dựng tour, tuyến, điểm du lịch hợp lý, cải thiện hạ tầng giao thông dẫn vào các khu di tích, cũng như kiểm soát chặt chẽ công tác quản lý, tổ chức, thực hiện văn minh lễ hội tại tất cả các điểm du lịch, di tích, danh thắng trên địa bàn tỉnh. Tỉnh đã lập Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch, tăng cường công tác quản lý môi trường kinh doanh du lịch, thu hút nhiều các nhà đầu tư chiến lược, tập đoàn lớn về du lịch phát triển các sản phẩm đẳng cấp tại tỉnh. Đồng thời, đẩy mạnh kết nối hạ tầng đồng bộ, đường hàng không, đường bộ cao tốc, đường thủy để thúc đẩy kết nối vùng ở cấp quốc gia, liên kết vùng ở cấp quốc tế và tạo động lực thúc đẩy phát triển giao thông, dịch vụ, du lịch, giúp tỉnh bứt phá trong phát triển theo mô hình tăng trưởng xanh.

Hoàng Quỳnh

 

Nguồn: Dulichvn

Sắc màu làng nghề làm bột khoai ở Tây Ninh

Từ bao đời, nghề làm bột khoai truyền thống tại xã Long Thành Nam, thị xã Hòa Thành, Tây Ninh đã trở thành nét văn hóa đặc sắc trong đời sống người dân địa phương.


Qua góc máy từ trên cao của nhiếp ảnh gia Trần Tiến Dũng, làng nghề làm bột khoai truyền thống tại xã Long Thành Nam, thị xã Hòa Thành, Tây Ninh hiện lên sống động, đầy sắc màu. Ảnh: Trần Tiến Dũng

Mỗi ngày, công việc tại làng nghề bắt đầu từ sớm, khi người dân chuẩn bị nguyên liệu và tiến hành chế biến bột khoai. Đến đây, du khách không chỉ được tìm hiểu quy trình sản xuất mà còn có dịp khám phá đời sống văn hóa của người dân địa phương. Ảnh: Trần Tiến Dũng

Dù hiện nay các hộ gia đình đã áp dụng máy móc hiện đại để rút ngắn thời gian sản xuất, nhưng phần lớn các công đoạn vẫn được thực hiện thủ công, giữ lại những nét đặc trưng và công phu của nghề truyền thống. Ảnh: Trần Tiến Dũng

Sau khi hấp xong, bột khoai được lấy ra khỏi lò và xếp lên giàn tre để phơi dưới ánh nắng. Những miếng bột được cắt thành từng đoạn, tạo thành những mảng bột với màu sắc bắt mắt. Quá trình phơi nắng giúp bột khoai khô đều cả hai mặt, giữ nguyên hương vị đặc trưng và độ thơm ngon của sản phẩm. Ảnh: Trần Tiến Dũng

Ban đầu, bột khoai chỉ có màu trắng, nhưng dần dần, người dân đã sáng tạo thêm bằng cách sử dụng màu thực phẩm, tạo ra những sản phẩm bột khoai đa dạng về màu sắc. Ảnh: Trần Tiến Dũng

Khi bột khoai đã khô, chúng được cắt thành những sợi nhỏ hình răng cưa và tiếp tục được phơi thêm một lần nữa trước khi đóng gói. Đây là nguyên liệu quen thuộc trong các món chè truyền thống như chè chè chuối, đậu xanh, chè thập cẩm, sương sa hạt lựu… Ảnh: Trần Tiến Dũng

Ngọc Lương

Nguồn: Dulichvn

Hà Nội: Hồn quê trong sợi miến dong Cự Đà

Làng Cự Đà thuộc xã Cự Khê, huyện Thanh Oai, TP Hà Nội là một ngôi làng cổ mang đậm dấu ấn lịch sử với hơn 400 năm tồn tại và phát triển.

Nơi đây không chỉ nổi tiếng với những căn nhà cổ mang kiến trúc giao thoa giữa truyền thống Việt Nam và phong cách Pháp mà còn là cái nôi của nghề làm miến dong – một nghề truyền thống đã tồn tại từ lâu đời…

Không ai biết chính xác nghề làm miến dong ở Cự Đà có từ khi nào, chỉ biết rằng khi sinh ra trên mảnh đất này, người dân đã thấy nghề làm miến hiện hữu, gắn bó mật thiết với cuộc sống của họ. Làng không có ông tổ làng nghề, nhưng từ bao đời nay, nghề làm miến vẫn được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác như một phần không thể thiếu của làng quê.

Ông Vũ Văn Tuấn, Trưởng thôn Cự Đà, người đã gắn bó với nghề làm miến dong từ nhỏ, chia sẻ: “Vào thập niên 1990, có khoảng 100 hộ dân theo nghề làm miến, chiếm gần 2/3 tổng số hộ gia đình trong làng. Khi đó, mọi công đoạn sản xuất miến đều được thực hiện thủ công, từ xay bột, tráng miến, phơi, sấy cho đến đóng gói đòi hỏi sức lao động lớn và nhiều nhân công.

Người dân Cự Đà chuyển những tấm miến đi phơi.

Tuy nhiên, trước sự phát triển của công nghệ và những thay đổi từ nhu cầu thị trường, số hộ làm nghề dần thu hẹp. Hiện nay, làng chỉ còn khoảng 40 hộ gắn bó với nghề, nhưng nhờ ứng dụng máy móc hiện đại, sản lượng đã tăng lên đáng kể. Nếu như trước đây, mỗi hộ chỉ sản xuất được từ 40 đến 70kg miến/ngày thì nay, một cơ sở có thể đạt sản lượng 1,5 đến 2 tấn/ngày, đáp ứng cả nhu cầu thị trường trong nước và xuất khẩu”.

Bà Đinh Tuyết Mai, chủ cơ sở sản xuất miến dong Nhuận Hòa ở xóm Điếm Tuần, làng Cự Đà cho biết: “Gia đình tôi theo nghề từ thời ông bà, đến nay vẫn giữ cách làm truyền thống nhưng đã có thêm sự hỗ trợ của máy móc để nâng cao năng suất. Mỗi ngày, cơ sở của tôi sản xuất khoảng 1 đến 1,5 tấn miến. Mùa cao điểm, nhất là dịp cận Tết, chúng tôi phải dậy từ 3 giờ sáng để kịp chuẩn bị nguyên liệu, làm việc đến tối muộn mới đáp ứng được nhu cầu của khách hàng. Sau Tết Nguyên đán là thời điểm diễn ra nhiều lễ hội, nhu cầu tiêu thụ miến tăng nên từ mồng Ba Tết, cơ sở đã tiếp tục sản xuất…”.

Theo ông Vũ Văn Tuấn, khoảng thời gian từ tháng 10 đến tháng 12 âm lịch hằng năm là lúc bận rộn nhất của làng bởi nhu cầu mua miến sử dụng dịp Tết, lễ hội đầu năm của người dân tăng cao. Mặc dù sản xuất quanh năm nhưng doanh thu của làng nghề chủ yếu vào dịp cuối năm và đầu xuân mới. Không chỉ phục vụ thị trường trong nước, miến dong Cự Đà còn được xuất khẩu sang Lào và Campuchia, góp phần đưa thương hiệu miến dong Việt Nam vươn xa. Nghề làm miến đã mang lại cuộc sống ổn định, thậm chí khá giả cho không ít hộ dân trong làng. Tuy số hộ làm nghề không nhiều như trước, song đây vẫn là nghề chính của làng, bởi quy trình sản xuất miến đòi hỏi nhiều công đoạn, tạo ra nhiều việc làm cho người dân. Từ khâu xay bột, tráng miến, phơi miến, cắt sợi miến đến đóng gói, vận chuyển, mỗi công đoạn đều cần đến bàn tay khéo léo và sự cẩn thận của người thợ.

Nghề làm miến dong mang lại thu nhập ổn định nhưng không hề nhẹ nhàng như nhiều người nghĩ. Công đoạn vất vả nhất có lẽ là khâu phơi miến. Những ngày có nắng, người dân phải tranh thủ từng chút ánh sáng mặt trời để miến đạt độ dẻo, trong đúng chuẩn. Nhưng việc phơi miến không đơn giản là trải ra chờ nắng mà cần sự theo dõi sát sao, bởi nếu phơi quá lâu, miến sẽ giòn và dễ gãy, nếu chưa đủ nắng, miến sẽ dai và khó bảo quản.

Đi dọc theo những con ngõ nhỏ trong làng Cự Đà, không khó để bắt gặp hình ảnh những tấm miến vàng óng phơi trên giàn tre, phảng phất mùi thơm của bột dong riềng. Đó là hình ảnh gợi nhớ một nét đẹp truyền thống, một phần ký ức tuổi thơ của biết bao thế hệ người dân Cự Đà. Nhiều hộ gia đình tiếp tục bám trụ với nghề không chỉ để mưu sinh mà còn góp phần duy trì bản sắc làng nghề Việt…

Bài và ảnh: Hà Hồng Châu

Nguồn: Dulichvn

Nguyên tiêu thưởng chiếc bánh trôi

Dù có nhiều món ngon truyền thống nhưng bánh trôi với ý nghĩa vẹn toàn vẫn là lựa chọn hàng đầu của nhiều người để dâng cúng trong dịp tết Nguyên tiêu (rằm tháng Giêng).


Bánh trôi (chè trôi nước) miền Nam là món ngon viên mãn trong Tết Nguyên Tiêu

Đêm Nguyên tiêu, trên trời có mảnh trăng tròn, dưới nhân gian, có mâm lễ cũng tròn đầy tâm thành của gia chủ. Mọi thứ giao hòa trong ánh sáng thuần khiết của tạo vật. Cho nên, lễ nghi trong dịp tết Nguyên tiêu là thứ lễ nghi trang trọng, không thua kém bất cứ lễ nghi nào.

Món ngon viên mãn

Từ lâu, rằm tháng Giêng được xem là ngày rằm lớn nhất, quan trọng nhất trong năm. Nhiều người chăm chút những món ngon trong mâm cỗ cúng rằm tháng Giêng chỉn chu, tỉ mỉ.

Ngoài những món bánh trái khác cho mâm cao cỗ đầy, bánh trôi chính là món tưởng đơn sơ nhưng lại trang trọng nhất. Những viên bánh trôi nước vo tròn mịn màng ôm trọn lớp nhân đậu mềm mại bên trong; ẩn mình trong thứ nước đường nâu nhạt thơm phức mùi gừng, thêm chút nước cốt dừa sánh đặc béo bùi…

Ước vọng một năm mới công việc diễn ra suôn sẻ, trôi chảy, thuận lợi, gia đạo an hòa, con cái cha mẹ sum vầy đoàn viên… đều gửi gắm hết trong những viên trôi nước đẹp đẽ kia. Dưới ánh trăng sáng đêm rằm tháng Giêng, người ta luôn dành cho nhau những điều tốt đẹp nhất.

Nguồn gốc bánh trôi của người Việt bắt nguồn từ loại bánh thang viên, hay còn gọi là bánh Nguyên tiêu của người Hoa, vì thường được dâng cúng tết Nguyên tiêu. Món bánh vốn có xuất xứ từ Trung Hoa cổ đại, sau lại được lưu hành, phổ biến rộng rãi tại các nước châu Á, trong đó có Việt Nam.

Chè trôi nước lá dứa – bản biến tấu của chè trôi nước truyền thống

Bánh trôi của người Việt có hai loại khác nhau: bánh trôi cúng Hàn thực của miền Bắc và chè trôi nước của miền Nam. Tuy cách làm bánh trôi 2 miền có phần giống nhau, nhưng cách trình bày món ăn lại mỗi miền mỗi kiểu.

Bánh trôi cúng Hàn thực thường là những viên bột nếp chỉ lớn hơn đầu ngón tay, được xếp cạnh nhau trên mặt đĩa, bên trên mặt bánh rắc thêm nhúm mè rang, có ít hoặc không có nước đường. Chè trôi nước miền Nam lại là những viên bột lớn, bên trong là nhân đậu xanh.

Viên bánh trôi coi vậy mà rất hòa thuận với thứ nước đường gừng, khoe hết vẻ đẹp tròn đầy trong chén. Bên trên, người ta nhấn nhá thả thêm mấy sợi dừa nạo, chế thêm muỗng nước cốt dừa dằn bớt cái sự ngọt đậm của nước chè. Cái màu bột nếp già lửa ngả sang màu ngà, nhưng thứ vỏ bột áo được nhào nặn kỹ thành ra mặt bánh cứ láng o mịn màng, quyến luyến mắt nhìn.

Văn hóa ẩm thực lâu đời

Theo thời gian, món bánh trôi miền Nam dần dà được biến tấu trong cách chế biến để có hình thức bắt mắt hơn, chủ yếu là “tô màu” cho lớp vỏ áo: bánh trôi gấc, bánh trôi thanh long, bánh trôi lá dứa, trà xanh… Nhưng về cơ bản, đó vẫn là món bánh trôi dựa trên nền văn hóa ẩm thực lâu đời.

Bột nếp già lửa ngả sang màu ngà nhưng viên bánh láng mịn bắt mắt

Một số món ăn truyền thống đã ít nhiều mai một, nhưng với món bánh đầy ý nghĩa này, cứ mỗi dịp tết Nguyên tiêu hay ngày đưa ông Táo về trời, tết Đoan Ngọ lại thấy rộn ràng trên mâm cúng.

Thưởng thức viên trôi nước dẻo thơm không chỉ với tâm nguyện mong cầu mọi thứ viên mãn. Món ăn còn để vị giác tìm về cội rễ của thức quà bánh dân dã nguyên lành. Tôi nhớ lời má nói: “Viên trôi nước tròn hay méo cũng phần nào thể hiện tâm trạng người làm ra nó. Ai có thể vo viên trôi nước tròn đầy khi lòng nơm nớp lo âu, phiền muộn?”.

Vậy đó, chỉ một món ăn mà gói ghém bao điều trong đó. Cho tới bây giờ, tôi vẫn không hiểu bằng cách nào mà má nhón mỗi cục bột chưa đầy lòng tay lại có thể nhào nặn ra những viên trôi nước đều nhau như làm bằng máy.

Có lẽ không phải chỉ vì làm nhiều quen tay, không cần cân đo đong đếm vẫn ước lượng, áng chừng “như thần”, mà là do má làm món này bằng cả cái tâm thành của mình. Chỉ cần nhìn viên trôi nước tròn hay méo, biết người làm thành tâm hay hững hờ. Người xưa nói không sai: “Tâm mình ở đâu, thành quả ở đó”.

Trần Huyền Trang

 

Nguồn: Dulichvn

TIN MỚI NHẤT