Du lịch trong nước

Du lịch trong nước, tin tức du lịch trong nước, các tour du lịch trong nước, các địa điểm du lịch trong nước hấp dẫn được chúng tôi tổng hợp và đưa tin hàng ngày đến cho khách du lịch trên khắp mọi miền đất nước có được thông tin du lịch trong nước để có những thông tin hữu ích nhất cho mình và gia đình khi quyết định chọn chuyến du lịch trong nước cho mình và người thân

Phú Thọ: Giỗ Tổ Hùng Vương và Tuần Văn hóa – Du lịch Ðất Tổ diễn ra từ mùng 1 đến mùng 10-3 năm Ất Tỵ

Ðó là thông tin vừa được UBND tỉnh Phú Thọ công bố. Giỗ Tổ Hùng Vương và Tuần Văn hóa – Du lịch Ðất Tổ sẽ diễn ra tại TP Việt Trì, Khu di tích lịch sử Ðền Hùng và các địa phương trong tỉnh Phú Thọ.


Phần lễ gồm: Lễ giỗ Ðức Quốc Tổ Lạc Long Quân, dâng hương tưởng niệm Tổ Mẫu Âu Cơ; Lễ Giỗ Tổ Hùng Vương và dâng hoa tại bức phù điêu “Bác Hồ nói chuyện với Ðại đoàn quân Tiên Phong”, Lễ dâng hương tưởng niệm các Vua Hùng của các huyện, thị xã, thành phố trong tỉnh… Các hoạt động phần hội gắn với sự kiện văn hóa, thể thao và du lịch, tạo thành chuỗi hoạt động Tuần Văn hóa – Du lịch Ðất Tổ với 22 hoạt động đặc sắc. Tiêu biểu là chương trình nghệ thuật khai mạc với chủ đề “Linh thiêng nguồn cội – Ðất Tổ Hùng Vương”; hội thi gói, nấu bánh chưng, giã bánh giày; trình diễn văn hóa dân gian đường phố TP Việt Trì; trình diễn hát Xoan làng cổ…

Khánh An

 

Nguồn: Dulichvn

Hà Tĩnh: Nhiều hoạt động ý nghĩa tại Lễ hội Hải Thượng Lãn Ông

Nhân dịp xuân mới Ất Tỵ, Lễ hội Hải Thượng Lãn Ông được tổ chức tại Khu di tích Quốc gia đặc biệt Hải Thượng Lãn Ông – Lê Hữu Trác (huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh) với nhiều hoạt động văn hóa truyền thống. Đây là một trong những sự kiện có ý nghĩa của nhân dân địa phương nhằm tưởng nhớ công ơn Đại danh y Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác nhân kỷ niệm 234 năm Ngày mất của ông và mong cầu sức khỏe, bình an trong năm mới.


Lễ hội Hải Thượng Lãn Ông năm 2025 được diễn ra từ ngày 5-2 đến 12-2 (tức từ mồng 8 đến ngày 15 tháng Giêng, năm Ất Tỵ) với nhiều sự kiện đặc sắc như: Lễ hội đua thuyền truyền thống trên sông Ngàn Phố; hội thi “Viết thư pháp” huyện Hương Sơn lần thứ I; trưng bày “Bộ ảnh tư liệu về cuộc đời, sự nghiệp và di sản của Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác”; hội thi gói bánh chưng, kéo co và các trò chơi dân gian; sân khấu biểu diễn dân ca Nghệ Tĩnh “Về chốn ngàn hương”; lễ dâng hương, lễ rước bài vị và lễ tế, tưởng niệm Đại danh y tại Khu di tích Quốc gia đặc biệt; lễ cầu an, cầu sức khỏe được tổ chức tại chùa Tượng Sơn, xã Sơn Giang, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh… 

Hội thi gói bánh chưng trong khuôn khổ Lễ hội Hải Thượng Lãn Ông.

Ngoài ra, trong những ngày diễn ra lễ hội, tại khuôn viên khu mộ và tượng đài còn trưng bày các gian hàng sản phẩm lưu niệm và đặc sản địa phương phục vụ du khách tham quan, thưởng thức, mua sắm.. 

Các hoạt động tại Lễ hội Hải Thượng Lãn Ông thu hút sự tham gia của đông đảo người dân và du khách thập phương.

Lễ hội năm nay, ngoài các vật phẩm truyền thống địa phương cung tiến Đại danh y Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác, Công ty Quý Gia đã dâng tiến chiếc bánh chưng nặng 300kg.

Để hoàn thành chiếc bánh khổng lồ này, Công ty đã mời chuyên gia và các đầu bếp cùng 20 nhân viên thực hiện công tác chuẩn bị, gói và nấu bánh chưng trong 3 ngày.

Chiếc bánh chưng hình vuông với chiều rộng 1,6m, cao 40cm. Dù có kích thước rất lớn, nhưng bánh vẫn được gói theo công thức truyền thống. Nguyên liệu gói bánh gồm: 270kg gạo nếp; 30kg đậu xanh; hơn 600 chiếc lá dong và các nguyên liệu, gia vị, vật dụng kèm theo. Các công đoạn sơ chế nguyên liệu như rửa lá, vo gạo, đãi đỗ… được cán bộ nhân viên công ty tập trung chuẩn bị chu đáo, đảm bảo vệ sinh, an toàn thực phẩm. Việc gói bánh, canh lửa, giờ vớt bánh cũng đã được tính toán kỹ để bánh chín đều và đảm bảo yêu cầu về chất lượng.

Sau khi cung tiến bánh tại lễ rước và lễ tế, chiếc bánh chưng 300kg sẽ được cắt ra để nhân dân và du khách thập phương thưởng thức.

Chiếc bánh chưng nặng 300kg do Công ty TNHH Thương mại và Dịch vụ Quý Gia thực hiện để dâng lên Đại danh y Hải Thượng Lãn Ông. Ảnh: Đức Song

Cùng với việc cung tiến chiếc bánh chưng 300kg, Công ty Quý Gia cũng đã tổ chức nhiều hoạt động ý nghĩa trong chuỗi các hoạt động lễ hội như: Xây dựng không gian trưng bày, giới thiệu và thuyết minh về thân thế, sự nghiệp, những đóng góp của Đại danh y Lê Hữu Trác; xây dựng thực đơn các món ăn bài thuốc của Đại danh y để du khách thập phương có dịp thưởng thức, gian hàng trưng bày các đặc sản địa phương tại lễ hội.

Thanh Minh

 

Nguồn: Dulichvn

Hà Nội – ”Điểm hẹn” văn hóa sáng tạo

Hà Nội xứng danh thành phố văn hóa, không chỉ bởi bề dày văn hóa, lịch sử được hun đúc từ ngàn năm qua, mà còn bởi thành quả sáng tạo, phát huy hệ giá trị truyền thống trong thời đại mới.


Ngoài những công trình kiến trúc độc đáo, hệ thống di sản văn hóa vật thể, phi vật thể phong phú hiếm có, Hà Nội còn có nhiều điểm đến đặc sắc để người dân và du khách tham quan, trải nghiệm văn hóa truyền thống theo cách mới mẻ. Di tích Nhà tù Hỏa Lò và Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam là hai trong số nhiều “điểm hẹn” văn hóa điển hình nhờ cách làm sáng tạo, khác biệt.

Tour “Đêm thiêng liêng” tại Di tích Nhà tù Hỏa Lò.

Khi “địa chỉ đỏ” thành không gian sáng tạo

Di tích Nhà tù Hỏa Lò trước kia được mệnh danh là “địa ngục trần gian” do thực dân Pháp xây dựng để giam giữ, tra tấn các chiến sĩ cách mạng. Giờ đây, di tích này là “địa chỉ đỏ” giáo dục tình yêu nước và thu hút khách tham quan. Trong giai đoạn giãn cách do dịch Covid-19, theo tinh thần đổi mới, sáng tạo để phục hồi du lịch, Ban Quản lý di tích Nhà tù Hỏa Lò phối hợp với Công ty lữ hành Hanoitourist (Tổng Công ty Du lịch Hà Nội) xây dựng mô hình thí điểm tour đêm đầu tiên tại Hà Nội. Tháng 6-2020, tour “Đêm thiêng liêng” chính thức ra mắt và lập tức gây bất ngờ.

Trong khoảng 90 phút, du khách tham gia tour “Đêm thiêng liêng” trải nghiệm nhiều cung bậc cảm xúc trước những gì diễn ra. Khác với tour thông thường, “Đêm thiêng liêng” mở ra không gian sáng tạo mới lạ, dẫn dắt khách dõi theo những câu chuyện có chủ đề. Trong phiên bản đầu tiên, công chúng theo dõi hoạt cảnh về tinh thần quả cảm của chiến sĩ cách mạng do các diễn viên thể hiện, trải nghiệm cảm giác “vượt ngục”, thưởng thức sản phẩm ẩm thực từ cây bàng – “đặc sản” tại Nhà tù Hỏa Lò…

Sau hơn 4 năm triển khai, Ban Quản lý di tích Nhà tù Hỏa Lò giới thiệu thêm 2 phiên bản cho tour đêm này: “Sống như những đóa hoa” và “Lửa thanh xuân”. Mỗi phiên bản đưa người xem trải nghiệm những câu chuyện khác nhau, như chuyện về bà Nhiêu Sáu dũng cảm tham gia đầu độc binh lính Pháp vào năm 1908; chuyện về bà Nguyễn Thị Quang Thái – người vợ đầu của đồng chí Võ Nguyên Giáp, cũng là em gái ruột của đồng chí Nguyễn Thị Minh Khai. Đó còn là câu chuyện về đồng chí Đặng Xuân Khu, tức Trường Chinh (sau này là Tổng Bí thư của Đảng) kiên cường đấu tranh khi bị giam trong ngục tối…

Chọn cách kể chuyện lịch sử với sự hỗ trợ của nghệ thuật, từ biểu diễn đến sắp đặt, trưng bày…, những người thực hiện đã tạo ra một không gian văn hóa sáng tạo có sức hút mạnh mẽ với khách gần xa. Cuốn sổ ghi lưu bút của du khách chất chứa cảm xúc của giới trẻ. Trần Nguyễn Thùy Linh, một sinh viên đến từ thành phố Hồ Chí Minh chia sẻ: “Tôi rất xúc động khi trải nghiệm không gian sáng tạo với câu chuyện thấm đẫm tình người. Chương trình giúp tôi thêm yêu lịch sử và trân trọng giá trị của hòa bình mà mình được thụ hưởng hôm nay”.

Nói về “Đêm thiêng liêng”, Trưởng ban Quản lý di tích Nhà tù Hỏa Lò Nguyễn Thị Bích Thủy cho biết, mọi sự sáng tạo, làm mới đều phải dựa trên giá trị cốt lõi, đó là những câu chuyện lịch sử diễn ra tại Hỏa Lò.

Sau nỗ lực đổi mới, sáng tạo, sức hút của di tích Nhà tù Hỏa Lò ngày một tăng. Tới cuối năm 2024, vé tham gia tour đêm với cả 2 phiên bản đã được bán tới tháng 3-2025. Từ mô hình thí điểm tour đêm đầu tiên của Hà Nội, Nhà tù Hỏa Lò trở thành điểm sáng về “kinh tế đêm”, cung cấp bài học phát triển công nghiệp văn hóa cho nhiều địa phương trong cả nước.

Hoạt động trải nghiệm tại Bảo tàng Dân tộc học.

Nơi lưu giữ hồn dân tộc

Trên địa bàn Hà Nội có sự hiện diện của khoảng 20 bảo tàng, trong đó Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam (số 1 Nguyễn Văn Huyên, quận Cầu Giấy) – nơi lưu giữ vốn văn hóa đa dạng của 54 dân tộc anh em tại Việt Nam – là điểm đến “xem mãi không biết chán” đối với rất nhiều người. Được thành lập vào năm 1997, sức hấp dẫn của bảo tàng không chỉ ở kiến trúc thuần Việt, bộ sưu tập hơn 15.000 hiện vật… mà còn ở tinh thần đổi mới sáng tạo không ngừng nghỉ, tạo nhiều không gian văn hóa sáng tạo hấp dẫn, mang đến sự trải nghiệm khác biệt.

Không gian ấn tượng nhất có lẽ là “Vườn kiến trúc”, gồm hơn 10 không gian nhỏ với mô hình nhà ở, công trình kiến trúc đặc trưng của nhiều dân tộc: Nhà sàn của người Thái, nhà dài của người Ê Đê, nhà rông của người Ba Na… Tất cả là hiện thân cho sự đa dạng văn hóa của 54 dân tộc anh em trên đất nước Việt Nam.

Andrey Rublev, du khách người Anh đến tham quan bảo tàng chia sẻ: “Khi đến Hà Nội, tôi được bạn bè khuyên đến bảo tàng này để tìm hiểu văn hóa truyền thống các dân tộc sinh sống trên đất nước các bạn. Tôi thật sự ấn tượng với kiến trúc nhà ở truyền thống, trang phục, phong tục, tín ngưỡng của họ”.

Còn chị Hoàng Thu Hiền (quận Nam Từ Liêm), đã sinh sống tại Hà Nội nhiều năm, cho biết chị đã ba lần đưa các con đến đây vui chơi cuối tuần. “Bảo tàng có nhiều hoạt động trải nghiệm hấp dẫn, các trò chơi dân gian giúp trẻ em tiếp thu kiến thức về văn hóa truyền thống theo cách mới mẻ, dễ hiểu” – chị Hoàng Thu Hiền cho biết.

Hiện nay, Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam thường xuyên tổ chức triển lãm chuyên đề, hội thảo khoa học và các buổi trình diễn nghệ thuật dân gian. Những hoạt động này không chỉ giúp du khách tìm hiểu về văn hóa các dân tộc, mà còn tạo điều kiện để nghệ nhân, nhà nghiên cứu giao lưu, trao đổi kinh nghiệm.

Theo Phó Giám đốc phụ trách Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam Bùi Ngọc Quang, Bảo tàng định kỳ tổ chức nhiều chương trình giới thiệu, tôn vinh di sản văn hóa, đặc biệt là vào dịp Tết, Quốc tế Thiếu nhi, Trung thu… Ngoài ra, bảo tàng còn có các chương trình giáo dục dành cho học sinh, sinh viên như các tour tham quan, các chương trình tập huấn, trưng bày lưu động giúp giới trẻ thêm hiểu thêm yêu di sản và truyền thống văn hóa dân tộc.

Có thể thấy, di tích Nhà tù Hỏa Lò, Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam là hai điển hình trong số nhiều không gian sáng tạo tại Hà Nội. Bài học thành công từ những mô hình này là lấy lịch sử, văn hóa truyền thống làm điểm tựa cho sự sáng tạo, đổi mới, từ đó tạo sức hấp dẫn riêng, không thể trộn lẫn.

Bài và ảnh: Hoàng Bình Phương

Nguồn: Dulichvn

Phở là kết nối

Phở là món ăn của sự kết hợp, kết nối tài tình: Kết hợp giữa các màu sắc, mùi vị, chất liệu, kết nối giữa các mùa, các không gian khác nhau, và cả kết nối giữa ký ức, hiện tại, tương lai.


Có lần, trong một buổi hướng dẫn nấu ăn mà tôi tham dự, thầy dạy nấu ăn – bếp trưởng bếp Việt tại một khách sạn 5 sao ở Hà Nội, hỏi các học viên xem điều đặc biệt nhất của món phở là gì. Chúng tôi, người thì bảo thịt phải tươi mới, người thì bảo nước dùng phở phải ninh từ xương bò hàng tiếng đồng hồ, người thì nhắc tới quế hồi thảo quả… Nhưng cuối cùng, thầy lắc đầu nói, các em mới để ý đến cái chi tiết. Điều đặc biệt nhất của phở, đấy là các nguyên liệu được sử dụng ở trạng thái gần như nguyên thủy, bằng phương pháp chế biến cũng đơn giản nhất là chần, luộc, có nước dùng thì hầm xương hơi lâu, rồi đem phối hợp với nhau để tạo ra một món ăn rất hài hòa với hương vị cực kỳ khác biệt, hấp dẫn, ngon lành.

Ừ nhỉ, tất cả mới ồ lên thích thú. Phở quá thật là một sự kết hợp khéo léo, hòa quyện. Ăn một bát phở là có đầy đủ các thành phần từ tinh bột, thịt, rau, có nước có cái, có cứng có mềm. Có sản vật sản vật từ biển nếu thêm vài con sá sùng hay sản vật từ rừng nếu thêm chút quế hồi hầm xương làm nước dùng. Có màu trắng của gạo, màu đỏ của thịt bò thái mỏng ướp nước mắm gừng dần qua sống dao hay màu vàng ươm của thịt gà, màu xanh của hành mùi, có thể vị cay của ớt, vị chua của dấm của chanh…

Phở quá quen thuộc nên chẳng mấy nghĩ ngợi nhiều ngoài việc thưởng thức. Nhưng ngẫm thêm một chút sự nguyên bản và kết hợp khéo léo đó khiến món phở hóa ra lại cực kỳ thuần khiết. Hóa ra gần như ai cũng thích món phở là bởi sự chân thật đó. Cũng giống như trong cuộc đời, chế biến nêm nếm đủ kiểu, phông bạt đủ kiểu rồi cũng chán để cuối cùng chỉ còn lại những gì chân thật mới khiến người ta ấn tượng.

Phở ở đâu cũng có, nhưng nhắc tới phở là nhắc tới món ăn tiêu biểu của Hà Nội. Như nhà văn Thạch Lam từng viết, “Phở là một thứ quà đặc biệt của Hà Nội, không chỉ riêng Hà Nội mới có, nhưng chính là vì chỉ ở Hà Nội mới ngon”…

Thật ra, lên các vùng Tây Bắc, trong cái lạnh buổi sáng sớm của hơi núi còn mờ sương, bưng bát phở khói nghi ngút ở chợ phiên buổi sáng, bánh phở tráng dày, thái to bản, thịt bò thái cũng dày, nước dùng ngọt toàn từ xương hầm mà không một chút mì chính, cũng rất là thú.

Nhưng phở Hà Nội được người ta biết đến là bánh phở dài thái mảnh, những lát thịt bò to bản mỏng dính, thịt tái chần sơ hồng hồng giòn mà không dai, lại đủ lựa chọn tái, chín, gầu, nạm, nước dùng phải trong, và đó mặc nhiên trở thành một chuẩn mực về phở.

Thạch Lam đã định nghĩa về phở ngon của Hà Nội từ đầu thế kỷ trước, và người ta đã khắc sâu trong tâm khảm khái niệm phở ngon đó rồi: “Phở ngon phải là phở cổ điển, nấu bằng thịt bò, nước dùng trong và ngọt, bánh dẻo mà không nát, thịt mỡ gầu giòn chứ không dai, chanh ớt với hành tây đủ cả, rau thơm tươi, hồ tiêu Bắc, giọt chanh cốm gắt, lại điểm thêm một ít cà cuống, thoảng nhẹ như một nghi ngờ… Hàng chục năm nay chả còn ai biết đến cái hương cà cuống thoảng nhẹ đó, nhưng món phở Hà Nội vẫn trọn vẹn.

Mỗi người, mỗi nhà có bí quyết riêng nấu phở. Chọn nguyên liệu thế nào, thành phần gì, ninh bao lâu thì ra nồi nước dùng ngon. Thịt phải mua sáng sớm, thái phải mỏng, ngang thớ, về ướp với những gì. Rồi nào gừng nướng hành nướng, quế hồi thảo quả rang thơm, rễ mùi hạt mùi ninh cùng nước, hành mùi rau ớt thật tươi…

Hàng phở nào ngon thì thơm lừng cả một dãy phố. Có những hàng phở có tuổi hàng chục năm, qua hai ba thế hệ vẫn được khách hàng ưa thích, như Phở Bát Đàn, phở Lý Quốc Sư, phở Khôi, phở Thìn, phở Hàng Đồng, phở gà Châm… Ở Hà Nội cũng có nhiều quán phở gia truyền Nam Định, nơi được coi là quê hương của phở.

Cuộc sống bây giờ ai cũng bận rộn, giới trẻ khó mà theo kịp các bí kíp nấu ăn của thế hệ bà mình, mẹ mình, đôi khi muốn tự nấu phở ở nhà, cốt là nguyên liệu tươi ngon, nêm nếm vừa độ, thì không quá cầu kỳ tinh tế vẫn có một nồi phở ngon để phục vụ gia đình, lấy đó làm niềm vui cuối tuần.

Sự thuần khiết của phở khiến người ta có thể ăn phở dù sáng, dù trưa, dù tối mà vẫn nhẹ bụng. Hay là ăn về mùa nào cũng hợp, mùa đông có bát phở nóng sực nức lên đã đành, mà mùa hè ăn xong bát phở thì vã mồ hôi mà vẫn dễ chịu.

Và hơn thế, phở còn là sự kết nối các vùng miền, trong nước ngoài nước. Từ Hà Nội, Nam Định, phở có mặt ở nhiều nơi trong cả nước, mỗi nơi một hương vị riêng. Phở Nam có thêm rau thơm, giá đỗ. Phở Gia Lai làm từ bánh phở khô, giống phở nam vì có bò viên. Phở cũng có mặt ở nhiều nước và trong menu giờ đây từ Phở vẫn được giữ nguyên mà không cần dịch ra tiếng sở tại. Xưa tôi có ông thầy người Đức mê đồ ăn Việt Nam, trong mấy tháng tôi học ở Đức, vài lần ông đã rủ cả lớp đi ăn đồ ăn Việt, có lần đi ăn phở, lớp gồm các bạn đồng nghiệp từ các nước đang phát triển, ai cũng thích phở.

Các gia đình giờ cho con đi du học, trước khi đi bố mẹ thường dạy con nấu phở. Hoặc không thì sang đó bọn trẻ cũng tự mày mò lên mạng học cách nấu. Được cái ở Mỹ, Châu Âu hay Úc, thịt bò nhiều, lại ngon mềm, lại không đắt, bọn trẻ đôi khi tự nấu cũng đỡ nhớ vị phở ở nhà. Hoặc những khi bạn bè tụ tập liên hoan, mỗi người tự làm món tiêu biểu của nước mình, hay trong những dịp như Quốc khánh Việt Nam, tuần văn hóa Việt Nam, món phở thường được đem ra giới thiệu như một món ăn tiêu biểu, nhắc tới Việt Nam là nhắc tới phở, tới nem, quá đủ để chinh phục bạn bè năm châu.

Một đồng nghiệp của tôi đang công tác ở Nam Phi, hồi đầu tháng 12 vừa rồi, chị kể các cơ quan Việt Nam ở Pretoria đã tổ chức ngày của phở. 400 bát phở được phục vụ miễn phí, anh chị em ta nón lá, áo cờ đỏ sao vàng tay thoăn thoắt chần bánh, chan phở, xinh đẹp tươi tắn, khiên cả ngoại giao đoàn ở Pretoria phải nể và ấn tượng.

Phở như thế đã trở thành một sự kết nối giữa quá khứ, hiện tại, tương lai. Ngày xưa thiếu thốn, đói kém, trẻ con mong ốm để được ăn phở. Bố mẹ tôi kể, ngày mẹ mang tôi trong bụng, thèm phở, hai anh chị chở nhau ra cửa hàng ăn uống, mà anh đứng ngoài trông xe để chị vào ăn, vì không đủ tiền ăn cả hai bát hai người. Hóa ra câu chuyện ấy cũng không ít gia đình từng gặp.

Phở bây giờ đã được phong di sản. Một di sản không nằm trong tủ kính, mà vẫn đồng hành một cách sống động hàng ngày để được tiếp tục giữ gìn và sáng tạo, để tiếp tục là sự kết nối giữa mọi người. Phở cùng người Việt đi khắp năm châu, mỗi người Việt khi nấu phở cho bạn bè nước ngoài thưởng thức đã trở thành một đại sứ ẩm thực để giới thiệu về văn hóa, về đất nước con người Việt Nam.

Mỹ Hằng

Nguồn: Dulichvn

Kiến trúc Đà Lạt (Lâm Đồng) – nét độc đáo thu hút du khách

Những năm gần đây, du lịch hoài cổ, độc, lạ… đang trở thành một xu hướng mới, nhất là với nhiều bạn trẻ. Với sự kết hợp hoàn hảo giữa thiên nhiên và những giá trị kiến trúc độc đáo, cổ kính, Đà Lạt (Lâm Đồng) đang có tiềm năng rất lớn để phát triển loại hình du lịch này.


Đà Lạt – thành phố sở hữu nhiều công trình kiến trúc đặc sắc mang đậm giá trị về lịch sử – văn hóa

Đây là một hướng đi mới mẻ và đầy hứa hẹn, giúp không chỉ bảo tồn các công trình kiến trúc quý giá mà còn tạo ra những giá trị kinh tế bền vững cho ngành du lịch của địa phương.

Thành phố với những giá trị kiến trúc độc đáo

Đà Lạt được biết đến là vùng đất có sự giao thoa giữa nhiều yếu tố văn hóa và lịch sử, đặc biệt là ảnh hưởng mạnh mẽ của người Pháp trong thời kỳ thuộc địa. Điều này thể hiện rõ trong nhiều công trình kiến trúc nổi bật, mang phong cách Âu – Á pha trộn, phản ánh những đặc trưng của các nền văn hóa khác nhau.

Hơn một thế kỷ qua, dưới sự ảnh hưởng của thời kỳ Pháp thuộc, Đà Lạt đã phát triển những công trình kiến trúc đặc biệt, không chỉ có giá trị thẩm mỹ mà còn chứa đựng những câu chuyện lịch sử phong phú.

Từ những biệt thự cổ kính mang phong cách Pháp đến các công trình công cộng, tôn giáo, những ngôi nhà kỳ quái hay những công trình mang tính biểu tượng của thành phố, tất cả đều tạo nên một bức tranh phong phú về một Đà Lạt thơ mộng, vừa cổ kính vừa hiện đại.

Với sự kết hợp hoàn hảo giữa thiên nhiên và những giá trị kiến trúc độc đáo, cổ kính, Đà Lạt đang có sức hút lớn đối với du khách

Nhà thờ Con Gà, một trong những công trình kiến trúc tiêu biểu của Đà Lạt, là sự kết hợp của kiến trúc Gothic phương Tây với các yếu tố trang trí tinh tế.

Được xây dựng vào năm 1931, Nhà thờ này là biểu tượng tôn giáo và cũng là một trong những điểm đến nổi tiếng của thành phố, thu hút hàng nghìn du khách đến tham quan mỗi năm.

Hay như Trường Cao đẳng Sư phạm Đà Lạt, công trình kiến trúc đã được Hội Kiến trúc sư thế giới bình chọn 1 trong 1.000 kiến trúc nổi bật của thế kỷ 20.

Kiến trúc của ngôi trường nổi bật với hình vòng cung, tường gạch trần đỏ và mái ngói cao vút đặc trưng cho phong cách kiến trúc thuộc địa Pháp, được kết hợp với không gian vườn tược, rừng thông xung quanh, tạo cảm giác cổ điển và trang nhã.

Trong khi đó, biệt thự Hằng Nga (Crazy House), với lối kiến trúc kỳ dị, phá cách, không theo quy tắc thông thường đã tạo nên một không gian thú vị và khác biệt như một ngôi nhà trong các câu truyện cổ tích.

Đà Lạt với những công trình kiến trúc đặc biệt, không chỉ có giá trị thẩm mỹ mà còn chứa đựng những câu chuyện lịch sử phong phú

Ngoài ra, các công trình kiến trúc như Dinh Bảo Đại, Ga Đà Lạt, hay vô số công trình kiến trúc khác cũng đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng hình ảnh của Đà Lạt như một thành phố mang đậm dấu ấn kiến trúc.

Tiềm năng phát triển du lịch kiến trúc

Hiện nay, du lịch kiến trúc, hoài cổ đang trở thành xu hướng phát triển mạnh mẽ trên toàn cầu, khi ngày càng có nhiều du khách tìm kiếm những trải nghiệm khác biệt, độc đáo, cổ kính; đó không chỉ đơn thuần là nghỉ dưỡng mà còn là cơ hội để học hỏi và khám phá những giá trị văn hóa, lịch sử độc đáo qua các công trình kiến trúc.

Với sự đa dạng về kiến trúc và bề dày lịch sử, Đà Lạt có tiềm năng phát triển mạnh mẽ loại hình du lịch kiến trúc.

Ngoài ra, với khí hậu mát mẻ quanh năm và môi trường tự nhiên trong lành, Đà Lạt là một nơi lý tưởng để tổ chức các hội thảo, triển lãm, festival kiến trúc, thu hút sự quan tâm của các chuyên gia trong ngành, cũng như du khách yêu thích nghệ thuật và lịch sử.

Trên thực tế, thời gian qua, nhiều công trình kiến trúc đặc sắc tại địa phương Ga Đà Lạt, Dinh 1, Dinh Bảo Đại, biệt thự Hằng Nga… cũng đã được đưa vào phục vụ khách tham quan. Những địa điểm này đã và đang thu hút một lượng du khách đáng kể ghé thăm hàng năm.

Tuy nhiên, để khai thác tối đa tiềm năng này, thành phố cần phát triển những chiến lược phù hợp, nâng cao giá trị và bảo tồn các công trình kiến trúc một cách bền vững.

Tại nhiều chương trình Hội thảo, Hội nghị liên quan, các chuyên gia hàng đầu trong ngành cả trong và ngoài nước đã có những gợi ý cho địa phương nhiều giải pháp thiết thực.

Theo đó, địa phương cần có những chiến lược bài bản, đồng bộ từ phía các cơ quan quản lý và các doanh nghiệp du lịch trong công tác bảo tồn và phục hồi các công trình kiến trúc có giá trị lịch sử, văn hóa. Chính việc bảo tồn không chỉ giúp giữ gìn giá trị lịch sử mà còn là yếu tố quan trọng giúp thu hút du khách.

Bên cạnh đó, cũng cần thiết tổ chức các tour du lịch kiến trúc chuyên biệt. Từ đó giúp du khách có cái nhìn tổng thể về sự phát triển của thành phố qua các thời kỳ. Các tour có thể bao gồm việc tham quan các công trình nổi bật, tìm hiểu về lịch sử, phong cách kiến trúc…

Du lịch kiến trúc là một thế mạnh của Đà Lạt

Vấn đề tăng cường quảng bá và xây dựng thương hiệu du lịch kiến trúc cũng cần được quan tâm để thu hút du khách trong và ngoài nước. Đà Lạt cần xây dựng một chiến lược quảng bá rõ ràng về du lịch kiến trúc.

Việc xây dựng thương hiệu du lịch kiến trúc có thể thông qua các nền tảng truyền thông, các sự kiện quốc tế về kiến trúc, hay hợp tác với các công ty du lịch để phát triển các tour chuyên biệt về kiến trúc.

Phát triển cơ sở hạ tầng và dịch vụ du lịch: Cùng với việc phát triển du lịch kiến trúc, cơ sở hạ tầng và các dịch vụ du lịch tại Đà Lạt cần được cải thiện và mở rộng.

Các khách sạn, nhà hàng, phương tiện giao thông và dịch vụ hướng dẫn viên cần được nâng cao để đáp ứng nhu cầu của du khách khi đến tham quan các công trình kiến trúc.

Thành Khiêm

Nguồn: Dulichvn

Đến Đồng Mô, xem Lễ cúng giọt nước

Lễ cúng giọt nước (hay còn gọi là Tế giọt nước) của đồng bào Tây Nguyên sẽ được tái hiện tại Làng Văn hóa – Du lịch các dân tộc Việt Nam (Đồng Mô, Sơn Tây, Hà Nội) vào ngày 09/02/2025 (tức ngày 12 tháng Giêng năm Ất Tỵ).


Việc tái hiện tín ngưỡng độc đáo này không chỉ nhằm bảo tồn, phát huy giá trị dân tộc mà còn mang đến hoạt động trải nghiệm độc đáo, thu hút du khách đến với Thủ đô.

Lễ cúng giọt nước nằm trong khuôn khổ chuỗi hoạt động mang chủ đề “Sắc Xuân trên mọi miền Tổ quốc) diễn ra xuyên suốt tháng 2/2025 tại Làng Văn hóa – Du lịch các dân tộc Việt Nam. Theo Ban Quản lý Làng Văn hóa – Du lịch các dân tộc Việt Nam, cùng với nhiều hoạt động giới thiệu phong tục, tập quán, tín ngưỡng của đồng bào các dân tộc trên mọi miền Tổ quốc, Lễ cúng giọt nước của nhóm đồng bào các dân tộc Tây Nguyên không chỉ đơn thuần là hoạt động tín ngưỡng mà còn nâng cao ý thức của đồng bào dân tộc trong việc bảo vệ, giữ gìn nguồn nước, buôn làng.

Lễ cúng giọt nước là một trong những nghi lễ quan trọng nhất của đồng bào các dân tộc ở Tây Nguyên, vì họ quan niệm giọt nước là mạch nguồn của sự sống. Giọt nước không đơn thuần là nơi tập trung lấy nước phục vụ sinh hoạt mà bà con còn thể hiện ý thức của cộng đồng trong việc bảo vệ môi trường xanh – sạch – đẹp. Mục đích của Lễ cúng giọt nước là cầu mong Thần nước phù hộ cho dân làng mạnh khỏe, mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu, vạn vật trong buôn làng đều tươi tốt, không có bệnh dịch xảy ra.

Theo truyền thống, trước khi tổ chức Lễ cúng giọt nước, già làng họp dân huy động đóng góp, giao nhiệm vụ cho từng gia đình để chuẩn bị cho buổi lễ. Phụ nữ đảm nhận việc làm sạch sẽ đường làng, ngõ xóm, dọn dẹp khu vực đường xuống giọt nước. Thanh niên vào rừng chặt tre, nứa đan thành các vòm hoa văn, dựng một cây nêu tại khu vực làm lễ cúng. Người già chuẩn bị trang phục truyền thống, các bài văn tế trong lễ tế thần nước.

Khi Lễ cúng giọt nước bắt đầu, già làng cùng những người uy tín làm các nghi thức riêng, đọc lời cúng gọi Yàng (Thần) xuống phù hộ cho dân làng mạnh khỏe, mưa thuận, gió hòa, mùa màng bội thu, vạn vật tươi tốt, không có bệnh dịch xảy ra, mọi sự bình an. Lời khấn kết thúc, mọi người sẽ lần lượt xuống khu vực chứa nước để hứng nước vào các bầu, chai, rửa mặt, rửa tay và tạt nước vào nhau với ý nghĩa mang lại may mắn. Sau đó, cả làng sẽ cùng nhau nhảy múa, ăn mừng trong tiếng cồng chiêng rộn ràng.

Quyền Trưởng ban Ban Quản lý Làng Văn hóa – Du lịch các dân tộc Việt Nam Trịnh Ngọc Chung cho biết, bên cạnh việc tái hiện Lễ cúng giọt nước đặc sắc, nhiều hoạt động giới thiệu văn hóa truyền thống của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên sẽ được tái hiện tại làng như: Múa xoang, cồng chiêng, làm nhạc cụ dân tộc bằng tre, các nghề thủ công truyền thống dệt vải, ẩm thực độc đáo… Ngày hội “Sắc Xuân trên mọi miền Tổ quốc” là sự kiện diễn ra thường niên vào dịp đầu xuân năm mới tại Làng Văn hóa – Du lịch các dân tộc Việt Nam, tái hiện không khí đón xuân tươi vui của cộng đồng các dân tộc đang sinh sống trên mọi miền đất nước. Ngày hội tạo nên không gian văn hóa đa sắc màu, trở thành điểm đến cuốn hút du khách vào dịp đầu xuân. Năm nay, ngày hội “Sắc Xuân trên mọi miền Tổ quốc” sẽ diễn ra rất nhiều hoạt động văn hóa độc đáo về các phong tục chúc Tết truyền thống của các dân tộc. Hơn 100 đồng bào của 16 dân tộc: Nùng, Tày, Dao, Mông, Mường, Lào, Thái, Khơ Mú, Tà Ôi, Ba Na, Xơ Đăng, Gia Rai, Cơ Tu, Raglai, Ê Đê, Khmer với sự tham gia của 11 địa phương (Thái Nguyên, Hà Nội, Hà Giang, Sơn La, Hòa Bình, Thừa Thiên Huế, Ninh Thuận, Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lắk, Sóc Trăng) sẽ tham gia chương trình.

Chương trình “Sắc Xuân trên mọi miền Tổ quốc” diễn ra xuyên suốt tháng 02/2025 sẽ giới thiệu, tổ chức các hoạt động lễ hội, văn hóa đặc sắc vào dịp năm mới của các dân tộc. Du khách đến với Làng Văn hóa – Du lịch các dân tộc Việt Nam dịp này sẽ có cơ hội tìm hiểu phong tục tập quán đặc sắc và văn hóa ẩm thực rất riêng của đồng bào các dân tộc như: Thịt gà nấu măng, cá ốt đồ, rau đồ, cá nướng, các món ăn từ thịt lợn, xôi màu của dân tộc Mường; khau nhục, cá om măng chua, lạp sườn, thịt gác bếp, măng nhồi của dân tộc Tày; cá nướng, gà nướng, xôi màu của dân tộc Thái…

Hoàng Lân

 

Nguồn: Dulichvn

Vẻ đẹp trường tồn của những ngôi làng cổ ở Cao Bằng

Khi nắng xuân dịu dàng trải dài trên những dãy núi trùng điệp, hoa đào, hoa mận đua nhau khoe sắc, miền biên viễn Cao Bằng hiện lên với vẻ đẹp thanh bình và cuốn hút đến nao lòng.


Giữa bức tranh thiên nhiên hữu tình ấy, những ngôi làng cổ hấp dẫn du khách ghé thăm bởi vẻ đẹp nguyên sơ, cổ kính in đậm dấu ấn văn hóa lịch sử. Cùng với phong tục, tập quán, tín ngưỡng lâu đời của người dân nơi đây, góp phần tạo nên chỉnh thể vẻ đẹp văn hóa mang đậm bản sắc văn hóa vùng cao.

Làng đá Khuổi Ky – kiệt tác từ bàn tay người Tày

Nằm nép mình dưới chân núi, làng đá Khuổi Ky, xã Đàm Thủy (Trùng Khánh) chỉ cách động Ngườm Ngao chừng 1 km. Từ năm 2008, làng Khuổi Ky được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch công nhận là “Làng văn hóa truyền thống tiêu biểu của dân tộc ít người”. Được mệnh danh là “ngôi làng đá độc nhất vô nhị” của người Tày, Khuổi Ky nổi bật với 14 ngôi nhà sàn xây hoàn toàn bằng đá có tuổi đời hơn 400 năm, trải rộng khoảng 1 ha, không chỉ là nơi sinh sống của đồng bào dân tộc Tày mà còn là bức tranh hài hòa giữa nét văn hóa, lịch sử, thiên nhiên vô cùng độc đáo, thu hút bước chân du khách gần xa.

Người Tày có tín ngưỡng thờ đá, xem đá là biểu tượng của sự vững chãi và trường tồn. Từ các công trình nhà, đập nước đến dụng cụ sinh hoạt như cối xay, đá đều hiện diện, minh chứng cho sự gắn bó bền bỉ giữa con người và thiên nhiên. Đây cũng là nguồn gốc của những ngôi nhà đá vững chắc được xây dựng từ thời nhà Mạc (1594 – 1677), khi nhà Mạc lên Cao Bằng xây dựng thành quách phòng thủ.

Làng đá Khuổi Ky, xã Đàm Thủy (Trùng Khánh). Ảnh Thế Vĩnh

Những ngôi nhà tại đây có tường đá dày từ 40 – 50 cm, được xếp chồng khéo léo mà không cần xi măng, vừa bền vững, vừa chống chịu tốt với khí hậu khắc nghiệt của vùng cao. Mỗi ngôi nhà là một kiệt tác kiến trúc độc đáo, nơi kết tinh bàn tay tài hoa và sự sáng tạo của người Tày. Đá không chỉ làm tường mà còn tạo thành cổng, hàng rào, bậc thềm, gắn bó mật thiết với đời sống của người Tày. Trải qua hơn 4 thế kỷ, kiến trúc này vẫn giữ được nét nguyên sơ, ẩn chứa biết bao tri thức bản địa. Khi ánh mặt trời chiếu rọi, làng đá như khoác lên mình một màu huyền thoại, hòa quyện giữa sắc đá xám cổ kính và rêu phong phủ mờ theo năm tháng. Từng ngôi nhà sàn vững chãi, mái ngói âm dương xếp đều tăm tắp, phản chiếu tinh thần đoàn kết và khéo léo của người dân.

Nhờ sự chung tay của người dân và chính quyền, làng Khuổi Ky nay dần trở thành biểu tượng du lịch cộng đồng bền vững, vừa bảo tồn giá trị văn hóa vừa thúc đẩy kinh tế địa phương. Chị Nguyễn Kim Phương, chủ cơ sở Tày’s Homestay tại làng đá Khuổi Ky cho biết: Homestay của tôi giữ nguyên kiến trúc nhà sàn đá với tường đá, mái ngói âm dương, cột gỗ nghiến, cầu thang đá… nhưng được nâng cấp để du khách cảm thấy thoải mái. Ngoài ra, chúng tôi tổ chức các hoạt động văn hóa như hát Then, đàn tính, nhảy sạp, giúp du khách hiểu hơn về đời sống người Tày.

Những người dân Tày chất phác vốn chỉ quen làm nông nay tự tin tham gia các công việc du lịch, từ hướng dẫn, phục vụ đến biểu diễn nghệ thuật truyền thống. Kể từ khi tham gia làm du lịch cộng đồng đã có những đổi thay trong đời sống kinh tế của bà con. Chị Phương chia sẻ thêm: Thu nhập trung bình của lao động làm việc tại homestay khoảng 6 triệu đồng/tháng. Khi đông khách, chúng tôi gọi thêm chị em trong làng hỗ trợ, trả công 350 nghìn đồng/ngày hoặc từ 100 – 500 nghìn đồng/người/buổi biểu diễn.

Nhà trình tường – nét độc đáo của đồng bào dân tộc Dao

Trong hành trình khám phá miền Tây Non nước Cao Bằng, trải nghiệm sự hùng vĩ, nên thơ của Vườn Quốc gia Phja Oắc – Phja Đén, những đồi chè xanh mướt của trang trại Kolia, hãy cùng trải nghiệm nét xuân trên những ngôi nhà trình tường ở xóm Nà Rẻo – Tam Hợp, xã Thành Công (Nguyên Bình). Trong sắc hoa đào, hoa mận, tiếng suối róc rách hòa cùng khói bếp thơm lừng mùi bánh chưng, bánh dày khiến khung cảnh trở nên yên bình, thi vị. Được xây dựng khoảng những năm 1960, đến nay, những ngôi nhà vẫn được gìn giữ tương đối nguyên vẹn, hài hòa với cảnh quan núi rừng miền Tây.

Từ xa, dãy nhà trình tường liền kề nhau tạo nên một quần thể kiến trúc độc đáo, hiếm thấy ở những vùng, miền khác. Trong nhóm 10 hộ của xóm Nà Rẻo, có 8 ngôi nhà trình tường san sát nhau, bên cạnh 1 nhà cấp bốn và 1 nhà ván thưng. Điểm đặc biệt trong kiến trúc nhà trình tường ở Nà Rẻo là dãy nhà xây dựng liền kề từ 5 – 7 nhà cùng sinh sống. Dù diện tích lớn hay nhỏ, các ngôi nhà đều có thiết kế thống nhất 3 gian, 2 cửa – cửa chính ở giữa và cửa phụ bên hông nhà để dẫn ra chuồng trại phía sau.

Dãy nhà trình tường tại xóm Nà Rẻo – Tam Hợp, xã Thành Công (Nguyên Bình).

Bên trong ngôi nhà, gian giữa đặt bàn thờ tổ tiên, ở khu vực trung tâm là bộ bàn ghế để tiếp khách; bên trái và phải bố trí buồng ngủ của các thành viên trong gia đình, khu vực bếp, sinh hoạt chung… Sàn nhà được làm bằng đất nện dày, mái lợp ngói âm dương đã trổ rêu xanh cổ kính, tường nhà được trình bằng đất sét chắc chắn, dày dặn… Bao quanh nhà là hàng rào đá kiên cố với bậc thang lên xuống được xếp bằng đá, hai bên đầu hồi xây vòm hình vòng cung, ngoài cửa xây nhiều cột bằng gạch chắc chắn. Chị Đặng Thị Thúy, dân tộc Dao Tiền, xóm Tam Hợp chia sẻ: Gần đây, có nhiều đoàn khách du lịch đến tham quan ngôi làng, tìm hiểu bản sắc văn hóa dân tộc và nghề truyền thống. Tôi và mọi người trong xóm cùng nhau thực hiện kế hoạch phát triển du lịch cộng đồng, dẫu còn nhiều khó khăn nhưng chúng tôi sẽ vệ sinh cảnh quan môi trường xanh, sạch, đẹp để đón du khách.

Tuy chưa phát triển thành điểm du lịch cộng đồng nhưng nơi đây dần trở thành điểm checkin hấp dẫn cho những ai yêu thích sự hoài cổ và vẻ đẹp thiên nhiên, tìm về sự tĩnh lặng để cảm nhận hơi thở của văn hóa và cuộc sống vùng cao. Với điểm nhấn độc đáo về kiến trúc, khu nhà trình tường của nhóm hộ Nà Rẻo, xóm Tam Hợp có thể kết nối các điểm tham quan khác trong huyện Nguyên Bình như vườn trúc sào tại xóm Bản Phường, xã Thành Công; làng du lịch cộng đồng xóm Hoài Khao, xã Quang Thành; tham quan vọng cảnh trên đỉnh Phja Oắc cao 1.931 m… Dẫu thời gian trôi đi, những ngôi nhà trình tường ở Nà Rẻo – Tam Hợp vẫn vững chãi, lưu giữ tinh hoa văn hóa dân tộc Dao Tiền, là cầu nối giữa truyền thống và hiện đại, giữa con người và thiên nhiên.

Nét dung dị, bình yên của những ngôi làng cổ, cuộc sống chân thực của những người dân địa phương không chỉ làm say lòng du khách bởi vẻ đẹp mà còn khơi gợi niềm tự hào về di sản quê hương. Mỗi mái nhà, mỗi bức tường, mỗi viên đá như kể lại câu chuyện của riêng mình, hòa quyện với thiên nhiên và con người, trở thành điểm tựa cho sự phát triển bền vững. Đến làng cổ trong những ngày xuân, du khách không chỉ được trải nghiệm nét đẹp văn hóa mà còn cảm nhận được hơi thở yên bình, ấm áp của đất trời và con người nơi đây.

Diệu Linh

Nguồn: Dulichvn

Di sản văn hóa miền Trung: Nhìn qua “miền ẩm thực”

Mảnh đất miền Trung với những quần thể di sản văn hóa đặc thù, có tính liên kết với nhau, trải qua dòng lịch sử thăng trầm mà kết tinh biểu hiện. Cũng chính ở nơi đây, ẩm thực luôn chứa đựng nhiều giá trị di sản, với mỗi món ăn luôn có những nét văn hoá của người dân bản địa.


Một trong những thành quả phát triển và đúc kết ấy, chính là những món ăn, thức uống, tạo nên một “miền ẩm thực” đặc sắc, mà sự quan sát nào, vào mỗi giai đoạn, đều đem lại những thú vị bất ngờ.

Một nhà nghiên cứu văn hóa tại Huế từng bày tỏ, nếm những món ăn miền Trung và vận vào từng giai đoạn lịch sử, sẽ cảm nhận được những biến động tâm lý con người qua mỗi thế hệ, và đó chính là lý do khiến miền Trung có nhiều di sản văn hóa đồng hành.

Mỗi vùng đất, mỗi hương canh…

Lần đầu tiên người viết biết đến cái bánh Tổ, cũng là lần đầu tiên dự ăn Tết ở Hội An. Trong cái góc chợ rất ồn ào cuối năm, nằm ngay đầu lối vào phố cổ, có một hàng bánh như an tĩnh, không mời chào nhưng ai đi qua cũng ghé lấy vật phẩm.

Đó là những ổ bánh to xù, tròn trịa, màu mật mía nâu giòn, đặt giữa khuôn lá như thô mộc, trên mặt còn hằn cả những sợi rơm, ít hạt mè rắc thong thả. Người Quảng gọi đó là bánh Tổ, món ăn chưng trên bàn thờ ngày Tết, gần như không thể thiếu vắng mỗi xuân về.

Nghệ nhân tráng mỳ dân gian Lương Thị Thi vẫn giữ được hồn cốt của món mỳ Quảng

Cái bánh ấy, phải đợi sau 3 ngày Tết, mới được đưa xuống bếp, để các mẹ các chị dùng dao xắt miếng và bỏ lên chảo, chiên.

Hương bánh ngọt, như đẫm mật, qua lửa nóng chợt trầm đẫm xuống, thành vị đắng cháy của đường thô, cộng hưởng với vị bột nhào kỹ, thành một thức ăn vặt thú vị, dẻo quẹo trong miệng mà đánh thức cái cảm giác thèm ăn.

Lịch sử bánh Tổ, trong mắt những thế hệ Quảng Nam, chính là những mùa thiếu ăn giáp hạt, kể cả năm cạn tháng cùng, người dân nghèo vẫn nên giữ lại những phần “phòng thủ” thiếu gạo, thiếu cơm.

Cái bánh Tổ, làm bằng bột và đường, là món thực phẩm để dành cho bữa ăn muộn màng, cảm giác chiến thắng cái đói.

Nên bánh phải để được thật lâu, bằng cách thắng đường thật kỹ và ngâm bột thật tinh. Mảnh đất nghèo Quảng Nam hiển thị qua bánh Tổ tự nhiên giản đơn và thân thuộc, như con người chân chất nơi này, lúc nào cũng sẵn lòng chia sẻ mà cũng lại rất ân cần lưu trữ phòng nguy.

Bánh Tổ, mỳ Quảng, bánh đậu xanh…, những thức ăn cho ngày Tết và ngày thường của đất Quảng như vậy, được vun đắp định hình qua thời gian, cộng hưởng từ bàn tay nhẫn nại của con người xứ khó, cùng trí tuệ thơm thảo của họ mà nên hình.

Vị bánh Tổ hay sợi mỳ, đồng hành với những câu chuyện lập đất mở làng nơi đây. Nên, hiểu di sản văn hóa Quảng Nam, cũng chính là phải điểm qua những hương vị ẩm thực lâu đời truyền tụng lại.

Bánh tổ Quảng Nam gắn liền với ngày tết xứ Quảng

Từ góc cạnh này, người ta có thể hiểu, tại sao di sản văn hóa xứ Quảng có phần phong phú. Là một dinh trấn Thanh Chiêm trong làn di thực văn hóa, để sợi mỳ Quảng thành hình.

Một Hội An thương cảng, điểm tụ hội của những người xa xứ tha hương, đoàn kết bên nhau, chia sẻ từng tấm bánh vị quà, làm nên cao lầu mì xíu, làm nên bánh đập bánh bao, rồi món lớ bắp huyền thoại, những dòng bánh in thịt mỡ, chén chè bắp ngọt ngào…

Là một Mỹ Sơn lồng ghép hài hòa giữa rau tươi hành lá, không thể thiếu mùi nước mắm xứ biển rặt kỹ nghệ Chăm pa…

Mở rộng ra thêm, hương vị những thức ăn, món khoái khẩu của người miền Trung, đa dạng vẻ như chính biến động thăng trầm lịch sử. Một Kinh đô Huế hội tụ biết bao văn vật, qua từng thời kỳ triều chính mà quy gộp về những món ăn độc đáo, hấp dẫn.

Từ tô bún bò trộn lẫn cả thịt heo và chả cua, từ cục mè xững ngọt lừ với mè đen mè trắng, rồi mâm cơm muối, vịm chè đậu xanh, mẹt bánh bèo bánh lọc…

Một Quảng Ngãi không còn vị cay nồng như Huế mà chuyển qua ngọt thắt với đường mía mạch nha, the the vị ớt rim trong hũ cá bống sông Trà, như dẫn dắt kể về những đoàn người đắp bờ sông Vệ, mở lối chinh phạt vào đèo Bình Đê, hòa trộn văn hóa Sa Huỳnh với mưu lược của lũy Thầy danh tiếng…

Bình Định có bánh hỏi, cũng có bánh hồng, ghi dấu lương thực những quân đoàn đánh trận, rồi biến thành câu chuyện Quang Trung phá thành Quy Nhơn, với những đội quân “bánh tráng” lên đường và những chum rượu Bàu Đá thưởng công nức lòng binh sĩ…

“Mỗi vùng đất, mỗi hương canh” là sự thật được giãi bày qua mỗi món ăn vùng đất, nơi miền Trung gian khó này.

Cần những khắc ghi kết nối

Không ít nhà văn, nhà thơ miền Trung vẫn luôn viết, tả về những món ăn dị biệt quê hương, như mong mỏi giới thiệu về con người, cảnh vật của vùng đất luôn sống động cùng lịch sử.

Song, dường như những miêu tả phóng dật đó, vẫn thiếu một sự liên kết nhất định, để trải dài trước mắt công chúng, về một lịch sử Đàng Trong được định hình từng bước ở miền Trung.

Chính nết ăn thức uống từ những lưu dân theo chinh chiến dặm trường này, đã định vị nên những bản sắc, tập tục, phong cách con người, rồi hình thành nên những không gian quần thể, những nền tảng văn hóa cộng đồng, qua thời gian dày hơn, đậm đà hơn và thành di sản văn hóa.

Không có người dân miền Trung nào xa lạ với những hương vị quê hương. Thậm chí người ta nhận ra nhau, trong cuộc đời lưu lạc có thể tận nước Mỹ hay Châu Âu, là nhờ vào món ăn khoản đãi.

Điều phải lưu ý, là món ăn miền Trung, nói đến cùng, đa phần là thức ăn để dành, không đơn giản là loại bánh món quà.

Bún bò Huế với hương vị đặc trưng của vùng đất Cố đô

Phía trong hành lý đi xa của người miền Trung, luôn là những phần “lương khô, bánh mứt” có thể ăn dè, ăn dặm qua ngày. Điều ấy, đúc kết bởi thực tế gian nan, cuộc sống khó khăn, ly tán từ lịch sử cuộc đời.

Hương vị món ăn miền Trung như vậy, cũng có sự khác biệt, dù có khi chỉ cách nhau một con sông, nửa cánh đồng. Đất Huế nổi tiếng với món ăn cay, với những trái ớt chỉ thiên rát miệng, thì Quảng Nam lại có loại ớt xanh trái to nhưng chẳng cay chút nào.

Khi sợi mỳ Quảng càng to dày càng hấp dẫn, thì cuốn bánh hỏi Bình Định lại thanh mảnh từng sợi từng sợi mới ngon. Hũ mắm nêm Huế và thẫu mắm cái Quảng Nam có cùng vị mặn, nhưng hương quá khác xa, mà phải là kẻ sành ăn mới cảm thụ được.

Tất cả, phải chăng đi từ chất đất nguồn nước ở mỗi làng mỗi xã khác nhau mà nên?. Đi dọc miền Trung, văn hóa di sản có thể được khắc ghi rất rõ, từ một vùng cát trắng phau phau Quảng Trị, đến quần thể văn hóa cung đình Cố đô Huế.

Rồi những ngôi làng chất phác Quảng Nam, thương cảng Hội An, Mỹ Sơn thánh địa. Vào Quảng Ngãi với vùng mía và con nước sông Trà, vượt đèo Bình Đê lại thấy Tam Quan xanh màu dừa và những cửa sông quặn sóng bể.

Tất cả, vẫn luôn là câu hỏi, vì sao luôn thiếu đi những kết minh lý giải được, về ẩm thực mỗi nơi mỗi phách? Nên hiếu kỳ tìm hiểu ẩm thực miền Trung, cũng chính là sự đắm chìm vào dòng thời gian mê mải, những câu chuyện huyền kỳ về ai đó, thời vị nào và bối cảnh ra sao.

Nhà nghiên cứu văn hóa Huế cho rằng, tìm hiểu di sản văn hóa miền Trung mà thiếu đi sắc màu ẩm thực, là cả một thiếu vắng căn cơ. Nhưng để tìm rõ được vì sao rượu Hà Thanh lại khác rượu làng Chuồn và Bàu Đá Bình Định, thì dường như, câu chuyện kể ra đã khác rồi.

Càng là ngày xuân, càng đi vào tư lự với sông nước Tam Giang, dằng dặc cùng cảnh sắc Thu Bồn…, thì con người càng vỡ ra những trầm tích văn hóa còn đây đó, những di sản qua miền ẩm thực mà ngồn ngộn với thời gian!

Tạ Đình Dũng – Thuỵ Bất Nhi

Nguồn: Dulichvn

Lễ hội Hoa đào: Sản phẩm du lịch độc đáo của Vĩnh Thạnh – Bình Định

Năm nay, lần đầu tiên, Lễ hội Hoa đào 2025 với chủ đề “Sắc Xuân hoa đào – Kết nối văn hóa” sẽ diễn ra tại làng K3 (xã Vĩnh Sơn, Vĩnh Thạnh, Bình Định) trong hai ngày 8 và 9/2.


Hứa hẹn mang đến không gian đậm đà bản sắc Bana và thiên nhiên hùng vĩ, đây không chỉ là sự kiện văn hóa mừng Đảng, mừng Xuân mà còn là dịp để huyện Vĩnh Thạnh giới thiệu tiềm năng du lịch của địa phương.

Điểm chek-in bên bờ hồ A. Ảnh: Xuân Dũng

Dù chưa đến ngày hội, nhưng từ giáp Tết, đã có hơn 5.000 lượt khách đến với Vĩnh Sơn để thưởng ngoạn vẻ đẹp của hoa đào. Không khí rộn ràng của mùa xuân và sắc hồng thắm của hoa đào đã thu hút rất đông du khách. Giữa không gian rực rỡ ấy, nhiều du khách không khỏi ngỡ ngàng trước vẻ đẹp thiên nhiên và sự thân thiện của người dân địa phương.

Chị Trần Thị Lan Phương (TP Quy Nhơn) chia sẻ: “Tôi đến đây lần đầu vào năm ngoái và bị cuốn hút ngay lập tức bởi vẻ đẹp thơ mộng của rừng hoa đào. Năm nay quay lại, tôi cảm nhận được sự thay đổi rõ rệt. Rừng đào phát triển rất tốt, công tác tổ chức bài bản, chuyên nghiệp hơn, có nhiều điểm check-in đẹp mắt, đặc biệt là không khí lễ hội đã lan tỏa khắp nơi”.

Không chỉ có hoa đào khoe sắc, lễ hội còn là dịp để du khách khám phá những nét văn hóa đặc trưng của đồng bào Bana. Các gian hàng trưng bày sản vật địa phương như rượu cần, cơm lam, chè dây cùng những món ăn đặc sản như cá tầm, gà đồi nướng muối lá chanh, rau dớn… đang được người dân chuẩn bị chu đáo. Những món ăn này không chỉ hấp dẫn bởi hương vị thơm ngon mà còn mang đậm dấu ấn văn hóa của đồng bào nơi đây.

Giữa không khí nhộn nhịp, háo hức chờ đón ngày hội lớn, em Đinh Thị Thắm, người con của làng K3, vui vẻ nói: “Em chưa từng thấy quê hương mình nhộn nhịp như thế này! Khắp nơi đều tất bật chuẩn bị cho lễ hội. Em và các bạn trong làng cũng tham gia tập luyện các tiết mục múa cồng chiêng để biểu diễn trong ngày hội. Em rất tự hào vì quê hương mình có một sự kiện lớn như thế!”.

Vườn hoa đào Bắc thu hút đông khách du lịch. Ảnh: Xuân Dũng

Công tác chuẩn bị cho ngày hội hoa đào đã cơ bản hoàn tất. Những tiểu cảnh tái hiện khung cảnh mùa xuân vùng cao, các điểm check-in được bố trí hài hòa giữa sắc hồng rực rỡ của hoa đào, cùng những lán trại truyền thống mang đậm dấu ấn văn hóa Bana đã được hoàn thiện và đưa vào phục vụ du khách từ trước Tết. Bên cạnh đó, các gian hàng ẩm thực với những món ăn dân dã như rượu cần, cơm lam, gà nướng cũng được chuẩn bị chu đáo để phục vụ du khách. Từ việc trang trí không gian, bố trí các khu vực trưng bày, tổ chức các hoạt động văn hóa, văn nghệ đến đảm bảo ANTT… đều được thực hiện một cách kỹ lưỡng nhằm mang đến trải nghiệm trọn vẹn cho du khách.

Ông Lê Văn Vinh, Trưởng Phòng VHTT huyện Vĩnh Thạnh, cho biết lễ hội Hoa đào lần này là sự kiện quan trọng, không chỉ quảng bá hình ảnh của huyện Vĩnh Thạnh mà còn góp phần phát triển du lịch bền vững, đúng với định hướng của địa phương. Chúng tôi đã lên kế hoạch tổ chức các hoạt động văn hóa đặc sắc như: Trình diễn cồng chiêng, tái hiện nghi lễ truyền thống của người Bana, hội thi nhiếp ảnh với chủ đề hoa đào Vĩnh Sơn… để tạo nên điểm nhấn cho lễ hội. Hy vọng đây sẽ là sự kiện thu hút đông đảo du khách đến tham gia và trải nghiệm.

Nói về quyết tâm của huyện trong việc tổ chức Lễ hội Hoa đào 2025, ông Huỳnh Đức Bảo, Phó Chủ tịch Thường trực UBND huyện Vĩnh Thạnh, nhấn mạnh: Chúng tôi xác định đây không chỉ là sự kiện văn hóa chào xuân mà còn là một bước khởi đầu quan trọng để giới thiệu tiềm năng du lịch của địa phương. Qua đó, quảng bá hình ảnh thiên nhiên tươi đẹp, bản sắc văn hóa độc đáo của đồng bào Bana và lòng hiếu khách của người dân Vĩnh Sơn đến với đông đảo du khách. Chúng tôi tin rằng, với sự chuẩn bị chu đáo, lễ hội sẽ trở thành một điểm nhấn đặc sắc, đồng thời là tiền đề để huyện tiếp tục phát triển du lịch, hướng đến mục tiêu đưa du lịch trở thành ngành kinh tế quan trọng trong thời gian tới.

Xuân Dũng

Nguồn: Dulichvn

Quảng Ninh: Xuân này về với đền Cửa Ông…

Đã từ lâu, khu di tích lịch sử Quốc gia đặc biệt đền Cửa Ông – Cặp Tiên đã trở thành không gian văn hoá tín ngưỡng truyền thống linh thiêng mỗi dịp Tết đến xuân về không chỉ đối với người dân Vùng mỏ. Đến với đền Cửa Ông, dâng nén tâm hương tưởng nhớ Hưng Nhượng Đại Vương Trần Quốc Tảng và các nhân thần, du khách còn có cơ hội tham gia vào lễ hội đền – một trong những lễ hội truyền thống, độc đáo, được đưa vào danh mục di sản văn hóa phi vật thể cấp quốc gia.


Đông đảo nhân dân, du khách đến tham quan, chiêm bái tại đền Cửa Ông trong những ngày Tết.

Đền Cửa Ông là ngôi đền cổ, sở hữu kiến trúc đẹp, độc đáo trong hệ thống các đền ở Việt Nam. Công trình còn được ca tụng khi tọa lạc ở vị trí thiên thời địa lợi, sơn thủy hữu tình với tầm nhìn hướng ra vịnh Bái Tử Long trong xanh. Hàng năm, có hàng chục vạn lượt khách đến với đền Cửa Ông để cầu mong mưa thuận gió hòa, bình an, may mắn, hay tạm gác lại những lo toan, bộn bề trong của cuộc sống để tìm cho mình những giây phút an yên, thảnh thơi trong tâm hồn.  

Không chỉ cao điểm đón nhân dân, du khách trong những ngày Tết mà từ trước Tết và kéo dài suốt 3 tháng mùa xuân, đền Cửa Ông luôn nhộn nhịp người đến tham quan, chiêm bái. Theo thống kê từ Ban Quản lý di tích, trong 9 ngày nghỉ Tết Nguyên đán (từ 26/12 âm lịch đến mùng 5 Tết), đền Cửa Ông đã đón trên 90.000 lượt khách.

Người dân xin chữ đầu năm tại đền Cửa Ông.

Là người dân TP Cẩm Phả, năm nào gia đình chị Cao Thị Quỳnh Anh cũng cùng nhau đi lễ đền Cửa Ông vào ngày mùng 1 Tết để cầu mong năm mới đến với nhiều điều tốt đẹp. Chị Quỳnh Anh chia sẻ: Đi lễ đền Cửa Ông đã thành nền nếp, truyền thống của gia đình tôi vào dịp Tết và lễ hội đền. Cả gia đình chọn trang phục áo dài du xuân tại đền, dâng nén hương thơm kính lên các vị nhân thần, anh hùng dân tộc để bày tỏ lòng thành kính cũng như gửi gắm những ước nguyện về năm mới nhiều may mắn, sung túc, hạnh phúc, bình an.

Bà Phạm Thị Hường (du khách TP Hà Nội), cho biết: Nhiều năm liền, gia đình tôi đều chọn Quảng Ninh để đi du xuân và không thể bỏ qua các địa điểm tâm linh như Yên Tử, đền Cửa Ông. Mỗi năm đi lễ đến với đền Cửa Ông, tôi đều thấy được không khí vui tươi, cảnh quan, không gian đền luôn sạch sẽ, thoáng đãng với sắc hoa tươi tắn khắp nơi khiến tâm thế mọi người đi lễ càng cảm thấy thoải mái, an lạc để hướng về những điều tốt đẹp.

Là điểm sáng trong công tác tổ chức, quản lý lễ hội, trong những ngày Tết, công tác vệ sinh môi trường, an ninh trật tự, an toàn giao thông, phòng cháy chữa cháy tại đền luôn được tăng cường, đảm bảo. Ban Quản lý di tích thường xuyên tuyên truyền nâng cao ý thức của du khách trong việc giữ gìn di tích và cảnh quan xung quanh trên loa phát thanh; các hòm công đức trong khu di tích được đặt đúng nơi quy định; hàng quán quanh khu vực đền được sắp xếp, bố trí hợp lý, không có tình trạng lấn chiếm lòng đường, vỉa hè, không tự ý tăng giá bán… Cùng với đó, nhân dân và du khách đều thực hiện nghiêm túc các quy định về văn minh lễ hội từ trang phục gọn gàng, chuẩn mực đến các nghi lễ chiêm bái.

Lễ rước kiệu Đức Ông và các nhân thần vi hành là một nghi lễ truyền thống của Lễ hội đền Cửa Ông. Ảnh: Lễ hội đền Cửa Ông năm 2024

Không chỉ đi lễ đền dịp Tết, bắt đầu từ ngày 3/2 âm lịch, người dân địa phương và khách thập phương lại tụ hội về đây để dự Lễ hội đền Cửa Ông với tất cả lòng thành kính. Lễ hội đền Cửa Ông là một trong những lễ hội lớn trên địa bàn tỉnh được tổ chức nhằm tôn vinh, quảng bá những giá trị lịch sử, văn hóa của di tích Quốc gia đặc biệt đền Cửa Ông – Cặp Tiên và di sản văn hóa phi vật thể quốc gia Lễ hội đền Cửa Ông. Qua đó, không ngừng phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, góp phần giáo dục văn hóa, truyền thống lịch sử, khơi dậy niềm tự hào về quê hương, đất nước và gắn kết cộng đồng.

Lễ hội đền Cửa Ông được tổ chức gồm phần lễ và phần hội. Phần lễ được tổ chức trang nghiêm, trọng thể, đầy đủ theo các nghi thức truyền thống. Cùng với đó, du khách sẽ được hòa mình trong không khí vui tươi, rộn ràng của phần hội với các hoạt động mang đậm màu sắc văn hóa dân tộc, như: Thi dâng soạn lễ, hội thi tổ tôm điếm; các trò chơi dân gian như cờ người, cờ bỏi, kéo co, đẩy gậy, chọi gà, bịt mắt đập bóng… Với sự chuẩn bị chu đáo, công tác tổ chức, quản lý lễ hội bài bản, đền Cửa Ông hứa hẹn luôn là điểm đến văn minh, hấp dẫn du khách dịp đầu xuân.

 Duy Khoa

Nguồn: Dulichvn

TIN MỚI NHẤT