Du lịch trong nước

Du lịch trong nước, tin tức du lịch trong nước, các tour du lịch trong nước, các địa điểm du lịch trong nước hấp dẫn được chúng tôi tổng hợp và đưa tin hàng ngày đến cho khách du lịch trên khắp mọi miền đất nước có được thông tin du lịch trong nước để có những thông tin hữu ích nhất cho mình và gia đình khi quyết định chọn chuyến du lịch trong nước cho mình và người thân

Làng nghề vật liệu truyền thống giữa ”bão” công nghệ xanh

Là một phần không thể thiếu trong dòng chảy phát triển đô thị, các làng nghề vật liệu xây dựng (VLXD) truyền thống ở Hà Nội từng đóng vai trò quan trọng trong cung ứng gạch ngói, vôi vữa và các sản phẩm thủ công phục vụ xây dựng. Tuy nhiên, trước làn sóng công nghệ xanh và yêu cầu ngày càng cao về bảo vệ môi trường, các làng nghề này đang phải đứng trước lựa chọn đổi mới hoặc bị đào thải.


Đối mặt chuyển đổi công nghệ

Số liệu từ Sở Công Thương Hà Nội, toàn TP hiện có hơn 1.300 làng nghề, trong đó có gần 330 làng nghề truyền thống đã được công nhận. Qua đó, đưa Hà Nội trở thành địa phương dẫn đầu cả nước về số lượng và quy mô làng nghề, làng có nghề. Đặc biệt, các làng nghề truyền thống của Hà Nội không chỉ mang giá trị văn hóa, lịch sử đặc sắc, mà còn đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế nông thôn, giải quyết việc làm và nâng cao thu nhập cho người dân.

Sản phẩm gạch, ngói sứ Bát Tràng. Ảnh: Hải Long

Trong đó có hàng chục làng nghề hoạt động trong lĩnh vực sản xuất VLXD như gốm sứ, ngói, gạch thủ công, đá mỹ nghệ… như làng gốm Bát Tràng đã tồn tại hàng trăm năm, nổi tiếng với các sản phẩm gạch, ngói, và đồ gốm sứ đa dạng, mang đậm nét văn hóa truyền thống.

Ngoài ra, còn có các làng nghề khác như làng nghề mộc ở một số địa phương như xã Ô Diên, xã Vạn Nhất tập trung vào việc sản xuất các sản phẩm gỗ, như cửa, cột, kèo, và các đồ dùng khác trong xây dựng…

Tuy nhiên, năng lực cung ứng, chủ động nguồn nguyên liệu sản xuất tại chỗ cho các làng nghề còn hạn chế và phụ thuộc vào các tỉnh. Quy mô sản xuất của các làng nghề còn nhỏ, xen kẽ trong khu dân cư, năng lực tài chính hạn chế. Cơ sở hạ tầng làng nghề chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn sản xuất; thiếu nguồn nhân lực chất lượng cao, nhân lực có trình độ sử dụng công nghệ…

Tại làng Bát Tràng (xã Bát Tràng) vốn nổi danh với nghề gốm sứ, nhiều hộ đã dừng hoạt động sản xuất vì chi phí đầu tư hệ thống xử lý khí thải và thay thế lò nung truyền thống quá cao. Những hộ còn duy trì được là nhờ sớm sử dụng lò nung gốm bằng khí gas hóa lỏng, góp phần làm giảm phần lớn lượng phế phẩm so với lò than và hạn chế ô nhiễm ra môi trường chung quanh, giảm tiêu hao năng lượng.

Tuy nhiên, không phải ai cũng đủ tiềm lực để đầu tư, nhất là trong bối cảnh thị trường gốm thủ công đang bị cạnh tranh bởi hàng công nghiệp giá rẻ. Ông Trần Văn Khoa – chủ một xưởng gốm tại Bát Tràng cho biết, việc đầu tư công nghệ hiện đại cũng giúp hạ giá thành sản phẩm từ 15 – 30%; độ chính xác sản xuất đạt hơn 85%; tỷ lệ sản phẩm lỗi, hỏng đã giảm đáng kể và kiểu dáng của sản phẩm cũng đa dạng hơn. “Chuyển sang công nghệ sạch giúp giảm khói bụi và tiết kiệm nhiên liệu, nhưng chi phí đầu tư ban đầu rất lớn. Nhiều hộ trong làng phải đóng cửa vì không thể xoay xở được vốn” – ông Trần Văn Khoa cho hay.

Tại xã Vạn Nhất, nơi có truyền thống nghề mộc, cũng đang chứng kiến sự suy giảm mạnh mẽ. Trước đây, sản phẩm rất đa dạng, từ bàn ghế chạm khắc, khảm trai; những bộ đồ thờ sơn son thiếp vàng tinh xảo; những đồ gỗ nội thất trong nhà như giường, tủ, kệ ti vi, lộc bình, đồng hồ gỗ, tranh gỗ… được sản xuất công phu qua những đôi bàn tay của các nghệ nhân làng nghề, đã khắc họa được tâm hồn sản phẩm qua từng nét chế tác tỉ mỉ, công phu, được người tiêu dùng đánh giá rất cao. Nghề mộc phát triển, nhưng lại không được quy hoạch xây dựng khu cụm công nghiệp sản xuất tập trung nên các hộ dân lập xưởng sản xuất ngay trong khu dân cư đông đúc. Vì thế ở tại đây, ban ngày người ta hay bắt gặp những người phụ nữ quanh năm bịt kín mặt, cần mẫn ngồi đánh giấy ráp ven đường, hay những anh thợ luôn phủ một lớp bụi gỗ trên người.

Tuy nhiên, các hộ gia đình vẫn có nhu cầu mở rộng nhà xưởng, lắp đặt thêm thiết bị máy để mở rộng sản xuất nên diện tích nhà xưởng hiện nay vẫn chưa đủ để đáp ứng nhu cầu sản xuất và chế biến của các hộ gia đình. Nhiều hộ phải tận dụng phần diện tích nhà ở để làm xưởng sản xuất, làm trụ sở giao dịch, giới thiệu sản phẩm. Bà Nguyễn Thị Hoa – người dân xã Vạn Nhất cho biết: “Gia đình tôi có ba đời làm ngói thủ công, nhưng nay phải bỏ nghề vì không có vốn để nâng cấp công nghệ. Một số gia đình chuyển sang làm dịch vụ hoặc đi làm thuê vì không thể đáp ứng các yêu cầu về khí thải và an toàn cháy nổ”.

Nhiều làng nghề vẫn chưa có cơ chế hỗ trợ cụ thể để tái cơ cấu sản xuất. Trong bối cảnh thị trường VLXD đang ưu tiên vật liệu xanh, có chứng nhận truy xuất nguồn gốc, thân thiện môi trường, các làng nghề truyền thống nếu không kịp chuyển mình sẽ khó duy trì được vị thế vốn có.

Hướng đi nào cho làng nghề?

Trong bối cảnh hội nhập, cạnh tranh ngày càng khốc liệt và yêu cầu cao từ thị trường, nhiều làng nghề đang gặp khó khăn do sản xuất manh mún, thiếu liên kết, thiếu đổi mới sáng tạo, thiếu ứng dụng công nghệ số… Trước thực tế đó, Hà Nội đang chủ động chuyển hướng phát triển làng nghề theo mô hình liên kết – gắn sản xuất với tiêu thụ, du lịch, đào tạo và đổi mới công nghệ nhằm tạo đột phá về chất lượng, thương hiệu và sức cạnh tranh bền vững.

Đại diện Sở Công Thương Hà Nội cho biết, TP đã và đang tích cực triển khai nhiều chương trình hỗ trợ làng nghề, từ ứng dụng công nghệ, thiết kế mẫu mã đến xúc tiến thương mại, đào tạo lao động. Việc hình thành các cụm liên kết giữa làng nghề với DN, đơn vị nghiên cứu – đào tạo là một bước chuyển cần thiết để làng nghề phát triển theo hướng hiện đại, hiệu quả, bền vững. Từ đó các địa phương đã đặt ra nhiều phương án phát triển, bảo tồn làng nghề, trong đó việc phát triển du lịch làng nghề đang được nhiều nơi đẩy mạnh. Hoặc người thợ đã tự thành lập hợp tác xã, nhóm sản xuất hoặc tổ chức theo chuỗi cung ứng, chia sẻ nguồn lực như mặt bằng, máy móc, nguyên liệu đầu vào và hỗ trợ đầu ra sản phẩm.

Điển hình là làng gốm Bát Tràng và lụa Vạn Phúc, nơi hợp tác xã được thành lập, liên kết với DN du lịch và cơ sở đào tạo để tạo “vòng tròn liên kết” giữa sản xuất – thương mại – đào tạo – văn hóa. Từ chỗ chỉ bán buôn cho khách lẻ, giờ nhiều sản phẩm tại các làng nghề đã đi mọi miền Tổ quốc, thậm chí vươn mình ra thị trường thế giới. Trong định hướng phát triển đến năm 2030, Hà Nội đặt mục tiêu xây dựng làng nghề theo mô hình kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn. Điều này đòi hỏi các làng nghề phải chuyển đổi công nghệ sạch, xử lý môi trường bền vững và đặc biệt là phát triển chuỗi giá trị khép kín.

Mặt khác, vai trò của thị trường tiêu dùng và giới kiến trúc sư, chủ đầu tư cũng rất quan trọng trong việc tạo đầu ra ổn định cho sản phẩm VLXD làng nghề. Nếu các dự án xây dựng ưu tiên sử dụng vật liệu truyền thống được sản xuất theo công nghệ mới, tuân thủ tiêu chuẩn môi trường, sẽ tạo động lực lớn cho việc hồi sinh các làng nghề VLXD trong thời đại xanh. Bà Bùi Thị Kim Oanh – Giám đốc Công ty TNHH Gốm Ngoại thất Sơn Oanh cho biết, để phát triển bền vững, Hà Nội cần có chính sách dài hạn hỗ trợ tài chính, chuyển giao công nghệ cho các làng nghề, đặc biệt là hỗ trợ đổi mới mô hình sản xuất gắn với bảo tồn văn hóa truyền thống. “DN rất muốn đầu tư dây chuyền sản xuất hiện đại vào làng nghề nhưng cần mặt bằng rõ ràng và cơ chế phối hợp lâu dài với chính quyền. Nếu có chính sách thuê đất ổn định và hỗ trợ lãi suất, DN sẵn sàng đầu tư” – bà Bùi Thị Kim Oanh cho hay.

Tái cấu trúc làng nghề không đơn thuần là dừng sản xuất hay di dời cơ học, mà là một tiến trình nâng cấp công nghệ, đổi mới mô hình tổ chức, gắn với bảo tồn giá trị văn hóa. Với cách tiếp cận này, Hà Nội hoàn toàn có thể giữ lại những “làng nghề VLXD xanh” vừa góp phần vào mục tiêu phát triển bền vững, vừa lưu giữ hồn cốt Thăng Long trong từng viên gạch, viên ngói.

Thành Luân

Nguồn: Dulichvn

Quảng Ngãi: Người trẻ quảng bá văn hóa trên nền tảng số

Với mong muốn gìn giữ và lan tỏa những nét đẹp văn hóa truyền thống đến với cộng đồng, nhiều người trẻ dân tộc thiểu số (DTTS) trên địa bàn tỉnh đã sáng tạo ra những hình ảnh, video độc đáo đăng tải trên nền tảng số.


Đưa thổ cẩm vươn xa

Với sự mạnh dạn và tư duy đổi mới, năm 2022, chị Y Jưng (35 tuổi), dân tộc Ba Na) ở làng Plei Đôn, phường Kon Tum đã đưa sản phẩm thổ cẩm truyền thống của dân tộc mình lên sàn thương mại điện tử, tạo ra một kênh tiêu thụ mới đầy triển vọng.

Bên cạnh đó, để kết nối sản phẩm với người tiêu dùng, chị đã chủ động quảng bá và bán hàng qua các nền tảng mạng xã hội như: TikTok, Facebook. Nhờ đó, các sản phẩm thổ cẩm không chỉ được người tiêu dùng trong tỉnh yêu thích mà còn nhanh chóng thu hút sự quan tâm từ khách hàng ở các tỉnh, thành khác và cả nước ngoài.

Chị Y Jưng đang live stream giới thiệu sản phẩm thổ cẩm trên mạng xã hội Tik Tok.

Nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng, chị Y Jưng đã nghiên cứu và lựa chọn chất liệu vải co giãn, đồng thời, cách tân các trang phục thổ cẩm với những họa tiết, hoa văn sáng tạo, tôn vinh vẻ đẹp của người mặc. Mặc dù có sự đổi mới trong thiết kế nhưng trang phục thổ cẩm vẫn giữ nguyên giá trị văn hóa truyền thống dân tộc, kết hợp hài hòa giữa nét đẹp cổ điển và hiện đại. Đến nay chị đã sản xuất, thiết kế nhiều sản phẩm thổ cẩm đa dạng như: Áo, váy truyền thống, sơ mi nam, váy cưới, đầm dạ hội, cà vạt.

Những video về trang phục thổ cẩm được chị Y Jưng đăng tải trên mạng xã hội TikTok, Facebook thu hút hàng nghìn lượt thích và hàng trăm lượt bình luận. Nội dung các video xoay quanh về quy trình sản xuất và các công đoạn tạo ra sản phẩm thổ cẩm thủ công; giới thiệu chất liệu vải, mẫu mã sản phẩm; hay là video về những cô gái, chàng trai Ba Na diện trang phục thổ cẩm tại các khu, điểm du lịch nổi tiếng ở phường Kon Tum. Qua các video, mang đến cho khách hàng cái nhìn chân thực nhất về sự đa dạng của sản phẩm thổ cẩm.

“Từ khi bán hàng trên các nền tảng số, doanh thu đã tăng lên, với hơn 1.500 trang phục thổ cẩm được bán mỗi năm. Các đơn đặt hàng chủ yếu từ các tỉnh như Gia Lai, Đắk Lắk, Lâm Đồng. Điều này không chỉ giúp quảng bá trang phục truyền thống, bảo tồn văn hóa dân tộc mà còn tạo việc làm cho chị em phụ nữ ở làng. Nếu ai làm siêng, dệt đẹp thì bình quân mỗi tháng cũng kiếm được 4 – 5 triệu đồng”, chị Y Jưng chia sẻ.

Khát vọng quảng bá văn hóa dân tộc

Sinh ra và lớn lên ở Làng Du lịch cộng đồng Đăk Răng, xã Dục Nông, nơi giàu bản sắc văn hóa, con người thân thiện, chàng trai Bloong Muôn (34 tuổi) dân tộc Gié – Triêng đã mạnh dạn đầu tư làm du lịch từ văn hóa bản địa. Năm 2021, anh cùng với ông Brôl Vẻ – nghệ nhân ưu tú ở làng đã xây dựng những sản phẩm du lịch, các điểm check-in đầy sắc màu trẻ trung, tươi mới mà vẫn không làm mất đi vẻ đẹp truyền thống, đặc trưng của cộng đồng người Gié – Triêng.

Anh Bloong Muôn sáng tạo video giới thiệu về văn hóa dân tộc mình cho cộng đồng mạng.

Với mong muốn những điều độc, lạ, đẹp của làng được nhiều du khách biết đến, anh Muôn đã xây dựng hành trình khám phá và check-in vào tất cả các thời khắc đẹp trong ngày. Rồi tự mày mò, học hỏi, tích lũy kinh nghiệm, kỹ năng để chụp ảnh, làm video về văn hóa, con người làng Đăk Răng đưa lên mạng xã hội Facebook, TikTok. Thông qua những hoạt động quảng bá văn hóa, anh mong muốn đưa hình ảnh một ngôi làng bình yên, nhiều bản sắc và hạnh phúc đến gần hơn với du khách trong nước và thế giới.

Trang Fanpage “Muôn Vlog” của anh Muôn thành lập từ năm 2021, đến nay đã có hơn 12 nghìn người theo dõi. Hơn 4 năm qua, anh đã sáng tạo trên 300 video, hình ảnh phản ánh về các nét văn hóa truyền thống của dân tộc Gié – Triêng tại làng Đăk Răng, gồm những làn điệu dân ca, nghề truyền thống, diễn tấu nhạc cụ dân tộc hay những cuộc giao lưu văn hóa, văn nghệ của cộng đồng.

“Là một người trẻ, có điều kiện tiếp cận với công nghệ và mong muốn gìn giữ, quảng bá bản sắc văn hóa của dân tộc mình, tôi đã tìm gặp các nghệ nhân tại làng để ghi lại hình ảnh về những văn hóa đặc trưng. Sau đó chia sẻ lên mạng xã hội và ngày càng được nhiều người quan tâm, yêu thích. Đây là động lực để tôi tiếp tục sáng tạo thêm những nội dung phong phú, hấp dẫn để quảng bá rộng rãi văn hóa dân tộc”, anh Muôn cho hay.

Nhờ quảng bá trên mạng xã hội mà nhiều du khách nước ngoài tìm đến làng trải nghiệm văn hóa.

Theo anh Muôn, cách quảng bá văn hóa trên mạng xã hội rất hiệu quả, tạo sự tiếp cận tới du khách rất nhanh chóng, độ phủ sóng rộng rãi. Từ đó, lượng khách tới du lịch làng Đăk Răng thời gian gần đây đông hơn, nhất là trong dịp đầu năm khi mà nơi đây nhiều lễ hội, hoạt động văn hóa đặc sắc.

Ông Trần Cao Bảo Việt, Chủ tịch UBND xã Dục Nông cho biết, những người trẻ như anh Bloong Muôn đang là cầu nối, đưa văn hóa dân tộc đến gần với nhiều người thông qua hình ảnh, video sống động, mới lạ. Thời gian tới, xã sẽ phối hợp với các cơ quan, đơn vị liên quan để mở các lớp tập huấn về kỹ năng xây dựng, sáng tạo nội dung, quảng bá văn hóa du lịch địa phương; mời nghệ nhân dân gian tham gia truyền dạy văn hóa cho các thế hệ trẻ; đồng thời đẩy mạnh hỗ trợ thanh niên DTTS khởi nghiệp từ văn hóa bản địa.

Bài, ảnh: Nay Sắt

Nguồn: Dulichvn

Người kể chuyện giữ nghề truyền thống bằng sắc màu thổ cẩm

Ngày và đêm, vẫn có những bàn tay tài hoa âm thầm đánh thức khung cửi truyền thống của dân tộc mình, gìn giữ màu sắc của nghề dệt truyền thống người Jrai – một nghề từng tưởng như đã “ngủ quên” dưới ngọn nương, con rẫy.


Từ tâm huyết của nghệ nhân Rơ Châm Monh, địa phương đã lập ra câu lạc bộ dệt thổ cẩm với hơn 30 thành viên ở nhiều độ tuổi khác nhau. Ảnh: Tiêu Dao

Dựng lại màu thương nhớ

Ngày nào cũng vậy, trong ngôi nhà sàn truyền thống của nghệ nhân Rơ Châm Monh (làng Kép 2, xã Ia Ly, tỉnh Gia Lai) luôn rộn ràng tiếng cười nói của các bà, các chị. Đã trải qua 73 mùa rẫy, nhưng nghệ nhân Rơ Châm Monh vẫn còn dẻo tay, đều nhịp bên khung cửi dệt nên những tấm thổ cẩm độc đáo. Vừa dệt, bà vừa tận tình hướng dẫn các chị em trong làng về hoa văn, cách chọn màu, xe sợi… Thi thoảng, bà lại gật đầu, ánh mắt ánh lên sự tâm đắc với nghề.

Người làng Kép 2 chẳng ai nhớ nghề dệt thổ cẩm có từ bao giờ, nhưng từng có một thời, cả làng gần như quên lãng nghề này. Nhiều năm trước, phụ nữ chỉ quen lên nương làm rẫy, chẳng ai biết đến khung cửi, càng không biết dệt vải ra sao. Nhìn đồng bào ở vùng khác trình diễn nghề dệt, khoác lên mình những bộ trang phục thổ cẩm rực rỡ, ai nấy đều thán phục vải đẹp quá, tay người khéo quá và phụ nữ Jrai ở đây càng thêm thương nhớ nghề xưa.

Nghệ nhân Rơ Châm Monh bảo, bà yêu nghề dệt thổ cẩm như cách người Jrai yêu nhà Rông, bến nước. Bà yêu hình ảnh những người đàn ông, phụ nữ Jrai khoác lên mình trang phục truyền thống, cùng nhau đánh chiêng, múa xoang bên bếp lửa bập bùng mỗi mùa lễ hội. Vì thế, bằng mọi cách, bà cố gắng giữ nghề, kiên trì truyền dạy cho phụ nữ trong làng. Từng đường nét hoa văn, từng cách bện chỉ, xe sợi…, bà đều chỉ dạy tận tình. Và cứ thế, những tấm thổ cẩm lần lượt hoàn thành qua đôi tay của chị em, quay trở lại đời sống thường nhật của người làng.

Cả một đời gắn bó với thổ cẩm, đôi tay tài hoa của bà đã dệt nên biết bao câu chuyện về làng quê trên từng tấm vải. Những tấm thổ cẩm ấy không chỉ mang dáng hình văn hóa Jrai, mà còn kể lại những câu chuyện: Về những tháng ngày buôn làng đồng lòng đánh giặc, về mùa gặt rộn ràng trên rẫy, hay về những ngày lễ hội tưng bừng… “Đây là hình ảnh bộ đội cầm chắc tay súng bảo vệ buôn làng. Đây là người mẹ địu con ngóng chờ tin chiến thắng. Còn đây là bông hoa chuối nở đỏ trên rẫy sau ngày đất nước toàn thắng” – bà Monh vừa chỉ lên từng họa tiết trên tấm thổ cẩm, vừa giải thích rành rọt.

Chuyện kể của những gam màu

Tiếng lách cách từ khung cửi vang lên đều đều theo nhịp tay của các chị, các mẹ ở làng Kép 2. Những đôi tay ngày thường quen cầm cuốc, cầm dao phát nương, làm rẫy tưởng chừng chỉ biết đến công việc nặng nhọc; nhưng khi ngồi bên khung dệt, lại trở nên mềm mại, khéo léo và kiên nhẫn. Từng sợi chỉ được luồn qua, xe kỹ, từng họa tiết được dệt lên tỉ mỉ, mang theo cả tâm hồn và mong muốn gìn giữ nét đẹp văn hóa truyền thống.

Với người Jrai, từ xưa đến nay, con gái trong làng đều phải biết dệt thổ cẩm. Đó là điều bắt buộc trước khi bước vào cuộc sống hôn nhân. Mỗi cô gái thường được bà, mẹ truyền dạy nghề dệt từ khi còn nhỏ. Vì thế, với phụ nữ làng Kép 2, những tấm thổ cẩm không chỉ là sản phẩm thủ công, mà còn là nơi họ thể hiện sự sáng tạo và gửi gắm tâm tư.

Hoa văn thổ cẩm của người Jrai gắn liền với hình ảnh quen thuộc như cây nêu, nhà Rông, dấu chân thú rừng, hoa lá… thể hiện mong ước mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu. Qua đôi tay nghệ nhân, những tấm vải trở thành tác phẩm nghệ thuật sống động, mang đậm yếu tố tâm linh, huyền bí và chứa đựng sức sống bền bỉ của cộng đồng. Khi đã dệt thành thạo các họa tiết truyền thống, mỗi người thợ dệt lại sáng tạo thêm dấu ấn riêng của mình, gắn với những câu chuyện đời thực.

Mỗi tấm thổ cẩm là một trang nhật ký ghi lại đời sống của người làng, từ vui buồn, lễ hội, mùa màng đến hình ảnh gia đình. Những họa tiết uyển chuyển, màu sắc sinh động ấy kể chuyện về nguồn cội, về bản sắc dân tộc. Không chỉ giữ gìn hồn cốt truyền thống, nghề dệt ngày nay còn mang lại giá trị kinh tế rõ rệt, góp phần cải thiện cuộc sống của bà con.

Giữ nghề – giữ hồn làng

Những năm gần đây, du lịch cộng đồng phát triển, nghề dệt truyền thống ngày càng được du khách trong và ngoài nước biết đến. Chính quyền địa phương cũng đã có nhiều chính sách hỗ trợ, lồng ghép trong các chương trình mục tiêu quốc gia nhằm bảo tồn và phát huy nghề dệt thổ cẩm. Đây là cơ hội để đồng bào Jrai giới thiệu nghề dệt thổ cẩm, đưa vào trình diễn, phục vụ du lịch, từ đó tăng thêm thu nhập, cải thiện đời sống.

Tại làng Kép 2, những “học trò” xuất sắc của nghệ nhân Rơ Châm Monh giờ đã đông đảo, có thể kể đến các chị: Rơ Châm Hói, Rơ Châm H’Rưn, Rơ Châm Hà… Ai nấy đều khâm phục bà Monh – người không chỉ dệt giỏi, lưu giữ chuẩn mực các hoa văn truyền thống, mà còn sáng tạo để đưa câu chuyện làng lên tấm vải khiến ai nhìn cũng mê mẩn.

Nhiều phụ nữ trong làng nay đã có khả năng sáng tạo riêng, biến khung cửi thành người bạn thân thiết. Ngày nào không động đến khung cửi, họ lại cảm thấy thiếu vắng. Những tấm thổ cẩm được dệt để may áo choàng, khố, váy, túi xách… đều được làm một cách cẩn thận, tỉ mỉ. Ngoài phục vụ nhu cầu gia đình, các sản phẩm cũng được bán ra thị trường, tăng thêm thu nhập cho người dân.

Tiêu Dao

Nguồn: Dulichvn

Độc đáo Hang C8 Công viên Địa chất toàn cầu UNESCO Đắk Nông

Không chỉ là một phần trong hệ thống hang động núi lửa lớn nhất Đông Nam Á, Hang C8 còn mang trong mình vẻ đẹp huyền bí, giàu giá trị khoa học, văn hóa và du lịch. Với cấu trúc địa chất độc đáo và dấu tích dung nham nguyên sinh, Hang C8 đang dần được đánh thức để trở thành điểm nhấn du lịch mạo hiểm hấp dẫn của Lâm Đồng.


Các nhà khoa học và chính quyền địa phương khuyến cáo du khách không tự ý tổ chức tham quan, thám hiểm, ra vào hang

Bí ẩn từ dòng dung nham tiền sử

Hang C8 nằm trên địa bàn xã Nam Đà, tỉnh Lâm Đồng là một trong những hang động tiêu biểu thuộc hệ thống hang động núi lửa Krông Nô – một phần trong Công viên Địa chất toàn cầu UNESCO Đắk Nông.

Hang C8 có chiều dài gần 800 m, độ sâu trung bình khoảng 23,8 m. Cửa hang được hình thành từ một hố sập khổng lồ. Đây là kết quả của hiện tượng tích tụ khí trong lòng dung nham dẫn đến sập trần, tạo nên một khoảng hở đường kính hơn 20 m.

Vòm hang cao, thoáng, có cấu trúc hai tầng gần miệng núi lửa. Trong hang, dơi cư trú đông đúc, âm thanh vang vọng như tiếng thác đổ tạo nên cảm giác kỳ bí khó tả.

Hang C8 sở hữu đầy đủ các đặc điểm địa chất tiêu biểu của một hang dung nham nguyên sinh: vòm khí, giếng trời, nhũ dung nham, dấu vết dòng chảy dung nham và các “nút dung nham” – nơi dòng magma từng bịt kín các cửa sổ dung nham cổ. Đặc biệt, trên trần hang còn có dấu vết dạng “vỏ sò” (scallop) – một dạng cấu trúc rất hiếm gặp, chưa từng ghi nhận tại các hang khác trong hệ thống hang động núi lửa Krông Nô.

Không chỉ có giá trị về mặt địa chất, Hang C8 còn là “kho tàng” sinh học với hệ động vật không xương sống phong phú, loài dơi, rêu tảo, địa y và các loài thực vật đặc hữu mọc trên nền bazan bọt. Sự kết hợp giữa địa chất cổ đại và môi trường sống hiện đại đã tạo nên một hệ sinh thái độc đáo trong lòng núi lửa.

Nơi hội tụ của văn hóa bản địa

Không chỉ hấp dẫn bởi cảnh quan kỳ vĩ, Hang C8 còn là điểm giao thoa giữa thiên nhiên nguyên sơ và đời sống văn hóa đặc sắc của cộng đồng dân cư bản địa.

Khu vực xung quanh hang là nơi sinh sống của hơn 15 dân tộc thiểu số, trong đó nổi bật là người M’nông và Ê đê, những cộng đồng còn lưu giữ nhiều lễ hội, tập tục truyền thống gắn với tín ngưỡng đa thần và mối quan hệ linh thiêng với rừng núi, sông, suối. Đến Hang C8, du khách không chỉ được khám phá một kỳ quan địa chất mà còn có cơ hội hòa mình vào đời sống văn hóa bản địa thông qua các lễ hội.

Hang C8 còn được đánh giá là điểm đến lý tưởng để phát triển các loại hình du lịch trải nghiệm như khám phá địa chất, sinh thái, mạo hiểm và du lịch gắn với cộng đồng trong tương lai. Với địa hình hoang sơ, khí hậu mát mẻ và cảnh quan dung nham kỳ thú, nơi đây có tiềm năng lớn để trở thành điểm nhấn trong hành trình khám phá Công viên Địa chất toàn cầu UNESCO Đắk Nông.

Tuy nhiên, do cấu trúc hang phức tạp, nhiều nhánh rẽ, vòm khí, giếng trời và độ sâu lớn, việc tham quan Hang C8 tiềm ẩn không ít rủi ro nếu không có hướng dẫn chuyên môn. Các nhà khoa học và chính quyền địa phương khuyến cáo du khách không tự ý tổ chức tham quan, thám hiểm, ra vào hang động. Hiện tại, khu vực hang chưa được tổ chức khai thác du lịch chính thức, việc bảo vệ và giữ gìn nguyên trạng là ưu tiên hàng đầu.

Hang C8 không chỉ là minh chứng sống động cho lịch sử kiến tạo địa chất hàng triệu năm mà còn là nơi lưu giữ và lan tỏa những giá trị văn hóa truyền thống đặc sắc của cư dân bản địa. Việc bảo tồn và phát huy giá trị của Hang C8 sẽ góp phần quan trọng đưa Lâm Đồng trở thành điểm sáng trên bản đồ du lịch sinh thái – địa chất của Việt Nam và thế giới trong thời gian tới.

Hòa An

 

Nguồn: Dulichvn

Hương vị cá trích níu khách muôn phương

Lớn hơn ngón tay cái, cá trích tưởng chừng bé nhỏ nhưng nuôi sống bao thế hệ ngư dân. Không gọi là đặc sản, không gắn với xuất khẩu, mỗi món ăn từ cá trích là một lát cắt đời sống người miền biển.


Cá trích và món ăn từ cá trích. Ảnh Quang Nhân

Tìm lộc biển lúc “đông ngời”

Khoảng 3 giờ chiều, khi ánh nắng vẫn còn trải dài trên mặt biển, những thuyền nhỏ bắt đầu rời bến ra biển đón “lộc nhỏ”, những mẻ cá trích. Loài cá thân thon dài, chỉ lớn hơn ngón tay cái, vảy bạc lấp lánh, sống gần bờ và xuất hiện quanh năm.

“Cá trích là cơm gạo của nhà tui, không có nó thì mấy mùa biển biết sống sao…” – chị Trần Thị Phước, vợ một ngư dân ở phường Phan Thiết (tỉnh Lâm Đồng), vừa phụ chồng kéo lưới lên ghe, vừa chia sẻ.

Anh Trần Văn Thân, người bám biển nhiều năm, cho biết: Mùa cá trích rộ nhất kéo dài từ tháng 10 âm lịch đến khoảng tháng 3 – 4 năm sau. Mỗi chuyến ra khơi bắt đầu từ chiều, kết thúc vào tận nửa đêm, rồi thức trắng để gỡ cá kịp buổi chợ sớm hôm sau. Ngư dân gọi đó là đi đánh “đông ngời”, vất vả và ròng rã từ chiều tới tảng sáng.

Nếu gặp luồng cá lớn, sau khi trừ chi phí, mỗi thuyền viên có thể thu về 300.000 – 500.000 đồng. Khi biển không thuận, kiếm được 100.000 – 150.000 đồng và cá ăn cho gia đình. Những mẻ nhỏ thường được vợ ngư dân mang ra chợ bán lẻ. Nếu vào đúng phiên, cá có giá 50.000 – 70.000 đồng/kg; muộn hơn, chỉ còn 20.000 – 30.000 đồng. Ở các xã, phường ven biển của Lâm Đồng, con cá trích bé nhỏ ấy đã trở thành nguồn sống của biết bao gia đình. Không chỉ đem lại thu nhập, nó còn khắc sâu trong ký ức – một món ăn dân dã, một phần quê hương mà ai từng gắn bó đều mang theo nỗi nhớ.

Món ăn dân dã mang vị biển

Từ bao đời nay, cá trích trở thành nguyên liệu quen thuộc trong bữa cơm của người dân ven biển. Chị Phước chia sẻ: “Cá trích cạnh dùng làm gỏi vì thịt giòn. Còn cá trích bầu nhiều mỡ, thích hợp nấu canh, làm chả hoặc phơi khô. Phơi cá không cần muối nhiều, gặp nắng đều thì phơi khoảng 1,5 ngày là đạt độ dẻo; nếu muốn để lâu thì phơi đủ 2 nắng. Trước khi chế biến, cá được phi lê để lọc bỏ xương”.

Gỏi cá trích là món được ưa chuộng nhất. Cá phi lê trộn nước cốt chanh cho chín, vắt ráo rồi trộn cùng rau thơm, hành tây, đậu phộng rang. Món này ăn kèm bánh tráng nướng và nước chấm chua ngọt. Ngoài gỏi, cá trích còn được làm thành chả cuốn. Thịt cá trộn với củ sắn, cà rốt, hành lá và gia vị, cuốn bánh tráng rồi chiên vàng; ăn kèm rau sống hoặc dùng trong bữa cơm gia đình. Với cá tươi, người dân thường nấu canh với bầu, mướp, cải ngọt hay rau tần ô. Còn cá trích khô – món “dự trữ” mùa biển động – chỉ cần nướng than, xé nhỏ, trộn xoài xanh, dưa leo, rau thơm, hành phi, đậu phộng… là thành món gỏi khô dân dã nhưng đủ sức làm hài lòng cả thực khách khó tính.

Nhiều du khách đến phường Mũi Né, phường Phan Thiết của tỉnh Lâm Đồng không chỉ tìm ăn gỏi cá trích cho biết hương vị đặc sản địa phương, mà còn mua chả cuốn cá trích mang về làm quà. Thậm chí, có người quay lại nhiều lần chỉ để thưởng thức món gỏi cá, chả cuốn cá trích “vừa bình dân, vừa bắt vị”.

Với người xa quê, cá trích khô lại là thứ quà không thể thiếu mỗi khi về thăm nhà. Thứ cá khô giòn rụm, mặn mòi vị biển ấy không chỉ ngon mà còn chứa đựng trong đó cả ký ức tuổi thơ, bữa cơm đạm bạc của cha mẹ và hương vị quê hương mang theo trên mọi nẻo đường.

Trang Hiếu

Nguồn: Dulichvn

Độc đáo hương vị lẩu mắm

Kết hợp tinh tế những nguyên liệu dân dã hòa quyện hương vị độc đáo, lẩu mắm từ lâu đã trở thành món ăn quen thuộc sâu nặng tình quê, mang đậm nét văn hóa ẩm thực đặc trưng của người dân sông nước miền Tây nói chung, cũng như với An Giang.


An Giang là vùng đất trù phú, sông ngòi, kênh rạch chằng chịt được thiên nhiên ban tặng nguồn nguyên liệu cá nước ngọt dồi dào, nhất là thời điểm mùa lũ hàng năm. Để giữ cá được lâu, người dân dùng cá để phơi khô và làm mắm trữ lại ăn dần, như: Mắm thái, mắm cá sặc, mắm cá chốt, mắm cá lóc, mắm cá trèn, mắm cá linh, mắm ba khía, mắm tôm, mắm tép…

Mắm đã trở thành món ăn không thể thiếu trong bữa cơm của mỗi gia đình người dân miền sông nước. Cũng từ đây, xuất hiện rất nhiều món ăn đặc sắc được chế biến từ các loại mắm, như: Mắm kho, mắm chưng, mắm chiên… Trong đó, không thể không nhắc đến món lẩu mắm.

Lẩu mắm được phát triển dựa trên chính món mắm kho. Mắm kho là món ăn thường ngày được các gia đình ở ĐBSCL nấu để ăn với cơm. Còn lẩu mắm thì được nấu trong các đám giỗ, tụ họp gia đình hay để đãi khách đến chơi nhà, cùng nhau vừa ăn, vừa trò chuyện. Qua thời gian, nguyên liệu và cách nấu lẩu mắm được biến tấu và thay đổi nhiều cách khác nhau để phù hợp khẩu vị và sở thích từng người. Tuy nhiên, công thức căn bản trong cách nấu vẫn được gìn giữ để tạo nên hương vị lẩu mắm thơm ngon, độc đáo.

Bà Nguyễn Thị Bích Liên (71 tuổi, phường Tân Châu) cho biết, lẩu mắm mặc dù là món ăn dân dã, nhưng để chế biến được nồi lẩu mắm ngon, thì không phải dễ. Khâu đầu tiên quan trọng nhất là chọn loại mắm cá để nấu nước lẩu. Có nhiều loại mắm được làm từ nhiều loại cá khác nhau, nhưng dùng để nấu lẩu ngon nhất vẫn là mắm cá linh và mắm cá sặc. Vì 2 loại mắm cá này sẽ làm nên độ thơm ngọt và béo của nồi nước lẩu.

 “Mắm cá linh, cá sặc sau khi nấu cùng nước dừa, lọc bỏ xương, lấy nước. Cho tỏi băm, sả, ớt và  thịt ba rọi xào thơm, rồi cho vào nồi nước lẩu. Độ đậm nhạt của nước lẩu được gia giảm sao cho phù hợp với khẩu vị, người nấu sẽ có những cách nêm nếm và bí quyết nấu lẩu khác nhau. Đây là công đoạn quan trọng nhất, quyết định độ ngon của nồi lẩu mắm” – bà Liên chia sẻ.

Có lẽ không có một loại lẩu nào lại có thể kết hợp nhiều nguyên liệu và sử dụng nhiều loại rau ăn kèm như lẩu mắm ở miền Tây. Không gò bó như những món ăn khác, sự hấp dẫn của món lẩu mắm chính là sự đa dạng của các nguyên liệu ăn kèm. Tất cả các loại cá nước ngọt, như: Cá basa, cá hú, cá linh, cá lóc, cá bông lau, cá điêu hồng, cá rô… cho đến các loại: Ốc, lươn, lịch, tôm, mực, cá kèo…

Ngoài ra, còn nhiều loại rau, như: Rau nhút, rau đắng, bông điên điển, bông bí, bông súng, bông lục bình, cù nèo, rau muống, mồng tơi, cà tím, đậu rồng, bông so đũa, khổ qua, bắp chuối, cải xanh, rau dừa… đều có thể hòa cùng hương vị trở thành nồi lẩu mắm. Vị béo, ngọt của các loại cá tươi kết hợp vị thanh mát của các loại rau hòa quyện vị mằn mặn, thơm nồng của mắm cá, cay cay của sả, ớt tạo cho người ăn cảm giác vừa lạ, vừa quen, đậm vị, khó quên.

“Tôi rất thích ăn lẩu mắm, đây là món ăn đặc biệt chỉ có ở miền Tây. Món ngon bởi nước lẩu được nấu từ mắm cá đậm đà hương vị kết hợp với các loại cá và rau tươi ngon vùng sông nước. Năm nào cũng vậy, khi về An Giang du lịch là cả gia đình tôi phải ăn cho bằng được lẩu mắm rồi mới chịu về” – cô Lê Thị Yến Linh, du khách đến từ TP. Hồ Chí Minh chia sẻ.

Nếu có dịp về vùng sông nước miền Tây, đặc biệt là An Giang, đừng quên thưởng thức nồi lẩu mắm đậm đà, hấp dẫn làm say lòng bao du khách phương xa, để cảm nhận sự ấm áp, nhân hậu, nghĩa tình của người dân nơi đây.

Trọng Tín

Nguồn: Dulichvn

Đi tìm nguồn gốc danh trà ở Thái Nguyên

Mưa giăng mờ những đồi chè Minh Lập, Tân Cương, La Bằng. Những búp chè mập mạp tua tủa vươn lên đón mưa xanh thắm. Mưa níu hương trà quanh quẩn, sánh và thơm những ấm trà pha trong buổi chiều mưa. Chúng tôi lên các vùng trồng danh trà đúng dịp những ngày mưa lớn, theo lời mời của Trung tâm Thông tin tỉnh Thái Nguyên.


Nghệ nhân trà Nguyễn Thị Hải (bên trái) và nhà báo Nguyễn Minh Hằng, báo Thái Nguyên.

Xóm Cà Phê, thưởng trà hương cốm

Ở đây tôi mới biết phân biệt thế nào là chè và thế nào là trà nói chung. Khi đang sống xanh tươi trên nương đồi kia thì nó là cây chè, lá chè, khi đã qua khâu chế biến, trở thành thức uống chè sẽ thành trà. Không riêng gì danh trà Thái Nguyên mà mọi thứ “trà” khác trên thế giới cũng vậy, đều bắt đầu từ cây trái tươi như trà sâm, trà táo, trà việt quất… Năm 2024, tỉnh Thái Nguyên có 22.200 ha chè, sản lượng chè búp tươi đạt 272,8 nghìn tấn, sản lượng chè sau chế biến đạt 54,6 nghìn tấn, mang lại giá trị sản phẩm trà trên 13.800 tỷ đồng.

Địa điểm đầu tiên đoàn đến là Công ty cổ phần chè Trại Cài, xóm Cà Phê xã Đồng Hỷ. Thật lạ và vui là xóm trồng danh trà mà lại tên là xóm Cà Phê. Đường đi lối lại đã đổ bê-tông rộng rãi khang trang. Xe ô-tô 26 chỗ của đoàn chúng tôi vào được tận trong xóm. Ông Điển xóm trưởng cho biết, chính quyền đã vận động nhân dân thu hẹp lại hàng rào, hiến gần 10 nghìn m2 đất để làm đường.

Ông Nguyễn Minh Hoan, Phó Bí thư đảng ủy xã Minh Lập cũ, thủ phủ vùng trồng danh trà Trại Cài thông tin, rằng hiện Minh Lập đang có 362 ha chè đặc sản, trong đó hơn 100 ha đạt tiêu chuẩn VietGAP, là xã đầu tiên đạt chuẩn nông thôn mới của tỉnh Thái Nguyên năm 2022. Trà Trại Cài, mà người thẩm trà chuyên nghiệp ở đây thường chỉ gọi tắt là trà Cài, sở hữu hương cốm thoang thoảng, sắc nước trà pha vàng óng như mật ong, chát vừa phải cùng vị ngọt hậu lưu đằm trong họng. Những đơn đặt hàng trà Tân Cương còn thiếu thì dân làm trà sẽ bù thêm trà Trại Cài vào cho đủ mà vẫn một lòng yên tâm, bởi chất lượng cùng hương vị trà Trại Cài hoàn toàn tương đồng với trà Tân Cương. Việc phân biệt giữa hai loại này không bao giờ là dễ dàng ngay cả đối với dân sành trà bản địa. Chẳng qua do trà Trại Cài chưa nổi danh lâu như trà Tân Cương mà thôi.

Đồi chè Cầu Đã xã La Bằng.

“Nắn nót” với những danh trà

Đường đi lối lại trên các đồi chè Trại Cài – Minh Lập cũng đều được trải bê-tông, lắp camera an ninh và các biển cổ động như những đường phố xanh cây mát mắt. Ngay cả những người hái danh trà thời công nghệ 4.0 cũng tự trang bị bảo hộ lao động tân tiến, là áo blouson lắp quạt mát tự động. Những đồi chè mênh mông vắng vẻ kéo dài hút tầm mắt, bởi thế nên người hái chè bao giờ cũng đi đôi để hỗ trợ lẫn nhau.

Chè phải được hái thủ công từ sáng sớm, khi búp chè vẫn ngậm sương, giữ lại được nhiều hoạt chất quý báu. Người ta đã thử hái chè bằng máy, nhưng lại phải bỏ ngay vì lẫn nhiều búp lẫn lá tạp. Búp chè phải được phân loại ngay từ lúc hái một cách tinh tế. Tiếp đó chè sẽ được phơi héo trên các nong, bạt ở nhiệt độ thích hợp, diệt men trong bồn inox quay hoặc sao nóng, qua nhiều lần sao khô san ẩm theo riêng từng bí quyết nhà nghề, đến khi búp chè đã săn lại lên “mốc” thì dồn lại để gom hương thành trà.

Một dòng trà khác tôi cũng mới biết danh khi đến xã La Bằng. Chuyện trò cùng chúng tôi, nghệ nhân trà, chị Nguyễn Thị Hải, Chủ tịch HĐQT, Giám đốc HTX chè La Bằng chia sẻ: Vùng chè La Bằng nằm phía sườn đông dưới chân núi Tam Đảo. Dãy núi như tấm bình phong chắn mây, chắn gió mùa Đông Bắc, làm nên cái rét Thái Nguyên nổi tiếng trong thơ ca kháng chiến. Đó là thiên thời dành cho cây chè ưa khí hậu mát lạnh. Chè lại được trồng trên vùng đất gan trâu non, tên khoa học là đất feralit. Loại đất này mưa thì thoát nước nhanh, khô thì giữ ẩm, lại thêm dòng suối Kẹm trong mát làm nguồn nước tưới. Đó là địa lợi.

Còn nhân hòa là chúng em đây, những con người luôn “đau đáu khát khao” với cây chè quê hương, muốn đưa danh trà La Bằng – Thái Nguyên vươn ra cùng thế giới.

Nếu nói về hương vị dòng trà trung du, không nơi nào qua được Tân Cương. Dòng trà Bát Tiên chẳng ai vượt nổi Quân Chu dù nước pha hơi đỏ. Trà Long Vân trồng tại La Bằng đây kết tinh lại trong bốn chữ: Xanh – sánh – ánh – vàng, lại phảng phất hương hoa của núi rừng không nơi nào có được. Vùng nguyên liệu HTX chè La Bằng hiện có 37 ha, trong đó có 20 ha chè đã có chứng nhận VietGAP, 17 ha chè sản xuất hữu cơ, 7 ha chè có mã QR truy xuất vùng trồng. Sản phẩm trà sạch La Bằng có thị trường vươn đến tận châu Âu, Nhật Bản, Trung Quốc, Mỹ…

Nhãn hiệu Đinh Tâm Trà của La Bằng đã được chọn làm quà cho các nguyên thủ quốc gia và khách quốc tế tại sự kiện Tuần lễ cấp cao APEC năm 2017 tổ chức tại Đà Nẵng. Vừa mới đây thôi, Thanh Hải trà của HTX chè La Bằng được đấu giá tại Hội thi “Bàn tay vàng chế biến chè” huyện Đại Từ (cũ) với giá chốt 68 triệu đồng/kg. Từ vài triệu đồng ngày thành lập HTX năm 2006, đến năm 2024, doanh thu trà La Bằng đã cán mốc 4 tỷ đồng.

Thu hoạch trà tại vùng chè Tân Cương (Thái Nguyên). Ảnh: Bảo Trung)

Về chân núi gặp trà cổ thụ

Theo nhiều nguồn ghi chép, cây chè Thái Nguyên là cây di thực từ Phú Thọ, do cụ Đội Năm mang về trồng. Ngoài ra, hiện Thái Nguyên còn trồng các giống chè lai từ các giống chè Trung Hoa, chè Bát Tiên, chè Kim Tuyên… Chưa thỏa mãn với các giả thiết trên, để bổ sung thêm cho một căn cước văn hóa, nghệ nhân trà Nguyễn Thanh Hải vẫn đau đáu đi tìm nguồn cội cho cây chè Thái Nguyên đặc sản quê hương như một đứa con nhớ ơn tiên tổ.

Năm 2024, chị đã từng tổ chức một đoàn hơn 100 người gồm đại diện các doanh nghiệp, nhà báo, nhà khoa học lên núi Bóng thăm một rừng chè cổ. Núi Bóng chính là núi Hồng, nơi dưới chân phía Tuyên Quang có lán Nà Lừa của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong kháng chiến chống Pháp. Nơi đó, trên độ cao tuyệt đối 740 m, có những gốc chè cổ thụ chu vi tới 1,6 m.

Theo ý kiến chỉ đạo của ông Trịnh Việt Hùng, Bí thư tỉnh ủy, Thái Nguyên đang chuẩn bị lập hồ sơ cây di sản cho chè cổ núi Bóng thì một niềm vui khác sớm nhanh đến không ngờ. Những người đi rừng La Bằng ngồi nghỉ dưới bóng một quần thụ trên núi Tam Đảo, thấy hoa rụng xuống mới biết đó là những cây chè quý giá cùng tuổi với rừng chè núi Bóng.

Nghe họ về làng nói chuyện, chị Hải tổ chức một đoàn khảo sát gấp rút khoác ba-lô lều trại lên đường. Khởi hành lúc 8 giờ sáng, sau 9 giờ đồng hồ leo núi vượt thác, đến 4 giờ chiều đoàn lên đến đỉnh núi 1.400 m. Cả đoàn reo lên khi thấy một rừng chè cổ rực rỡ trong ánh nắng buổi chiều tà. Trời ơi! La Bằng cũng có chè cổ. La Bằng cũng là cái nôi của danh trà Thái Nguyên.

Chúng tôi nghe chị reo trong câu chuyện của mình mà lòng sung sướng cười theo. Hạnh phúc cũng như hương trà, luôn cần được lan tỏa và chia sẻ. Một khám phá không chỉ nối dài mạch nguồn văn hóa mà còn thắp sáng niềm tự hào của những đứa con hiếu thảo tìm về nguồn cội.

Trung Sỹ

Nguồn: Dulichvn

Đậm đà bản sắc văn hóa Lễ hội Kỳ yên Đình thần Tân Phú

Từ ngày 13 – 15/7/2025 (nhằm ngày 19 – 21 tháng 6 Âm lịch), Lễ hội Kỳ yên Đình thần Tân Phú, xã Thanh Bình, tỉnh Đồng Tháp diễn ra trong không khí trang nghiêm, rộn ràng và đậm đà bản sắc văn hóa truyền thống của vùng đất Nam bộ.


Đông đảo người dân và du khách từ khắp nơi về tham dự Lễ hội Kỳ yên Đình thần Tân Phú

Lễ hội là một trong những hoạt động văn hóa tín ngưỡng tiêu biểu của người dân địa phương được tổ chức thường niên nhằm tôn vinh công lao tiền nhân khai phá, mở đất và cầu cho quốc thái dân an, mùa màng bội thu. Hàng ngàn lượt người dân và du khách từ nhiều nơi về tham dự, góp phần tạo nên không gian lễ hội sống động, gắn kết cộng đồng.

Trong thời gian diễn ra lễ hội, nhiều nghi thức truyền thống đặc sắc được tái hiện như: Lễ Nghinh sắc thần, Lễ Túc yết, Chánh tế, Lễ cúng Tiên sư – Thần Nông – Tiền hiền – Hậu hiền, Lễ thả hoa đăng… Bên cạnh phần lễ, phần hội cũng diễn ra sôi nổi với các hoạt động đờn ca tài tử, hát tuồng cổ và các trò chơi dân gian như: kéo co, nhảy bao bố, bịt mắt đập nồi… tạo không khí vui tươi, gắn kết cộng đồng.

Đình thần Tân Phú được xây dựng từ năm 1808 dưới thời vua Gia Long. Đây là một trong những công trình tín ngưỡng có giá trị lịch sử lâu đời tại Đồng Tháp. Nơi đây hiện vẫn giữ được kiến trúc truyền thống với hệ thống bao lam chạm trổ tứ linh, hổ phù, sơn son thếp vàng rực rỡ… Đây còn là biểu tượng văn hóa – lịch sử gắn liền với tiến trình phát triển của vùng đất Thanh Bình. Năm 2021, Đình thần Tân Phú được UBND tỉnh Đồng Tháp xếp hạng Di tích lịch sử – văn hóa cấp tỉnh.

Duy Anh

Nguồn: Dulichvn

Ghé thăm làng nghề xứ Quảng

Sau khi Quảng Nam sáp nhập vào TP Đà Nẵng, thành phố biển không chỉ được mở rộng về địa giới hành chính mà còn được bồi đắp thêm chiều sâu văn hóa và bản sắc truyền thống bởi Quảng Nam không chỉ là vùng đất di sản mà còn có rất nhiều làng nghề truyền thống tuổi đời cả trăm năm. Những tài sản vô giá này chắc chắn sẽ tạo đà cho du lịch phát triển…


Bà Lê Thị Kề ngồi đan võng ngô đồng.

Yêu sao chiếc võng ngô đồng

Bao đời nay, người dân sống trên đảo Cù Lao Chàm, xã Tân Hiệp, TP Đà Nẵng có nghề đan võng ngô đồng – nghề truyền thống được đưa vào Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia.

Theo lời kể của các bậc cao niên ở xã Tân Hiệp, hàng trăm năm về trước, trong điều kiện sản phẩm gia dụng công nghiệp còn chưa phổ biến, nhất là đối với người dân xã đảo nằm cách xa đất liền, bà con nơi đây tự cung tự cấp nhiều mặt hàng. Nghề đan võng từ vỏ cây ngô đồng cũng bắt đầu từ đó, và qua năm tháng ngày càng gắn bó chặt chẽ với đời sống bà con trên đảo.

Giấc mơ trưa của bao đứa trẻ trên chiếc vòng ngô đồng cùng lời ru và tiếng sóng biển êm đềm.

Bà Lê Thị Kề, ở thôn Bãi Làng, xã Tân Hiệp là người gắn bó với nghề đan võng ngô đồng gần 60 năm cho biết: “Tôi quê gốc ở Hội An, năm 1962 theo chồng ra đảo Cù Lao Chàm, quanh quẩn bên bờ biển, làm bạn với thuyền ghe và nghề thủ công. Tôi được mẹ chồng truyền dạy nghề đan võng ngô đồng. Bây giờ thì đã quá quen và thấy gắn bó như hơi thở cuộc sống hàng ngày vậy”.

Để có nguyên liệu, bà con phải lên núi đốn cây ngô đồng nhánh dài, suôn, rồi bó lại mang xuống suối ngâm. Tùy mùa, thời gian ngâm kéo dài từ nửa tháng đến hơn 20 ngày. Khi thân cây rục mềm, người ta gọt sạch lớp bùn, vỏ ngoài, chỉ giữ lại phần vỏ có sợi bên trong để đập, giặt, phơi và tước thành sợi. Sợi càng mảnh, võng càng bền và chắc.

“Ngô đồng là loài cây sức sống mạnh, cứ chặt gốc là nứt ra nhiều chồi mới, chẳng những không hại mà còn giúp rừng thêm xanh” – bà Kề cho biết.

Cũng theo bà Kề, chiếc võng ngô đồng có độ bền khá cao, nếu bảo quản đúng cách tuổi đời sử dụng của võng từ 15 – 20 năm. Đặc biệt khi nằm trên chiếc võng ngô đồng được làm hoàn toàn bằng sợi thiên nhiên nên có tác dụng massage các huyệt đạo trên cơ thể và thấm hút mồ hôi vì vậy rất tốt cho những người bị bệnh phong, thấp khớp và nhiều công dụng khác.

Nói thì như vậy, nhưng nghề đan võng ngô đồng rất vất vả, ngoài việc lên núi tìm cây còn đòi hỏi người thợ phải chịu khó kiên trì ngồi một chỗ hàng giờ, tỉ mỉ, khéo léo từng công đoạn. Mới đầu đan được chiếc võng ngô đồng là khó khăn nhưng dần dần qua thời gian, người thợ sẽ có kinh nghiệm, khéo léo hơn.

Ông Nguyễn Minh Đức – Phó Chủ tịch UBND xã Tân Hiệp cho biết: “Chiếc võng ngô đồng không chỉ là sản phẩm thủ công đơn thuần, mà còn gắn liền với quá trình hình thành và phát triển của vùng đất này. Mỗi chiếc võng đều gửi gắm tâm tư, tình cảm của người làm. Đây là một nghề truyền thống đòi hỏi nhiều công đoạn, kỹ thuật tinh xảo để tạo nên sản phẩm thủ công mỹ nghệ mang đậm dấu ấn địa phương”.

Về thử nước mắm làng Cửa Khe

Sau khi ghé thăm đảo Cù Lao Chàm, xã Tân Hiệp để tìm hiểu về đan võng ngô đồng, chúng tôi lại đến thăm một làng nghề truyền thống làm nước mắm. Đó là làng Cửa Khe, xã Thăng An, TP Đà Nẵng. Nhiều người lớn tuổi cũng không biết nghề chế biến nước mắm thủ công ở đây ra đời từ khi nào. Họ chỉ biết từ khi cha ông đi làm nghề biển thì từ đó ra đời nghề này. Thế rồi đời này qua đời khác, cũng lắm lúc thăng trầm nhưng người dân nơi đây vẫn giữ và yêu nghề như một phần máu thịt của cuộc sống ngư dân ven biển này.

Theo những người dân xã Thăng An, mắm được làm từ cá cơm, cá nục hoặc cá trích;…muối trong chum sành theo phương pháp truyền thống, ủ ròng rã từ 12 tháng trở lên để cho ra mẻ nước mắm cốt sánh đậm, màu nâu, vị mặn mòi và hương thơm mang đậm hương vị xứ Quảng.

Người trong xã kể, quy trình sản xuất nước mắm được bắt đầu ngay từ trên tàu, sau khi đánh bắt cá được rửa sạch bằng nước biển, loại bỏ tạp chất rồi trộn với muối theo tỉ lệ thích hợp để ướp bước đầu giữ chất lượng cá. Khi về đến biển Cửa Khe bắt đầu thực hiện các công đoạn vệ sinh và cho vào ghè ủ tiếp. Ướp, ủ cá khoảng 9 đến 18 tháng, bà con bắt đầu rút nước mắm nhĩ. Vì muối ngay từ lúc cá còn tươi sống nên giá trị dinh dưỡng trong mắm cao, hương vị thơm ngon đậm đà.

Hiện tại, làng nghề nước mắm này có khoảng 60 hộ dân làm nghề, trong đó có 10 cơ sở tham gia tổ hợp tác. Mỗi năm, làng nghề nước mắm Cửa Khe bán ra thị trường khoảng 200.000 lít, với giá bán từ 50.000 – 60.000 nghìn đồng/lít tùy loại.

Bà Lê Thị Lợi, chủ cơ sở nước mắm Bà Lợi chia sẻ: “Mặc dù, giá nước mắm của làng nghề cao hơn so với các loại nước mắm công nghiệp khác nhưng được nhiều người dân ưa chuộng. Nhiều khi nước mắm làm ra không có đủ để cung cấp cho thị trường, nhất vào dịp Tết hay lễ hội. Nhờ nghề chế biến nước mắm này mà nhiều gia đình khá lên, có tiền nuôi con ăn học thành tài”.

Hiện tại, cơ sở sản xuất nước mắm của gia đình bà Lợi có 5 lao động thường xuyên, với mức lương trung bình từ 5 đến 6 triệu đồng/người/tháng. Mỗi năm, cơ sở sản xuất và cho ra lò khoảng hơn 7.000 – 8.000 lít/năm, doanh thu hơn 200 triệu đồng. Sau khi trừ chi phí, gia đình bà lãi hơn 100 triệu đồng/năm.

Anh Võ Nguyên Tùng – Trưởng ban Làng nghề nước mắm Cửa Khe chia sẻ: “Có 3 phương thức chính để chúng tôi duy trì làng nghề, một là chế biến nước mắm theo các quy trình nghiêm ngặt để cho ra sản phẩm đạt chất lượng cao, ngoài ra chúng tôi chủ động tìm đến khách hàng để giới thiệu và tiêu thụ sản phẩm. Dù thị trường có thế nào chúng tôi vẫn luôn lấy uy tín của làng nghề đặt lên hàng đầu

Ông Nguyễn Thanh Phong – Chủ tịch UBND xã Thăng An cho biết, làng nước mắm Cửa Khe là làng nghề truyền thống lâu đời và có nhiều điều kiện để tổ chức hoạt động sản xuất nước mắm gắn với phát triển du lịch. Người dân luôn chú trọng về chất lượng sản phẩm, đặt uy tín lên hàng đầu để giữ vững thương hiệu truyền thống của làng nghề. Hiện nay, sản phẩm nước mắm làng Cửa Khe đã đạt chuẩn sản phẩm OCOP 3 sao.

Tấn Thành – Chí Đại

 

Nguồn: Dulichvn

Hà Nội: Quảng bá làng nghề ở quy mô quốc tế

Hà Nội có 1.350 làng nghề các loại, trong đó có những làng nghề nổi tiếng thế giới như: gốm Bát Tràng, lụa Vạn Phúc… Hoạt động sản xuất ở các làng nghề đem lại giá trị kinh tế lớn. Do đó, thành phố tích cực triển khai các hoạt động bảo tồn, phát huy giá trị.


Các em học sinh trải nghiệm làm gốm ở Bát Tràng (xã Bát Tràng, Hà Nội).

Hà Nội không chỉ có số lượng làng nghề lớn, mà các làng nghề còn đem lại giá trị kinh tế cao. Trong 1.350 làng nghề và làng có nghề, có 334 làng nghề, làng nghề truyền thống đã được công nhận.

Mỗi làng nghề đều có thế mạnh riêng, tạo ra những sản phẩm vừa thân thiện với môi trường, vừa đậm bản sắc văn hóa dân tộc.

Trong số 3.000 sản phẩm OCOP của thành phố, có khoảng 800 sản phẩm đến từ các làng nghề, làng có nghề. Tổng giá trị sản xuất của 334 làng nghề, làng nghề truyền thống đã được công nhận ở Hà Nội đạt hơn 24.000 tỷ đồng/năm.

Mới đây, làng nghề gốm Bát Tràng và lụa Vạn Phúc đã trở thành thành viên của Mạng lưới các thành phố thủ công sáng tạo thế giới.

Để tiếp tục quảng bá sản phẩm làng nghề, thúc đẩy bảo tồn giá trị văn hóa, tôn vinh nghệ nhân, thúc đẩy giao lưu quốc tế, UBND thành phố Hà Nội phối hợp Bộ Nông nghiệp và Môi trường tổ chức Festival Bảo tồn và Phát triển làng nghề quốc tế năm 2025.

Bên cạnh 11 sự kiện chính diễn ra trong 5 ngày từ 14-18/11 tại Khu di tích Hoàng thành Thăng Long, còn có 6 sự kiện bên lề diễn ra từ tháng 9 đến tháng 11 với sự tham gia của các doanh nghiệp, làng nghề, nghệ nhân, thợ giỏi tiêu biểu trong nước và quốc tế.

Nội dung chương trình Festival gồm: lễ dâng hương, lễ khai mạc, không gian trưng bày sản phẩm, tiếp đoàn quốc tế.

Ngoài ra còn có hội thảo, hội thi sản phẩm, hội chợ, xúc tiến đầu tư, lễ hội quốc tế Kokan-Uzbekistan, hoạt động tại các làng nghề…

Để chuẩn bị tốt cho Festival, ngày 14/7, Ủy ban nhân dân thành phố đã giao Văn phòng Ủy ban nhân dân thành phố chủ trì, hướng dẫn thủ tục theo quy định và phối hợp Sở Nông nghiệp và Môi trường đón, tiếp các đoàn khách quốc tế.

Sở Nông nghiệp và Môi trường là cơ quan thường trực, tham mưu tổng thể và chủ trì tổ chức các hoạt động gồm: Xây dựng kịch bản tổng thể, thiết kế sân khấu chính và điều kiện hậu cần; chủ trì công tác trang trí, tuyên truyền trực quan tại các địa điểm tổ chức Festival và một số tuyến phố trọng điểm cũng như chủ trì tổ chức Lễ dâng hương tại Điện Kính Thiên, Hoàng thành Thăng Long, mời các làng nghề, nghệ nhân, doanh nghiệp, hợp tác xã trong và ngoài Hà Nội tham gia trưng bày, trình diễn sản phẩm.

Các sở, ngành liên quan phối hợp thực hiện bảo đảm an ninh trật tự, an toàn giao thông, vệ sinh an toàn thực phẩm…

Thành phố cũng đề nghị các đơn vị của Bộ Nông nghiệp và Môi trường phối hợp với các cơ quan tổ chức các hoạt động của Festival hiệu quả, chất lượng, an toàn.

Giang Nam

Nguồn: Dulichvn

TIN MỚI NHẤT