Du lịch trong nước

Du lịch trong nước, tin tức du lịch trong nước, các tour du lịch trong nước, các địa điểm du lịch trong nước hấp dẫn được chúng tôi tổng hợp và đưa tin hàng ngày đến cho khách du lịch trên khắp mọi miền đất nước có được thông tin du lịch trong nước để có những thông tin hữu ích nhất cho mình và gia đình khi quyết định chọn chuyến du lịch trong nước cho mình và người thân

Người Thái trắng ở Mường Lay tích cực gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc

Thị xã Mường Lay, tỉnh Điện Biên, nay là phường Mường Lay mới sau sắp xếp có 9 dân tộc anh em cùng sinh sống với nền văn hóa đa dạng và độc đáo. Trong đó, dân tộc Thái ngành Thái trắng chiếm tỉ lệ cao trên 73% với bản sắc văn hóa truyền thống phong phú, mang đặc sắc riêng có.


Phường Mường Lay có vị trí trọng yếu về quốc phòng – an ninh nơi vùng cao Tây Bắc của Tổ quốc, là vùng đất giàu truyền thống cách mạng và có nền văn hoá đặc sắc. Ảnh: M.Trà

Nằm giữa ngã ba sông Nậm Na nhập vào sông Đà và suối Nậm Lay, phường Mường Lay, tỉnh Điện Biên (được sáp nhập từ 3 đơn vị hành chính cấp xã gồm phường Sông Đà, phường Na Lay, xã Lay Nưa, xã Sá Tổng thuộc thị xã Mường Lay) được xem là thủ phủ của người Thái trắng ở Tây Bắc. Nơi đây nhiều nét văn hóa của người Thái trắng vẫn còn được lưu giữ nguyên giá trị và đang được cấp ủy chính quyền và cộng đồng dành sự quan tâm đặc biệt.

Thời gian qua, Đảng ủy, HĐND, UBND phường Mường Lay đã ban hành nhiều chủ trương, đề án về bảo tồn và phát triển văn hóa các dân tộc trên địa bàn gắn với phát triển kinh tế – xã hội. Trong đó chú trọng phục dựng lễ hội truyền thống đặc sắc, giữ gìn phong tục tập quán tốt đẹp, đẩy mạnh phát huy trò chơi dân gian, từ đó nâng cao ý thức trong việc bảo tồn và phát huy truyền thống của dân tộc Thái cũng như cộng đồng các dân tộc khác trên địa bàn.

Mường Lay là địa phương sở hữu 2 di sản được UNESCO ghi danh di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại là “Thực hành Then của người Tày, Nùng, Thái”, “Nghệ thuật Xòe Thái”. Ảnh: M.Trà

Hiện nay, nhiều di sản văn hóa phi vật thể các dân tộc trên địa bàn Mường Lay, đặc biệt người Thái trắng vẫn được gìn giữ trong đời sống như tiếng nói, múa dân gian, trò chơi dân gian, việc cưới, việc tang, ẩm thực dân tộc, trang phục, trang sức truyền thống, kiến trúc dân gian và nhạc cụ dân tộc.

Mường Lay cũng là địa phương có 2 di sản được UNESCO ghi danh di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại là “Thực hành Then của người Tày, Nùng, Thái”, “Nghệ thuật Xòe Thái” và là “Thị xã có mật độ nhà sàn truyền thống của dân tộc Thái ngành Thái trắng nhiều nhất Việt Nam”… Đây chính là cơ sở để Mường Lay tiếp tục có những bước tiến trong tương lai với nhiều hoạt động cụ thể hơn.

Bên cạnh đó, các loại hình nghệ thuật dân tộc, thi đấu thể thao, trò chơi dân gian được tổ chức như tó má lẹ, đi cà kheo, ném còn, bắn nỏ đã góp phần nâng cao ý thức bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc và những dư vị rất riêng, rất đặc biệt trong không gian văn hóa của người Thái trắng.

Người Thái trắng nơi đây vẫn lưu giữ, bảo tồn được nét đẹp trong văn hóa, tín ngưỡng với những lễ hội đặc trưng như lễ hội Kin Pang Then, làn điệu Then cổ, nghệ thuật Xòe Thái cổ say đắm lòng người, lễ hội đua thuyền đuôi én…

Nhiều năm qua, chính quyền địa phương và các cơ quan chuyên môn đã đẩy mạnh tuyên truyền, nâng cao nhận thức của các tầng lớp nhân dân trong việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể của các dân tộc trên địa bàn.

Cùng với việc xây dựng các CLB, đội văn nghệ cơ sở, duy trì loại hình nghệ thuật, công tác sưu tầm các tác phẩm sách viết bằng chữ Thái, bảo tồn kiến trúc nhà sàn và tổ chức truyền dạy tiếng Thái cho học sinh các cấp trên địa bàn nhằm bảo tồn tiếng nói, chữ viết của dân tộc. Trong đó chú trọng hỗ trợ tạo điều kiện cho các CLB, đội văn nghệ để các nghệ nhân trao truyền, hướng dẫn thực hành di sản cho thế hệ kế cận.

Nhà sàn của người Thái trắng ở Mường Lay được vinh danh là “Thị xã có mật độ nhà sàn truyền thống của dân tộc Thái ngành Thái trắng nhiều nhất Việt Nam”. Ảnh: M.Trà

 Hiện nay, phường Mường Lay đang tích cực xây dựng các CLB, đội văn nghệ cơ sở và duy trì hoạt động hiệu quả tại các xã, phường để giữ gìn những bài hát, điệu múa dân tộc, đặc biệt là điệu múa Thái cổ nhằm nâng cao đời sống tinh thần và sinh hoạt cộng đồng. Bên cạnh đó, ngày hội văn hóa, thể thao các dân tộc, các lễ hội truyền thống được duy trì và tổ chức với các hoạt động văn hóa – thể thao phong phú, đậm đà bản sắc dân tộc.

Với sự vào cuộc tích cực của cấp ủy chính quyền, các cơ quan chuyên môn và cộng đồng trong công tác bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống gắn với phát triển du lịch sẽ không chỉ góp phần tạo nguồn thu nhập cho người dân mà còn tạo động lực để cộng đồng các dân tộc chung tay gìn giữ, bảo tồn các di sản văn hóa của dân tộc trên địa bàn Mường Lay nói riêng, tỉnh Điện Biên nói chung.

Quỳnh Vy

Nguồn: Dulichvn

Cháo ấu tẩu vùng cao nguyên đá

Nếu phở chua, thắng cố là đặc sản của phiên chợ vùng cao ban ngày, thì cháo ấu tẩu là món ăn đêm mang hương vị rất riêng của vùng cao nguyên đá Đồng Văn.


Cháo ấu tẩu.

Ấu tẩu là một loại củ mọc tự nhiên trên núi cao, thoạt nhìn như củ khoai sọ, nhưng có độc tính mạnh. Dân gian gọi đây là “củ ngái ngủ”, vì nếu ăn sống hoặc chế biến sai cách, sẽ gây tê lưỡi, chóng mặt, thậm chí nguy hiểm đến tính mạng. Tuy nhiên, qua bàn tay khéo léo của người vùng cao, ấu tẩu lại trở thành nguyên liệu quý để nấu thành món cháo thơm ngon, bổ dưỡng.

Để nấu cháo ấu tẩu, trước hết phải ngâm củ trong nước vo gạo khoảng 10 tiếng, sau đó ninh kỹ từ 4 – 6 tiếng để khử hết độc. Khi chín, củ mềm, nhuyễn, có màu vàng nhạt và vị đắng đặc trưng. Gạo để nấu cháo thường là gạo nếp cái hoa vàng trộn gạo tẻ, ninh cùng nước xương hầm để tạo độ sánh, ngậy. Thịt băm, trứng gà, hành hoa, tía tô… được thêm vào lúc cuối, tạo nên hương thơm hài hòa giữa mùi thuốc Bắc và mùi cháo truyền thống.

Ấn tượng đầu tiên khi ăn là vị đắng ở đầu lưỡi, nhưng rồi sau đó là vị ngọt bùi, béo ngậy lan tỏa nơi cổ họng. Vị đắng ấy không làm người ta khó chịu, mà lại gây nghiện, nhất là trong cái lạnh căm căm của đêm vùng cao. Người dân vùng cao ăn cháo ấu tẩu để giữ ấm, ngủ ngon, chống lại mệt mỏi. Du khách ăn cháo để nhớ mãi một hương vị không nơi nào có được.

Ngày nay, cháo ấu tẩu đã trở thành đặc sản nổi tiếng, được bày bán ở nhiều quán nhỏ và các xã vùng cao. Đó là món ăn vừa bình dân vừa độc đáo, vừa là tinh hoa ẩm thực, vừa là tri thức bản địa kết tinh qua nhiều thế hệ.

Hoàng Anh

Nguồn: Dulichvn

Trò Xuân Phả: Hồn Việt xứ Thanh

Trò Xuân Phả – mạch nguồn văn hóa xứ Thanh, loại hình nghệ thuật diễn xướng dân gian sống động tái hiện cảnh năm quốc gia lân bang triều kiến Hoàng đế Đại Việt. Di sản phi vật thể này không chỉ minh chứng hùng hồn cho lịch sử, nghệ thuật mà còn là nơi hội tụ tinh hoa và niềm tự hào dân tộc Việt qua bao thế hệ.


Điệu Tú Huần sống động của các nghệ nhân làng Trung, Thọ Xuân – Thanh Hóa.

Khởi nguồn từ làng Xuân Phả, xã Xuân Trường (Thọ Xuân, Thanh Hóa) vùng đất giàu truyền thống lịch sử, nơi phát tích cuộc khởi nghĩa Lam Sơn lừng lẫy (1418 -1427), Trò Xuân Phả đã trở thành một vùng sáng trong bức tranh văn hóa xứ Thanh. Các nhà nghiên cứu cho rằng trò diễn này xuất hiện từ thời nhà Đinh (968–980) và phát triển rực rỡ dưới triều Lê Sơ.

Mỗi điệu múa trong Trò Xuân Phả là một bức tranh văn hóa dân gian sống động, tái hiện không gian ngoại giao và giao lưu văn hóa đa dạng giữa Đại Cồ Việt và các quốc gia lân bang.

Những điệu trò này kể những câu chuyện về tình đoàn kết, sự hòa hợp và giao lưu văn hóa, thể hiện trí tuệ và tài hoa của người Việt. Trải qua chiều dài lịch sử ngàn năm, di sản này vẫn luôn tỏa sáng, tiếp tục là biểu tượng văn hóa dân gian đặc sắc của dân tộc.

Mỗi điệu múa trong Trò Xuân Phả là một bức tranh dân gian sinh động, thể hiện nét đặc sắc của văn hóa xứ Thanh.

“Ngũ quốc lân bang đồ tiến cống” – Năm điệu múa dân gian đặc sắc

Hằng năm, từ ngày 10-12 tháng hai âm lịch, Trò Xuân Phả được tổ chức tại di tích Nghè Xuân Phả thu hút đông đảo người dân địa phương và du khách tham dự, trở thành một lễ hội đặc sắc của vùng đất Thọ Xuân. Các nghệ nhân trong làng luân phiên biểu diễn, từ vẻ huyền bí, lộng lẫy của Trò Chiêm Thành, nét dí dỏm của Trò Tú Huần đến sự mềm mại, mạnh mẽ của Trò Ai Lao.

Năm điệu múa dân gian trong tích Trò Xuân Phả biểu trưng cho “Ngũ quốc lân bang đồ tiến cống”: Trò Hoa Lang (tượng trưng cho Vương quốc Cao Ly); Trò Tú Huần (tượng trưng cho Lục Hồn Nhung); Trò Ai Lao (tượng trưng cho người Thái-Lào); Trò Ngô Quốc (tượng trưng cho một quốc gia cổ đại ở Trung Quốc); Trò Chiêm Thành (tượng trưng người Chăm-pa).

Mỗi điệu múa trong Trò Xuân Phả là một câu chuyện nghệ thuật sống động, khéo léo lồng ghép những thông điệp lịch sử, văn hóa qua từng hình tượng, trang phục và động tác biểu diễn. Di sản này in đậm dấu ấn của sự kết hợp tinh tế giữa nghệ thuật diễn xướng cung đình và dân gian, phản ánh sâu sắc quan niệm thẩm mỹ cùng tâm hồn mộc mạc, sáng tạo của người dân xứ Thanh.

Điệu trò Chiêm Thành – màn trình diễn dân gian đậm chất sử thi của các nghệ nhân làng Đoài (Thọ Xuân – Thanh Hóa).

Trong Trò Xuân Phả, điệu múa Chiêm Thành từ làng Đoài, xã Xuân Trường, thực sự cuốn hút. Trang phục được chế tác công phu: chúa uy nghi trong áo lụa đỏ hồng, quân lính khoác áo đậu, tất cả đều vấn khăn vuông đỏ, cùng những chiếc áo phỗng cổ sòi, cổ xiêm. Điệu múa này toát lên vẻ trang trọng và bí ẩn, với hình ảnh chúa đọc văn tế, hai phỗng thành kính dâng hương, và đoàn quân mang mặt nạ gỗ kỳ lạ gợi nhớ mạnh mẽ đến những tượng Chăm cổ xưa.

Trò Hoa Lang (làng Thượng, xã Xuân Trường) mang đến màn trình diễn đầy màu sắc với các nhân vật ông, cháu, mế nàng và mười quân. Trang phục đặc trưng gồm áo dài, mũ cao làm từ da bò, và được nhấn nhá bởi mặt nạ da bò phết sơn trắng, điểm mắt gắn lông công. Chúa đội mũ chạm khắc rồng tinh xảo, còn quân lính đội mũ họa tiết mặt nguyệt. Toàn bộ trang phục của trò Hoa Lang nổi bật với sắc xanh nước biển.

Trò Ai Lao (làng Yên, xã Xuân Trường) trình diễn sống động với mười quân cùng voi và hổ, hòa nhịp tiếng xênh tre. Điệu múa biểu trưng cho sức mạnh săn bắt, đồng thời thể hiện sự uyển chuyển, mềm mại. Chúa đội mũ cánh chuồn, khoác áo chàm xanh. Quân lính đội mũ rễ si, quấn phá ngang vai, chân mang xà cạp, tay cầm xênh tre, mô phỏng cảnh săn bắn, hái lượm. Trang phục đặc trưng là quần dài, áo cánh trắng, quấn xà cạp màu xanh chàm, cùng tấm thổ cẩm dệt hoa văn Lào quàng chéo.

Trò Ngô Quốc (làng Đông, xã Xuân Trường) lại hấp dẫn với hai nàng tiên, ông chúa và mười quân, tất cả đội nón lính, mặc áo màu lam, tay cầm mái chèo. Mở đầu bằng các nhân vật phụ như người bán thuốc, bán kẹo, thầy địa lý với những đoạn múa ngẫu hứng. Trò diễn kết thúc bằng điệu múa chèo thuyền cùng những lời ca trữ tình: “Gió tăm tắp buồm chạy ra khơi/ Chàng về Bắc quốc, em thời An Nam/ Mưa đâu chớp đấy cho cam/ Mưa qua thành Lạng chớp ngàn mây xanh.”

Còn Trò Tú Huần (hay Lục Hồn Nhung) từ làng Trung, xã Xuân Trường, khắc họa hình ảnh bà cố, mẹ và mười người con với 5 cặp, theo độ tuổi từ trẻ đến già (1 đến 5 cái răng). Mũ tre đan úp ngược có lạt tre làm tóc bạc, đội trên miếng khăn vuông vải đỏ bịt đầu. Cụ cố già, người hầu cầm quạt, lượn hai vòng quanh sân nghè, vái chào. Bà mẹ gõ xênh, nhảy theo nhịp ba gần ban thờ, quỳ vái. Mười người con chia thành từng đôi, tiến lùi theo mẹ múa. Trang phục có màu xanh chàm.

Biểu tượng văn hóa Việt trường tồn

Trò Xuân Phả là nơi nghệ thuật dân gian Việt Nam tỏa sáng rực rỡ, phô diễn vẻ đẹp bất tận của văn hóa xứ Thanh và tinh hoa dân tộc. Loại hình diễn xướng này là một tuyệt tác nghệ thuật, kết hợp hài hòa nét trang nghiêm của múa cung đình với sự mộc mạc, phóng khoáng của múa dân gian. Trò Xuân Phả chính là sự kết tinh của tài năng sáng tạo, niềm tự hào dân tộc và chiều sâu lịch sử, tạo nên sức hấp dẫn vượt thời gian.

Trò Xuân Phả vẽ nên một thế giới vừa trang nghiêm, huyền bí, vừa sống động, rực rỡ. Từng vũ điệu, từng âm thanh đều khơi gợi niềm tự hào và tình yêu quê hương đất nước. Bởi vậy, Trò Xuân Phả không chỉ là di sản văn hóa phi vật thể quý giá của Việt Nam, mà còn là biểu tượng cho sự trường tồn của nghệ thuật dân gian, một báu vật văn hóa xứng đáng được gìn giữ và tôn vinh trên bản đồ văn hóa thế giới.

Thế Dương

 

Nguồn: Dulichvn

Danh thắng độc lạ bên bờ sóng…

Những ngày học xa, tôi hay khoe chúng bạn “quê tui có gành Đá Dĩa”. Đó là danh thắng nằm ven biển xã An Ninh Đông, huyện Tuy An (tỉnh Phú Yên cũ), nay là xã Tuy An Đông, tỉnh Đắk Lắk hiện đang thu hút đông đảo khách du lịch.


Trong quyết định của Bộ Văn hóa – Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) công nhận là thắng cảnh cấp quốc gia (năm 1997) và Thủ tướng Chính phủ xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt (năm 2020), danh thắng thiên nhiên này được gọi là ghềnh Đá Đĩa. Tuy nhiên, dân địa phương từ xưa đến nay vẫn gọi là gành Đá Dĩa.

Khu vực chính của danh thắng gành Đá Dĩa có diện tích khoảng 2.700 m², các cột đá bazan tại đây tạo thành hai mũi nhô ra biển. Mũi nhô thứ nhất nằm về phía Bắc, nổi bật với các cột đá nghiêng, uốn cong. Mũi thứ hai nằm về phía Nam với các cột đá hầu hết thẳng đứng và tạo thành các bậc từ thấp đến cao.

Du khách khám phá gành Đá Dĩa.

Theo Bảo tàng Phú Yên, bazan tại khu vực này hình thành do hoạt động phun trào của núi lửa trong vùng cách đây hàng triệu năm. Các dòng dung nham khi nguội dần thì đông cứng lại và nứt vỡ thành các cột đá hình lăng trụ tương đối đồng đều. Những cột đá nằm kề biển sau đó lại chịu tác động của sóng đánh vào nên tiếp tục nứt theo chiều ngang, như những chiếc dĩa chồng lên nhau. Nhìn từ xa, gành Đá Dĩa tựa như một tổ ong khổng lồ bên bờ Biển Đông. Tại một số tỉnh miền Trung – Tây Nguyên hiện có vài điểm xuất lộ bazan dạng cột nhưng không mang vẻ đẹp độc đáo như khu vực gành Đá Dĩa.

Bày ra trước mắt khách du là lớp lớp các cột đá đen trầm mặc trong sóng trắng biển xanh an lành. Xen giữa các khối đá hình lục lăng xếp thành tam cấp là các hõm xanh mướt rong tảo cùng nhiều loài cá lạ mắt muôn màu. Nhiều người cho biết, khi chụp ảnh bên những cột đá đen này thì thấy mình như… nổi bật lên! Còn các tay máy chuyên nghiệp thì rất thú vị với sự chuyển màu kỳ lạ của các chồng đá nơi đây tùy theo sắc nắng trong ngày.

Theo truyền thuyết trong vùng, các khối đá này vốn là một kho của cải vàng bạc, châu báu. Vào một đêm, có kẻ xấu châm lửa đốt cửa kho với ý định cướp số của cải này, tuy nhiên giữa chừng một cơn lốc xoáy cuốn chúng đi và phát ra tiếng nổ kinh hoàng. Sáng hôm sau, người dân phát hiện tất cả của cải đã hóa thành các khối đá. Lại có truyền thuyết kể rằng, nơi đây có cảnh quan thơ mộng nên các vị thần tiên giáng trần, đem theo chén vàng, dĩa ngọc xuống để mở yến tiệc. Rồi do mải mê vui chơi, họ bỏ quên các chồng bát dĩa, lâu ngày hóa thành những dĩa đá chồng khít lên nhau….

Kề phía Nam danh thắng hiện có lăng Đá Dĩa thờ cúng thần Nam Hải (tức Cá Ông) của ngư dân trong vùng, được xây dựng vào khoảng giữa thế kỷ 19 dưới thời vua Tự Đức. Tiếp đó là những bãi tắm phẳng phiu cát vàng mịn óng. Nhìn ra là nhấp nhô bến đậu tàu thuyền của ngư dân quanh vùng.

Gành Đá Dĩa cách đô thị Tuy Hòa khoảng 40 km về phía Bắc. Du khách có thể đi theo Quốc lộ 1 đến xã Tuy An Bắc rồi rẽ trái ngang qua nhà thờ cổ Mằng Lăng, sau đó đi thẳng xuống gành. Hoặc có thể đến gành theo cung đường ven biển êm đềm trong khung cảnh làng mạc, ruộng đồng bình yên, trù phú.

Đào Đức Tuấn

Nguồn: Dulichvn

Ăn cái bánh căn ở Sài Gòn

Một ngày, tôi viết câu trạng thái tếu tếu trên Facebook: “Ở Sài Gòn ăn được cái bánh căn mừng muốn gớt nước mắt”. Quả thật như vậy. Ngày đầu tiên thấy bên kia đường, đối diện chung cư tôi ở có tấm bảng: “Bánh căn, bánh xèo”, tôi vừa ngỡ ngàng rồi òa vỡ niềm vui, từ đây thỏa nỗi nhớ Nha Trang của dân ghiền món bánh căn là tôi. Hàng bánh căn này của một gia đình gốc Phan Rang nên cái bánh căn tuy không “chính chủ” Nha Trang nhưng cũng khiến tôi và các con đỡ cơn thèm. 


Cái bánh căn Phan Rang ở Sài Gòn không được đúc trong lò bằng đất với than mà bằng một cái lò inox khoét những lỗ tròn, bên trên có 16 khuôn bánh căn bằng đất nung; đặc biệt hơn nữa bên dưới là lò gas. Chị chủ hàng giải thích cho tôi rằng phải như vậy mới kịp khi khách ăn đông, nếu đúc bằng khuôn đất như ở Nha Trang hay Phan Rang thì không kịp.

Với tôi, món bánh căn Nha Trang và Phan Rang hoàn toàn giống nhau. Vào đến Phan Thiết thì món bánh căn có thêm nhiều nhân nữa như: Cá nục kho, trứng luộc, da heo… không phù hợp với những người thích ăn bánh căn Nha Trang đơn giản chỉ có trứng hay mực, tôm, thịt bò và ăn với nước mắm ớt tỏi, mỡ hành, có thêm xíu mại hay nước cá tùy theo quán. Bánh căn Phan Rang cũng vậy về cái ngon và trạng thái bột nướng, trứng, mỡ hành, nước mắm gần như nhau. Về trình bày, bánh căn Phan Rang thoa mỡ hành và bỏ xoài bằm lên trên. Với người ghiền bánh căn Nha Trang như tôi thì cách ăn này không “phê”. Mỡ hành phải cho vào chén nước mắm đặc lềnh, xoài bằm cũng bỏ vào mắm, dằm ớt xiêm, thêm viên xíu mại nữa là tuyệt vời!

Chợt nhớ hồi giãn cách vì dịch Covid-19, tôi đặt mua một lò bánh căn, hy vọng rảnh rỗi cả nhà có kỷ niệm quây quần bên lò đúc bánh căn rôm rả. Vậy nhưng món bánh căn chỉ làm đúng một lần. Ở chung cư bất tiện khi nhóm lò than vì khói bay lên, sợ còi báo cháy kêu. Lò bánh căn sau đó tôi tặng cho gia đình một chị bạn.

Trong quá trình “thực địa” về ẩm thực, tôi thấy Phan Rang và Nha Trang có những món gần giống nhau, ví dụ như tôi đặc biệt thích món bún cá ở Phan Rang mà tôi đã ăn một lần, rất vừa miệng. Cũng là xứ biển nên cách nấu như nhau, miếng cá ngon đậm đà và chả cá cũng thơm dậy mùi như chả cá Nha Trang.

Giờ đây, khi bản đồ ẩm thực không còn giới hạn vùng miền nữa thì ở Sài Gòn tôi thấy có rất nhiều quán bánh căn Phan Rang hay ở Lái Thiêu nổi tiếng có một hàng bánh căn, bánh xèo, bún cá Phan Rang tôi đã ăn một lần và thấy khá ngon. Cái ngon có lẽ còn thỏa nỗi nhớ Nha Trang, nhớ nhà.

Ngày mưa Sài Gòn, nhón nhén bước chân qua đường mua cái bánh căn. Ngồi chờ chủ hàng đúc bánh căn, mùi thơm bột nướng tỏa lên khiến tôi nhớ nhà quá đỗi. Và tôi thấy mình thật may mắn khi cách nhà chỉ 100m, bước xuống đường tôi đã thỏa nỗi nhớ Nha Trang, thỏa cơn thèm món ruột, món rất quen thuộc của người Nha Trang, đi xa là nhớ.

Kim Duy

Nguồn: Dulichvn

Văn hóa cổ truyền và văn hóa truyền thống

Cổ truyền, truyền thống là hai khái niệm được sử dụng khá phổ biến trong văn hóa song có lẽ vì chưa rạch ròi về nội hàm mà thường được xem xét hoặc sử dụng nhầm lẫn.


Cần hiểu rõ các khái niệm cổ truyền, truyền thống, cách tân để phát huy tốt các giá trị văn hóa, lịch sử của dân tộc. Ảnh: Quang Hưng

1. Trước hết, cổ truyền là các giá trị được thế hệ đi trước làm ra, truyền lại nguyên vẹn cho thế hệ đương đại. Ở Việt Nam, bánh chưng, áo tứ thân, nhà mái chảy… là các giá trị cổ truyền.

Còn truyền thống là khái niệm chỉ các giá trị cổ truyền được thế hệ sau sử dụng hoặc bổ sung yếu tố mới khiến vẫn có thể tồn tại, như bánh chưng, áo dài, mái chảy trên ngôi nhà ống… Qua đó truyền thống không bất biến, không chỉ là giá trị của quá khứ; và truyền thống mang tải cả ý nghĩa hiện đại, vì được cách tân, bổ sung yếu tố mới. Hơn nữa, nếu không chứa đựng yếu tố mới thì truyền thống không thể vận hành trong thời hiện đại. Đến thời điểm nào đó truyền thống của hôm nay sẽ trở thành cổ truyền của ngày mai, và sẽ được kế thừa, bổ sung, từ đó truyền thống mới sẽ ra đời…

2. Đó là lý giải từ tính liên tục lịch sử của văn hóa, khi mà mỗi thế hệ đã sản xuất, sử dụng các sản phẩm văn hóa phù hợp với quan niệm, điều kiện của mình và thế hệ kế tục kế thừa có chọn lọc là đương nhiên. Với bánh chưng, đó là chiếc bánh không thuần túy để ăn mà còn mang tải giá trị tinh thần, vật phẩm quy ước khi đón xuân nhớ về tổ tiên, ông bà, nên được thế hệ tiếp theo tiếp nhận, giữ gìn. Áo tứ thân đẹp nhưng không còn phù hợp với thời đại đòi hỏi đẹp hơn, đa dạng hơn, sinh động hơn; áo dài ra đời là sự kế thừa hoàn hảo để áo tứ thân cổ truyền vẫn có ý nghĩa.

Tương tự, khi nhận thức đã phát triển, xã hội có luật pháp về hôn nhân gia đình thì quan niệm “cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy” cũng phai nhạt rồi biến mất khỏi sinh hoạt xã hội, nghĩa là một giá trị cổ truyền đã bị loại bỏ… Nhìn chung hiện tượng cổ truyền “bị lỗi mốt” là khá phổ biến. Như đề cao bình đẳng nam nữ khiến thói “trọng nam khinh nữ” bị phê phán; như khi ngày Tết các bậc cha mẹ không còn khắt khe, vì con cái sinh sống ở xa mà chấp nhận tạt qua nhà vài ngày trước Tết, hoặc vui vẻ nghe lời chúc Tết qua điện thoại, video call…

Văn hóa, trước hết là sự khác nhau. Dù lớn hay nhỏ thì mỗi tộc người đều có hệ thống giá trị văn hóa riêng, không thể xóa bỏ, hoặc áp đặt. Lấy văn minh làm quy chiếu để phán xét, áp đặt lên văn hóa dân tộc khác là phản văn hóa; mỗi dân tộc đều có lựa chọn văn hóa riêng, không có hơn kém giữa ăn bằng thìa và nĩa với ăn bằng đũa, hoặc bốc; không có dân tộc thượng đẳng, không có dân tộc hạ đẳng, cũng không có văn hóa dân tộc là “cái rốn của vũ trụ”.

Đặc biệt, trong khi giữ gìn, phát huy văn hóa, mỗi tộc ít người luôn có xu hướng hướng đến văn hóa của tộc chủ thể (ở Việt Nam là văn hóa của người Việt – Kinh), để rồi mọi sự còn phức tạp hơn. Bởi mỗi dân tộc ít người vừa phải giải bài toán cổ truyền, truyền thống của mình, vừa tham gia giải bài toán cổ truyền, truyền thống trên phạm vi quốc gia. Thí dụ điển hình cho hiện tượng này là sau nhiều năm ít chú ý, ở Tây Nguyên số nghệ nhân có khả năng chỉnh cồng chiêng hầu như rất ít, nhà nghiên cứu Bùi Trọng Hiền từ Hà Nội vào phải mày mò học hỏi khôi phục lại các kỹ năng rồi chính anh trở thành người dạy chỉnh cồng chiêng cổ truyền ở Tây Nguyên. Như vậy Bùi Trọng Hiền vừa giúp đồng bào khôi phục một giá trị âm nhạc cổ truyền, vừa giúp bảo quản, lưu giữ một tài sản âm nhạc của quốc gia.

3. Trong bản chất của nó, truyền thống có sức ì nhất định. Nếu không có sức ì, cộng đồng dễ quên quá khứ, đánh mất quá khứ, thậm chí thiếu sức ì thì trước sự xâm nhập văn hóa của bên ngoài, một cộng đồng có thể đánh mất “căn cước văn hóa”. Hiểu như thế sẽ không bị truyền thống trì néo, kìm hãm mà còn thấy có trách nhiệm làm cho truyền thống tiếp tục phát triển. Toàn cầu hóa đang diễn ra trong kinh tế, khoa học, công nghệ. Về logic hình thức, khi kinh tế, khoa học, công nghệ phát triển sẽ tác động tới văn hóa, nhưng trong bối cảnh toàn cầu hóa như đã phát lộ thì khó có thể coi là tác động tất yếu. Và để giải quyết, văn hóa sẽ phải điều chỉnh để giữ bản sắc, hiện thực hóa điều vẫn gọi là “hòa nhập nhưng không hòa tan”.

Thực tế cho thấy, khi bị áp đặt văn hóa từ bên ngoài thường có mấy tình huống xảy ra như: hoặc cam chịu, chấp nhận; hoặc kháng cự quyết liệt; hoặc vừa gìn giữ văn hóa, vừa giải quyết linh hoạt, hài hòa quan hệ cổ truyền với truyền thống, vừa tiếp biến giá trị tích cực để củng cố sức mạnh của chính mình. Trong quá khứ mỗi khi bị xâm lăng văn hóa, cha ông chúng ta luôn chọn tình huống thứ ba, và rất thành công.

Nguyễn Hòa

Nguồn: Dulichvn

Nhịp thở mới từ làng hoa giấy Thanh Tiên (TP. Huế)

Làng hoa giấy Thanh Tiên – cái nôi của nghệ thuật làm hoa giấy truyền thống – một nghề không chỉ tạo ra những đóa hoa rực rỡ mà còn chắt lọc tinh hoa của văn hóa tâm linh, của bàn tay khéo léo và tình yêu dành cho di sản dân tộc.


Hoa giấy Thanh Tiên rực rỡ sắc màu 

Giữa vùng đất Cố đô Huế thấm đẫm sắc màu văn hóa, làng nghề hoa giấy Thanh Tiên như một điểm chấm phá dịu dàng và trầm lắng bên dòng sông Hương thơ mộng. Trải qua hơn 4 thập kỷ, làng nghề không chỉ là nơi làm ra những đóa hoa giấy phục vụ tín ngưỡng và lễ hội, mà còn mang trong mình cả một di sản văn hóa phi vật thể quý giá.

Làng hoa giấy Thanh Tiên tọa lạc trên cánh đồng tại xã Phú Mậu, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên Huế nay là phường Dương Nổ, TP.Huế. Không giống như những loại hoa trang trí thông thường, hoa giấy Thanh Tiên mang trong mình một chiều sâu văn hóa đặc biệt. Mỗi bông sen, bông huệ, bông cúc đều gắn với nghi lễ tín ngưỡng, với phong tục thờ cúng tổ tiên, với Tết, với rằm, với những mùa lễ hội thấm đẫm tính tâm linh của người Việt. Từ đôi bàn tay khéo léo và tỉ mỉ của các nghệ nhân đã cho ra đời những bông hoa giấy đầy sắc màu, tinh tế và mang đậm phong cách riêng của làng nghề nơi đây.

Để tạo ra một bông hoa giấy, nghệ nhân phải chuẩn bị từ trước. Tre phải lựa loại dẻo dai nhất, chẻ nhỏ rồi đem phơi khô làm cành và cuống hoa. Giấy màu phải cắt thành hình bông hoa, dán hồ tạo hình, ghép nhuỵ tạo thành từng bông hoa rồi sau đó ghép hoa vào cành. Quá trình nhuộm màu giấy hoa được làm thủ công bằng màu tự nhiên theo công thức gia truyền của mỗi gia đình.

Bác Trần Phú năm nay 63 tuổi – một nghệ nhân lâu năm của làng hoa  

Bác Trần Phú năm nay 63 tuổi –  một nghệ nhân nổi tiếng của vùng và là đời thứ 3 trong gia đình có truyền thống làm hoa giấy. Bác chia sẻ: “Làm hoa giấy trước đây không đảm bảo được cuộc sống như hiện nay, chỉ bán được vào những dịp tết còn thời gian khác phải làm thêm các công việc đồng áng để có thêm chi phí. Còn bây giờ hoa giấy được đặt mua quanh năm, được nhiều du khách biết đến và tham gia trải nghiệm làm hoa”.

Khi đặt chân đến đây, chúng tôi bắt gặp một số bạn trẻ và du khách đang tham gia trải nghiệm làm ra một bông hoa thực thụ. Người thì tỉ mỉ tạo ra những nếp gấp, đường gợn cho cánh hoa, người thì đính các cánh hoa tạo thành hình thù của những loài hoa: hoa tường vy, hoa hồng, hoa huệ… Tôi thấy trên khuôn mặt các bạn trẻ đầy nhiệt huyết cũng như sự thích thú đối với những bông hoa này.

Theo bạn N.T.H.Trang – sinh viên năm ba Trường Đại học Nghệ Thuật, Đại học Huế chia sẻ: “Cứ mỗi dịp tết em thấy mẹ mua những cây hoa giấy Thanh Tiên để trưng trong nhà, bản thân em cảm thấy tò mò và hứng thú với những bông hoa giấy đầy sắc màu và bắt mắt. Vì vậy, em đã tìm hiểu về làng nghề và dành thời gian đến khám phá làng nghề cũng như trải nghiệm làm ra một bông hoa giấy. Sau khi tham gia trải nghiệm làm hoa và nghe chú chia sẻ, em cảm thấy yêu quý từng bông hoa, không chỉ vì vẻ đẹp của nó mà vì câu chuyện và công sức người thợ bỏ ra”.

T.P.Thành – sinh viên năm cuối trường Đại học Phú Xuân, kể lại: “Lúc đầu mình chỉ nghĩ đến làng nghề để trải nghiệm cho biết với bạn bè. Nhưng khi được bác Phú tận tay hướng dẫn làm bông hoa hồng, mình bất giác thấy lặng người lại. Cảm giác khi thấy giấy hóa thành hoa, đơn sơ mà thiêng liêng lạ thường. Và mình nghĩ phải làm cái gì có ích để mọi người biết đến làng nghề. Thế nên, mình hay giới thiệu cho bạn bè, dẫn các bạn khách nước ngoài đi trải nghiệm ở làng nghề Thanh Tiên”.

Làng nghề hoa giấy Thanh Tiên thu hút các bạn trẻ  

Cũng từ đây, nhiều sinh viên tìm đến làng trong các kỳ nghỉ để quay dựng tư liệu bằng ảnh, video và sử dụng “truyền thông” để nhiều người biết đến làng nghề hơn. Nhiều trường học các cấp trong thành phố và các tỉnh lân cận thường xuyên tổ chức các chuyến trải nghiệm trong năm học cho các em học sinh tại làng Thanh Tiên. Từ đó giúp các em tìm hiểu về truyền thống, thêm yêu bản sắc dân tộc qua mỗi cánh hoa bằng giấy, qua từng câu chuyện được kể ở mỗi nghệ nhân trong làng.

Thông qua từng thước phim, từng tấm ảnh ghi lại hành trình trải nghiệm làm ra đóa hoa giấy từ những đôi tay còn rất trẻ – những sinh viên vốn tưởng như chỉ quen với sách vở, công nghệ, lại là những người đang âm thầm níu giữ hồn làng, níu giữ văn hoá truyền thống của làng nghề Thanh Tiên.

Bác Phú chia sẻ thêm: “Khi nhìn thấy nhiều khách du lịch đặc biệt là những bạn trẻ ngày càng quan tâm và biết đến làng nghề, bác cảm thấy vui lắm. Hoa giấy Thanh Tiên gắn liền với bác qua từng kỷ niệm, giai đoạn của cuộc đời. Làm hoa giấy không phải chỉ để bán, mà là để giữ lấy cái hồn của làng, của quê, của tổ tiên mình. Đó là động lực để bác theo đuổi và giữ gìn cái hồn này suốt bấy nhiêu năm qua”. Câu nói ấy, tưởng như chỉ là lời chia sẻ của một người nghệ nhân giữ nghề, nhưng lại trở thành lời gọi thầm, dẫn lối cho nhiều người trẻ bước vào con đường đầy gian truân nhưng cũng ngập tràn cảm xúc: Hành trình giữ gìn hoa giấy Thanh Tiên.

Bảo tồn làng nghề không phải là chuyện trong ngày một ngày hai. Hoa giấy Thanh Tiên vẫn đối mặt với muôn vàn khó khăn. Thế nhưng làng hoa giấy Thanh Tiên hôm nay vẫn rực rỡ sắc màu như hàng trăm năm trước, và điều quý giá hơn cả là nó đang hồi sinh bằng một nhịp thở mới – nhịp thở của những người trẻ đầy đam mê, sáng tạo và trách nhiệm của mỗi một thế hệ.

Hoàng Anh – Phương Minh

Nguồn: Dulichvn

Tour du lịch sông Gâm khai thác con đường di sản

Việc tỉnh Hà Giang và Tuyên Quang hợp nhất, chính quyền địa phương 2 cấp chính thức vận hành từ ngày 01/7 mở ra cánh cửa mới cho ngành du lịch của tỉnh. Ông Matsuo Tomoyuki, Chủ tịch Hiệp hội Ẩm thực Nhật Bản – Việt Nam mới đây có buổi làm việc với tỉnh Tuyên Quang cho rằng, sau khi hợp nhất hai tỉnh thì tuyến du lịch đi Quản Bạ, Mèo Vạc, xuống Bắc Mê, qua Na Hang, về trung tâm tỉnh Tuyên Quang sẽ trở thành sự thật.


Du khách tham quan danh thắng Cọc Vài.

Để đón đầu xu hướng đó Hiệp hội Ẩm thực Nhật Bản mong muốn mở rộng diện tích cây tam giác mạch như ở xã Nà Hang, Hồng Thái. Ngoài thu mua hạt tam giác mạch cho xuất khẩu làm mì Soba, thì hoa tam giác mạch tạo cảnh quan cho phát triển du lịch, nuôi ong lấy mật, góp phần nâng cao đời sống người dân địa phương.

Trước kia trong Chương trình hợp tác phát triển du lịch Qua những miền di sản Việt Bắc, tuyến du lịch “Huyền thoại sông Gâm” nối từ huyện Bắc Mê (cũ), xuống huyện Lâm Bình, Na Hang (cũ), nay là xã Bắc Mê, Lâm Bình, Na Hang của tỉnh Tuyên Quang mới đã được triển khai khá hiệu quả. Các tour tuyến du lịch hình thành, một số dịch vụ, sản phẩm du lịch dọc tuyến được mở ra, nhờ đó thu hút khách du lịch. Nhiếp ảnh gia Hoàng Hưng, hội viên Hội Văn học Nghệ thuật Tuyên Quang người đã có kinh nghiệm nhiều năm chụp ảnh ở hồ sinh thái Na Hang – Lâm Bình khẳng định, các nhiếp ảnh gia trong và ngoài nước đều đánh giá rất cao danh lam thắng cảnh vùng lòng hồ sinh thái chạy dọc sông Gâm từ Bắc Mê xuống Lâm Bình, Na Hang. Hai bên sông Gâm có những ngọn núi đá vôi cao,  hình thù đẹp, rừng nguyên sinh xanh rì. Thi thoảng thuyền của du khách sẽ bắt gặp những bản làng của đồng bào dân tộc thiểu số sống ở vùng lõi của khu bảo tồn thiên nhiên. Rồi những làng chài nuôi cá, đánh bắt cá tôm ngay trên lòng hồ, tạo nên cảnh sắc vừa hoang dã, vừa bình dị, nên thơ.

Các đảo đá vôi trên lòng hồ sinh thái.

Phó Giáo sư, Tiến sỹ Dương Văn Sáu, nguyên Trưởng Khoa Du lịch Trường Đại học Văn hóa Hà Nội chúc mừng Hà Giang và Tuyên Quang đã về chung “một nhà”. Sức mạnh về phát triển du lịch của tỉnh mới sẽ nhân lên gấp bội, nhờ bổ trợ và tương hỗ lẫn nhau. Ông đánh giá rất cao tiềm năng, lợi thế phát triển tuyến du lịch “Huyền thoại sông Gâm”. Sự kết hợp giữa du lịch sinh thái với du lịch cộng đồng giàu bản sắc dân tộc thiểu số địa phương sẽ làm lên nét riêng của du lịch Tuyên Quang. Sau khi ổn định tổ chức bộ máy của tỉnh mới, việc tái cấu trúc lại không gian du lịch, chắc chắn du lịch Tuyên Quang sẽ có nhiều lợi thế.

Tuyên Quang vẫn xác định du lịch là ngành kinh tế quan trọng, dư địa phát triển của tỉnh còn nhiều. Hiện nay các công ty, lữ hành du lịch trong tỉnh cũng rất kỳ vọng vào tuyến du lịch “Huyền thoại sông Gâm” để mở ra, khai thác tốt con đường di sản. Công ty TNHH Thương mại và Du lịch Cô Sơn Nữ chia sẻ, hiện đang khai thác du lịch tại vùng lòng hồ sinh thái Na Hang và Lâm Bình. Tới đây khi tuyến du lịch Bắc Mê – Lâm Bình – Na Hang nhộn nhịp, Công ty sẽ có những dự tính tour tuyến dài ngày, khai thác triệt để vẻ đẹp tuyến du lịch sông Gâm.

Chị Nguyễn Hồng, du khách ở Hải Phòng, người đã từng nhiều lần du lịch vùng lòng hồ sinh thái Na Hang – Lâm Bình tin tưởng, sự sáp nhập tỉnh này khiến du khách không thể bỏ qua những địa danh đẹp trên cùng một tuyến sông Gâm. Chị và gia đình háo hức một ngày gần đây được trở lại Na Hang-Lâm Bình để có thể khám phá tour du lịch Bắc Mê và ngược lại. Để cảm nhận vẻ đẹp của Tuyên Quang…

Bài, ảnh: Quang Hòa

Nguồn: Dulichvn

Hang Chỉ Huy – lớp học lịch sử giữa đại ngàn

Ẩn mình giữa những tầng rừng già Phong Nha – Kẻ Bàng, Hang Chỉ Huy không chỉ là chứng tích của một thời khói lửa, mà còn là điểm đến giáo dục giàu cảm xúc cho thế hệ trẻ. Mỗi bước chân của học sinh, sinh viên khi trải nghiệm tại di tích này đều là những bài học quý giá, khơi dậy niềm tự hào và trách nhiệm gìn giữ lịch sử… cho muôn đời sau.


Hang Chỉ Huy, nơi lịch sử vang vọng

Tọa lạc tại Km12, đường 20 Quyết Thắng nằm trong vùng lõi của Vườn Quốc gia Phong Nha – Kẻ Bàng (Quảng Trị), Hang Chỉ Huy từng là căn cứ hậu cần chiến lược của Bộ Tư lệnh 559 trong kháng chiến chống Mỹ. Nơi đây từng lưu giữ hàng nghìn tấn hàng hóa, vũ khí, lương thực, và là trung tâm điều phối quan trọng đảm bảo mạch máu chi viện từ Bắc vào Nam không bao giờ bị cắt đứt.

Lãnh đạo tỉnh Quảng Trị trải nghiệm, xem những hiện vật tại Hang Chỉ Huy

Sau gần nửa thế kỷ, di tích này đã được phục dựng và phát triển thành khu du lịch sinh thái “Đường Trường Sơn huyền thoại – Hang Chỉ Huy”, mang đến trải nghiệm chân thực qua hệ thống trưng bày, các phân khu tương tác lịch sử, và đặc biệt là trình chiếu thực tế ảo 9D sống động. Điều này biến chuyến tham quan trở thành một hành trình giáo dục trực quan, hấp dẫn, đặc biệt với lứa tuổi học sinh – sinh viên. Tương lai, đây cũng là “địa chỉ đỏ” trong việc giáo dục truyền thống đối với các thế hệ học sinh tỉnh Quảng Trị.

Nhiều cô giáo trong đoàn tham quan Hang Chỉ Huy chia sẻ: Chúng tôi cùng học sinh đã nghe, được xem các tư liệu về đường Trường Sơn, nhưng khi được ‘tận tai nghe bom rơi, tận mắt thấy vỏ bom thật’ ở nơi từng là tổng kho hậu cần, mới thực sự ‘chạm’ được vào quá khứ. Mỗi bước đi là một trải nghiệm, là liên tưởng đến những câu chuyện gian nan, vất vả của các anh chị dân công hoả tuyến, các chú bộ đội đã không quản ngại hi sinh thân mình để có được chiến thắng lịch sử.

“Có lẽ, không có bài giảng nào lay động bằng những bước chân trong hang lạnh và tối ấy.”…

Đường vào Hang Chỉ Huy

“Lúc ngồi trên xe Zil-130 trong khu trình chiếu, em cảm giác như mình đang ở giữa cơn mưa bom thật sự. Em nghe thấy tiếng máy bay B52 rít, đất đá rung chuyển, và tự hỏi: Làm sao các chú bộ đội có thể sống sót và lái xe giữa địa ngục như vậy? Sau buổi đó, em cảm thấy mình phải trân trọng hiện tại nhiều hơn.”… Nhiều em nhỏ ở lứa tuổi học sinh theo gia đình trải nghiệm tại Hang Chỉ Huy đã có những thay đổi cách nhìn về lịch sử dân tộc.

Di tích, “biết” để thấu hiểu “cảm” để khắc ghi

Có thể nói, giá trị lớn nhất của Hang Chỉ Huy không nằm ở sự hùng vĩ của thiên nhiên hay các công nghệ hiện đại được ứng dụng, mà ở khả năng đánh thức “ý thức công dân” trong mỗi người trẻ. Trên tuyến đường 20 Quyết thắng này, những câu chuyện về 8 nữ thanh niên xung phong, về những chiếc đèn rùa bám đường, hay cảnh “ta sửa, ta đi” giữa lửa đạn đều để lại dư âm trong lòng người trẻ, thôi thúc họ sống trách nhiệm hơn với quá khứ và tương lai đất nước.

Du khách trải nghiệm thực tế tại Hang Chỉ Huy

Ông  Nguyễn Châu Mỹ – Tổng Giám đốc Công ty TNHH T20 Quyết Thắng chia sẻ: Có thể trong thời đại mà học sinh dễ bị cuốn theo thế giới số, những chuyến đi thực tế đến các di tích như Hang Chỉ Huy chính là “liều thuốc tinh thần” để gợi nhắc về cội nguồn.

“Khi ý tưởng mở tuyến du lịch này, nhiều giáo viên đã tâm sự với tôi về khu di tích lịch sử như Hang Chỉ Huy là một phần mở rộng quan trọng trong chương trình giáo dục kỹ năng sống, giáo dục lịch sử và công dân. Khi lịch sử được kể lại bằng công nghệ hiện đại và không gian thực tế, học sinh sẽ tiếp nhận kiến thức một cách tự nhiên, thậm chí chủ động đi tìm hiểu thêm – điều mà giáo trình trên lớp khó làm được.”… ông Nguyễn Châu Mỹ tâm sự.

Các em học sinh trải nghiệm tại Hang Chỉ Huy

Chính từ những trải nghiệm xúc động ấy, Hang Chỉ Huy không còn là một điểm đến đơn thuần, mà là…”, Hang Chỉ Huy nay hồi sinh không chỉ như một di tích – mà còn như một cầu nối ký ức. Ở đó, mỗi mảng tường đá từng chứng kiến sự sống còn, mỗi tầng hang từng chở lương thực nuôi quân, mỗi đường hầm từng ẩn giấu hy sinh – nay trở thành những bài học sống động để thế hệ trẻ “học làm người Việt Nam” đúng nghĩa.

Hang Chỉ Huy xứng đáng được xem là một trải nghiệm thực tế hữu ích của thế hệ trẻ, nơi mà từng hơi thở của quá khứ vẫn hiện hữu, để mỗi học sinh bước vào đều mang ra một niềm tin, một suy ngẫm, một cam kết sâu sắc với đất nước.

Vĩnh Quý

 

Nguồn: Dulichvn

Đền Thái Vi – “Chứng nhân” lịch sử, văn hoá giữa núi rừng Tràng An

Đền Thái Vi là ngôi đền cổ linh thiêng nằm trong vùng lõi Quần thể danh thắng Tràng An (Ninh Bình) được các vua nhà Trần cho khởi dựng vào thế kỷ XIII. Trải qua nhiều thế kỷ, ngôi đền vẫn sừng sững, hiên ngang là chứng nhân lịch sử, văn hoá giữa núi rừng Tràng An.


Toàn cảnh đền Thái Vi giữa núi rừng Quần thể danh thắng Tràng An

Đền Thái Vi thuộc thôn Văn Lâm, xã Ninh Hải, thành phố Hoa Lư (nay là phường Nam Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình). Đền nằm giữa không gian cảnh quan sơn thủy hữu tình trong khu rừng Ô Lâm xưa. Bao quanh đền là các dãy núi đá vôi trùng trùng điệp điệp, phía bên phải đền có dòng sông Ngô Đồng uốn khúc, bên trái có ngọn núi Cối Lĩnh, sau lưng là dãy núi Cấm Sơn hùng vĩ.

Đền Thái Vi quay hướng Nam, phía trước của đền có giếng ngọc hình tròn được dựng bằng những phiến đá xanh nguyên khối, nước trong vắt quanh năm. Bao che khuôn viên đền là tường xây bằng đá hộc. Nghi môn đền được xây bằng đá, hai bên có đôi ngựa bằng đá nguyên khối lớn đứng chầu. Sau nghi môn có các công trình nằm đối xứng qua trục thần đạo: Hồ nước hình chữ nhật, gác chuông – gác trống ở hai bên và đền chính nằm ở trung tâm.

Đền Thái Vi có kết cấu bởi đá nguyên khối và gỗ được chạm trổ tinh xảo

Đại diện lãnh đạo Phòng Di sản văn hóa, Sở Văn hóa và Thể thao tỉnh Ninh Bình cho biết: Sau khi vua Trần Thái Tông nhường ngôi đã vân du đến An Khang. Ông thấy ở đây núi non hùng vĩ, nhiều hang động cùng dòng sông Ngô Đồng uốn khúc như dải lụa chảy vào hang núi nên bất ngờ bởi vẻ đẹp tự nhiên nơi đây.

Vì vậy, vua Trần Thái Tông cho dựng một am nhỏ trong hang Cả nhưng vì địa thế hẹp, không thuận tiện đi lại nên đã chọn mảnh đất rộng rãi ở ngoài phía Nam động, có địa thế đẹp, cây cối tốt tươi, thế đất hình rồng để dựng am tu luyện và đặt tên là am Thái Vi.

Ban đầu dân cư còn thưa thớt, ở thành các chòm, xóm nên gọi là Ô Lâm, ông đã chiêu dân lập ấp, khuyến khích nhân dân khai khẩn đất hoang, phát triển canh nông. Sau khi Trần Thái Tông mất, con trưởng của ông là vua Trần Thánh Tông đã cho đắp thần tượng để phụng thờ ở đền Thái Vi, cấp tiền, ruộng đất để khói nhang cúng tế, đặt thành lệ nước.

Cụ Chu Văn Thim (86 tuổi) thủ nhang đền Thái Vi chia sẻ: Đền chính được cấu tạo bởi ba cung: cung Đệ Nhất, cung Đệ Nhị, cung Đệ Tam với 28 cột đá cao 3,2m (trong đó 22 cột đá vuông, 6 cột đá tròn). Điều đặc biệt là toàn bộ các thành phần kiến trúc của đền chính hầu như được làm bằng đá, chỉ có kết cấu đỡ mái được làm bằng gỗ. Tất cả các cột đá này được các nghệ nhân xưa chạm đục tứ linh, long cuốn thủy cực, long chầu… cực kỳ tinh xảo và đẹp mắt.

Trên các cột trụ đá, mặt trước chạm câu đối bằng chữ Hán, mặt sau chạm rồng, mây, phượng, lân… Hình rồng lớn là đề tài trang trí chủ đạo trên cột. Rồng được chạm nổi với đầu lớn, quay chầu vào trong, thân có vẩy, uốn khúc chạy dọc theo chiều dài của cột, trên thân có nhiều mây ám.

Cụ Chu Văn Thim, thủ nhang đền Thái Vi chia sẻ về những nét độc đáo của đền

Cung Đệ Tam có kiến trúc 5 gian, cung Đệ Nhị có 3 gian, cung Đệ Nhất có 5 gian, 2 tầng 4 mái, xây hồi bít đốc. Giữa cung Đệ Nhị và cung Đệ Nhất được ngăn cách bằng vách đá và thiết kế 3 cánh cửa. Trên cửa có phiến đá nguyên khối chạm khắc rồng chầu mặt trời, phượng hàm thư rất nổi bật.

Trong khuôn viên đền có gác chuông được xây dựng dưới thời vua Duy Tân. Gác chuông có kiến trúc 2 tầng 8 mái với 32 cột gỗ. Hệ thống đỡ các mái gồm cột, xà, bẩy đều được làm bằng gỗ lim.

Ngoài giá trị đặc biệt về lịch sử, di sản văn hóa phi vật thể, không gian cảnh quan kiến trúc, đền Thái Vi còn lưu giữ được nhiều hiện vật có giá trị như ngựa đá, bia đá, chuông… Đền Thái Vi không chỉ là căn cứ kháng chiến của quân dân Đại Việt chống quân Nguyên – Mông ở thế kỷ XIII mà trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp còn là nơi cất giấu vũ khí của quân dân ta. Đền đã được Bộ Văn hóa, Thông tin xếp hạng di tích lịch sử – nghệ thuật cấp quốc gia năm 1994.

Đền gắn liền với lịch sử nhà Trần, thờ vua Trần Thái Tông, Hiển Từ Thuận Thiện Hoàng hậu, vua Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông, Trần Anh Tông cùng các vị tướng lĩnh tài ba nhà Trần là Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn và Chiêu Minh Đại Vương Trần Quang Khải.

Đền Thái Vi nằm trong Quần thể danh thắng Tràng An, Tam Cốc – Bích Động thuộc vùng đất Cố đô Hoa Lư lịch sử. Ngôi đền nằm trọn trong sự bao bọc của không gian núi rừng hùng vĩ, là nét trầm mặc nổi bật trên cánh đồng lúa bát ngát. Đây là nốt son có giá trị lịch sử, văn hoá, tạo nên một quần thể di tích lịch sử và danh lam thắng cảnh đặc biệt cho khu vực này và thu hút đông đảo du khách trong nước và quốc tế.

Anh Tú

Nguồn: Dulichvn

TIN MỚI NHẤT