Du lịch trong nước

Du lịch trong nước, tin tức du lịch trong nước, các tour du lịch trong nước, các địa điểm du lịch trong nước hấp dẫn được chúng tôi tổng hợp và đưa tin hàng ngày đến cho khách du lịch trên khắp mọi miền đất nước có được thông tin du lịch trong nước để có những thông tin hữu ích nhất cho mình và gia đình khi quyết định chọn chuyến du lịch trong nước cho mình và người thân

Cao Bằng: Bảo tồn ngôn ngữ gốc của các dân tộc để bảo tồn văn hóa truyền thống

Ngôn ngữ là những công cụ mạnh mẽ nhất để bảo tồn và phát triển di sản vật thể và phi vật thể của tất cả các dân tộc. Ngôn ngữ đóng vai trò quan trọng trong quá trình phát triển bởi nó bảo đảm sự đa dạng về văn hóa và giúp các nền văn hóa có thể giao thoa, trao đổi với nhau. 


Ngôn ngữ các dân tộc là công cụ mạnh mẽ nhất để bảo tồn và phát triển di sản. Tất cả những việc thúc đẩy sự phổ biến các ngôn ngữ mẹ đẻ không chỉ nhằm khuyến khích sự đa dạng về ngôn ngữ và giáo dục đa ngôn ngữ mà còn để nâng cao nhận thức về truyền thống ngôn ngữ và văn hóa trên khắp thế giới và truyền đi tinh thần đoàn kết dựa trên sự khoan dung, sự hiểu biết và đối thoại.

Ngôn ngữ đóng vai trò quan trọng trong quá trình phát triển bởi nó bảo đảm sự đa dạng về văn hóa và giúp các nền văn hóa có thể giao thoa, trao đổi với nhau. Ngôn ngữ cũng giúp tăng cường hợp tác, xây dựng xã hội tri thức toàn diện, bảo tồn các di sản văn hóa và tạo điều kiện tiếp cận với một nền giáo dục có chất lượng cho mọi người. Mỗi tiếng nói đều là nguồn ngữ nghĩa độc đáo để hiểu, viết và mô tả thực tế thế giới. Tiếng mẹ đẻ cùng với sự đa dạng của ngôn ngữ có ý nghĩa quan trọng để xác định bản sắc của các cá nhân như là nguồn sáng tạo và phương tiện để biểu hiện văn hóa, bảo đảm sự phát triển lành mạnh của xã hội. Một nền văn hóa hòa bình chỉ có thể được xây dựng trong một không gian, nơi tất cả mọi người có quyền sử dụng tiếng mẹ đẻ của họ một cách tự do và đầy đủ trong tất cả các hoàn cảnh khác nhau của cuộc sống.

Chính sách bảo tồn và phát huy ngôn ngữ các dân tộc thiểu số của Đảng, Nhà nước ta là nhất quán, đúng đắn và thể hiện đầy đủ nguyên tắc bình đẳng, đoàn kết giữa các dân tộc cùng chung sống trên lãnh thổ Việt Nam. Từ Đại hội lần thứ nhất của Đảng (tháng 3/1935) đã xác định: “Các dân tộc được dùng tiếng mẹ đẻ của mình trong sinh hoạt chính trị, kinh tế, văn hóa”. Chủ trương đó được quán triệt xuyên suốt qua các giai đoạn cách mạng của dân tộc. Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ V, khóa VIII tiếp tục xác định: “Bảo tồn và phát triển ngôn ngữ, chữ viết các dân tộc thiểu số. Đi đôi với việc sử dụng ngôn ngữ, chữ viết phổ thông, khuyến khích thế hệ trẻ thuộc đồng bào các dân tộc thiểu số học tập, hiểu biết và sử dụng thành thạo tiếng nói, chữ viết của dân tộc mình”. Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX khẳng định: “Ngoài tiếng phổ thông, các dân tộc có chữ viết riêng được khuyến khích học chữ dân tộc… dùng tiếng nói dân tộc và chữ viết của các dân tộc có chữ viết trên các phương tiện thông tin đại chúng ở vùng dân tộc”.

Lày cỏ tại các lễ hội xuân góp phần bảo tồn ngôn ngữ dân tộc. Ảnh Thế Vĩnh

Cao Bằng là địa bàn định cư phát triển của trên 95% đồng bào các dân tộc thiểu số, tạo nên sự phong phú, đa dạng về ngôn ngữ của các dân tộc. Tuy nhiên, xu hướng hội nhập văn hóa đã làm mai một ngôn ngữ mẹ đẻ của nhiều dân tộc thiểu số. Nhận diện sớm vấn đề, vì vậy trong nhiều năm qua, đi đôi với phát triển kinh tế, công tác bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống qua ngôn ngữ của các dân tộc thiểu số đã được các cơ quan chức năng, các cấp, các nhà ngôn ngữ, các nhà văn hóa học bảo tồn và phát huy các giá trị. Tỉnh triển khai nhiều giải pháp nhằm bảo tồn và phát triển tiếng nói, góp phần bảo tồn bản sắc văn hóa của cộng đồng các dân tộc thiểu số trong điều kiện hội nhập đang diễn ra sâu rộng.

Thực trạng hiện nay tại Thành phố, thị trấn, thị tứ không có mấy người trẻ còn có thể nói được tiếng mẹ đẻ của dân tộc mình, chỉ còn người già nói được tiếng mẹ đẻ, lớp trung niên còn bập bõm được đôi ba câu tiếng nói của dân tộc mình. Qua quá trình nghiên cứu cho thấy, có nhiều nguyên nhân dẫn đến nguy cơ mai một ngôn ngữ của các dân tộc thiểu số. Quá trình hội nhập vùng miền, hội nhập quốc tế, đặc biệt là khu vực thành phố, thị trấn, thị tứ…; trong mỗi gia đình và cộng đồng không thường xuyên sử dụng ngôn ngữ dân tộc mình; môi trường sống quá biệt lập hoặc giao thoa trong khu vực mà dân tộc thiểu số khác có dân số đông hơn; điều kiện kinh tế – xã hội phát triển lên cũng rất dễ kéo theo nguy cơ làm mai một ngôn ngữ; vấn đề truyền dạy không được quan tâm, chú trọng; sự hỗ trợ của các cơ quan chuyên môn, chính quyền địa phương chưa thật sự mang lại hiệu quả. Để khắc phục mọi trở ngại cho mục tiêu nghiên cứu, bảo tồn và phát huy ngôn ngữ các dân tộc thiểu số trong cộng đồng các dân tộc, cơ quan chức năng các cấp cần tiếp tục xây dựng kế hoạch, cần có các giải pháp hữu hiệu, những quyết sách đúng đắn để tiếp tục bảo tồn, phát huy ngôn ngữ các dân tộc. Đặc biệt từ trong từng gia đình, dòng họ, khu dân cư, trong từng dân tộc phải chủ động truyền dạy tiếng mẹ đẻ cho các thế con cháu.

Dù trải qua nhiều thăng trầm, nhưng đồng bào các dân tộc, các nhà ngôn ngữ, các nhà khoa học đã luôn nỗ lực bảo tồn ngôn ngữ, ngôn ngữ nói và ngôn ngữ các dân tộc. Bởi, ngôn ngữ hồn cốt của dân tộc. Ngôn ngữ là công cụ của tư duy, của giao tiếp, ngôn ngữ đồng thời là công cụ để truyền tải cả một nền văn hóa, một tinh thần dân tộc. Việc bảo tồn, gìn giữ và phát huy những giá trị ngôn ngữ dân tộc thiểu số cũng là bảo tồn, gìn giữ và phát huy những giá trị, bản sắc văn hóa của các dân tộc thiểu số trong cộng đồng các dân tộc thiểu số.

Ngôn ngữ không chỉ là công cụ mạnh mẽ nhất để bảo tồn và phát triển di sản vật thể và phi vật thể của từng dân tôc, mà còn giữ vai trò quan trọng trong quá trình phát triển của nhân loại, đảm bảo sự đa dạng về văn hóa và thúc đẩy quá trình giao thoa, kế thừa tinh hoa của các nền văn hóa của mỗi dân tộc.

Thiên Phước

Nguồn: Dulichvn

Ninh Bình: Sức sống di sản nghề cói Kim Sơn

Sau khi được công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia, nghề cói Kim Sơn (Ninh Bình) đã có bước phát triển rõ rệt. Người dân hưởng lợi trực tiếp từ việc tăng giá trị sản phẩm, mở rộng thị trường và phát triển du lịch làng nghề.


Giá trị các sản phẩm từ cói ngày càng được nâng cao. Ảnh: Đình Minh.

Người dân hưởng lợi

Dưới cái nắng ở vùng ven biển Ninh Bình giữa tháng 4, những bàn tay chai sạn của người thợ vẫn miệt mài đan từng sợi cói óng ả. Công việc tưởng chừng giản đơn ấy giờ đây mang một ý nghĩa hoàn toàn khác, khi nghề cói Kim Sơn là Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia từ ngày 25/4/2024.

Tại cơ sở sản xuất cói của bà Phan Thị Ngoãn (trú xóm An Cư 2, xã Thượng Kiệm), không khí lao động hăng say thấy rõ, những người thợ đang miệt mài làm ra từng sản phẩm. Bà Ngoãn cho biết, nghề đan cói ở Thượng Kiệm đã gắn liền với bao thế hệ, nay được công nhận là di sản, người dân rất mừng.

Theo bà Ngoãn, nghề cói Kim Sơn có lịch sử hình thành từ thế kỷ XIX, gắn liền với công cuộc khai hoang lấn biển của cư dân vùng đồng bằng Bắc bộ. Cây cói, loài thực vật ưa nước mặn, đã trở thành nguồn nguyên liệu quý giá để người dân sáng tạo nên những sản phẩm độc đáo. Từ những tấm chiếu cói thô sơ ban đầu, qua bàn tay khéo léo của các nghệ nhân, đã phát triển thành hàng trăm loại sản phẩm tinh xảo như túi xách, mũ, thảm trang trí, đồ lưu niệm…

“Nghề đan cói ngày xưa được coi là nghề phụ, tranh thủ lúc nông nhàn mới làm. Nhưng hiện nay, giá trị các sản phẩm từ cói ngày càng được nâng cao, lại được công nhận là nghề di sản nên số lượng đơn hàng và thu nhập của người dân đã tăng lên rất nhiều. Hiện nay, cơ sở của tôi đang tạo việc làm thường xuyên cho 6 lao động với mức thu nhập từ 300 nghìn đồng/người/ngày. Năm 2024, từ việc sản xuất, bán trực tiếp và đấu nối thu mua, bán hộ các sản phẩm từ cói cho hơn 100 hộ dân, trừ hết chi phí đi, tôi có lãi gần 300 triệu đồng” – bà Ngoãn nói.

Chị Nguyễn Thị Nguyệt (trú xóm An Cư 2) cho biết: Bản thân chị có thâm niên hơn 10 năm làm nghề đan cói. Trước kia, các sản phẩm chỉ là chiếu, thảm… nhưng nay, nghề đã phát triển, đơn hàng đến nhiều nên phải liên tục cập nhập mẫu mã mới, phục vụ thị hiếu ngày càng cao của thị trường. “Nếu có tay nghề tốt, chăm chỉ làm việc thì một người thợ có thể kiếm được 400 nghìn đồng/ngày. Cái hay của nghề là không bị bó buộc thời gian, ngồi ở đâu cũng làm được, nên rất tiện cho những người hay bận bịu việc đồng áng và gia đình như tôi” – chị Nguyệt nói.

Nâng cao giá trị làng nghề

Ông Nguyễn Khải Hoàn – Chủ tịch UBND xã Thượng Kiệm cho biết: Hiện nay, tại địa phương, có khoảng 1.200 hộ dân đang làm nghề đan cói. Theo ông Hoàn, trong những năm gần đây, nghề này phát triển rất mạnh, nhiều cơ sở xuất khẩu các sản phẩm từ cói ra sang Nhật Bản, Hàn Quốc và các nước châu Âu, thu lợi nhuận lớn. “Riêng năm 2024, nguồn thu từ việc sản xuất, chế biến các sản phẩm từ cói trên địa bàn đã đạt gần 40 tỷ đồng” – ông Hoàn tự hào nói.

Trao đổi với phóng viên Báo Đại Đoàn Kết, ông Trần Anh Khôi – Phó Trưởng Phòng Nông nghiệp và Môi trường, UBND huyện Kim Sơn cho biết: Trên địa bàn huyện, hiện có gần 30 doanh nghiệp sản xuất các sản phẩm từ cói, thu hút khoảng 1.000 lao động thường xuyên. Ngoài ra, còn có hàng chục nghìn lao động là nông dân, người lao động tận dụng thời gian nông nhàn, cũng đan cói và có thu nhập tốt. “Các sản phẩm từ cói ở Kim Sơn đã xuất khẩu tới gần 20 quốc gia, trong đó, nhiều sản phẩm đã đạt chứng nhận OCOP của tỉnh như gương cói, túi cói, bình hoa… Năm 2024, doanh thu từ việc chế biến cói trên địa huyện ước đạt gần 200 tỷ đồng”- ông Khôi nói.

Ông Phạm Văn Sang – Trưởng phòng Văn hóa và Thông tin, UBND huyện Kim Sơn cho biết: Hiện nay, toàn huyện có 25 làng nghề truyền thống, trong đó, chủ yếu là các làng nghề làm cói. Đằng sau những kết quả đã đạt được, ông Sang cho rằng, vẫn còn rất nhiều khó khăn và thách thức để gìn giữ và nâng cao giá trị nghề làm cói truyền thống. Trong đó, vấn đề nghiêm trọng nhất là tình trạng biến đổi khí hậu khiến diện tích trồng cói ngày càng thu hẹp; làn sóng đô thị hóa kéo theo tình trạng thiếu hụt lao động khi nhiều thanh niên chọn làm công nhân thay vì theo đuổi nghề; cùng với đó, là sự cạnh tranh khốc liệt từ các mặt hàng công nghiệp giá rẻ…

Để tìm ra hướng đi bền vững trong thời gian tới, ông Sang cho biết thêm: UBND huyện cũng đã phối hợp với Trung tâm xúc tiến du lịch của tỉnh, manh nha ý tưởng hình thành tour du lịch, kết nối các địa điểm trên địa bàn như: Nhà thờ Phát Diệm – Cầu ngói Phát Diệm – Bãi Ngang – Cồn Nổi – làng cói Kim Sơn… “Nếu triển khai được, ngoài việc đi khám phá các điểm du lịch, du khách có thể tận mắt chứng kiến quy trình làm ra sản phẩm, từ khâu trồng cói, thu hoạch đến đan lát thành phẩm. Chúng tôi xác định, bảo tồn nghề cói không chỉ là giữ gìn di sản văn hóa, mà còn là phát triển kinh tế bền vững” – ông Sang nói.

Đình Minh

 

Nguồn: Dulichvn

Đánh thức lịch sử từ những tác phẩm mỹ thuật

Không gian Bảo tàng Hồ Chí Minh – Chi nhánh TP Hồ Chí Minh trở nên ấm áp và sống động hơn khi 10 tác phẩm điêu khắc chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh vừa được Hội Mỹ thuật TP Hồ Chí Minh trao tặng trưng bày tại đây.


Khi nghệ thuật trở thành ngôn ngữ của lịch sử

Vừa qua, tại Bảo tàng Hồ Chí Minh – Chi nhánh TP Hồ Chí Minh, hai chuyên đề trưng bày “Từ Chiến thắng Điện Biên Phủ đến Đại thắng mùa Xuân năm 1975” và “Hình tượng Chủ tịch Hồ Chí Minh qua ngôn ngữ điêu khắc” đã được khai mạc, nằm trong chuỗi hoạt động kỷ niệm 50 năm Ngày Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

Điểm đặc biệt thu hút sự quan tâm của công chúng là việc Hội Mỹ thuật TP Hồ Chí Minh trao tặng 10 tác phẩm điêu khắc chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh, do chính các nghệ sĩ hội viên sáng tác và tuyển chọn. Mỗi tác phẩm là một lát cắt lịch sử, một câu chuyện được kể bằng ngôn ngữ điêu khắc, từ những ngày Bác ra đi tìm đường cứu nước đến khi trở về lãnh đạo cách mạng Việt Nam giành thắng lợi trọn vẹn.

Tiến sĩ, Nhà điêu khắc Trần Thanh Nam, Phó chủ tịch Hội Mỹ thuật TP Hồ Chí Minh, khẳng định: “Điêu khắc là nghệ thuật của không gian và thời gian nên có khả năng lưu giữ những khoảnh khắc “bất tử”, giúp người xem hình dung về những hình tượng đã thuộc về quá khứ. Chính vì thế, điêu khắc có thể trở thành chất xúc tác để người trẻ thêm yêu lịch sử, thêm tự hào về cội nguồn dân tộc”.

Một sĩ quan Quân đội chăm chú quan sát bức tượng điêu khắc chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh được trưng bày tại Bảo tàng.

Là tác giả bức tượng “Anh thanh niên Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước năm 19 tuổi”, Tiến sĩ, Nhà điêu khắc Trần Thanh Nam cho biết đã đặt trọn tâm huyết để khắc họa hình ảnh một người thanh niên yêu nước với ánh mắt rực sáng, như một lời hiệu triệu thế hệ trẻ hôm nay tiếp bước cha ông, cống hiến cho Tổ quốc.

Khơi dậy niềm tự hào dân tộc

Bà Vũ Thị Tuyết Nga, Giám đốc Bảo tàng Chiến thắng Điện Biên Phủ, đơn vị phối hợp tổ chức trưng bày chuyên đề, nhấn mạnh: “Chúng tôi không chỉ trưng bày chuyên đề, mà muốn khơi gợi tinh thần yêu nước, trách nhiệm công dân. Giáo dục lịch sử không thể chỉ nằm trong sách vở, mà phải đến từ trải nghiệm, từ xúc động chân thành. Những nỗ lực này không chỉ góp phần lan tỏa hình tượng Chủ tịch Hồ Chí Minh, mà còn khơi gợi niềm tự hào dân tộc, vun đắp lý tưởng cách mạng và trách nhiệm công dân trong mỗi người trẻ”.

Công chúng tham quan, tìm hiểu các nội dung lịch sử được trưng bày trong chuyên đề.

Không khí bảo tàng những ngày này rộn ràng hơn thường lệ. Đông đảo học sinh, sinh viên, cựu chiến binh và du khách đã đến chiêm ngưỡng, ghi chép, chụp ảnh, lặng lẽ lắng nghe từng câu chuyện bên mỗi bức tượng Bác.

Cùng với dòng người tham quan, bạn Hồ Thị Ái My (ngụ tại Quận 8, TP Hồ Chí Minh), chăm chú dừng lại thật lâu trước bức ảnh tư liệu ghi lại khoảnh khắc chiến thắng tại Điện Biên Phủ, rồi lặng lẽ ghi chép điều gì đó vào sổ tay. Ái My chia sẻ: “Em từng học về Chiến dịch Điện Biên Phủ và Đại thắng mùa Xuân 1975 trong sách giáo khoa, nhưng khi được nhìn tận mắt các tư liệu, bản đồ tác chiến, những bức ảnh đầy cảm xúc và nhất là các tác phẩm điêu khắc chân dung Bác Hồ, em như được “chạm” vào lịch sử một cách sống động. Mỗi góc trưng bày là một lát cắt quá khứ, nhưng không hề cũ kỹ mà rất gần gũi, như một lời nhắn gửi với thế hệ trẻ chúng em hôm nay phải biết trân trọng và tiếp nối. Em tin nếu lịch sử được kể bằng nghệ thuật như thế này, nó sẽ tự nhiên đi vào tâm trí người trẻ mà không cần phải nhồi nhét hay ép buộc”.

Còn với chị Phan Thị Thu An, hội viên Hội Liên hiệp Phụ nữ Phường 15, Quận 4, TP Hồ Chí Minh, buổi tham quan là chuyến trở về quá khứ: “Nhìn những bức ảnh tư liệu, bản đồ chiến dịch, tôi như được sống lại trong không khí hào hùng từ Chiến thắng Điện Biên Phủ đến Đại thắng mùa Xuân năm 1975. Là hội viên Hội Liên hiệp Phụ nữ, tôi càng thấm thía vai trò của phụ nữ trong lịch sử, vừa là hậu phương, vừa trực tiếp chiến đấu. Đây là bài học quý để tôi kể lại cho con cháu, giúp các em hiểu rằng độc lập hôm nay được đánh đổi bằng biết bao máu xương. Các chuyên đề nên được quảng bá thêm trên mạng xã hội để người dân trong và ngoài nước có thể tiếp cận, tìm hiểu, qua đó lan tỏa tinh thần yêu nước và tự hào dân tộc rộng rãi hơn nữa”.

Không gian trưng bày chuyên đề sẽ kết thúc vào ngày 12-5.

Bài và ảnh: Kiều Oanh

 

Nguồn: Dulichvn

Hà Nội: Diện mạo mới của các di sản

Lấy ý tưởng từ tuyến tàu điện – biểu tượng Hà Nội một thời với 5 tuyến tàu Bạch Mai, Bưởi, Hà Đông, Cầu Giấy, Yên Phụ, UBND phường Trúc Bạch (Hà Nội) vừa ra mắt Tuyến tàu điện số 6 – Chuyến tàu đêm di sản, một mô hình du lịch đặc thù kết hợp giữa trải nghiệm văn hóa, du lịch và ẩm thực…


Du khách tham dự buổi giới thiệu “Tuyến tàu điện số 6” và Triển lãm ẩm thực trà cổ thụ Shan tuyết. Ảnh: M.H.

Ấn tượng với Tuyến tàu điện số 6

Sau 6 tháng thử nghiệm, mới đây, UBND phường Trúc Bạch (quận Ba Đình, Hà Nội) đã ra mắt mô hình du lịch đặc biệt “Chuyến tàu đêm di sản” với những trải nghiệm, khám phá ẩm thực, du lịch rất độc đáo. Có thể nói, đây là sản phẩm du lịch trọng điểm được quận Ba Đình đầu tư rất công phu với mong muốn góp phần phát huy các tiềm năng, thế mạnh khu vực hồ Trúc Bạch, kết nối giá trị di sản văn hóa Thủ đô.

Ông Nguyễn Dân Huy – Bí thư Đảng ủy phường Trúc Bạch cho biết: “Chuyến tàu đêm di sản” với sứ mệnh kết nối các di tích lịch sử, làng nghề truyền thống với không gian cảnh quan hồ Trúc Bạch và đặc biệt là các di sản vật thể, phi vật thể của Hà Nội, qua các trải nghiệm về văn hóa, du lịch và ẩm thực, giúp du khách hiểu rõ hơn về lịch sử và văn hóa đặc trưng của địa phương, đồng thời tạo ra trải nghiệm du lịch độc đáo và ý nghĩa.

“Trước kia Hà Nội có 5 tuyến tàu được xây dựng từ thế kỷ 19 nhưng đã dừng hoạt động. Với mong muốn kết nối giá trị lịch sử dành cho thế hệ tương lai, chúng tôi đặt tên dự án là Tuyến tàu điện số 6 với mong muốn chuyến tàu sẽ chuyên chở di sản tiếp tục kết nối lịch sử đến hiện tại và thế hệ tương lai” – ông Huy nhấn mạnh.

Trong điểm khởi hành đầu tiên, du khách sẽ đến tham quan đền Thủy Trung Tiên – ngôi đền linh thiêng nằm trên hòn đảo nhỏ (xưa là đền Cẩu Nhi, gắn với sự tích vua Lý Công Uẩn dời đô năm Canh Tuất 1010, lập nên thờ Thần cẩu). Nghe giới thiệu về lịch sử vùng đất Trúc Bạch – nơi lưu giữ nhiều giá trị văn hóa, lịch sử của kinh thành Thăng Long xưa, các nghề truyền thống như dệt lụa, đúc đồng – một trong bốn nghề tinh hoa bậc nhất của Kinh thành Thăng Long – Hà Nội.

Có thể nói, trên chuyến tàu di sản, mỗi toa tàu kể cho du khách những câu chuyện rất thú vị của người Hà Nội qua các thời kỳ. Bước vào toa tàu “Bếp – Chạn – Mâm”, người ta như lắng đọng với không gian Hà Nội thời bao cấp với chạn gỗ, mâm cơm không thịt, tem phiếu. Rồi toa “Phở – Bún – Sợi” thơm nức mùi quế, hồi, thảo quả – những thứ gia vị làm nên món phở Việt – Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia. Cùng với đó là sự biến tấu của phở với món phở cuốn, phở chiên phồng “đặc sản” Đảo Ngọc – Ngũ Xã…

Đặc biệt, phòng điều hành của dự án này mang tên “Leng keng di sản” được đặt ngay tại Trụ sở UBND phường Trúc Bạch. “Trong dự án này chúng tôi cộng tác với rất nhiều người trẻ. Và khi người trẻ làm sáng tạo phải đặt họ trong môi trường sáng tạo, nếu đặt họ trong môi trường hành chính sẽ không thể tạo ra sản phẩm tốt. Vì vậy phòng điều hành dự án được thiết kế dưới dạng mô hình căn hộ của người Hà Nội với gác xép, khung cửa gỗ màu xanh, chiếc máy khâu, xe đạp Thống Nhất, tủ thuốc gia đình, radio, bộ salon gỗ bóng màu thời gian… Qua đó, chúng tôi muốn gửi gắm tới các bạn trẻ cần phải biết trân quý các giá trị văn hóa truyền thống. Từ trân quý đó các bạn sẽ có ý thức bảo tồn và phát huy giá trị di sản” – ông Huy chia sẻ.

Một hoạt cảnh kịch tính trong “Đêm thiêng liêng 2” của di tích Nhà tù Hỏa Lò.

Khai thác giá trị di sản theo cách mới lạ

Thời gian gần đây, phát triển tour du lịch đêm trở thành sản phẩm du lịch đặc thù được TP Hà Nội làm khá tốt. Có thể nói, sự ra đời của các tour du lịch đêm đã trở thành điểm nhấn trong bức tranh du lịch của Thủ đô, góp phần thu hút và giữ chân khách quốc tế đến và ở lại Hà Nội lâu hơn.

Hiện thành phố đang khai thác các tour du lịch đêm như: “Giải mã Hoàng thành Thăng Long”, “Đêm thiêng liêng” tại Nhà tù Hỏa Lò; “Chữ Tâm, chữ Tài” tại Bảo tàng Văn học Việt Nam; “Tinh hoa đạo học” tại Văn Miếu – Quốc Tử Giám. Các tour du lịch này thu hút rất nhiều khách du lịch trong và ngoài nước.

Trong đó, với tour du lịch “Tinh hoa đạo học” du khách được trải nghiệm một không gian về đêm vô cùng huyền ảo với hệ thống âm thanh, ánh sáng và công nghệ 3D Mapping, khác biệt hoàn toàn so với việc tham quan di tích ban ngày. Điểm đặc biệt của tour đêm nằm ở sân Thái Học khi du khách được xem trình diễn 3D Mapping về những câu chuyện liên quan đến trường đại học lâu đời nhất của Việt Nam, thể hiện trong các chủ đề: Trường thi, các sĩ tử thời xưa, ý chí, ước mơ đỗ đạt, học tập ôn luyện, cá chép hóa rồng…

Tour đêm khám phá Hoàng thành Thăng Long hay “Đêm thiêng liêng” tại di tích Nhà tù Hỏa Lò (quận Hoàn Kiếm, Hà Nội) cũng thu hút rất nhiều du khách trong và ngoài nước. Bên cạnh những sản phẩm trải nghiệm ban ngày, vào các tối thứ 6 và thứ 7 hàng tuần, Di tích Nhà tù Hỏa Lò tổ chức các chương trình như “Đêm thiêng liêng 1” – Sáng ngời tinh thần Việt; Đêm thiêng liêng 2 – Sống như những đóa hoa và Đêm thiêng liêng 3 – Lửa thanh xuân tái hiện những câu chuyện về sự dũng cảm của những chiến sĩ trẻ tuổi… Với các hoạt động như trải nghiệm hoạt cảnh tái hiện khung cảnh đấu tranh của các chiến sĩ cách mạng và lắng nghe câu chuyện của những nhân chứng sống đã mang đến nhiều cảm xúc trong lòng du khách.

Có thể nói, du lịch đêm từ hệ thống các di sản tại Hà Nội hiện nay đang khai thác hiệu quả giá trị văn hóa – lịch sử vốn có của Thủ đô, đồng thời đáp ứng nhu cầu trải nghiệm ngày càng đa dạng của du khách. Rất nhiều du khách nước ngoài quan tâm đến tour đêm di sản với mong muốn được khám phá văn hóa, lịch sử, nghệ thuật đặc sắc của Thủ đô. Ban đêm cũng là thời điểm lý tưởng để tạo không gian huyền ảo, tôn vinh chiều sâu lịch sử – văn hóa một cách sống động, hấp dẫn hơn.

Hấp dẫn là vậy, nhưng theo đánh giá của một số chuyên gia, chúng ta vẫn chưa phát huy hết tiềm năng của du lịch di sản. Hiện nhiều di tích chưa đủ điều kiện để hoạt động ban đêm, như thiếu hệ thống chiếu sáng nghệ thuật, lối đi an toàn, bảng hướng dẫn đêm, phòng cháy chữa cháy. Chúng ta cũng đang thiếu hướng dẫn viên hiểu sâu về văn hóa – lịch sử có thể kể những câu chuyện hấp dẫn cho du khách. Đội ngũ nghệ thuật hóa di sản (đạo diễn, thiết kế kịch bản, âm thanh ánh sáng) còn thiếu hoặc chưa được đầu tư đúng mức. Ngoài ra, các tour đêm cũng cần đầu tư lớn về công nghệ trình chiếu, ánh sáng, an ninh, bảo hiểm…

Vì vậy, để có thể khai thác tốt hơn tiềm năng các tour du lịch đêm từ di sản, theo các chuyên gia rất cần một chiến lược tổng thể, sự phối hợp hài hòa giữa Nhà nước, doanh nghiệp và cộng đồng sáng tạo. Đặc biệt là một chiến lược truyền thông đủ mạnh để tạo ra các tour du lịch đêm giàu bản sắc và hấp dẫn hơn.

Mai Hoa

 

 

Nguồn: Dulichvn

Đậm đà hương vị xứ dừa Bến Tre


Vùng sông nước Bến Tre với vườn cây trái trù phú, trong đó có trái dừa chế biến được rất nhiều món ăn, thức uống hấp dẫn tạo nên nét văn hóa riêng có của ẩm thực xứ dừa.

Bánh dừa nướng Bến Tre.

Bến Tre từ lâu được mệnh danh là “thủ phủ của cây dừa”. Thân dừa, trái dừa, nước dừa đến đọt dừa đều tạo ra những đồ ăn, thức uống được yêu thích. Đã có hơn 200 món ăn, bao gồm món chính, thức uống, bánh, chè từ dừa phá kỷ lục Việt Nam và ghi nhận kỷ lục thế giới là niềm tự hào và cũng là động lực để Bến Tre tiếp tục quảng bá nét văn hóa, du lịch thông qua ẩm thực từ dừa.

Trong đó, nước dừa Bến Tre từ lâu được biết đến như một loại nước uống tốt cho sức khỏe. Dừa dùng để uống thường là giống dừa xiêm, dừa dứa, dừa tam quan, dừa dâu, dừa lùn…Người ta còn lấy nước dừa để kho cá, kho thịt, kho tôm. Nước dừa còn được dùng nấu cơm nên người ta thường gọi với các tên đơn giản là cơm dừa hay cơm hấp nước dừa.

Gạo dùng để nấu cơm dừa phải chọn loại gạo dẻo, thơm; dừa phải chọn loại trái ngọt nước, thường là dừa xiêm, ăn vào có vị ngọt của dừa kết đọng trong mỗi hạt cơm. Nước cốt dừa còn góp mặt vào hầu hết các món chè, món bánh kết hợp với các nguyên liệu như khoai lang, đậu đen, đậu đỏ. Đặc biệt, khi du khách ghé Bến Tre thì không thể không lựa chọn những loại bánh về làm quà như: bánh dừa Giồng Luông; bánh tráng Mỹ Lồng, bánh phồng Sơn Đốc…

Các món ăn được chế biến từ dừa cũng cho thấy sự phong phú trong cách kết hợp các nguyên liệu khác cùng sự sáng tạo đa dạng trong cách chế biến của người đầu bếp đã tạo nên các món ăn độc đáo, hấp dẫn và tốt cho sức khỏe. Ẩm thực dừa cũng được chế biến nhiều các món ăn trứ danh như: tép rang dừa, gỏi củ hủ dừa, cơm trái dừa…

Trong đó, bánh xèo củ hủ dừa cũng là sự biến tấu mà người dân nơi đây đã sáng tạo thành món ăn đặc trưng được rất nhiều người phương xa biết đến. Ghé xứ dừa Bến Tre cũng đừng quên thưởng thức những món ăn đặc sản từ củ hủ dừa này. Trong đó, bánh xèo nhân cổ hũ dừa thịt vịt xiêm là món được thực khách yêu thích nhất. Thịt vịt xiêm được làm sạch, bỏ xương nêm gia vị, xào chín. Thêm vào đó, vị ngọt thanh, mềm của củ hủ dừa non được cắt sợi nhỏ, xào chín tới quện với vị bùi béo của đậu xanh càng làm món ăn thêm thơm ngon.

Ngoài ra, một món ăn bạn nhất định phải thử đó là món gỏi củ hũ dừa. Đây là món ăn mà người ta vẫn bảo là xa xỉ, bởi phải chặt cả cây dừa để lấy phần củ hũ trắng nuốt phía trên. Phần củ hũ dừa này được nạo mỏng, trộn cùng với tôm, thịt, rau răm, tai lợn, lạc rang và nước sốt chua ngọt. Đây là món ăn rất thanh đạm, hấp dẫn.

Được biết đến nhiều nhất phải là món kẹo dừa nổi tiếng có trong danh sách 70 món bánh kẹo ngon nhất thế giới do chuyên trang ẩm thực Taste Atlas công bố, kẹo dừa Bến Tre được chấm 3.5/5 sao, xếp hạng 26. Ngày nay, ngoài hương vị gốc ban đầu, kẹo dừa còn có thêm nhiều vị khác như lá dứa, sầu riêng, dâu, lạc hay socola… Việc cho thêm các phụ liệu khác để tạo hương vị phong phú cho sản phẩm. Khi gói, người thợ cho thêm lớp bánh tráng mỏng bên ngoài. Lớp bánh tráng mỏng tang, có thể ăn được và mang tác dụng hút ẩm cho kẹo.

Có thể thấy chỉ riêng cây dừa mà từ những năm qua Bến Tre đã hình thành một văn hóa dừa đặc trưng, nhất là trong lĩnh vực ẩm thực. Thưởng thức những món ngon từ dừa với nhiều cách chế biến như để cảm nhận được sự hiền lành và dễ thương của người dân bản địa.

Hà Thành

Nguồn: Dulichvn

Lễ hội 5 mùa – sản phẩm du lịch đặc sắc của Sa Pa

(TITC) – Lễ hội 5 mùa là chuỗi hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể thao, du lịch đặc sắc nhằm nâng cao nhận thức trách nhiệm bảo tồn bản sắc văn hóa dân tộc, cảnh quan thiên nhiên; giới thiệu, quảng bá các giá trị tài nguyên du lịch, sản phẩm du lịch đặc sắc của Sa Pa nhằm thúc đẩy thu hút khách du lịch trong nước và quốc tế; đồng thời, thúc đẩy liên kết, hội nhập quốc tế; tạo động lực phát triển kinh tế – xã hội địa phương.


Từ năm 2020 đến nay, việc tổ chức Lễ hội 5 mùa ở thị xã Sa Pa đã trở thành thương hiệu khi nhắc đến mảnh đất xinh đẹp này. Theo đó, Lễ hội 5 mùa gồm: Lễ hội mùa Xuân, Lễ hội mùa Hè, Lễ hội mùa Thu, Lễ hội mùa Đông, và Lễ hội mùa tình yêu.

Trong năm 2025, trên địa bàn thị xã Sa Pa sẽ diễn ra hơn 30 sự kiện, hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể thao, du lịch độc đáo, hấp dẫn được tổ chức xuyên suốt qua các mùa.

Mở đầu năm 2025 là chuỗi 11 sự kiện trong Lễ hội mùa Xuân gồm: Lễ hội Xòe dân tộc Tày tại xã Mường Bo; Lễ hội Grâus Taox dân tộc Mông tại thôn Cát Cát; Lễ hội Róong Poọc dân tộc Giáy; Lễ Quét làng dân tộc Xa Phó tại xã Liên Minh; Ngày hội Văn hóa dân tộc Dao tại xã Ngũ Chỉ Sơn; các trò chơi dân gian phục vụ nhân dân và du khách du Xuân tổ chức tại Sân Quần và Công viên Văn hóa các dân tộc; trưng bày Hội báo Xuân Ất Tỵ thị xã Sa Pa; Đêm thơ nguyên tiêu; trải nghiệm không gian văn hóa các dân tộc Sa Pa; Giải Pickleball tranh Cup Fansipan; Giải bóng chuyền hơi nam, nữ mở rộng.

Ngày 18.4, thông tin từ UBND thị xã Sa Pa, tới đây, địa phương sẽ tổ chức hàng loạt sự kiện văn hóa

Chào mừng kỷ niệm 50 năm Ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (30/4/1975 – 30/4/2025) và Ngày quốc tế Lao động 1/5…, Lễ hội mùa Hè năm nay với chủ đề “Sa Pa – Xứ sở tình yêu” sẽ diễn ra 12 sự kiện đặc sắc, bao gồm: Lễ hội đền Mẫu Thượng (từ ngày 29 – 31/3); Lễ hội Hoa hồng Fansipan tại Khu du lịch cáp treo Fansipan Sa Pa (từ ngày 26/4 kéo dài đến hết tháng 6/2025); Lễ hội đường phố “Sa Pa – Sắc màu hội tụ” (từ ngày 25 – 27/4); tái hiện “Chợ tình Sa Pa” tại Công viên Văn hóa các dân tộc Sa Pa (từ 21 giờ ngày 26/4 và các ngày thứ 7 hàng tuần); trải nghiệm Không gian văn hóa các dân tộc (bắt đầu từ ngày 29/4 – 2/5); chương trình khai mạc “Sa Pa – Xứ sở của tình yêu” tại Sân Quần (20 giờ ngày 29/4); chương trình nghệ thuật “Vũ khúc Sa Pa” tại Sân Quần (20 giờ ngày 30/4); chương trình nghệ thuật “Khúc hát mùa Hè” tại Sân Quần (20 giờ ngày 1/5); Ngày hội trên Danh thắng núi Hàm Rồng (từ ngày 30/4 – 4/5); Giải chạy “Sa Pa – mùa nước đổ” lần thứ IV (dự kiến tháng 5/2025); Ngày quốc tế Yoga (tháng 6/2025); Lễ hội Vó ngựa trên mây lần thứ 8 (từ ngày 29/6 – 7/7).

Tiếp nối là 6 sự kiện trong Lễ hội mùa Thu với chủ đề “Sa Pa – Ngày hội mùa vàng”: trải nghiệm hoa lay ơn thóc tại Khu du lịch cáp treo Fansipan (tháng 7/2025); Ngày hội Văn hóa bản Mông Cát Cát (cuối tháng 8/2025); Giải đua xe đạp “Sa Pa – Đua trên mùa vàng” (tháng 8/2025); Đêm hội Trăng Rằm (ngày 4/10); Giải chạy Marathon vượt núi Việt Nam 2025 (dự kiến từ ngày 19 – 21/9); Lễ hội Mùa vàng bản Mây tại Khu du lịch cáp treo Fansipan (từ ngày 16/8 – 5/9).

Đến Sa Pa, du khách không thể bỏ lỡ các hoạt động tại Lễ hội mùa Đông “Sa Pa – Thiên đường tuyết rơi” với 4 sự kiện diễn ra từ tháng 10 – 12/2025: Lễ hội thổ cẩm tại Công viên văn hoá các dân tộc (từ 1/10 – 1/11); Festival Mây và Núi tại Khu du lịch cáp treo Fansipan (từ 15/11 – 31/12); tái hiện Tết cổ truyền dân tộc Mông (tháng 12/2025) và chương trình nghệ thuật Count-down Chào năm mới 2026 (20 giờ ngày 31/12).

Trong năm 2024, Du lịch Lào Cai đón khoảng 8 triệu lượt du khách, tổng thu từ du lịch đạt 27.000 tỷ đồng (tăng 12,4% so cùng kỳ). Trong đó, riêng thị xã Sa Pa chiếm khoảng 4,4 triệu lượt khách với tổng doanh thu 15.500 tỷ đồng, đạt 100% so với kế hoạch giao, tăng 2.793 tỷ đồng so với năm 2023.

Cũng trong năm 2024, Sa Pa đã vào top 10 “Điểm đến thịnh hành nhất thế giới 2024” do nền tảng du lịch trực tuyến hàng đầu thế giới Tripadvisor bình chọn; Khu du lịch Fansipan tại Sa Pa (Lào Cai) được World Travel Awards vinh danh là Điểm du lịch có thắng cảnh thiên nhiên hàng đầu thế giới 2024.

 

Trung tâm Thông tin du lịch

Nguồn: Dulichvn

Hà Giang: ”Nét son” văn hóa trong lòng đá

Trên Cao nguyên đá Đồng Văn hùng vỹ, nơi thiên nhiên khắc nghiệt, đời sống của người dân còn khó khăn, nhưng tầng sâu giá trị văn hóa truyền thống của cộng đồng các dân tộc nơi đây vẫn luôn được gìn giữ và phát huy. Nổi bật trong đó là sức sống trăm năm của Chợ Phong lưu Khâu Vai, nơi tình yêu, ký ức, tinh thần nhân văn và bản sắc văn hóa cùng ngân vang qua tiếng khèn, câu hát khiến lòng du khách xao xuyến.


Đông đảo du khách đến với Lễ hội Chợ tình Khâu Vai (Mèo Vạc) năm 2024. Ảnh: PV

Chợ Phong lưu Khâu Vai (Mèo Vạc, Hà Giang) chỉ họp duy nhất một lần trong năm, vào ngày 27.3 (âm lịch). Phiên chợ ấy rất đặc biệt, bởi “Chợ không bán nỗi buồn hay thương nhớ – mà tương tư len lỏi khắp lối về”. Phiên chợ ấy là không gian văn hóa, lưu giữ câu chuyện tình yêu thấm đẫm nước mắt, chứa chan tình người giữa chàng Ba (người Nùng) và nàng Út (người Giáy). Từ huyền thoại ấy, người dân và du khách muôn nơi luôn muốn tìm về Khâu Vai để gặp lại bạn cũ, cùng tâm sự, sẻ chia về cuộc sống, để sống trong không khí bao dung, nhân ái và không gian văn hóa đậm đà bản sắc. Chợ Phong lưu Khâu Vai không còn là câu chuyện riêng của dân tộc Nùng và Giáy, mà là điểm hội tụ văn hóa của nhiều dân tộc cùng sinh sống trên phía cổng trời. Tiếng khèn Mông da diết gọi bạn, hòa quyện với tiếng trống hội của người Lô Lô, tiếng hát giao duyên của người Dao và điệu múa độc đáo của người Nùng, người Giáy… tạo nên một bản giao hưởng văn hóa độc đáo.

Trong dòng chảy của văn hóa hiện đại, khi nhiều giá trị truyền thống đang bị mai một hoặc thương mại hóa, việc bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống trở nên cấp thiết. Lễ hội Chợ Phong lưu Khâu Vai được tổ chức hàng năm với nhiều hoạt động bổ trợ độc đáo, hấp dẫn, mang đậm bản sắc văn hóa cộng đồng địa phương chính là cách làm hiệu quả để Hà Giang gìn giữ và phát huy “báu vật” văn hóa của mình. Khâu Vai giờ đây không chỉ là nơi hò hẹn của những đôi tình nhân xưa, mà còn là nơi để thế hệ trẻ tìm về, hiểu hơn về tình yêu, về sự tôn trọng cá nhân trong khuôn khổ văn hóa, về giá trị nhân văn sâu sắc, như một cầu nối giữa quá khứ và hiện tại. Việc duy trì, phát huy Chợ Phong lưu Khâu Vai cũng gắn với phát triển du lịch một cách bền vững.

“Mê cung đá” – không gian trải nghiệm độc đáo cho du khách khi đến với Chợ Phong lưu Khâu Vai (Mèo Vạc). Ảnh: Biện Luân

Năm nay, lễ hội được tổ chức quy mô cấp tỉnh với chủ đề “Khâu Vai ngày trở lại” với chuỗi các hoạt động văn hóa, du lịch trên vùng Cao nguyên đá hứa hẹn mang lại nhiều trải nghiệm và khám phá độc đáo cho du khách. Trong đó, các hoạt động nổi bật như: Chương trình nghệ thuật “Khâu Vai ngày trở lại”; lễ dâng hương miếu Ông, miếu Bà, lễ cầu duyên; các hội thi: Thi múa khèn, lực sỹ bò vàng, bắn nỏ, đánh quay, bắt cá lòng suối, trình diễn trang phục truyền thống, dệt vải lanh, thêu hoa văn, họa tiết trên các phụ kiện trang phục nữ dân tộc, giã bánh dầy, chim họa mi hót; các trò chơi dân gian; ẩm thực địa phương và không gian chợ phiên vùng cao, chợ đêm, không gian văn hóa trà Hà Giang và sản phẩm OCOP của tỉnh; Chương trình nghệ thuật “Tiếng Khèn gọi bạn”; các môn thể thao dân tộc; đốt lửa trại, hát giao duyên qua ống nghe, đánh yến, đánh sảng… Hiện nay, công tác chuẩn bị đang được các cấp, ngành gấp rút triển khai, đảm bảo các điều kiện về an ninh, an toàn, hứa hẹn mang đến cho du khách những trải nghiệm thú vị.

Trong tiết trời dịu dàng giữa miền núi non kỳ vỹ, Chợ Phong lưu Khâu Vai là minh chứng sinh động cho sức sống bền bỉ của văn hóa dân tộc, làm nên hồn cốt của vùng đất Hà Giang. Minh chứng ấy được tạo nên từ chiến lược gìn giữ và phát huy bản sắc văn hóa gắn với phát triển du lịch bền vững của tỉnh và chung tay của cộng đồng.

Biện Luân

 

Nguồn: Dulichvn

Phở cuốn ngũ sắc

Nhắc đến phở cuốn, nhiều người sẽ nghĩ ngay đến những cuốn phở mềm mịn, bên trong là thịt bò, rau thơm và chấm cùng nước mắm chua ngọt. Tuy nhiên, để tăng thêm sự hấp dẫn, người ta đã sáng tạo ra phở cuốn ngũ sắc – một phiên bản đầy màu sắc, không chỉ đẹp mắt mà còn bổ dưỡng.


Điểm đặc biệt của phở cuốn ngũ sắc nằm ở lớp bánh phở có nhiều màu sắc rực rỡ, được làm hoàn toàn từ các nguyên liệu tự nhiên. Màu đỏ được tạo từ gấc hoặc củ dền, màu vàng từ nghệ, màu xanh lá từ lá dứa hoặc rau cải bó xôi, màu tím từ lá cẩm, và màu trắng vẫn giữ nguyên như bánh phở truyền thống. Nhờ sự kết hợp này, món ăn không chỉ bắt mắt mà còn chứa nhiều chất dinh dưỡng tốt cho sức khỏe.

Nguyên liệu để làm phở cuốn ngũ sắc cũng rất đơn giản và dễ tìm. Ngoài bánh phở ngũ sắc, phần nhân là thịt bò hoặc thịt gà thái mỏng, tôm tươi bóc vỏ, rau sống như xà lách, húng quế, rau thơm, cùng với cà rốt, dưa chuột và xoài xanh thái sợi. Để làm tăng hương vị, món ăn không thể thiếu bát nước chấm chua ngọt, được pha từ nước mắm, tỏi, ớt, đường và nước cốt chanh theo tỉ lệ hài hòa.

Hấp dẫn món phở cuốn ngũ sắc.

Hấp dẫn món phở cuốn ngũ sắc.

Cách làm phở cuốn ngũ sắc không quá phức tạp. Trước tiên, thịt bò được ướp gia vị rồi xào chín, hoặc nếu dùng tôm, có thể hấp hoặc luộc. Rau sống rửa sạch, để ráo nước, trong khi các loại củ quả được thái sợi mỏng để dễ cuốn. Khi mọi nguyên liệu đã sẵn sàng, chỉ cần trải bánh phở ra, xếp rau, thịt và các nguyên liệu khác vào rồi cuộn lại thật khéo léo để cuốn phở đẹp mắt và chắc tay. Khi ăn, chấm cùng nước mắm chua ngọt để cảm nhận trọn vẹn sự kết hợp hài hòa giữa các nguyên liệu tươi ngon.

Chị Nguyễn Thị Hoa, tổ 10, phường Hợp Giang (Thành phố) chia sẻ: Điểm nổi bật nhất chính là màu sắc rực rỡ của bánh phở. Biết rằng những màu sắc này được tạo từ nguyên liệu tự nhiên… nên tôi cảm thấy rất yên tâm khi thưởng thức. Ngoài ra, sự kết hợp của nhiều nguyên liệu trong một cuốn phở tạo nên sự cân bằng giữa hương vị và dinh dưỡng, vừa nhẹ nhàng vừa đủ chất.

Phở cuốn ngũ sắc không chỉ mang đến trải nghiệm ẩm thực thú vị mà còn giúp bữa ăn thêm phần vui mắt. Nhờ sự kết hợp màu sắc tự nhiên và nguyên liệu thanh đạm, món ăn này rất phù hợp cho những ngày hè nóng bức hoặc khi bạn muốn có một bữa ăn nhẹ nhàng nhưng vẫn đầy đủ dinh dưỡng. Với sự sáng tạo và tinh tế, phở cuốn ngũ sắc không chỉ là một món ăn mà còn là một tác phẩm nghệ thuật trên bàn ăn, khiến ai cũng muốn thử ngay từ cái nhìn đầu tiên.

Đức Duy

 

Nguồn: Dulichvn

Đắk Lắk: Giữ sợi ký ức trên khung dệt buôn làng

Giữa không gian núi rừng Lắk (tỉnh Đắk Lắk), tiếng khung cửi lách cách vọng ra từ Nhà văn hóa cộng đồng buôn Lê như lời thủ thỉ của ký ức. Những tấm thổ cẩm rực rỡ sắc màu được dệt nên bằng sự nhẫn nại, khéo léo và tình yêu sâu đậm dành cho bản sắc văn hóa người M’nông R’lăm. Không cần phô trương, nghề dệt ở buôn làng này như một sợi chỉ mảnh – lặng lẽ nhưng bền bỉ – kết nối hiện tại với quá khứ, nuôi dưỡng niềm tự hào trong lòng người con núi.


Khung dệt – nơi quá khứ được giữ bằng đôi tay và nhịp tim buôn làng

Tại Nhà văn hóa cộng đồng buôn Lê, vài người phụ nữ M’nông vẫn đều tay bên khung cửi. Họ dệt không chỉ để giữ nghề, mà còn để nối lại mạch ngầm của ký ức, của bản sắc. Những sợi tơ kéo dài từ kỷ niệm thuở nhỏ đến hôm nay, chắt chiu qua đôi bàn tay tỉ mẩn và đôi mắt đầy ký ức. Khi nhận ra nhiều chị em chưa nắm được kỹ thuật hoa văn nguyên bản – những họa tiết chứa đựng câu chuyện về đất, về người, về thế giới quan dân tộc mình – buôn làng đã tự tìm đến nhau. Họ mời nghệ nhân, mở lớp truyền dạy, cùng nhau chắp nối lại tri thức tưởng như đang phai.

Đó là khi chị H’Đen Bkrông (buôn Jun) trở về, mang theo vốn nghề được đào tạo bài bản từ thành phố. Chị không ngần ngại cầm tay chỉ việc, dạy chị em từng nét dệt cổ, từng đường chỉ tơ truyền thống. Mỗi sáng, tiếng khung cửi lại vang lên đều đặn dưới mái Nhà văn hóa. Ban đầu chỉ dăm người, đến nay lớp dệt đã có 13 phụ nữ tham gia thường xuyên. Họ không chỉ học để làm – mà còn học để giữ. Từ lớp học ấy, Câu lạc bộ Dệt thổ cẩm buôn Lê ra đời, do chị H’Sen Hmôk Du làm chủ nhiệm. Với chị, mỗi tấm vải dệt nên là một phần tâm huyết, một mảnh hồn của buôn làng.

Nghề dệt của người M’nông R’lăm không chỉ là lao động, mà là một hình thức gìn giữ văn hóa qua bàn tay và trí nhớ. Họa tiết thổ cẩm truyền thống mô phỏng hình học, công cụ lao động, thiên nhiên… tất cả đều chứa đựng quan niệm sống, thế giới quan và khát vọng của người M’nông. Để dệt được một tấm thổ cẩm mang đúng tinh thần nguyên bản, đòi hỏi sự tỉ mỉ và tình yêu với từng sợi chỉ. Chính sự tận tụy ấy đã thắp lại lửa nghề tưởng chừng đã nguội.

Không dừng lại ở lớp học, chính quyền huyện Lắk đã mở hướng đi mới: xây dựng sản phẩm OCOP cho thổ cẩm. Nhà văn hóa cộng đồng được sửa sang với kinh phí hơn 90 triệu đồng, đáp ứng nhu cầu sinh hoạt và sản xuất. Chính quyền cũng phối hợp các đoàn thể, phòng, ban tháo gỡ dần khó khăn, tạo điều kiện để thổ cẩm buôn Lê có chỗ đứng trên thị trường.

Song song với đó là định hướng phát triển làng nghề gắn với du lịch cộng đồng. Những điểm đến như: buôn Lê, buôn Jun sẽ không chỉ là nơi “xem” mà là nơi “trải nghiệm” – nơi du khách có thể ngồi bên khung dệt, nghe kể chuyện về sợi chỉ, về màu chàm, về đôi bàn tay cần mẫn gìn giữ văn hóa qua năm tháng. Đó là kỳ vọng lớn, nhưng cũng rất đỗi đời thường: Để buôn làng sống được bằng nghề của mình, để văn hóa không phải là ký ức đã qua, mà là hiện tại đang thở bằng nhịp sống mới.

Những sợi ký ức đang dần thành hình trên khung dệt buôn làng. Người phụ nữ M’nông R’lăm cứ lặng lẽ dệt tiếp giấc mơ giữ lấy bản sắc của chính dân tộc mình – bằng sợi, bằng màu, bằng bàn tay và tình yêu với buôn làng.

Và rồi, từ những khung dệt nơi buôn nhỏ, sợi ký ức ấy có thể lan xa hơn – đến các bản làng khác, đến những tâm hồn trẻ đang tìm lại cội nguồn. Nghề dệt không chỉ hồi sinh trong đời sống, mà còn khơi dậy niềm tin vào sức mạnh mềm của văn hóa. Hy vọng rằng, sẽ có thêm nhiều bàn tay cùng góp sợi, cùng đan lưới ký ức – để thổ cẩm người M’nông tiếp tục kể câu chuyện của mình trên nền vải của tương lai.

Hương Ly

Nguồn: Dulichvn

Mùa bánh trứng kiến

Từ đầu tháng 3 đến nay, tại các chợ trên địa bàn tỉnh hay trên các trang mạng xã hội bán hàng online như: Facebook, Zalo đều có món ăn đặc sản rất riêng của Cao Bằng – đó là bánh trứng kiến.


Bánh trứng kiến theo tiếng Tày gọi là pẻng rày. Nguyên liệu chính làm bánh là trứng non của loài kiến đen, bột gạo nếp và lá cây vả. Cách làm bánh trứng kiến đơn giản, không quá cầu kỳ. Miếng bánh trứng kiến sẽ có 3 lớp, ngoài cùng là lá vả, sau đến bột nếp và giữa là nhân trứng kiến xào với thịt lợn thơm ngon, béo bùi.

Trứng kiến mang về nhặt và rửa sạch, mang đi xào thành nhân bánh.

Trứng kiến thường có từ đầu tháng Hai đến cuối tháng Ba âm lịch. Trứng kiến ngon phải là những tổ kiến đen, thân hình nhỏ, có đuôi nhọn, làm tổ trên những cây vầu, nứa, khi thu hoạch sẽ được những hạt trứng mẩy to tròn như hạt gạo. Hiện nay, trứng kiến được bán với giá trên dưới 300 nghìn đồng/kg. Trứng kiến mang về nhặt sạch những tạp chất, lá cây; đãi rửa qua rồi để khô sau đó phi hành thơm, xào cùng với thịt lợn xay nhuyễn, gia vị để làm nhân bánh.

Vỏ bánh là gạo nếp ngon, ngâm khoảng 6 tiếng, đem xát rồi để ráo nước mang nhào cho mịn. Khi gói cán mỏng làm thành vỏ bánh rồi cho nhân trứng kiến xào thịt vào giữa hai lớp vỏ. Lớp bên ngoài cùng của bánh là lá vả; chọn những lá bánh tẻ, rửa sạch, lau khô nước sau đó bao ra bên ngoài bánh để phần bánh và nhân được bọc không bị hở ra bên ngoài. Bánh sau khi gói xong mang đi hấp khoảng 35 – 40 phút là chín.

Thành phẩm bánh trứng kiến sau khi hấp chín.

Bánh để nguội được cắt thành những miếng hình chữ nhật. Cắn một miếng bánh, sẽ cảm nhận được hương vị lá vả thơm ngon quyện với bột nếp dẻo cùng sự béo và ngậy mùi của trứng kiến. Bánh trứng kiến hiện có bán dao động từ 160 – 180 nghìn đồng/kg; người bán hay đóng thành hộp có trọng lượng 0,5 kg, giá từ 80 – 90 nghìn đồng. Bánh trứng kiến hoàn toàn làm thủ công nên thời gian sử dụng ngon nhất là trong ngày, nếu để ngăn mát tủ lạnh khoảng 2 ngày.

Bánh trứng kiến được nhiều người yêu thích bởi hương vị rất riêng

Du lịch Cao Bằng vào những ngày này, trong hành trình khám phá ẩm thực, ngoài những món rau rừng giàu dinh dưỡng, bánh cuốn, vịt quay đậm đà… không thể bỏ qua món bánh trứng kiến độc đáo và thơm ngon.

T.N

Nguồn: Dulichvn

TIN MỚI NHẤT