Du lịch trong nước

Du lịch trong nước, tin tức du lịch trong nước, các tour du lịch trong nước, các địa điểm du lịch trong nước hấp dẫn được chúng tôi tổng hợp và đưa tin hàng ngày đến cho khách du lịch trên khắp mọi miền đất nước có được thông tin du lịch trong nước để có những thông tin hữu ích nhất cho mình và gia đình khi quyết định chọn chuyến du lịch trong nước cho mình và người thân

Hội chợ tình Nặm Nhũng (Hà Quảng, Cao Bằng)

Ngày 26/4, UBND xã Lũng Nặm (Hà Quảng, Cao Bằng) tổ chức Hội chợ tình Nặm Nhũng, thu hút đông đảo bà con nhân dân trên địa bàn tham gia.


Tiết mục văn nghệ tại lễ hội.

Hội chợ tình Nặm Nhũng là nét đẹp văn hóa truyền thống lâu đời của đồng bào dân tộc thiểu số tại khu vực, được tổ chức vào dịp tháng 3, tháng 4 âm lịch hằng năm, là nơi để nam thanh, nữ tú gặp gỡ, tìm hiểu, hò hẹn, giao duyên, đồng thời, là dịp giao lưu, gắn kết cộng đồng. Trải qua thời gian, cùng với sự biến động của đời sống, hội chợ tình thưa vắng dần và đứng trước nguy cơ mai một. Trước thực trạng đó, chính quyền địa phương cùng nhân dân xã Lũng Nặm đã nỗ lực khôi phục, tổ chức lại Hội chợ tình Nặm Nhũng, nhằm bảo tồn, phát huy những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc, đồng thời, tạo điểm nhấn phát triển du lịch cộng đồng.

Trò chơi kéo co thu hút đông đảo người dân tham gia, cổ vũ.

Hội chợ năm nay diễn ra trong không khí vui tươi, phấn khởi, với nhiều hoạt động hấp dẫn như: giao lưu văn hóa, văn nghệ, các trò chơi dân gian truyền thống: kéo co, tung còn, lày cỏ,… trưng bày sản phẩm nông sản, ẩm thực địa phương. Các gian hàng giới thiệu đặc sản: bánh khảo, mèn mén, rượu ngô, thổ cẩm, thu hút đông đảo người dân, du khách tham quan, trải nghiệm.

Hội chợ tình tái hiện sinh động những giá trị văn hóa, bản sắc, phong tục, tập quán, truyền thống tốt đẹp của các dân tộc trên địa bàn, tạo không khí vui tươi, phấn khởi, từng bước đáp ứng nhu cầu hưởng thụ, vui chơi giải trí; cổ vũ nhân dân hăng hái thi đua lao động sản xuất, phát triển kinh tế – xã hội địa phương. Qua đó, góp phần gìn giữ, bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc, tạo đà từng bước phát triển du lịch, dịch vụ bền vững.

Diệu Linh – Đức Phương

 

Nguồn: Dulichvn

Củ hủ cau – cả một trời thương nhớ

Củ hủ cau – thi thoảng mới được thưởng thức. Từng lát sần sật, xôm xốp, vị ngọt và một tí béo đọng lại khi nhai kỹ… là nỗi nhớ mong đâu riêng gì một thời tuổi thơ!

 


Nguyên liệu làm nên món gỏi củ hủ cau nhiều sắc màu.

Tuổi thơ tôi lớn lên cùng những chùm hoa cau tinh khiết tỏa hương bên khung cửa. Những buổi trưa hè trốn ba mẹ lượm hoa cau rụng trắng vườn nhà; những đêm trăng sáng, mở toang cửa sổ mơ màng ngồi nghe gió nhè nhẹ thổi đưa hương cau… Tôi còn nhớ cả món củ hủ cau trộn thơm ngầy ngậy trong chái bếp của má.

Nhà tôi trồng một vườn cau, không những giúp che bóng mát, mà còn cải thiện đời sống của cả nhà mỗi khi đến mùa thu hoạch. Đám con nít chúng tôi hiếm khi được thưởng thức củ hủ cau, bởi, để lấy được nó, phải chặt bỏ cả thân cây. Chúng tôi chỉ được thỏa thuê thưởng thức củ hủ cau khi cây cau bị sâu hay đã già và quá cao, ba má đốn để trồng cau mới.

Không hiếm, nhưng ít có dịp gặp, vì thế mỗi lần có củ hủ cau, má tôi nâng niu như tìm thấy một thức ngon thật quý. Má chỉ tôi cách lấy củ hủ cau vừa nhanh vừa đỡ tốn sức.

Củ hủ cau là nguyên liệu tạo nhiều món ngon.

Cau sau khi vừa được hạ xuống, chặt lấy phần ngọn, lột hết bẹ, củ hủ sẽ lộ diện với màu trắng đục, mềm và giòn. Không chỉ ngon, nguyên liệu này còn sạch, chứa nhiều chất xơ và chất khoáng tốt cho hệ tiêu hóa.

Má tôi biến đổi các món củ hủ cau theo nhiều cách riêng như nấu canh tôm, kho tương hay xào tép. Tất cả đều mang hương vị đặc biệt, vừa dân dã lại cuốn hút. Nhưng chị em tôi vẫn thích nhất món gỏi. Đĩa gỏi của má đẹp tựa bức tranh với màu trắng ngà của củ hủ cau, màu vàng nhạt của những lát thịt, điểm xuyết thêm xanh của rau thơm và chút vàng của đậu phộng rang.

Mỗi khi nhà có củ hủ cau, tôi và má tỉ mẩn ngồi cắt khúc, chẻ củ hủ thành từng sợi vừa ăn rồi ngâm vào hỗn hợp nước pha giấm hoặc nước muối loãng để giữ độ giòn, trắng.

Vớt những sợi củ hủ cau ra để ráo, tiếp tục phi thơm xíu nén, tỏi, ớt tươi đập giập rồi cho củ hủ cau vào. Lửa thật to, nhanh tay đảo và tắt bếp để củ hủ vừa chín nhưng cũng không mất nước.

Hấp dẫn đĩa gỏi củ hủ cau má làm.

Thường má dùng một tô lớn để trộn củ hủ cau đã sơ chế, rưới nước mắm vừa pha vào; thêm ớt bột, rau thơm, rau quế trộn đều rồi cho ra đĩa. Gỏi củ hủ cau má làm đơn giản, ủ bên ngoài giòn, bên trong mềm, mát hòa quyện với mùi đậu phộng rang chín, rau quế, rau thơm, vị nồng cay của ớt.

Những hôm nào “sang chảnh” một tí, má sẽ cho thêm thịt ba chỉ hoặc tai heo đã cắt lát mỏng vừa ăn, hoặc tôm luộc đã bóc vỏ vào trộn cùng. Với chị em tôi, chỉ cần vị chua cay, ngọt ngọt của nước mắm cũng khiến chúng tôi phải xoắn xuýt lưỡi không chê vào đâu được.

Bây giờ, giữa ê hề những món ngon, nhưng tôi vẫn không thôi thèm thuồng món gỏi củ hủ cau. Giống như chiều nay vậy, về quê đúng dịp ba má thay giống cau mới, vậy là được tha hồ thưởng thức món đặc sản quê hương. Nhìn má cặm cụi, bàn tay gầy guộc thoăn thoắt xé từng sợi củ hủ, lòng bỗng nghèn nghẹn. Thời gian trôi nhanh quá!

Phan Thị Thanh Ly

 

 

Nguồn: Dulichvn

Hội chợ tình Nặm Nhũng (Hà Quảng)

Ngày 26/4, UBND xã Lũng Nặm (Hà Quảng, Cao Bằng) tổ chức Hội chợ tình Nặm Nhũng, thu hút đông đảo bà con nhân dân trên địa bàn tham gia.


Tiết mục văn nghệ tại lễ hội.

Hội chợ tình Nặm Nhũng là nét đẹp văn hóa truyền thống lâu đời của đồng bào dân tộc thiểu số tại khu vực, được tổ chức vào dịp tháng 3, tháng 4 âm lịch hằng năm, là nơi để nam thanh, nữ tú gặp gỡ, tìm hiểu, hò hẹn, giao duyên, đồng thời, là dịp giao lưu, gắn kết cộng đồng. Trải qua thời gian, cùng với sự biến động của đời sống, hội chợ tình thưa vắng dần và đứng trước nguy cơ mai một. Trước thực trạng đó, chính quyền địa phương cùng nhân dân xã Lũng Nặm đã nỗ lực khôi phục, tổ chức lại Hội chợ tình Nặm Nhũng, nhằm bảo tồn, phát huy những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc, đồng thời, tạo điểm nhấn phát triển du lịch cộng đồng.

Trò chơi kéo co thu hút đông đảo người dân tham gia, cổ vũ.

Hội chợ năm nay diễn ra trong không khí vui tươi, phấn khởi, với nhiều hoạt động hấp dẫn như: giao lưu văn hóa, văn nghệ, các trò chơi dân gian truyền thống: kéo co, tung còn, lày cỏ,… trưng bày sản phẩm nông sản, ẩm thực địa phương. Các gian hàng giới thiệu đặc sản: bánh khảo, mèn mén, rượu ngô, thổ cẩm, thu hút đông đảo người dân, du khách tham quan, trải nghiệm.

Hội chợ tình tái hiện sinh động những giá trị văn hóa, bản sắc, phong tục, tập quán, truyền thống tốt đẹp của các dân tộc trên địa bàn, tạo không khí vui tươi, phấn khởi, từng bước đáp ứng nhu cầu hưởng thụ, vui chơi giải trí; cổ vũ nhân dân hăng hái thi đua lao động sản xuất, phát triển kinh tế – xã hội địa phương. Qua đó, góp phần gìn giữ, bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc, tạo đà từng bước phát triển du lịch, dịch vụ bền vững.

Diệu Linh – Đức Phương

 

Nguồn: Dulichvn

Bảo tồn và phát huy giá trị văn hoá của các làng dân tộc thiểu số

Thời gian qua, công tác bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa tại các làng dân tộc thiểu số (DTTS) được tỉnh triển khai đồng bộ với sự tham gia tích cực, chủ động của người dân. Điều này không chỉ là trách nhiệm bảo vệ di sản, mà còn là chìa khóa mở ra cơ hội phát triển bền vững, gắn kết cộng đồng với ngành du lịch.


Đồng bào dân tộc Dao xã Hải Sơn (TP Móng Cái) giới thiệu những nét đẹp văn hóa truyền thống đến du khách tại Lễ hội hoa sim biên giới 2024. Ảnh: Nguyễn Dung

Trên nền tảng chính sách của tỉnh, việc thúc đẩy phong trào văn hóa, văn nghệ, thể thao tại cơ sở đã tạo nên sức sống mới cho cộng đồng các DTTS trên địa bàn tỉnh. Đến nay, toàn tỉnh đã thành lập 55 câu lạc bộ văn nghệ truyền thống của vùng DTTS và miền núi, là lực lượng nòng cốt góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động tại thiết chế văn hóa – thể thao cơ sở. Tỷ lệ người dân tham gia hoạt động tại Trung tâm Văn hóa – Thể thao đạt khoảng 50%, trong khi tỷ lệ tham gia luyện tập thể thao cũng lên đến 40%. Mô hình câu lạc bộ được củng cố, nhân rộng, thu hút đông đảo người dân, nhất là thế hệ trẻ tham gia các lớp học múa, hát, học nghề truyền thống; từ đó góp phần khơi dậy niềm tự hào và trách nhiệm giữ gìn bản sắc dân tộc.

Nhiều di sản văn hóa phi vật thể tiêu biểu của các DTTS trên địa bàn tỉnh liên tục được công nhận. Tiêu biểu: Nghi lễ Cấp sắc của người Dao; Đại Phan của dân tộc Sán Dìu; Hội Soóng cọ của người Sán Chỉ; nghi lễ Then của người Tày; làn điệu Soọng Cô của người Sán Dìu… đã được Bộ VH,TT&DL đưa vào Danh mục Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia. Đặc biệt, nghi thức Then của người Tày Quảng Ninh được UNESCO ghi danh vào danh mục Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại, nằm trong số 11 tỉnh có Then Tày, Nùng, Thái của Việt Nam được UNESCO vinh danh.

Người dân xã Kỳ Thượng (TP Hạ Long) khai thác bản sắc văn hoá dân tộc để phát triển du lịch cộng đồng.

Bên cạnh văn hóa phi vật thể, các môn thể thao truyền thống cũng được lưu giữ, khôi phục và khuyến khích phát triển, như: Đẩy gậy, đánh quay, đi cà kheo, ném còn, bóng đá nữ… Đây không chỉ là trò chơi dân gian mà còn là sợi dây kết nối cộng đồng, tạo sân chơi lành mạnh cho mọi lứa tuổi.

Không chỉ có vậy, những phiên chợ phiên vẫn giữ được sức hấp dẫn với du khách và người dân khi đến vùng đồng bào DTTS trên địa bàn tỉnh. Chợ Hà Lâu, Lương Mông, Pò Hèn, Đồng Văn… không chỉ là nơi giao lưu mua bán nông sản, thủ công mỹ nghệ mà còn là sân khấu của các màn trình diễn dân ca, dân vũ, gian hàng ẩm thực độc đáo của từng dân tộc.

Bà con vùng DTTS cũng đã vào cuộc phát huy bản sắc văn hoá dân tộc gắn với du lịch để thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội của địa phương. Bà Bàn Thị Hai, thôn Khe Phương, xã Kỳ Thượng, TP Hạ Long cho biết: Bà con ở thôn chúng tôi đã chú trọng phát triển du lịch khai thác cảnh đẹp của quê hương và bản sắc của chính dân tộc mình. Nhờ đó mà đời sống của bà con cũng khấm khá hơn.

Người dân vui chơi tại Nhà truyền thống cộng đồng người Dao ở thôn Sơn Hải, xã Nam Sơn, huyện Ba Chẽ. Ảnh: Công Thành (CTV)

Một trong những điểm sáng trong quá trình bảo tồn gắn với phát triển du lịch cộng đồng là thí điểm tại bốn làng DTTS gắn với phát triển du lịch cộng đồng khu vực miền núi, giai đoạn 2023-2025 theo Kế hoạch 161/KH-UBND ngày 21/6/2023 của UBND tỉnh. 4 làng gồm: Làng người Dao ở thôn Pò Hèn, xã Hải Sơn, TP Móng Cái; Làng người Sán Dìu ở thôn Vòng Tre, xã Bình Dân, huyện Vân Đồn; Làng người Tày ở thôn Bản Cáu, xã Lục Hồn và Làng người Sán Chỉ (Sán Chay) ở thôn Lục Ngù, xã Húc Động của huyện Bình Liêu. Mục tiêu của kế hoạch là xây dựng mô hình làng văn hóa đặc trưng cho từng dân tộc, kết hợp với phát triển du lịch cộng đồng, nâng cao đời sống người dân và bảo tồn bản sắc văn hóa truyền thống. Bước đầu, các mô hình này đã tạo ra những sản phẩm đặc sắc, được du khách đón nhận, nâng cao thu nhập bình quân của hộ gia đình tham gia từ 10-15% so với trước khi thí điểm.

Với nền tảng chính sách rõ ràng, Quảng Ninh đang từng bước kiến tạo môi trường thuận lợi để bản sắc văn hóa dân tộc tỏa sáng, trở thành tài sản chung, nguồn lực nội sinh, động lực cho sự phát triển nhanh và bền vững.

Thu Nguyệt

 

Nguồn: Dulichvn

Bánh tét Trà Cuôn

Sản phẩm làng nghề bánh tét Trà Cuôn, xã Kim Hòa, huyện Cầu Ngang, tỉnh Trà Vinh nổi tiếng thơm ngon, hương vị đậm đà và đã được vinh danh vào tốp ẩm thực tiêu biểu của Việt Nam. Cứ vào các dịp lễ, Tết hằng năm, các cơ sở, hộ gia đình ở làng nghề bánh tét Trà Cuôn hối hả với các hoạt động sản xuất, kinh doanh.


Cơ sở kinh doanh bánh tét Hai Lý, xã Kim Hòa, huyện Cầu Ngang, tỉnh Trà Vinh gói bánh phục vụ nhu cầu thị trường.

Theo các nghệ nhân làng nghề bánh tét Trà Cuôn, gói bánh tét là nghề truyền thống được gìn giữ, trao truyền qua nhiều thế hệ. Ủy ban nhân dân tỉnh Trà Vinh cũng đã công nhận làng nghề bánh tét Trà Cuôn theo Quyết định số 2085/ QĐ-UBND ngày 13/12/2011. Làng nghề bánh tét Trà Cuôn có khoảng 30 cơ sở, hộ gia đình tại các huyện Cầu Ngang, Châu Thành, thành phố Trà Vinh duy trì thường xuyên các hoạt động sản xuất, kinh doanh. Mỗi cơ sở, hộ gia đình có khả năng cung ứng ra thị trường từ 200-300 đòn (chiếc) bánh tét/ngày; vào các dịp lễ, Tết thì từ 10.000-12.000 đòn bánh tét/ngày, góp phần giải quyết việc làm cho hàng trăm lao động nông thôn.

Chị Nguyễn Thị Diễm Phúc, cơ sở kinh doanh bánh tét Hai Lý, xã Kim Hòa, huyện Cầu Ngang cho biết: “Các sản phẩm bánh tét ba mầu, bồ ngót, tứ quý của cơ sở là sản phẩm OCOP 3 sao, 4 sao, được người tiêu dùng khắp mọi miền đất nước ưa chuộng”. Hằng ngày, cơ sở kinh doanh bánh tét Hai Lý cung ứng ra thị trường khoảng từ 300- 400 đòn bánh tét, mức giá từ 50.000-150.000 đồng/đòn tùy loại bánh. Nguyên liệu chính dùng để chế biến bánh gồm nếp sáp, đậu xanh, chuối, trứng muối, thịt mỡ, lá ngót; sản phẩm có hương vị thơm ngon tự nhiên, không phẩm mầu, bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm. Cứ vào dịp Tết Nguyên đán, hay Tết cổ truyền Chôl Chnăm Thmây, lễ Sen Dolta của đồng bào Khmer Nam Bộ, cơ sở cung ứng ra thị trường hơn 10.000 đòn bánh tét/ ngày, giải quyết việc làm cho khoảng từ 70-80 lao động nhàn rỗi địa phương.

Trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, cơ sở kinh doanh bánh tét Hai Lý đặc biệt chú trọng đến các khâu thiết kế bao bì, nhãn hiệu, áp dụng khoa học, công nghệ nhằm nâng cao chất lượng, giá trị sản phẩm; đồng thời, đưa sản phẩm OCOP đạt hạng 3 sao, 4 sao lên sàn thương mại điện tử, trưng bày, quảng bá, giới thiệu sản phẩm tại các sự kiện lễ hội, hoạt động thu hút đầu tư, xúc tiến thương mại, du lịch khu vực Đồng bằng sông Cửu Long, Thành phố Hồ Chí Minh…

Hằng năm, cứ vào dịp lễ, Tết cổ truyền của đồng bào Khmer tỉnh Trà Vinh, cơ sở bánh tét 9 Di của chị Thạch Thị Di, xã Phước Hảo, huyện Châu Thành, tất bật với các hoạt động sản xuất, kinh doanh. Theo chị Di, gói bánh tét là nghề truyền thống lâu đời của gia đình. Bánh tét 9 Di, một trong những sản phẩm của làng nghề bánh tét Trà Cuôn, đã được tái công nhận sản phẩm đạt hạng OCOP 3 sao. Trong tháng 4, cơ sở bánh tét 9 Di cung ứng ra thị trường từ 3.000-4.000 đòn bánh tét các loại, với trọng lượng 500g, 800g, từ 1-2 kg. Bánh tét là sản phẩm được rất nhiều người sử dụng làm quà biếu, món ăn trong các buổi tiệc, ngày Tết.

Nhiều năm qua, chị Di tham gia sinh hoạt tại Câu lạc bộ nữ doanh nhân của Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh Trà Vinh. Tại đây, chị Di thường xuyên chia sẻ kinh nghiệm trong sản xuất, kinh doanh, tìm kiếm thị trường, truyền cảm hứng khởi nghiệp cho các thành viên câu lạc bộ, hội viên phụ nữ. Từ đó, lan tỏa phong trào khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo trong hội viên, phụ nữ dân tộc thiểu số, giải quyết việc làm cho hàng trăm lao động nông thôn. Nói về bí quyết để làm nên thương hiệu đặc sản bánh tét 9 Di, chị Di cho biết thêm: Các khâu chuẩn bị nguyên liệu, cách gói và nấu bánh là rất quan trọng. Nguyên liệu để chế biến bánh tét được chọn từ loại nếp sáp thơm ngon của địa phương, đậu xanh được tách vỏ, hấp chín, tán nhuyễn, thịt mỡ ba rọi ướp gia vị vừa miệng.

Những người thợ làng nghề bánh tét Trà Cuôn luôn tìm tòi, sáng tạo, chế biến các sản phẩm bánh thơm ngon, hương vị đậm đà. Theo đó, để đòn bánh tét có vị ngon phong phú hơn, thợ làm bánh bổ sung một số nguyên liệu như trứng muối, tôm khô, lạp xưởng. Đặc trưng của bánh tét truyền thống là có màu trắng của nếp sáp, khi người thợ cho thêm nước cốt lá cẩm, bánh có mầu tím; nước cốt trái gấc thì bánh có mầu đỏ; nước cốt lá bồ ngót thì bánh có mầu xanh, trông bắt mắt, hấp dẫn hơn.

Theo ông Kim Ruône, Bí thư Chi bộ ấp Bót Chếch, xã Lương Hòa, huyện Châu Thành, trong phong tục, tập quán của đồng bào Khmer Nam Bộ, bánh tét là thứ không thể thiếu trong các lễ hội, Tết cổ truyền Chôl Chnăm Thmây. Trong các dịp lễ, Tết, các hộ gia đình người dân tộc Khmer thường tổ chức gói bánh tét, dùng làm món ăn đón khách đến gia đình, dâng tặng các vị chư tăng chùa Phật giáo Nam tông. Các sản phẩm làng nghề bánh tét Trà Cuôn rất thơm ngon, hợp với khẩu vị gia đình; do vậy, cứ mỗi dịp lễ, Tết, các gia đình đều đặt mua bánh dùng làm món ăn, biếu tặng khách đến chơi nhà.

Bài và ảnh: Minh Khởi

Nguồn: Dulichvn

Bảo tàng Chứng tích Chiến tranh – nơi lưu giữ những trang sử hào hùng

Hòa trong không khí Kỷ niệm 50 năm Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (30/4/1975 – 30/4/2025), những ngày này, rất đông du khách tìm đến Bảo tàng Chứng tích Chiến tranh không chỉ để ôn lại những ký ức lịch sử thiêng liêng, mà còn để tri ân thế hệ cha, ông đã ngã xuống vì hòa bình hôm nay của đất nước.


Bảo tàng Chứng tích Chiến tranh nơi lưu giữ những bằng chứng xác thực, sinh động về tội ác chiến tranh đã diễn ra, đặc biệt là trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ. Ảnh: Yên Nội

Những ngày cuối tháng Tư lịch sử, Bảo tàng Chứng tích Chiến tranh – nơi lưu giữ những trang sử bi thương nhưng hào hùng của dân tộc Việt Nam đón hàng nghìn lượt khách đến tham quan.

Bảo tàng Chứng tích Chiến tranh được thành lập năm 1975, không lâu sau ngày đất nước thống nhất, Bảo tàng tọa lạc tại số 28, đường Võ Văn Tần, phường 6, Quận 3, TP Hồ Chí Minh. Sau nhiều lần tu sửa và nâng cấp, bảo tàng mang phong cách hiện đại, với diện tích trưng bày trong nhà và ngoài trời lên đến 11.000m². Đây là nơi lưu giữ những bằng chứng xác thực, sinh động về tội ác chiến tranh, đặc biệt là trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ.

Trong dịp Kỷ niệm 50 năm Giải phóng miền Nam, thông nhất đất nước, Bảo tàng Chứng tích Chiến tranh là địa chỉ đỏ thu hút hàng nghìn lượt khách tham quan mỗi ngày. Ảnh: Yên Nội

Trong phòng trưng bày chính, những bức ảnh đen trắng của nhiếp ảnh gia quốc tế, những tư liệu về tội ác chiến tranh, các bộ sưu tập về nạn nhân chất độc da cam, máy chém thời thực dân… khiến nhiều người lặng đi.

Cựu chiến binh Nguyễn Viết Hoàn đến từ Bình Phước chia sẻ: “Tôi là một chiến sĩ từng tham gia chiến dịch Hồ Chí Minh và trực tiếp chiến đấu bảo vệ cầu Rạch Chiếc, hôm nay tôi xuống TP Hồ Chí Minh thăm lại chiến trường xưa và dự Lễ Kỷ niệm 50 năm Ngày Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Nhân dip này tôi ghé thăm Bảo tàng Chứng tích Chiến tranh và những hình ảnh và hiện vật tại đây khiến tôi rất xúc động”.

Cựu chiến binh Nguyễn Viết Hoàn xúc động khi xem những hình ảnh và hiện vật tại bảo tàng. Ảnh: Yên Nội

“Qua những hình ảnh quá khứ đã dạy chúng ta nhiều bài học quý giá về lòng kiên trung, sự hy sinh và tinh thần đoàn kết. Những bài học này cần được ghi nhớ và phát huy trong việc xây dựng tương lai” – cựu chiến binh Nguyễn Viết Hoàn nhấn mạnh thêm.

Bạn Lê Thị Ngọc Thảo, sinh viên viên Trường Đại học Sài Gòn nêu cảm nhận: “Em từng đọc nhiều sách về đề tài chiến tranh, nhưng hôm nay em thật sự xúc động khi tận mắt chứng kiến những hình ảnh và kỷ vật này. Em càng thấu hiểu hơn về những mất mát, hy sinh của cha, ông và càng nhân lên niềm biết ơn vô hạn với thế hệ đi trước.”

“Thế hệ trẻ chúng em hôm nay không chỉ là những người thừa hưởng thành quả của cha ông mà còn là những người có trách nhiệm gìn giữ và phát huy những giá trị mà thế hệ cha, ông để lại. Qua đây em cũng muốn nhắn gửi đến các bạn trẻ hôm nay rằng, mỗi cá nhân đều có thể đóng góp những điều tốt đẹp cho xã hội bằng những việc làm có ý nghĩa” – sinh viên Lê Thị Ngọc Thảo chia sẻ.

Ban Lê Thị Ngọc Thảo, sinh viên Trường Đại học Sài Gòn xúc động khi xem những hiện vật và tư liệu tại Bảo tàng Chứng tích Chiến tranh. Ảnh: Yên Nội

Nhiều du khách khi bước vào bảo tàng đều bị ấn tượng mạnh bởi các hình ảnh chân thực và hiện vật chiến tranh. Những chiếc xe tăng cũ kỹ, máy bay chiến đấu, vũ khí, các hình ảnh tù binh… tất cả đều mang đến cảm giác chân thực và đau xót.

Một nhóm du khách đến từ Australia tỏ sự ngỡ ngàng trước độ chân thật của các hiện vật, nhiều người xúc động mạnh khi nhìn thấy các đoạn phim tư liệu ghi lại cảnh chiến tranh khốc liệt.

Du khách nước ngoài ngỡ ngàng về độ chân thật của những hình ảnh và hiện vật tại Bảo tàng Chứng tích Chiến tranh. Ảnh: Yên Nội

Đối với nhiều du khách, bảo tàng như một bài học lịch sử sinh động, giúp họ hiểu rõ hơn về nguyên nhân, diễn biến của chiến tranh. Nhiều người cảm thấy bồi hồi và trăn trở về hậu quả nặng nề mà chiến tranh để lại cho nhân loại.

Bảo tàng Chứng tích Chiến tranh là một địa điểm không chỉ mang ý nghĩa lịch sử mà còn là biểu tượng của ý chí kiên cường của dân tộc Việt Nam. Sau khi đến đây, hầu hết mọi du khách đều suy ngẫm về những bài học quý giá mà lịch sử để lại. Đó là, tinh thần đoàn kết, lòng yêu nước và trách nhiệm với tương lai sẽ là những yếu tố then chốt giúp Việt Nam tiến xa hơn trong kỷ nguyên mới. Kiến tạo tương lai hòa bình, phồn thịnh là khát vọng không chỉ của riêng ai mà là của cả dân tộc Việt Nam.

Huy Phương

 

Nguồn: Dulichvn

Mùa rêu xanh trên Rạn Nam Ô

Bãi Rạn Nam Ô, nằm nép mình bình yên trong làng chài cổ Nam Ô (phường Hòa Hiệp Nam, quận Liên Chiểu, TP. Đà Nẵng), là nơi những phiến đá tự nhiên xếp lớp bao quanh ghềnh đá như một tuyệt tác của thiên nhiên.


Vào mỗi độ xuân về, nơi đây khoác lên mình tấm áo mới – màu xanh diệu kỳ của rêu biển, biểu tượng cho mùa lộc biển trù phú và hào phóng mà thiên nhiên ban tặng. Chính vẻ đẹp độc đáo ấy đã biến mùa rêu ở bãi rạn Nam Ô trở thành điểm đến yêu thích của người dân, du khách gần xa, đặc biệt là giới trẻ đam mê khám phá và ghi lại những khoảnh khắc ấn tượng.

Đường đến bãi rêu tại rạn Nam Ô tương đối dễ tìm. Từ trung tâm thành phố Đà Nẵng, du khách di chuyển về phía bắc khoảng chừng 20km theo đường Nguyễn Tất Thành hoặc trục đường Điện Biên Phủ – Tôn Đức Thắng – Nguyễn Lương Bằng. Đến cầu Nam Ô cũ (thuộc đường Nguyễn Lương Bằng), du khách rẽ phải, băng qua đường ngang thuộc hệ thống ga Kim Liên và đi thẳng khoảng chừng 500m sẽ đến được rạn Nam Ô.

Những mỏm đá phủ đầy rêu xanh, khi thủy triều xuống, sẽ để lộ nhiều những rêu non – lá rong biển

Chưa có một nghiên cứu nào giải thích vì sao mùa rêu xanh xuất hiện vào mùa xuân trong một thời gian ngắn ở biển Nam Ô, nhưng chính những thảm rêu xanh bám đầy trên phiến đá đã tạo nên một bức tranh tuyệt đẹp, lôi cuốn diệu kỳ. Nhiều vị cao niên trong làng cổ Nam Ô, kể rằng, từ xa xưa, gành đá Nam Ô được xem là núi cấm – cấm chặt cây, cấm lấy đá. Quy định này được dân làng nhiều đời tuân thủ nghiêm ngặt, ai vi phạm sẽ bị bắt tội. Thậm chí người ta còn cho đây là khu rừng linh, chỉ được sử dụng gỗ cho việc xây dựng đình miếu trong làng. Nửa phần gành đá Nam Ô nhoài ra biển, sóng biển xâm thực lâu đời hình thành gành đá bao bọc chung quanh. Và đá ở bãi rạn, cũng mang trong mình nhiều huyền tích. Bãi Rạn Nam Ô mang một vẻ đẹp thiên nhiên hoang sơ, độc đáo. Thiên nhiên đã khéo léo sắp đặt và hình thành nhiều phiến đá ngầm trên mặt nước và mùa xuân, phủ đầy rêu. Chính vẻ đẹp hoang sơ này, đã tạo nên một nét độc đáo hiếm có của Đà Nẵng – mang lại nhiều trải nghiệm thú vị cho người dân, du khách.

Mùa này, nhiều gia đình chọn đến Nam Ô, vui chơi trong ngày và lưu giữ nhiều tấm ảnh kỷ niệm đẹp. Và đây cũng trở thành điểm chụp ảnh, “check-in” của nhiều nhóm bạn lứa tuổi trung niên, đặc biệt là giới trẻ. Những ngày đầu xuân mới, rêu xanh kết thành thảm, đẹp như tranh vẽ. Nhiều bạn trẻ khi chọn đến Nam Ô, đã đi từ sớm tinh mơ khi bình minh bắt đầu chiếu vàng trên biển – để ngắm trọn khoảnh khắc rêu xanh phủ bạt ngàn trên từng phiến đá khi thủy triều chưa lên. Và chờ đến khoảng 16 giờ chiều, khi thủy triều bắt đầu xuống để ngắm rêu xanh lộ rõ giữa bãi đá dài và đón hoàng hôn trên biển.

Du khách vừa ngắm rêu xanh vừa tự mình “thu hoạch” rong mứt làm quà.

Đến với bãi rạn Nam Ô, bên cạnh việc chiêm ngưỡng cảnh sắc thiên nhiên tươi đẹp và lạ mắt mà bạn còn có thể ghé thăm làng nước mắm Nam Ô truyền thống. Chắc chắn là bạn không thể bỏ qua việc thưởng thức các món ăn hải sản nơi đây. Đặc biệt là gỏi cá Nam Ô, món đặc sản khá nổi tiếng không thể bỏ qua khi đến đây.

Rạn Nam Ô mang trong mình phong cảnh kỳ ảo, độc đáo với bãi biển xanh cùng các loại đá lớn, nhỏ hình thù khác nhau đã khiến Nam Ô trở thành điểm đến cho các tín đồ đam mê du lịch bụi, ưa khám phá, thưởng ngoạn phong cảnh mới lạ. Đây là điểm du lịch còn khá hoang sơ, tất cả tạo nên một vẻ đẹp quyến rũ đến lạ thường mà tạo hóa đã ban tặng. Bãi rạn Nam Ô được người dân Đà Thành lựa chọn là điểm đến lý tưởng cho những ngày cuối tuần.

ĐT

Nguồn: Dulichvn

Quan tâm, đầu tư nâng cấp Khu di tích lịch sử quốc gia đặc biệt Bạch Đằng

Với những giá trị đặc biệt, di tích lịch sử quốc gia đặc biệt Bạch Đằng đã và đang được Quảng Yên tích cực bảo tồn và phát huy giá trị nhằm tạo đà phát triển du lịch, mở rộng không gian kết nối du lịch từ di tích Bạch Đằng đến các điểm di tích và các địa phương trong, ngoài tỉnh. Tuy nhiên, để phát huy hơn nữa những giá trị của di tích, cử tri TX Quảng Yên đề nghị tỉnh xem xét đầu tư cải tạo, nâng cấp Khu di tích lịch sử quốc gia đặc biệt Bạch Đằng.


Học sinh tham quan bãi cọc Bạch Đằng (phường Yên Giang, TX Quảng Yên).

Thời gian qua, để bảo tồn, phát huy giá trị Khu di tích lịch sử quốc gia đặc biệt Bạch Đằng, TX Quảng Yên đã ban hành quy chế tổ chức và hoạt động của Ban điều hành dự án di tích cấp thị xã để tổ chức triển khai thực hiện. Địa phương đã chủ động chỉnh trang, tạo cảnh quan môi trường; tăng cường truyền thông, quảng bá. Đặc biệt, phối hợp tổ chức nhiều hoạt động thiết thực, điển hình là hoạt động tham quan, trải nghiệm tại bảo tàng và các điểm di tích như đình Trung Bản, đền Hưng Học, đền Trần Hưng Đạo…

Ban Quản lý di tích Bạch Đằng cũng phối hợp với các xã, phường bảo quản mốc ranh giới di tích, vùng bảo vệ di tích, tránh việc xây dựng xâm hại, xâm lấn vào khu vực khoanh vùng bảo vệ di tích. Ban hành quy chế phối hợp trong việc quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di tích lịch sử quốc gia đặc biệt Bạch Đằng với phường Yên Giang, Nam Hòa và xã Liên Hòa. Đồng thời, chủ động kêu gọi các tổ chức, cá nhân phát tâm công đức, tu bổ, tôn tạo, bổ sung các hiện vật làm đẹp cảnh quan, thay thế một số hiện vật lâu ngày xuống cấp, cũ, hỏng.

Từ năm 2012, TX Quảng Yên cũng đã phối hợp lập quy hoạch tổng thể dự án bảo tồn và phát huy giá trị Khu di tích lịch sử chiến thắng Bạch Đằng, được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt với tổng kinh phí đầu tư dự kiến 800 tỷ đồng. Dự án được phân kỳ đầu tư theo 3 giai đoạn.

Trong đó, giai đoạn 1 triển khai từ năm 2016 đến nay, tổng mức đầu tư gần 205 tỷ đồng với mục tiêu nhằm từng bước cụ thể hóa quy hoạch tổng thể bảo tồn và phát huy giá trị khu di tích lịch sử chiến thắng Bạch Đằng và quy hoạch chi tiết xây dựng đã được các cấp có thẩm quyền phê duyệt. Dự án được phê duyệt đầu tư các hạng mục: Hệ thống hạ tầng kỹ thuật của khu trung tâm di tích 7,8ha; đường giao thông vào các di tích bãi cọc Đồng Má Ngựa, bãi cọc Đồng Vạn Muối, đình Trung Bản; các công trình kiến trúc và khu tái định cư. Đến nay, bước đầu tạo được không gian, cảnh quan cho di tích.

Du khách thăm mô hình Khu di tích lịch sử quốc gia đặc biệt Bạch Đằng tại Bảo tàng Bạch Đằng.

Mặc dù đã đạt được nhiều kết quả tích cực, công tác bảo tồn khu di tích Bạch Đằng vẫn đối mặt với một số thách thức. Bãi cọc Bạch Đằng là minh chứng sống động cho chiến thắng năm 1288. Tuy nhiên, việc bảo tồn các bãi cọc gỗ trong môi trường ngập nước đòi hỏi giải pháp kỹ thuật phù hợp để ngăn chặn sự phân hủy. Bên cạnh đó, dù đã có định hướng phát triển du lịch gắn với giá trị di tích Bạch Đằng, kết nối với các tuyến, điểm du lịch trong và ngoài tỉnh, nhưng việc triển khai còn thiếu sự đồng bộ. Điều này khiến cho tiềm năng du lịch của di tích chưa được khai thác tối đa, chưa xứng tầm với một di tích quốc gia đặc biệt.

Tiếp thu ý kiến, kiến nghị của cử tri, UBND TX Quảng Yên đã chủ động phối hợp với các sở: Xây dựng, VHTTDL, Tài chính để lập điều chỉnh quy hoạch chi tiết tỷ lệ 1/500 dự án bảo tồn, phát huy giá trị Khu di tích lịch sử quốc gia đặc biệt Bạch Đằng. TX Quảng Yên cũng đã hoàn thành lập điều chỉnh quy hoạch chi tiết; đồng thời báo cáo đề xuất với Sở VHTTDL trình Sở Tài chính, báo cáo UBND tỉnh chỉ đạo giao Sở VHTTDL lập chủ trương đầu tư dự án bảo tồn, phát huy giá trị Khu di tích lịch sử quốc gia đặc biệt Bạch Đằng và đề xuất nguồn vốn vào kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2026-2030.

Hiểu Trân

 

Nguồn: Dulichvn

Người giữ tiếng chiêng cho buôn làng

Suốt 20 năm qua, bằng tình yêu, niềm đam mê với tiếng chiêng của đồng bào Ê đê, nghệ nhân Y Hy (thôn Buôn Tương, xã Ninh Tây, thị xã Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa) đã miệt mài thực hiện nhiều việc làm cụ thể nhằm giữ gìn, phát huy giá trị của nhạc cụ cồng chiêng. Để đến hôm nay, số lượng người biết sử dụng cồng chiêng trong các buôn làng ở xã Ninh Tây ngày càng nhiều hơn. Tiếng chiêng lại ngân vang, lan xa từ buôn làng đến núi rừng đại ngàn.


Tâm huyết với văn hóa truyền thống dân tộc

Ở xã Ninh Tây, nghệ nhân Y Hy là người có chức sắc, uy tín đối với đồng bào Ê đê. Đó không chỉ đơn thuần bởi ông đang là Bí thư Đảng ủy xã Ninh Tây, mà còn bởi ông là người rất có tâm huyết với vốn văn hóa truyền thống của dân tộc. Từng nhiều lần đến nhà ông Y Hy, mỗi lần chúng tôi lại bất ngờ với những việc ông làm, cách ông trân quý những phong tục, tập quán, nét đẹp văn hóa của dân tộc mình. Còn nhớ, đầu năm 2020, nghệ nhân Y Hy đã rất vui khi thành lập được đội cồng chiêng tập hợp những người có niềm yêu thích nhạc cụ này để cùng nhau tập luyện, biểu diễn những bài chiêng truyền thống của đồng bào Ê đê. Ông cũng sưu tầm, giữ gìn được những bộ chiêng đồng có giá trị và chất lượng âm thanh tốt. Tháng 11-2024, sau nhiều năm tích cóp, nghệ nhân Y Hy đã dựng xong ngôi nhà dài theo kiểu truyền thống của người dân Ê đê. Ngôi nhà là nơi để ông trưng bày những vật dụng, dụng cụ lao động, nhạc cụ của đồng bào Ê đê như: Gùi, nỏ, xà gạc, ché rượu cần, cồng chiêng, kèn đinh năm… Đặc biệt, nơi đây đã trở thành một địa điểm sinh hoạt văn hóa của người dân ở các buôn làng trong xã Ninh Tây. Mỗi dịp cuối tuần hay vào ngày lễ, Tết, người ta lại nghe tiếng cồng chiêng vang vọng, ngân nga và lan tỏa từ chính ngôi nhà dài này. “Từ nhỏ, tôi đã được ama (cha) truyền dạy cho những bài chiêng, cách nhận biết một bộ chiêng tốt và điều đó đã thấm vào tâm hồn tôi. Sau này, khi ama không còn, tôi vẫn tự tập luyện những bài chiêng, kỹ năng sử dụng chiêng để hiểu rõ hơn những cung bậc, âm sắc, tiết tấu của từng chiếc chiêng”, nghệ nhân Y Hy cho biết.

Nghệ nhân Y Hy dành tình cảm sâu sắc đối với nhạc cụ cồng chiêng của dân tộc mình.

Đặc điểm nổi bật trong cách diễn tấu cồng chiêng đó là có sự tham gia của nhiều người, mỗi người sử dụng một chiếc chiêng riêng và cùng nhau ngồi trên Kpan (ghế dài truyền thống của người Ê đê) để tấu lên những thanh âm khác nhau. Mỗi tiếng chiêng phát ra từ những chiếc chiêng như một lời đối thoại, tâm tình của người đánh thông qua sự va đập của các nhóm tiết tấu khác nhau. Bộ chiêng của người Ê đê thường có 5 chiếc bằng, tượng trưng cho các thành viên trong gia đình và có trình tự từ lớn đến nhỏ, gồm: Bõh knăh phun (chiêng ông), bõh knăh hleang (chiêng cha), bõh điết hluoe khơk (chiêng con trai), bõh điết hluoe hliang (chiêng cháu) phối hợp cùng với 2 chiếc chiêng có núm mà người Ê đê gọi là mđũ ana hong mung. Bộ chiêng gồm 7 chiếc như trên cùng hòa thanh với tiếng trống H’gơr tạo nên những bản hòa tấu trầm hùng, bay bổng. “Người Ê đê thường diễn tấu chiêng trong nhà dài. Hiện nay, tôi đang nắm giữ những bài chiêng truyền thống của đồng bào Ê đê như: “Tông hong klei drai êa” (tiếng vọng của thác nước); “Tông hong klei ứ êpa, ứ êpa”, “Bơ yơh, bơ yơh”, “Kơtap dum anăn” (những bài chiêng có nội dung động viên mọi người vươn lên trong cuộc sống)…”, nghệ nhân Y Hy chia sẻ.

Phát huy những giai điệu cồng chiêng

Không chỉ tự mình nắm giữ, rèn luyện những bài chiêng, nghệ nhân Y Hy còn tìm đến những già làng, người có uy tín ở các buôn làng trong xã Ninh Tây để mời gọi mọi người cùng động viên dân làng học đánh chiêng, sử dụng một số loại nhạc cụ khác của dân tộc Ê đê. Từ đó, số lượng người biết sử dụng cồng chiêng ngày càng tăng, đây cũng là điều kiện cần thiết để nghệ nhân Y Hy cùng các già làng thực hiện phục dựng lại một số lễ hội truyền thống như: Lễ cúng bến nước, lễ mừng nhà mới, lễ cưới hỏi… Trong những lễ hội đó, không thể thiếu màn biểu diễn hòa tấu cồng chiêng. Nhờ đó, trong mấy năm gần đây, việc giữ gìn, phát huy giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc Ê đê trên địa bàn xã Ninh Tây có nhiều khởi sắc. Đặc biệt, một số loại chiêng đặc trưng của người Ê đê ở tỉnh Khánh Hòa như chiêng kok, chiêng gông đã được khôi phục, biểu diễn trở lại.

“Hồi trẻ tôi cũng từng được học đánh chiêng, thổi kèn đinh năm. Nhưng sau này, do điều kiện cuộc sống nên cũng bỏ bê một thời gian dài. Gần đây, tôi được nghệ nhân Y Hy động viên, mời tham gia đội chiêng, vừa được sống lại với sở thích một thời, vừa góp sức trong việc giữ gìn nhạc cụ của dân tộc mình”, ông Y Ty (thôn Buôn Đung) cho biết. Với anh Y Suk (thôn Buôn Lác), từ lúc theo học nghệ nhân Y Hy cách sử dụng chiêng kok đã trở nên yêu thích nhạc cụ này. “Tôi được nghệ nhân Y Hy động viên tham gia đội cồng chiêng của xã, được tập luyện, đi biểu diễn phục vụ mọi người. Sau này, tôi học thêm cách sử dụng chiêng kok và thấy yêu thích ngay. Tiếng chiêng kok không ngân nga, vang vọng như chiêng đồng, nhưng lại gần gũi, giản dị”, anh Y Suk chia sẻ.

Một bộ chiêng có giá trị của nghệ nhân Y Hy.

Với những nỗ lực của mình, nghệ nhân Y Hy đã góp phần quan trọng trong việc giữ gìn, phát huy những giai điệu cồng chiêng trong cuộc sống hôm nay. Thông qua việc tổ chức được đội cồng chiêng, đến nay nghệ nhân Y Hy đã vận động thành lập được đội văn nghệ ở một số thôn. Các thành viên trong đội văn nghệ không chỉ trình diễn hòa tấu cồng chiêng mà còn biểu diễn kèn đinh năm, đinh tút, hát dân ca, múa truyền thống của đồng bào Ê đê… Mỗi thanh âm của tiếng chiêng và các loại nhạc cụ khác hòa với tiếng hát, điệu múa như sợi dây gắn kết tình cảm của người dân lại với nhau. Để từ đó những giá trị văn hóa nghệ thuật đặc sắc của đồng bào Ê đê tiếp tục được trao truyền, gìn giữ. Với nghệ nhân Y Hy, ông đã được Hội đồng xét tặng danh hiệu nghệ nhân ưu tú, nghệ nhân nhân dân của tỉnh thống nhất đề xuất lên Hội đồng cấp bộ để xét danh hiệu Nghệ nhân Ưu tú.

Giang Đình

Nguồn: Dulichvn

Đặc sản kỳ lạ ở Đà Nẵng trông như bún, ăn thanh mát, giòn ngon giống rau câu

Để thu hoạch thứ đặc sản kỳ lạ được ví như lộc trời này, người dân ở vùng cửa biển Nam Ô (Đà Nẵng) phải đem lưới thả dọc bờ sông hoặc lặn dưới độ sâu chừng 5m.


Sông Cu Đê (hay còn được gọi là sông Trường Định) nằm ở phía Tây Bắc của TP Đà Nẵng. Thượng nguồn của sông thuộc xã Hòa Bắc (huyện Hòa Vang), còn hạ nguồn là cửa biển Nam Ô (phường Hòa Hiệp Bắc, quận Liên Chiểu).

Sở dĩ sông được gọi tên như vậy là bởi hạ nguồn của nó chảy qua làng Cu Đê. Điều đặc biệt là ở hạ nguồn sông, nơi giáp với biển Nam Ô, vào đầu hè (khoảng tháng 2 đến tháng 4 âm lịch) thường xuất hiện loài thủy sinh kỳ lạ.


Ngư dân bản địa gọi đó là “bún mẹ”, còn trứng của chúng là bún sông, ví như sản vật “trời ban” vì có thể chế biến thành món ăn lạ miệng, hấp dẫn.

“Bún mẹ” có hình dáng xù xì, thân mềm, lưng xuất hiện nhiều đốm xanh, xung quanh thân có nhiều chân màu vàng cam. Khi gặp nguy hiểm, “bún mẹ” thường tiết ra chất dịch màu đen tím. Ảnh: Bếp bên sườn đồi

Ông Lê Úc – sống ở xóm Vạn (phường Hòa Hiệp Bắc, quận Liên Chiểu) cho biết, sông Cu Đê là nơi sản sinh ra nhiều loại hải sản như nuốc, sứa, cá, ốc,…

Đặc biệt, nhiều năm trở lại đây, trên sông còn xuất hiện “bún sông”. Sở dĩ có tên gọi như vậy là vì chúng có hình sợi giống như bún gạo nhưng kích thước bé hơn, màu xanh lợt hoặc hơi ngả vàng, cuộn lại thành từng nắm nhỏ.

“Bún mẹ có đặc tính sinh sản trong đêm tối với số lượng lớn. Khi sinh sản, chúng đẻ nhiều dây trứng gọi là bún sông. Bún sông thường cuộn thành từng nắm màu xanh nhạt”, ông Úc nói.

Bún sông được ví như đặc sản ở Đà Nẵng. Ảnh: Đông Dân Biển

Để khai thác bún sông, người dân địa phương thường canh lúc chiều muộn, đem lưới ra thả dọc bờ sông để bẫy “bún mẹ” vào đẻ trứng. Phương pháp này khá hiệu quả vì chúng thường sinh sản ở những chỗ có nhiều vật cản.

Tuy nhiên, những người có thể lực tốt thường lặn xuống độ sâu khoảng 5m ở khu vực giữa sông rồi mò bắt bằng tay để đảm bảo bún sông không bị đứt đoạn, giữ được độ tươi, giòn, khi đem bán cũng được giá cao hơn.

Trung bình mỗi lần lặn, họ vớt được khoảng 1-2kg bún sông. Nếu bắt được “bún mẹ”, họ thu trứng xong sẽ thả chúng về lại sông. Ông Úc cho hay, “bún sông” chỉ phát triển trong môi trường nước chảy, trong và tinh khiết.

Theo kinh nghiệm và quan sát của ông, cứ năm nào bún sông vào mùa sinh sôi nảy nở mà gặp trời mưa hoặc nguồn nước ô nhiễm thì năm đó, chúng sẽ biến mất, không thu hoạch được gì.

Gỏi bún sông là món ăn yêu thích của người dân ở Nam Ô. Ảnh: Nước mắm Nam Ô

Bún sông khi mới sinh sản có màu xanh nhạt, ăn rất giòn, mát, vị ngọt thanh. Còn nếu ngả sang màu vàng là bún sông đã sinh sản được 1 thời gian, không còn giữ được hương vị độc đáo ban đầu của “con bún” nữa.

Mặc dù chưa được nhiều thực khách biết đến nhưng bún sông lại là nguyên liệu chế biến món ăn khá phổ biến với các hộ dân sinh sống gần cửa biển Nam Ô.

Nhiều quán ăn, nhà hàng ở địa phương hiện cũng đưa các món ăn từ bún sông này vào thực đơn, phục vụ thực khách. Bún sông có thể biến tấu thành 1 số món tương tự như bún, bánh canh hoặc cuốn gỏi, xào, song được ưa chuộng hơn cả là gỏi.

Để làm gỏi, người ta phải chọn bún sông còn non, màu xanh nhạt, sau đó đem rửa với nước sạch nhiều lần nhằm loại bỏ rong tảo, bùn đất. Tiếp đến, đun sôi nước muối pha loãng, cho bún sông vào trụng sơ rồi vớt ra để ráo.

Bún sông có vị giòn ngọt, thanh mát, ăn sần sật khá giống rau câu. Ảnh: Cải Nguyễn

Tùy điều kiện từng nhà và sở thích từng người mà người ta trộn bún sông với nước mắm tỏi ớt, cùng các nguyên liệu khác nhau như tôm đất, thịt ba chỉ, dứa (thơm), dưa leo xắt mỏng, cà rốt thái sợi, rau thơm, lạc rang,…

“Bí quyết làm gỏi bún sông ngon nằm ở khâu trộn. Các nguyên liệu sau khi sơ chế hoặc làm chín thì phải để nguội rồi mới trộn đều tay.

Nếu trộn lúc còn nóng thì dễ làm mất đi màu xanh tự nhiên của sợi bún sông, đồng thời khiến bún bị mềm, mất độ giòn ngon”, chị Kiều Giang – chủ 1 quán ăn địa phương ở quận Liên Chiểu, cho hay.

Chị Giang nhận xét, bún sông có hương vị lạ miệng, khác biệt hẳn so với các loại rong nho, tảo biển thường thấy. Món ăn này có vị ngọt nhẹ, thanh mát, khi ăn cảm giác giòn sần sật giống rau câu.

Vào mùa hè, trong tiết trời oi nóng, bún sông càng được yêu thích nhờ công dụng giải nhiệt, trẻ con hay người lớn đều có thể thưởng thức.

Thảo Trinh

 

Nguồn: Dulichvn

TIN MỚI NHẤT