Du lịch trong nước

Du lịch trong nước, tin tức du lịch trong nước, các tour du lịch trong nước, các địa điểm du lịch trong nước hấp dẫn được chúng tôi tổng hợp và đưa tin hàng ngày đến cho khách du lịch trên khắp mọi miền đất nước có được thông tin du lịch trong nước để có những thông tin hữu ích nhất cho mình và gia đình khi quyết định chọn chuyến du lịch trong nước cho mình và người thân

Nền văn hóa biển độc đáo

Hạ Long không chỉ nổi tiếng về giá trị địa chất – địa mạo, về cảnh quan thiên nhiên mà còn là tên gọi của một nền văn hoá biển đặc sắc.


Hình ảnh bình gốm Đầu Rằm – Bảo vật Quốc gia, được đưa lên tem bưu chính.

Quảng Ninh là một trong những địa bàn cư trú liên tục của người Việt cổ. Từ khoảng 5.000 năm đến 3.500 năm cách ngày nay, chủ nhân Văn hóa Hạ Long đã tiến ra chiếm lĩnh và khai thác vùng đồng bằng ven biển và các đảo. Văn hoá Hạ Long với những đặc trưng rất độc đáo, có tầm cỡ lớn bậc nhất ở Việt Nam và có vị trí nằm trong giai đoạn bản lề từ tiền sử đến lịch sử, dấu ấn không chỉ thấy ở vùng ven biển Quảng Ninh mà còn có ở Hải Phòng và một số vùng ven biển phụ cận với ba nền văn hoá tiền sử nối tiếp nhau phát triển hơn vạn năm là Văn hoá Soi Nhụ, Văn hoá Cái Bèo và Văn hoá Hạ Long.

Những chứng tích khảo cổ, các di chỉ, hiện vật của văn hóa Cái Bèo do nhà khảo cổ học người Pháp M.Colani phát hiện năm 1938 cho thấy, để tồn tại trong môi trường biển đảo, cư dân văn hóa Cái Bèo đã sáng tạo ra tổ hợp công cụ đá (rìu, bôn) có đầu nhọn thích hợp cho việc khai thác hàu, hà và gia công đồ tre, gỗ, đóng thuyền mảng. Bên cạnh đó là các công cụ chì lưới, chày nghiền, bàn nghiền phục vụ hoạt động đánh bắt cá biển và gia công thực phẩm. Trong di tích Cái Bèo, đã thu được hàng tạ xương cá biển, có các loài cá nhám, cá mó xanh, cá đao. Văn hóa Cái Bèo là nguồn tạo dựng văn hóa Hạ Long sau này ở vùng biển Đông Bắc Việt Nam.

Văn hoá Hạ Long thuộc hậu kỳ đá mới đến sơ kỳ kim khí, có niên đại khoảng từ 6.000 đến 3.500 năm cách ngày nay, thể hiện thông qua hệ thống di tích đa dạng, hệ thống di vật phong phú… và những phát triển mới trong kỹ thuật chế tác công cụ đồ đá, đồ trang sức, đồ gốm. Tiêu biểu là các công cụ và trang sức chất liệu đá: Rìu, bôn có vai, có nấc được mài toàn thân, vòng tay; gốm xốp được trang trí hoa văn đắp thêm, hoa văn khắc vạch hình chữ S, hình sóng nước; công cụ mài rãnh hình chữ U.

Nét đặc sắc tạo nên dấu ấn văn hóa Hạ Long trên vùng đất Quảng Ninh chính là nền văn hóa biển độc đáo, thể hiện rõ từ cội nguồn gốc rễ của nó trong hệ thống văn hóa biển cùng thời ở Việt Nam, được định hình từ biển, khai thác biển, sống với biển để phục vụ cuộc sống. Chủ nhân Văn hóa Hạ Long biết kỹ nghệ đi lại trên biển, kỹ nghệ khai thác biển từ xa một cách thuần thục hơn so với các văn hóa biển cùng thời khác ở Việt Nam, như: Văn hóa Hoa Lộc Thanh Hóa, văn hóa Bàu Tró Quảng Bình, văn hóa Xóm Cồn Khánh Hòa…

Quy mô của văn hóa Hạ Long có nhiều di tích, các loại hình di tích phong phú, như: Di tích cư trú hang động, di tích cư trú ngoài trời, di tích mộ táng trên các vùng địa hình đa dạng. Tại Quảng Ninh hiện nay có 30 địa điểm thuộc Văn hóa Hạ Long đã được phát hiện. Văn hóa Hạ Long được phát triển qua hai giai đoạn: Giai đoạn sớm (5.000-4.000 năm cách ngày nay) và giai đoạn muộn (4.000-3.500 năm cách ngày nay).

Cư dân Hạ Long là cư dân văn hóa biển. Sự tồn tại và phát triển của cư dân biển bao giờ cũng rất năng động trong các mối giao lưu hội nhập và thích ứng văn hóa trong thời tiền sử. Không những thế, văn hóa Hạ Long còn in dấu ấn lên các nền văn hóa sơ kỳ thời đại kim khí ở các tỉnh miền núi phía Bắc, đặc biệt là vùng trung du đồng bằng châu thổ sông Hồng, cũng như đồng bằng ven biển sông Mã.

Ngược lại, các nền văn hóa này có tác động không nhỏ đến văn hóa Hạ Long mà dấu ấn văn hóa Phùng Nguyên ở di chỉ Bồ Chuyến (Đại Yên, TP Hạ Long), Đầu Rằm (Hoàng Tân, TX Quảng Yên) là những minh chứng. Có được những giao lưu trao đổi ngang dọc với các trung tâm văn hóa lớn lúc đó, cư dân văn hóa Hạ Long đã phát huy nội lực, đứng vững trên cơ tầng văn hóa biển của mình, phát huy thế mạnh của cư dân sông nước và tranh thủ thành tựu của cư dân đồng bằng, để cùng các cộng đồng cư dân khác đóng góp cho nền văn minh Việt cổ, tạo dựng quốc gia Văn Lang – Âu Lạc sau này.

Hát chèo đường trên Vịnh Hạ Long là lối hát đối đáp, thường là hát tập thể giữa nam và nữ thường thấy ở các tục giao duyên khác ở Bắc Bộ.

Từ cuộc sống thích ứng với biển cả, ngư dân hình thành nhu cầu được bày tỏ tâm tư, tình cảm của mình đối với biển cả, với quê hương cũng như những người thân yêu, dẫn tới sự ra đời của các sáng tác văn nghệ dân gian. Các sáng tác dân gian của cư dân ven biển khá đa dạng, từ các truyền thuyết, truyện cổ tích của cư dân ven biển, đến hò vè rồi nghệ thuật biểu diễn, như: Hát giao duyên trên Vịnh Hạ Long (còn gọi là hát chèo đường), hát đúm, hò biển.

Nhiều di sản văn hóa phi vật thể của di sản văn hóa biển đảo được lồng ghép làm cho lễ hội sinh động, như: Lễ hội cầu ngư Tân An, lễ hội Tiên Công ở TX Quảng Yên, lễ hội đền Bà Men, lễ hội đình Giang Võng – Trúc Võng trên Vịnh Hạ Long. Lễ hội ở vùng biển Hạ Long chứa đựng nhiều giá trị văn hóa độc đáo, đặc sắc, mang đậm hơi thở cuộc sống của người dân vùng biển Việt Nam nói chung.

Những tư liệu khảo cổ học tại Hạ Long là cơ sở cho việc nghiên cứu về địa môi trường, cổ khí hậu, sự thay đổi đường bờ do biển tiến, biển thoái cũng như các biến cố của thiên nhiên trên biển, tìm hiểu bức tranh ngôn ngữ tộc người trong quá khứ. Trong khi đó, kho tàng di sản văn hoá phi vật thể đặc sắc có thể xây dựng thành sản phẩm nghệ thuật biểu diễn phục vụ du lịch.

Huỳnh Đăng

Nguồn: Dulichvn.org.vn

Hà Nội: Festival Hoa Mê Linh lần thứ 2 diễn ra trong 4 ngày

Festival Hoa Mê Linh lần thứ 2 với chủ đề “Mê Linh rực rỡ sắc hoa”, dự kiến được tổ chức trong 4 ngày, từ 26-29/12.


Thông tin từ UBND huyện Mê Linh (Hà Nội) ngày 16/12 cho biết, lễ hội diễn ra tại quảng trường trung tâm hành chính huyện.

Theo ban tổ chức, đây là dịp tôn vinh giá trị của làng nghề trồng hoa, góp phần quảng bá nét đẹp, tiềm năng du lịch, hướng tới xây dựng Festival Hoa thành sự kiện thường niên, thương hiệu riêng của Mê Linh và du lịch Thủ đô.

Cuối tháng 12, huyện Mê Linh tổ chức Festival Hoa. Ảnh: Anh Tuấn

Festival Hoa năm nay không chỉ là một sự kiện văn hóa, du lịch đặc sắc mà còn là dịp ôn lại lịch sử và văn hóa của vùng đất Mê Linh.

Các tiểu cảnh, mô hình sẽ được thiết kế dựa trên những hình ảnh truyền thống, kết hợp với công nghệ ánh sáng, tạo nên những không gian vừa cổ kính, vừa hiện đại, mang đến cho du khách những trải nghiệm thú vị.

Bên cạnh hoạt động trưng bày, giới thiệu hoa, trong khuôn khổ Festival còn diễn ra nhiều hoạt động cộng đồng sôi động. Chương trình khai mạc với sự tham gia của các ca sĩ nổi tiếng như Hòa Minzy, Đức Phúc,…

Theo ban tổ chức, trong 4 ngày diễn ra lễ hội sẽ có nhiều chương trình ý nghĩa như hội thi trang trí xe đạp hoa từ vật liệu tái chế; thi vẽ tranh; dán, ghép bức tranh khổng lồ từ hoa; trình diễn áo dài,…

Đặc biệt, trong dịp này huyện Mê Linh phối hợp với Trung tâm Đầu tư Xúc tiến Thương mại Du lịch Hà Nội tổ chức hội chợ xúc tiến thương mại gắn kết quảng bá du lịch, văn hóa địa phương với hơn 100 gian hàng.

Quang Phong

Nguồn: Dulichvn.org.vn

Thừa Thiên Huế: Dấu ấn trong lăng vua Khải Định

Khác với lăng tẩm của các vị vua triều Nguyễn khác, Ứng Lăng được xây dựng hoàn toàn bằng bê tông, cốt thép và trang trí chủ yếu bằng đắp nổi sành, sứ. Vua Khải Định cử người sang Pháp mua sắt, thép, xi măng, ngói ác đoa; sang Trung Quốc, Nhật Bản mua đồ sứ, thủy tinh để kiến thiết công trình.


Lăng Khải Định (Ứng Lăng) được xây dựng trên triền núi Châu Chữ (còn gọi là Châu Ê, nay thuộc xã Thủy Bằng, thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế), cách trung tâm thành phố khoảng 10km. Công trình kiến trúc này nằm trong quần thể di tích cố đô Huế, di sản thế giới đã được UNESCO công nhận từ năm 1993. Vua Khải Định (trị vì 1916-1925) là vị vua thứ 12 của triều Nguyễn và là người cuối cùng xây dựng lăng tẩm, chuẩn bị cho sự “ra đi” của mình.

Du khách tham quan lăng Khải Định.

Theo tư liệu lịch sử, Ứng Lăng được chính vua Khải Định chọn đất và cho khởi công xây dựng từ năm 1920. Sau khi vua băng hà, được an táng vào năm 1925, quá trình xây dựng kéo dài đến năm 1931 mới hoàn thành. Khác với lăng tẩm của các vị vua triều Nguyễn khác, Ứng Lăng được xây dựng hoàn toàn bằng bê tông, cốt thép và trang trí chủ yếu bằng đắp nổi sành, sứ. Vua Khải Định cử người sang Pháp mua sắt, thép, xi măng, ngói ác đoa; sang Trung Quốc, Nhật Bản mua đồ sứ, thủy tinh để kiến thiết công trình.

Tiến sĩ Phan Thanh Hải, Giám đốc Sở Văn hóa và Thể thao tỉnh Thừa Thiên Huế cho biết: việc xây dựng các công trình kiến trúc tại kinh đô Huế chủ yếu diễn ra dưới thời kỳ vua Gia Long, Minh Mạng, sau đó được hoàn chỉnh dưới thời Thiệu Trị, Tự Đức. Đây là thời kỳ của các công trình kiến trúc sử dụng vật liệu truyền thống như gạch, ngói, gỗ.

Nhưng từ thời vua Đồng Khánh trở đi, do ảnh hưởng của văn minh Phương Tây, trong hệ thống kiến trúc cung đình xuất hiện một loại kiến trúc mới, sử dụng vật liệu bê tông, sắt thép, mang phong cách tân – cổ điển, nhất là trong thời kỳ 2 vị hoàng đế cuối cùng của triều Nguyễn là Khải Định và Bảo Đại.

 Trên trần của cung Thiên Định là bức “Cửu long ẩn vân” do nghệ nhân Phan Văn Tánh vẽ bằng cả chân và tay.

Hầu hết các vị vua triều Nguyễn khi băng hà sẽ giấu kín huyệt đạo để tránh kẻ gian lợi dụng quấy phá. Chỉ duy nhất huyệt mộ của vua Khải Định người đời sau ai cũng biết vì chôn ngay dưới bức tượng đồng trong cung Thiên Định ở Ứng Lăng. Ngày nay, người dân và du khách có thể vào tham quan.

Giá trị nghệ thuật cao nhất của lăng là phần trang trí nội thất cung Thiên Định. Ba gian giữa trong cung đều được trang trí phù điêu ghép bằng sành, sứ và thủy tinh màu. Đặc biệt là Bửu tán trên pho tượng đồng, nặng 1 tấn, với những đường lượn mềm mại, thanh thoát khiến người xem có cảm giác làm bằng nhung lụa rất nhẹ nhàng. Bên dưới Bửu tán là pho tượng đồng Vua Khải Định được đúc tại Pháp năm 1922.

Trên trần của cung Thiên Định là bức “Cửu long ẩn vân” do nghệ nhân Phan Văn Tánh vẽ bằng cả chân và tay. Điều đặc biệt, lạ lùng là bức tranh đã hàng trăm năm tuổi, màu mực còn như mới và không có con côn trùng nào bám vào. Bên cạnh kiệt tác “Cửu long ẩn vân” được xem là bức tranh trên trần nhà lớn nhất Việt Nam, tại huyệt mộ vua Khải Định còn có biểu tượng mặt trời rất lớn.

Các hướng dẫn viên khi thuyết minh cho du khách về bức phù điêu này đều nói rằng, đây là mặt trời đang lặn với hàm ý nhà vua đã băng hà. Những đường nét trang trí tinh xảo và được các nhà nghiên cứu đánh giá là đạt đến đỉnh cao trong kỹ thuật, mỹ thuật ghép sành, sứ.

Nhà nghiên cứu Phạm Đức Thành Dũng, Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế, nhận định đây là một hình thức biến thể của phong cách trang trí “nhất thi nhất họa”.

Theo nhà nghiên cứu Phan Thuận An, tuy chỉ trị vì trong 10 năm, băng hà lúc 41 tuổi, nhưng vua Khải Định đã để lại khá nhiều công trình kiến trúc mang phong cách mới lạ, kết hợp hài hòa 2 nền mỹ thuật truyền thống và hiện đại, Đông Á, Tây Âu.

Ngoài Ứng lăng, dấu ấn vua Khải Định còn nằm ở hàng loạt công trình kiến trúc nổi tiếng khác của cung đình Huế, như: cung An Định, các lầu Kiến Trung, Thái Bình, cửa Hiển Nhơn, Chương Đức,… thổi luồng sinh khí mới vào lịch sử mỹ thuật Việt Nam. Du khách khi đến tham quan lăng Khải Định không khỏi trầm trồ, thán phục trước vẻ đẹp nguy nga, tráng lệ của di sản văn hóa thế giới này.

Theo đánh giá của UNESCO, công cuộc bảo tồn di tích Huế đã chuyển sang giai đoạn ổn định và phát triển bền vững. Việc bảo tồn các giá trị di sản văn hóa luôn gắn chặt với quá trình khai thác, phát huy và tạo điều kiện cho phát triển kinh tế – xã hội.

Công tác bảo tồn, trùng tu di tích đến nay đã mang lại hiệu quả tích cực, góp phần quan trọng trong việc chỉnh trang diện mạo đô thị và khu dân cư, thu hút khách đến Huế, tăng các nguồn thu từ dịch vụ du lịch./.

Bài, ảnh: Hoàng Oanh – Vy Thảo

Nguồn: Dulichvn.org.vn

Bình Phước: Căn cứ Tà Thiết – một thời vang danh

Trong những dịp lễ hội, Tết, các ngày kỷ niệm lịch sử quan trọng, nếu như các bạn muốn thực hiện một chuyến du khảo, du lịch “về nguồn” thì đến với Bình Phước, về Lộc Ninh thăm Căn cứ Tà Thiết là một lựa chọn tuyệt vời.


Khu Di tích Quốc gia đặc biệt Tà Thiết (Căn cứ Tà Thiết), còn được gọi là Căn cứ Bộ Chỉ huy Miền, là một di tích lịch sử đặc biệt tọa lạc tại xã Lộc Thành, huyện Lộc Ninh, tỉnh Bình Phước. Đây là nơi ghi dấu ấn đậm nét trong lịch sử kháng chiến chống Mỹ của quân và dân Việt Nam, đặc biệt trong giai đoạn 1973-1975.

Khu căn cứ Tà Thiết nằm giữa rừng nguyên sinh bạt ngàn, cách thị trấn Lộc Ninh khoảng 20km. Có địa thế hiểm trở và kín đáo, cách xa các tuyến giao thông lớn. Vị trí này được lựa chọn vì địa hình hiểm trở, dễ phòng thủ và khó bị phát hiện bởi quân địch.

 Khu Đền thờ tại Khu Di tích 

Căn cứ được xây dựng có kiến trúc hài hòa với thiên nhiên, bảo đảm yếu tố bí mật và an toàn tuyệt đối. Đây là nơi Bộ Chỉ huy Miền gồm nhiều lãnh đạo cao cấp như Đại tướng Trần Văn Trà, Bí thư Trung ương Cục Phạm Hùng, và nhiều cán bộ cấp cao khác đưa ra những quyết sách quan trọng cho chiến dịch Hồ Chí Minh, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

Khu căn cứ Tà Thiết được xây dựng sau khi Hiệp định Paris được ký kết vào năm 1973. Lúc bấy giờ, vùng đất này trở thành trung tâm chỉ huy chiến lược của Bộ chỉ huy Miền, nơi tập trung các cơ quan đầu não như Bộ tư lệnh Miền, Cục Chính trị Miền, Cục Hậu cần và Cục Tham mưu. Từ căn cứ Tà Thiết, nhiều quyết định quan trọng đã được đưa ra, đóng vai trò then chốt trong Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, dẫn đến giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước vào năm 1975.

Đài Tưởng niệm chiến thắng Lộc Ninh. 

Ngày nay, khu căn cứ đã được phục dựng, bảo tồn để giữ nguyên giá trị lịch sử. Đi sâu vào khu di tích, ta sẽ gặp Nhà làm việc của Bộ chỉ huy Miền. Đây là nơi các lãnh đạo họp bàn các chiến lược quân sự quan trọng. Rải rác trong khu rừng thưa của căn cứ Tà Thiết có nhiều hầm trú ẩn, được thiết kế chắc chắn, chống bom pháo… Lần lượt du khách sẽ được tiếp cận khu vực hậu cần với những lán trại tích trữ lương thực, nhu yếu phẩm cho lực lượng tại căn cứ.

Bếp Hoàng Cầm là sáng tạo nổi tiếng trong kháng chiến, giúp đun nấu an toàn, tránh bị kẻ thù phát hiện bởi khói. Ta sẽ gặp dãy bệnh xá Quân y. Đây là nơi chữa trị cho các cán bộ và chiến sĩ bị thương. Cuối cùng, du khách sẽ tiếp cận một hội trường khá lớn theo quy mô thời ấy. Đây là nơi tổ chức các cuộc họp và sự kiện quan trọng.

Có một điều đặc biệt là các cơ sở, nhà cửa, lán trại của khu căn cứ đều được lợp mái, dùng vách bằng lá “trung quân”. Lá trung quân có một đặc tính rất độc đáo là khó bắt lửa, nên ít có khả năng bị hỏa hoạn, chống chịu được bom, pháo, đạn lửa của kẻ thù. Lá rất bền, có khi đến mười năm mới thay một lần! Ngoài ra, trong và xung quanh căn cứ Tà Thiết còn có rất nhiều rau “tàu bay”, lá giang, lá tai tượng, rau xá xị, xanh tốt quanh năm, cung cấp nguồn rau xanh tự nhiên cho cán bộ, chiến sĩ ta trong suốt những năm tháng ở chiến khu…

Nơi làm việc của Bộ Chỉ huy Miền. 

Căn cứ Tà Thiết là minh chứng sống động cho tinh thần đoàn kết, ý chí chiến đấu kiên cường của quân và dân ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ. Đây cũng là nơi lưu giữ ký ức về sự lãnh đạo tài tình của Bộ Chỉ huy Miền. Với những giá trị đặc biệt đó, khu căn cứ Tà Thiết đã được xếp hạng là Di tích Lịch sử Quốc gia đặc biệt vào năm 2012. Ngày nay, nơi đây trở thành điểm tham quan du lịch và giáo dục lịch sử quan trọng, thu hút nhiều thế hệ đến tìm hiểu và tri ân những đóng góp to lớn của cha ông trong sự nghiệp bảo vệ đất nước.

Du lịch, du khảo “về nguồn” đến khu căn cứ Tà Thiết, du khách sẽ có cơ hội tiếp cận, tìm hiểu thấu đáo về quá khứ, lịch sử kháng chiến vẻ vang, hào hùng của thế hệ cha anh qua các hiện vật, tài liệu, và kiến trúc được phục dựng. Hòa mình, đắm chìm vào không gian thiên nhiên hoang sơ của rừng Tà Thiết; tham gia các hoạt động tưởng niệm và tri ân tại di tích sẽ cho bạn nhiều cảm xúc sâu sắc và những ấn tượng khó quên… Căn cứ Tà Thiết không chỉ là một điểm đến văn hóa mà còn là nơi khơi dậy tinh thần yêu nước, niềm tự hào dân tộc cho mọi người. 

Bài và ảnh: Đặng Hoàng Thám

Nguồn: Dulichvn.org.vn

Lên Bắc Kạn, thăm đồn chiến thắng Phủ Thông

Thị trấn Phủ Thông (huyện Bạch Thông, tỉnh Bắc Kạn) là thung lũng nhỏ nằm dưới chân núi Phja Bjoóc nhưng chứa trong mình là cả kho tàng lịch sử hùng tráng một thời chống thực dân Pháp của quân và dân ta. Gần 80 năm trôi qua, trận công đồn Phủ Thông là dấu ấn không thể phai mờ với chứng tích còn đó – Khu di tích lịch sử Đồn Phủ Thông.


Đường về Phủ Thông giờ đây như tấm lụa thênh thang và đẹp đẽ. Xe cộ tấp nập nối những chuyến hàng ngược xuôi. Chúng tôi từng đôi lần đi qua đây và ấn tượng bởi những đồng ruộng, ao cá, vườn rau xanh ngát, hoa trái theo mùa, vẻ đẹp ấm no ấy là sự hiện thân của một vùng đất đai trù phú. Chỉ chưa đầy ba mươi phút chạy xe từ TP Bắc Kạn theo Quốc lộ 3 hướng Cao Bằng, rẽ vào đường 128 từ Phủ Thông đi Chợ Rã, chúng tôi đã đến Khu di tích lịch sử Đồn Phủ Thông. Toàn bộ khu vực này là núi đất, có độ cao từ 300m đến 400m, xen kẽ giữa đồi núi và ruộng nước. Đồn được xây dựng trên mỏm đồi nhô ra của núi Nà Cót, cách ngã ba Phủ Thông – Bắc Kạn – Chợ Rã khoảng 300m.

Tiết trời se sắt quyện vào không gian trầm mặc, linh thiêng của khu di tích gợi cho chúng tôi chút hoài cổ, niềm tự hào dâng lên, lại bồi hồi nhớ về câu thơ: “Khi nghe gió thổi qua Phja Bjoóc/ Em biết mùa thu đã hết rồi” trong bài “Khâu áo” của nhà thơ Nông Quốc Chấn, bởi lẽ bài thơ được viết trong bối cảnh lịch sử của thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp ngay dưới chân núi Phja Bjoóc. Dãy núi này hùng vĩ và phong phú về lâm thổ sản, khoáng sản cũng như vị trí địa lý có vai trò quan trọng với phong trào cách mạng nước ta. Núi Phja Bjoóc còn được Đại tướng Võ Nguyên Giáp đặt cho tên gọi là núi Cứu Quốc. 

Du khách tham quan và dâng hương tại Di tích lịch sử Đồn Phủ Thông. Ảnh: Ngân Hương 

Rảo bước nơi khu di tích, sự đồng vọng thiêng liêng từ đất đai, cổ thụ cất lên trong ánh nắng sớm, bầu trời như càng thêm trong, những tán cây càng thêm xanh hơn giữa khung cảnh của phố núi yên bình. Bao quanh khu di tích là những cây tếch cao lớn được trồng cách đây hơn nửa thế kỷ, vượt qua khắc nghiệt nắng mưa rồi phương trưởng, vạm vỡ với tầng tán lá xòe rộng lừng lững, kiên cường. Ngay bên cạnh khu di tích là nghĩa trang Phủ Thông, nơi hàng trăm ngôi mộ anh hùng liệt sĩ nằm lặng lẽ dưới tán cây, những người đã để lại máu xương, cho đất lành cây xanh, cho bình yên chim hót…

Chúng tôi gặp cựu chiến binh Đào Xuân Hậu, là người địa phương được giao trọng trách trông coi khu di tích. Ở tuổi 70, ông có vóc dáng nhanh nhẹn và sự thông tuệ, đầy tâm huyết. Ông Hậu ngoài việc bảo vệ, làm sạch cảnh quan khu di tích, vẫn thường say sưa kể lại chân thực, chính xác mỗi khi có ai đó hỏi về trận công đồn Phủ Thông. Ông Hậu cho hay: “Trước khi Đồn Phủ Thông được công nhận là di tích lịch sử, tại nền đất này là trường học cấp 1, 2 của thị trấn Phủ Thông”. 

Đồn Phủ Thông hình chữ nhật, dài 100m, rộng 50m, cổng chính ở phía Nam. Tường bao quanh đồn được đắp bằng đất nện, dày 1m, cao 2m, trong và ngoài tường có ghép gỗ và cọc tre già, có nhiều lỗ châu mai bắn ra từ các phía; 4 góc đồn có 4 lô cốt xây bằng gạch đá. Ngoài tường bao quanh đồn có 3 lớp hàng rào tre nứa, mỗi lớp cách nhau 3-4m, lớp trong cùng cách tường 10m, riêng phía Nam có một hàng rào dây thép gai. Trong đồn có nhà chỉ huy, nhà kho, đài quan sát, hầm bí mật, lỗ châu mai, cột cờ ở các hướng xung quanh.

Chúng tôi theo chỉ dẫn của ông Hậu chứng kiến những dấu tích còn sót lại. Với sự biến động không ngừng của thời gian, giờ đây khu di tích chỉ còn nền và một vài đoạn chân tường. Lịch sử ghi lại rằng, tại đây, quân ta đã 3 lần tập kích tấn công đồn Phủ Thông, đây là trận công đồn đầu tiên cấp tiểu đoàn khẳng định bước trưởng thành của Quân đội nhân dân Việt Nam. Đồng thời là cuộc tập dượt, rút kinh nghiệm để sau này đập tan cứ điểm Điện Biên Phủ, đánh bại thực dân Pháp xâm lược bằng Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ “chấn động địa cầu” ngày 7-5-1954. Trận tập kích lần thứ ba là trận đánh có quy mô lớn nhất do Bộ Tổng chỉ huy Quân đội quốc gia và Dân quân Việt Nam chỉ đạo. Trận đánh diễn ra tối 25-7-1948 của Tiểu đoàn 11 thuộc Trung đoàn 308 do đồng chí Vũ Yên chỉ huy, phối hợp với Tiểu đoàn 55 và Đại đội Ba Bể thực hiện bằng hỏa lực mạnh, tiêu diệt và làm bị thương 3/4 quân số địch, phá hủy hệ thống công sự, vật cản, nhà ở trong đồn. Về phía ta, 109 đồng chí đã anh dũng hy sinh. Trận đánh này đã tạo sức ép khiến cho quân địch phải rời khỏi thị xã Bắc Kạn. Trận đánh được Trung ương Đảng, Bộ Tổng chỉ huy biểu dương, Tiểu đoàn 11 được mang tên Tiểu đoàn Phủ Thông.

Sau này, đánh giá ý nghĩa của trận ngày 25-7-1948, trong thư Đại tướng Võ Nguyên Giáp gửi các đại biểu cựu chiến binh Tiểu đoàn Phủ Thông ngày 27-7-1998, nhân kỷ niệm 50 năm Chiến thắng Phủ Thông, có đoạn viết: “Chiến thắng Phủ Thông là trận đầu tiên bộ đội ta tiêu diệt đại đội tăng cường tinh nhuệ của Pháp phòng ngự với công sự vững chắc. Chiến thắng đã mang lại niềm tin, kinh nghiệm và có cống hiến lớn cho bộ đội ta tiến lên trên con đường đánh công kiên, đặc biệt là trong Chiến dịch giải phóng Biên giới và trong Chiến dịch Điện Biên Phủ, nói chung trong 30 năm kháng chiến”.

Chúng tôi đến Phủ Thông đúng lúc có đoàn công tác của Quận ủy Hoàn Kiếm, TP Hà Nội đến dâng hương và tham quan Khu di tích lịch sử Đồn Phủ Thông. Đại tá, cựu chiến binh Hoàng Minh Phương (phường Chương Dương, quận Hoàn Kiếm, TP Hà Nội) cho biết đây là lần thứ hai ông đến thăm Bắc Kạn. Ông Phương bày tỏ: “Chúng tôi đến đây để tưởng nhớ và tri ân những anh hùng liệt sĩ đã hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc. Tôi rất xúc động khi được về thăm vùng đất Phủ Thông anh hùng, từng chịu nhiều gian khổ trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp. Là người lính, tôi rất vinh dự và tự hào phát huy bản chất truyền thống Bộ đội Cụ Hồ, cống hiến sức mình cho quê hương, đất nước”.

Tháng 8-2023, HĐND tỉnh Bắc Kạn đã ban hành Nghị quyết về chủ trương đầu tư dự án phục dựng, tôn tạo một số hạng mục Khu di tích lịch sử Đồn Phủ Thông từ nguồn vốn hỗ trợ của Bộ Quốc phòng với tổng mức đầu tư 20 tỷ đồng. Dự án thực hiện từ năm 2023 đến 2025, quy hoạch mặt bằng tổng thể Khu di tích lịch sử đồn Phủ Thông, phục dựng một số hạng mục thể hiện kết quả sau trận công đồn, đường lên khu di tích, sưu tầm tư liệu, dấu tích liên quan đến trận đánh, dựng phim 3D có độ dài 15 phút phục vụ khách tham quan…

Chia sẻ với chúng tôi, ông Nông Lường Hào, Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch HĐND thị trấn Phủ Thông cho biết: “Trận đánh công đồn Phủ Thông thể hiện sức mạnh đoàn kết, ý chí kiên cường, lòng dũng cảm của quân và dân ta. Đảng bộ và nhân dân thị trấn Phủ Thông hôm nay tự hào, tiếp tục phát huy truyền thống cách mạng, nêu cao tinh thần trách nhiệm, đoàn kết, sáng tạo, ra sức phấn đấu xây dựng quê hương Phủ Thông anh hùng, ngày càng giàu đẹp, sớm là đô thị văn minh”.

Có dịp về thị trấn Phủ Thông vào dịp đầu xuân, du khách sẽ được tham dự Hội xuân Phủ Thông tổ chức ngày 20 tháng Giêng để cùng hòa vào không khí nô nức của dòng người đi hội và chiêm ngưỡng vẻ đẹp truyền thống văn hóa dân tộc Tày nơi đây. Phần lễ của Hội xuân Phủ Thông được diễn ra trong không khí trang nghiêm với nghi lễ dâng hương tại đài tưởng niệm các anh hùng liệt sĩ Phủ Thông kết hợp nghi lễ cầu mùa của bà con nhân dân trong vùng. Ngoài ra, du khách còn được thưởng thức những sản vật đặc trưng của địa phương cùng nhiều tiết mục biểu diễn dân ca, trò chơi dân gian truyền thống như tung còn, kéo co, đi cà kheo đầy hấp dẫn, vui nhộn.

Đối với chúng tôi, trở về Phủ Thông còn là dịp để ôn lại lịch sử và thêm trân quý hơn giá trị hòa bình, để những ca từ trong bản hành khúc đầu tiên của Quân đội ta “Bên suối noọng cười nghiêng soi bóng nước/ Bên bếp bập bùng tiếng xa quay ru/ Khắp nơi vang câu ca, khắp nơi chan hòa nụ cười/ Đón ta trong ánh nắng rực ánh sao…” (“Chiến thắng Phủ Thông” của nhạc sĩ Đinh Ngọc Liên) ngân vang mãi với niềm tự hào bất tận.

Hương Ly

Nguồn: Dulichvn.org.vn

Cá he kho rục – đặc sản ẩm thực Cần Thơ

Cá he kho rục là một trong hai món ngon của Cần Thơ được Hiệp hội Văn hóa Ẩm thực Việt Nam (VCCA) trao chứng nhận 121 món ẩm thực tiêu biểu Việt Nam giai đoạn I. Đây là món ngon đặc trưng của vùng sông nước miền Tây được nhiều thực khách yêu thích.


Cá he kho rục. Ảnh: Kiều Mai

Cùng với cá linh, cá he được xem là đặc sản của mùa nước nổi miền Tây. Cá he thường sống trong môi trường tự nhiên ẩn nấp ở bụi cây cỏ ngập nước, ăn côn trùng, tảo sợi, cá nhỏ, các loài giáp xác. Bởi đặc trưng này, cá he có thịt ngọt, mềm, béo. Người miền Tây thường chế biến cá he thành nhiều món ngon: canh chua, kho mẳn, chiên giòn, nhất là kho rục.

Cá he có nhiều xương nhỏ nên kho rục  luôn là lựa chọn ưu tiên khi chế biến loài cá này. Cách làm món này cũng đơn giản, chỉ tốn thời gian để cá mềm xương. Để làm món cá he kho rục ngon, khi bắt cá he về làm sạch nhớt, sạch mang vây và bỏ ruột cá. Thông thường với món cá kho rục, nhiều người vẫn để vẩy cá để món ăn thêm bắt vị. Cá sau khi làm sạch, khử tanh sẽ được ướp gia vị cho thấm đều rồi mang đi kho. Người miền Tây thường kho cá trên nồi đất, sử dụng nước màu thắng từ đường, thêm chút nước dừa cho thịt cá ngọt và thơm. Thông thường để cá mềm xương thì mất khoảng 7-8 tiếng kho. Tùy theo khẩu vị, khi kho người đầu bếp sẽ thêm vài lát khóm, hoặc me non, bần tươi kho kèm. Những nguyên liệu này không chỉ góp phần thúc đẩy xương cá mau mềm mà còn làm cho món ăn thêm tròn vị, bớt ngán. Khi cá chín, cá sẽ có vị thơm, ngọt, xương cá tan trong miệng.

Tại Cần Thơ, du khách có thể thưởng thức món cá he kho rục ở các nhà hàng sinh thái, như Nhà hàng Sông Hậu, Ẩm thực Ven sông Cần Thơ…

Minh Nhiên

Nguồn: Dulichvn.org.vn

Khánh Hòa: Giữ gìn di sản văn hóa tâm linh

Khánh Hòa được biết đến là trung tâm thực hành tín ngưỡng thờ Mẫu Thiên Y A Na của khu vực Nam Trung Bộ – Tây Nguyên. Để giữ gìn, phát huy giá trị tốt đẹp loại hình văn hóa, nghệ thuật gắn với đời sống tâm linh của người dân, nhiều năm qua, Hội Bảo tồn di sản văn hóa và du lịch tâm linh tỉnh đã triển khai nhiều hoạt động cụ thể nhằm định hướng các tổ chức, cá nhân thực hiện theo đúng quy định, hạn chế những biểu hiện tiêu cực trong thực hành tín ngưỡng, tâm linh.


Các đoàn thực hành tín ngưỡng thờ Mẫu Thiên Y A Na tham gia lễ hội Tháp Bà Ponagar năm 2024.

Được thành lập vào năm 2015, đến nay, Hội Bảo tồn di sản văn hóa và du lịch tâm linh tỉnh có 125 thành viên và 21 đoàn dân vũ dân gian thực hành tín ngưỡng thờ Mẫu Thiên Y A Na. Các đoàn thực hành tín ngưỡng thờ Mẫu thường xuyên tổ chức hoạt động tại điện thờ các dịp lễ cúng Mẫu vào mùa xuân, mùa thu, ngày vía Mẫu và ngày rằm, mùng 1 âm lịch hằng tháng. Mỗi dịp như thế đều thu hút sự tham gia của đông đảo thành viên trong đoàn, người dân địa phương. Ngoài ra, các đoàn còn tham gia hoạt động thực hành tín ngưỡng thờ Mẫu Thiên Y A Na ở lễ hội Tháp Bà Ponagar, lễ hội Am Chúa, Suối Đổ… Trong quá trình thực hiện hoạt động tâm linh, tín ngưỡng, nhìn chung các đoàn đều tuân thủ quy định về đảm bảo an ninh trật tự tại điện thờ và địa điểm tổ chức sinh hoạt; đa số các đoàn đều thông báo với chính quyền địa phương về các vấn đề liên quan đến hoạt động tín ngưỡng…

Theo bà Ngô Mỵ Châu – Phó Chủ tịch Hội Bảo tồn di sản văn hóa và du lịch tâm linh tỉnh, qua kiểm tra, hội nhận thấy các đoàn thực hành tín ngưỡng thờ Mẫu có điện thờ đều bài trí ban thờ đảm bảo sự tôn nghiêm, thành kính, phù hợp với tín ngưỡng thờ Mẫu; không gian xung quanh điện thờ, nơi sinh hoạt được giữ gìn vệ sinh sạch sẽ; một số điện có cảnh quan sân vườn xanh – sạch – đẹp; nội dung thực hành tín ngưỡng thờ Mẫu được bố trí hợp lý… Qua đó, góp phần bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa tín ngưỡng thờ Mẫu Thiên Y A Na trong đời sống nhân dân. Hội cũng chưa phát hiện biểu hiện mê tín dị đoan, các hành vi lợi dụng tín ngưỡng để trục lợi hay gây ảnh hưởng tiêu cực đến cộng đồng. 

 

Các đoàn thực hành tín ngưỡng thờ Mẫu Thiên Y A Na tham gia lễ hội Tháp Bà Ponagar năm 2024.

Thực hiện nhiệm vụ được giao, những năm qua, hội đã tích cực tuyên truyền, giáo dục để hội viên hiểu rõ đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, phương hướng chỉ đạo của tỉnh và các cơ quan, ban, ngành liên quan về xây dựng và phát triển văn hóa, du lịch; nghiên cứu, đề xuất các giải pháp nhằm bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể trên địa bàn tỉnh. Bên cạnh đó, kêu gọi, vận động các doanh nghiệp, cá nhân tích cực tham gia theo hướng xã hội hóa việc trùng tu, tôn tạo, xây dựng các di tích lịch sử văn hóa, di tích văn hóa – tín ngưỡng, di tích danh lam – thắng cảnh; tiến hành xúc tiến, quảng bá hình ảnh về những giá trị văn hóa truyền thống đặc sắc của vùng đất Khánh Hòa… Riêng trong năm 2024, hội đã tham gia góp ý đề xuất các nội dung về xây dựng Bảo tàng tổng hợp tỉnh, Bảo tàng Trường Sa, Bảo tàng A.Yersin, Đề án Bảo tồn và phát huy giá trị di tích Thành cổ Diên Khánh. Hội cũng phối hợp với các cơ quan, đơn vị, địa phương hoàn thiện hồ sơ khoa học di tích Tháp Bà Ponagar đề nghị xếp hạng là di tích quốc gia đặc biệt; xếp hạng di tích Biệt thự Cầu Đá (phường Vĩnh Nguyên, TP. Nha Trang) là di tích kiến trúc – nghệ thuật cấp tỉnh; di tích khảo cổ địa điểm Dốc Gạo (thị trấn Tô Hạp, huyện Khánh Sơn) là di tích khảo cổ cấp tỉnh. Đồng thời, phối hợp với Sở Văn hóa và Thể thao, Phân viện Văn hóa Nghệ thuật quốc gia Việt Nam tại Huế, Viện Nghiên cứu Châu Á (thuộc Trường Đại học Aix – Marseille, Pháp) tổ chức chương trình tọa đàm và triển lãm với chủ đề “Trở về với di sản văn hóa Raglai ở Khánh Hòa”. Bên cạnh đó, hội tổ chức đoàn tham quan học tập kinh nghiệm về công tác bảo tồn, tổ chức hoạt động thực hành các nghi lễ trong việc phát huy giá trị di sản văn hóa tại các tỉnh: Nghệ An, Thanh Hóa, Nam Định, Hà Nam, Tây Ninh…

Ông Lê Văn Hoa – Phó Giám đốc Sở Văn hóa và Thể thao, Chủ tịch Hội Bảo tồn di sản văn hóa và du lịch tâm linh tỉnh cho biết, năm 2024, hội đã hoàn thành tốt các nhiệm vụ trọng tâm đề ra. Trong năm 2025, hội tiếp tục chú trọng công tác phát triển hội viên; triển khai hoạt động tuyên truyền di sản văn hóa Khánh Hòa đến các tầng lớp nhân dân và du khách trong nước, quốc tế; phối hợp với Sở Văn hóa và Thể thao tổ chức hội thảo khoa học quốc tế “Giữ gìn và phát huy các giá trị di sản văn hóa gắn với phát triển du lịch bền vững tỉnh Khánh Hòa”; phối hợp tổ chức tốt lễ hội Tháp Bà Ponagar, lễ hội Am Chúa với quy mô lớn hơn. Cùng với đó, hội tiếp tục phối hợp với các cơ quan chức năng thực hiện kiểm tra hoạt động của đoàn dân vũ dân gian thực hành nghi lễ tín ngưỡng thờ Mẫu Thiên Y A Na tại các địa phương trong tỉnh, đảm bảo hoạt động của các đoàn theo đúng tôn chỉ, mục đích và góp phần tích cực trong việc giữ gìn tín ngưỡng văn hóa tâm linh.

Giang Đình

Nguồn: Dulichvn.org.vn

Di sản bài chòi thành ”đặc sản” du lịch Quảng Ngãi

Bài chòi là loại hình nghệ thuật dân ca và trò chơi dân gian đặc trưng của miền Trung Việt Nam, cũng là di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại. Tại Quảng Ngãi, loại hình này được nhiều địa phương khai thác hiệu quả, tạo thành “đặc sản” du lịch.


Thời gian qua, làng Gò Cỏ (phường Phổ Thạnh, thị xã Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi) trở thành điểm du lịch hút nhiều du khách cả trong và ngoài nước.

Các du khách hào hứng tham gia chơi bài chòi.

Gò Cỏ không chỉ có di sản mà văn hóa làng còn vẹn nguyên. Đặc biệt, hát bài chòi ở Gò Cỏ đã trở thành một trong những “đặc sản” không thể thiếu mỗi khi đặt chân đến nơi đây.

Câu lạc bộ Bài chòi – hát hố Gò Cỏ được thành lập vào năm 2020 với 21 thành viên. Những ca khúc được các thành viên sáng tác mang nội dung mới hơn, có ý nghĩa thực tế trong cuộc sống ngày nay từ sản xuất, làm du lịch đến truyện kể dân gian.

“Tôi sinh ra và lớn lên tại đây nên thuộc lòng nhiều lời bài chòi do cha ông để lại. Tôi cũng đã sáng tác gần 20 bài hát mới để phục vụ người dân và du khách”- bà Huỳnh Thị Thương, nghệ nhân bài chòi ở làng Gò Cỏ chia sẻ.

Câu lạc bộ Bài chòi – hát hố Gò Cỏ phục vụ du khách.

Dù trải qua bao thăng trầm của cuộc sống, nhưng tình yêu với bài chòi vẫn luôn cháy trong trái tim của người dân Gò Cỏ. Họ cùng nhau gây dựng phong trào văn nghệ, biểu diễn, sáng tác bài chòi… để phục vụ dân làng và du khách.

Chị Nguyễn Thị Thủy, du khách đến từ Hà Nội bày tỏ: “Đây là lần đầu tiên tôi tham gia chơi bài chòi, rất ấn tượng và hấp dẫn. Đặc biệt phần hô hát của các nghệ nhân rất hay, chắc chắn có dịp tôi sẽ quay lại làng Gò Cỏ để được tham gia lần nữa”.

Tại điểm du lịch sinh thái Bàu Cá Cái (xã Bình Thuận, huyện Bình Sơn), các đội bài chòi thường xuyên biểu diễn phục vụ du khách, trong đó có nhiều khách nước ngoài. Loại hình nghệ thuật dân ca và trò chơi dân gian đặc trưng này làm phong phú thêm sản phẩm du lịch tại bàu Cá Cái.

“Đến đây, không chỉ được khám phá thiên nhiên hoang sơ, mà còn được thưởng thức làn điệu bài chòi. Thật thú vị khi ngồi trên chiếc xuồng nhỏ, tham quan vùng nước ngập mặn trải dài, mênh mang sông nước hữu tình và được nghe các nghệ nhân hát bài chòi”- anh Nguyễn Văn Tuấn (du khách đến từ Đà Nẵng) bày tỏ.

Theo Giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Nguyễn Tiến Dũng, Quảng Ngãi đang triển khai thực hiện Đề án Bảo tồn và phát huy nghệ thuật bài chòi.

Quảng Ngãi tập trung phát triển các đội, nhóm, câu lạc bộ hát bài chòi ở các địa phương, gắn kết loại hình nghệ thuật này với hoạt động du lịch.

Qua đó, tập trung phát triển các đội, nhóm, câu lạc bộ hát bài chòi ở các địa phương, gắn kết loại hình nghệ thuật này với hoạt động du lịch. Việc đưa bài chòi vào khai thác phục vụ du khách là cần thiết, nhằm đa dạng các sản phẩm du lịch, góp phần cải thiện kinh tế – xã hội ở địa phương.

Theo Đề án này, Quảng Ngãi đặt mục tiêu phấn đấu đến năm 2025, có 100% di sản văn hóa nghệ thuật bài chòi được sưu tầm, kiểm kê và số hóa, lưu trữ trên phương tiện công nghệ hiện đại; xây dựng và tổ chức thí điểm trình diễn nghệ thuật bài chòi phục vụ nhân dân và khách du lịch tại 1 điểm du lịch.

Phục dựng thí điểm một điểm trò chơi dân gian hô bài chòi tại TP Quảng Ngãi. Bên cạnh đó, tiếp tục duy trì trung tâm bài chòi đã thành lập, 100% các huyện, thị xã, thành phố đồng bằng và hải đảo thành lập câu lạc bộ bài chòi trực thuộc cấp huyện…

Định hướng đến năm 2030, nhân rộng mô hình tổ chức trình diễn nghệ thuật bài chòi phục vụ Nhân dân và khách du lịch tại các điểm du lịch khu vực đồng bằng, hải đảo, phục dựng các điểm trò chơi dân gian hô bài chòi tại các huyện, thị xã, thành phố. Đồng thời, phấn đấu có 50% các xã, phường, thị trấn đồng bằng và hải đảo thành lập các câu lạc bộ bài chòi cấp xã.

Hà Phương

Nguồn: Dulichvn.org.vn

Bún quậy ở Phú Quốc

Đến đảo Phú Quốc (tỉnh Kiên Giang), ngoài các món hải sản tươi sống, còn có một món ăn mà không nên bỏ lỡ, đó là bún quậy.


Tô bún quậy Phú Quốc.

Bún quậy Phú Quốc có nguồn gốc từ món bún tôm Bình Định. Hơn 40 năm trước, một số người dân từ Bình Định di cư đến Phú Quốc khai hoang lập ấp và họ mang theo món bún tôm Bình Định đến với đảo Ngọc. Những ngày đầu, chỉ có một số ít hộ kinh doanh món ăn này để phục vụ cư dân trong xóm và ngư dân khu vực gần đó. Các quán không có biển hiệu, địa điểm đầu tiên tại xóm chài Trần Phú ngày nay.

Sở dĩ món ăn này có tên bún quậy bởi thực khách phải ăn kèm với nước chấm tự pha gồm tắc, ớt xay, đường, bột ngọt. Sau khi có đủ nguyên liệu thì cho vào chén, quậy mạnh để gia vị tan hết, sánh lại và chuyển sang màu đỏ cam. Để có một chén nước chấm ngon, phải quậy nhanh tay trong ít nhất 5 phút.

Phần lớn các du khách, hay chính cả nhiều người dân bản xứ, không phải ai cũng biết chính xác nguồn gốc cũng như cách thức chế biến ra một tô bún quậy ngon đúng điệu. Một tô bún quậy thường có tôm, cá, mực tươi xay nhuyễn, hành ngò đã được xắt nhỏ, nước lèo, thêm gia vị rồi quậy đều cũng như để làm chín phần cá, tôm.

Một điểm đặc biệt của món bún quậy Phú Quốc là sử dụng bún tươi được làm từ gạo nguyên chất và bún được làm ngay tại quán. Gạo được ngâm mềm rồi đem xay nhuyễn, sau đó vo thành từng khối, cho vào máy ép thành từng sợi. “Khi khách đến chọn món, chúng tôi mới ép bún thành sợi, sau đó trụng bún vào nước sôi để làm chín. Do bún tự làm, không chất bảo quản nên ăn bún quậy nóng trực tiếp tại quán sẽ ngon hơn” – chủ một quán bún quậy ở Phú Quốc cho hay.

Ngoài ra, phần chả cá của món bún quậy cũng được chế biến rất đặc biệt.Tuy nhiên, để chả cá ngon nên chọn các con cá trích, tôm, thu… thật tươi ngon để có thể nếm trọn vị ngọt của cá và bún. Giá tô bún quậy ở Phú Quốc cao thấp theo ý của du khách nhưng dao động từ 20.000 – 40.000 đồng/tô.

Ở Phú Quốc, sau khi gọi được tô bún, thực khách phải tự chế nước chấm riêng dựa vào khẩu vị của từng người. Các quán bún quậy nơi đây đa phần để trên bàn đủ các loại gia vị như muối, hạt nêm, đường, tiêu, ớt, quất (tắc)… hoặc một tô lớn đựng muối chấm trộn sẵn khách chỉ việc thêm ớt và quất theo ý mình. Thực khách quậy đều nước chấm tới khi có màu cam sữa, lấy một muỗng cho vào tô bún trước, phần còn lại chấm lên bún mỗi lần ăn.

Bề ngoài tô bún quậy có thể không bắt mắt nhưng mùi vị lại rất khó quên. Khi phần thịt chín, vị ngọt tôm, cá, mực hòa quyện vào nước lèo nóng hổi, thêm mùi thơm của tiêu Phú Quốc khiến thực khách càng say mê thưởng thức.

Đến với Phú Quốc, nếu còn đắn đo về một địa chỉ ăn ngon, món ăn mới để thay đổi khẩu vị, hãy thử thưởng thức món bún quậy, đảm bảo sẽ mang đến những trải nghiệm khó quên bởi nước dùng thanh ngọt kết hợp hải sản tươi, vị cay của tiêu, mùi thơm của hành ngò ăn kèm rau sống, khiến bất cứ ai ăn rồi đều lưu luyến.

T.Quỳnh

Nguồn: Dulichvn.org.vn

”Khúc đồng dao” – sự sáng tạo của rối nước

Nhà hát Múa rối Việt Nam đã công diễn vở “Khúc đồng dao”, được coi là một cách để khám phá vẻ đẹp văn hóa các vùng miền qua sân khấu múa rối nước. Sự kết hợp hài hòa giữa yếu tố văn hóa truyền thống và yếu tố hiện đại đã tạo ra sự độc đáo, vừa mang đậm bản sắc dân tộc, vừa đáp ứng thị hiếu của khán giả đương đại…


Cảnh trong vở rối nước “Khúc đồng dao”. Ảnh: Thúy Hiền.

“Khúc đồng dao” là bản hòa tấu nghệ thuật sinh động trên sân khấu chủ đạo là múa rối nước, đưa khán giả vào một hành trình xuyên suốt từ Bắc vào Nam, khám phá vẻ đẹp văn hóa, con người và những câu chuyện mang đậm bản sắc của các vùng miền, làng quê, khắc họa những sinh hoạt đời thường, phong tục tập quán của cộng đồng các dân tộc Việt Nam.

Với cách điều khiển con rối tài tình, kết hợp với âm nhạc dân gian, ánh sáng hiện đại… đã tạo nên một không gian nghệ thuật ấn tượng, vượt ra khỏi khuôn khổ một buổi biểu diễn nghệ thuật mà còn là lời nhắn nhủ về cội nguồn, về tình yêu quê hương đất nước, là cầu nối giữa quá khứ và hiện tại một cách gần gũi và dễ tiếp cận.

Theo NSND, đạo diễn Nguyễn Tiến Dũng – Giám đốc Nhà hát Múa rối Việt Nam, khi nói về đồng dao, chúng ta không chỉ nghĩ đến những bài hát ru, những câu hát vỗ về tâm hồn trẻ thơ, mà còn là sự gắn kết của các thế hệ, là nền tảng của gia đình, nơi mà mỗi đứa trẻ được nuôi dưỡng trong tình yêu thương và sự quan tâm của cha mẹ. Với khán giả là du khách quốc tế, “Khúc đồng dao” không chỉ được thưởng thức nghệ thuật múa rối truyền thống độc đáo mà còn khám phá về văn hóa vùng miền các dân tộc Việt Nam với sự xuất hiện của các con rối dưới mái thuỷ đình.

“Khúc đồng dao” được giới chuyên môn đánh giá cao khi có bước phát triển mới từ tạo hình con rối, thiết kế sân khấu cho tới xử lý âm nhạc, âm thanh, ánh sáng… Đó chính là sự phát triển của nghệ thuật múa rối nước truyền thống. Cùng đó, cũng rất đáng chú ý khi nhạc sĩ, NSND Huỳnh Tú đã đưa yếu tố âm nhạc đương đại vào phối hợp âm nhạc truyền thống như đờn ca tài tử, ca trù, chèo… tạo ra một nền âm thanh khá độc đáo.

Sự kết hợp hài hòa giữa yếu tố văn hóa truyền thống và yếu tố hiện đại đã tạo ra sự độc đáo, vừa mang đậm bản sắc dân tộc, vừa đáp ứng thị hiếu của khán giả đương đại trong một tác phẩm nghệ thuật múa rối. Có thể nói, đây chính là thành công của “Khúc đồng dao”.

Không chỉ Nhà hát Múa rối, tiềm năng và thế mạnh của văn hóa dân gian chính là nguồn tư liệu dồi dào cho những người làm văn hóa nghệ thuật khai thác. Nhiều đạo diễn, nhạc sĩ, ca sĩ, nghệ sĩ đã có những thành công trong khai thác âm nhạc truyền thống, chất liệu dân gian trong các tác phẩm đương đại. Như “Em là cô giáo vùng cao” (nhạc: Phan Huy Hà – thơ: Hoàng Nghĩa Tự); ca sĩ Nguyễn Thu Hằng với “Nhà em ở lưng đồi” (nhạc sĩ Đức Trịnh), “Hoa ban về” (Đoàn Đăng Đức)… Hay như ca sĩ Hà Anh Tuấn cũng rất thành công khi mang âm nhạc dân gian trở lại với tiết mục hát Xẩm trong đêm Live concert “Chân trời rực rỡ”.

Nhiều ý kiến cho rằng, sáng tạo trên nền văn hóa truyền thống để phù hợp thị hiếu giới trẻ, níu chân du khách cũng chính là một cách làm hiệu quả, vừa góp phần quảng bá giá trị và nhận diện văn hóa Việt Nam, vừa lan tỏa nghệ thuật truyền thống đến đông đảo công chúng. Nói như ThS Hoàng Thùy Linh (Học viện Múa Việt Nam), việc khai thác triệt để chất liệu múa nguyên bản, tìm về gốc rễ của văn hóa, tín ngưỡng, phong tục, tập quán, cộng thêm việc nắm bắt xu thế phát triển của thời đại bùng nổ công nghệ số đã được các biên đạo ứng dụng để phục vụ cho việc sáng tác của mình một cách tối đa và hiệu quả, tạo ra một xu hướng sáng tác mới.

Phương Anh

Nguồn: Dulichvn.org.vn

TIN MỚI NHẤT