Du lịch trong nước

Du lịch trong nước, tin tức du lịch trong nước, các tour du lịch trong nước, các địa điểm du lịch trong nước hấp dẫn được chúng tôi tổng hợp và đưa tin hàng ngày đến cho khách du lịch trên khắp mọi miền đất nước có được thông tin du lịch trong nước để có những thông tin hữu ích nhất cho mình và gia đình khi quyết định chọn chuyến du lịch trong nước cho mình và người thân

Hấp dẫn đặc sản Yên Bái

Ẩm thực Yên Bái được biết đến với những món ăn đặc trưng của đồng bào các dân tộc, phản ánh vẻ đẹp văn hóa và sự giao hòa giữa con người với thiên nhiên nơi đây.


Pà mẳm

Pà mẳm là món mắm cá độc đáo, thường được người Thái ở Yên Bái dùng để thết đãi khách quý hoặc trong những sự kiện trọng đại. Pà mẳm có nhiều loại nhưng ngon nhất là pà mẳm cá chép. Để làm ra món pà mẳm ngon, người ta phải chọn loại cá chép được bắt ở đồng ruộng, ao rồi thả nước sạch khoảng 3 – 4 ngày để cá nhả hết bùn đất. Sau đó, làm sạch rồi xếp cá vào một cái vại sành to, rải lên trên một lớp muối đã được rang sẵn. Cứ một lớp cá lại rải một lớp muối. Cuối cùng là đổ rượu vào và đậy chặt.

Đến ngày thứ 10, khi cá đã ngấm muối, người ta chắt nước trong vại ra đun sôi, để nguội rồi đổ lại vào cá. Làm 3 lần như vậy cho đến khi cá hết mùi tanh thì đổ nước muối đi, xào hỗn hợp gia vị gồm: Thính gạo, ớt tươi băm, sả, riềng, quế chi, mắc khén rồi đổ vào cá, bịt kín miệng vại và hạ thổ từ 1 – 2 tháng, thậm chí vài năm. Càng hạ thổ lâu, pà mẳm càng ngấm và thơm ngon. Pà mẳm thường được dùng để chấm với thịt, rau và các món khác kèm rau thơm, tạo nên hương vị thơm ngon đặc sắc.

Quế Văn Yên

Huyện Văn Yên nằm ở phía bắc của tỉnh Yên Bái, nơi có điều kiện khí hậu, thổ nhưỡng phù hợp với sự sinh trưởng, phát triển của cây quế. Quế không chỉ được sử dụng như một loại dược liệu quý mà còn là nguyên liệu trong mỹ phẩm làm đẹp hay là gia vị trong nhiều món ăn. Mọi bộ phận của cây quế đều có thể tận dụng, ví như gỗ để làm nhà sàn hay đóng đồ gia dụng; tinh dầu được chiết xuất để làm hương liệu trong mỹ phẩm; bột quế là thành phần không thể thiếu trong các món ăn như phở, chả quế, bò nướng, bánh quy…

Bánh chim gâu

Bánh chim gâu là đặc sản của người Dao và Cao Lan ở Yên Bái. Bánh được gói bằng lá dứa rừng, có hình dáng giống con chim gâu (chim cu gáy). Các nguyên liệu để làm bánh gồm: Gạo nếp, thịt lợn, đỗ xanh, nước tro, các loại lá cây… Cầu kỳ hơn, người ta nhuộm gạo bằng nước lá tro hoặc nước nẳng (được chiết xuất từ các loài cây như mận, đu đủ rừng, lá trầu không, măng tre…) cho các màu sắc và hương vị khác nhau.

Các nguyên liệu này được sắp xếp vào trong những thanh lá dứa rừng đã được xẻ thành từng nan dài và đan cài khéo léo. Sau đó, người ta đem luộc bánh cho chín. Bánh chim gâu được coi là biểu tượng của tình cảm gia đình, là loại bánh không thể thiếu trong các dịp lễ, Tết của đồng bào các dân tộc ở Yên Bái.

Khánh Vi

Nguồn: Dulichvn

Những thú chơi xuân trong lễ hội miền Kinh Bắc

Vốn được mệnh danh là “vương quốc lễ hội” nên suốt ba tháng xuân, các làng quê vùng Kinh Bắc lần lượt đua nhau mở hội, miên man tiếp nối, vắt từ làng này sang làng khác. Trong hội làng không thể thiếu các trò chơi dân gian đặc sắc như: Đấu vật, cờ tướng, cờ người, đánh đu, múa rối nước, kéo co, chọi gà, bịt mắt đập niêu, bắt chạch trong chum…


Giống như một “bảo tàng sống” về giá trị văn hóa đặc trưng được lưu truyền, kế thừa qua nhiều thế kỷ, trò chơi dân gian phản ánh sinh động đời sống tinh thần của các tầng lớp nhân dân, vừa mang tính cố kết cộng đồng, đề cao sức mạnh đoàn kết, thể hiện tâm thức, ước nguyện của cộng đồng, vừa lưu dấu những trang ký ức đậm nét về tuổi thanh xuân tươi đẹp và làng quê yêu dấu.

Trong lễ hội miền Kinh Bắc, cùng với những đám rước tưng bừng, những cuộc diễn xướng, vui ca hát, đấu vật, đánh cờ, “trai thi mạnh, gái thi mềm” thì bao giờ cũng sẵn sàng một cây đu. Hầu như hội làng nào, dù hội đình, hội đền hay hội chùa cũng đều dành một khoảng đất trống để trồng cây đu cho các tài tử giai nhân, nam thanh nữ tú được khoe tài – “Nhún mình như thể nhún đu/Càng nhún càng dẻo, càng đu càng mềm” (ca dao).

Nhún đu hay còn gọi là “đánh đu”, “đu tiên”, “đu xuân” là một nét sinh hoạt văn hóa tinh thần đặc trưng của cư dân nông nghiệp lúa nước, thể hiện tín ngưỡng phồn thực, cầu mong cho vạn vật được sinh sôi, nảy nở, mùa màng tốt tươi. Từ trước Tết Nguyên đán, những thân tre già chắc nịch đã được dân làng chọn kỹ lưỡng đem chôn thật sâu vào lòng đất tạo nên những trụ đu chắc chắn. Phần ngọn tre được uốn cong chụm vào nhau rồi chằng quấn chặt bằng dây thừng dây chão. Trên đỉnh ngọn đu phấp phới những lá cờ đuôi nheo ngũ sắc bay ngạo nghễ trong gió xuân. Trảy hội làng, những chàng trai, cô gái từng cặp bước lên cần đu, rồi bằng tất cả sự dẻo dai và sức lực của tuổi thanh xuân phơi phới cùng nhún, cùng rướn, cùng đẩy đu lên cao vun vút cho thỏa cái thú chơi xuân. Phía dưới, mọi người ngất ngây chiêm ngưỡng, dõi theo cần đu chao qua chao lại như làm xiếc trên không trung…

Cây đu ở hội Lim.

Thú chơi “nhún đu” từng được nhà văn Toan Ánh miêu tả và ngợi ca như một nét “phong lưu đồng ruộng”: “Gái đu với gái, trai rướn với trai. Những đôi trai gái yêu nhau cùng đu với nhau lại càng say sưa. Đôi mặt cùng đỏ, bốn mắt cùng trong, cặp môi cùng thắm. Đu càng cao, họ sàng say sưa ngắm nhau, cười cùng nhau. Cứ thế, họ dắt nhau, đưa nhau đi trảy hết hội này sang hội khác khắp vùng Kinh Bắc, suốt cả mùa xuân và cây đu bao giờ cũng là nơi hò hẹn. Họ đu với nhau hết năm này qua năm khác, từ lúc hẹn ước với nhau trước cửa đình, cửa chùa đến khi thề nguyện với nhau trước pháp luật trở thành đôi lứa, nên duyên vợ chồng…”.

Giới nghiên cứu phân tích: Di sản hội làng được xem là đỉnh cao của sự hòa quện nhuần nhuyễn giữa các giá trị văn hóa vật thể là hệ thống thiết chế đình, đền, chùa, miếu, sắc phong… và phi vật thể là các làn điệu dân ca, trò chơi dân gian, nghi thức tế lễ… Trong cấu trúc của lễ hội truyền thống, trò chơi là một thành tố không hiện hữu thường ngày mà nó tàng ẩn và xuất hiện trong thời gian thiêng của ngày hội. Mỗi trò chơi vừa là sản phẩm mang tính vận động đặc trưng, vừa biểu hiện tinh thần lao động sản xuất, phản ánh quan niệm về vũ trụ, nhân sinh, chứa đựng những ý tưởng thẩm mỹ và mang lại tiếng cười sảng khoái, niềm vui giải trí cho người dân.

Trong kỷ nguyên số hóa hiện nay, trò chơi dân gian dẫu có mai một và bị lấn lướt bởi sự bùng nổ của các loại hình giải trí trên internet, song nếu hội làng còn tiếp diễn thì những trò chơi dân gian vẫn còn môi trường để phát huy giá trị. Trải qua bao biến thiên lịch sử, hội làng mùa xuân miền Kinh Bắc luôn đậm đặc hoạt động văn hóa nghệ thuật truyền thống, diễn xướng Quan họ, ca trù, tuồng, chèo, hát văn, hát trống quân… cùng các trò chơi dân gian vẫn được bảo lưu, gìn giữ như một sự khẳng định sức mạnh trường tồn, bất biến của bản sắc văn hóa dân tộc.

Một mùa xuân mới lại về. Sắc xuân rạo rực, tiếng trống hội làng bắt đầu vang lên giục giã khắp làng trên xóm dưới. Giữa trời xuân mênh mang, khí xuân rộn ràng và trong hương xuân ngọt lành của làng quê Bắc Ninh- Kinh Bắc, già, trẻ, gái, trai lại náo nức sửa soạn áo khăn, xúng xính trảy hội và đắm mình vào những thú chơi xuân phong lưu, thi vị…

V.Thanh

Nguồn: Dulichvn

Bến Tre: Bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hóa

Lúc sinh thời, cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhiều lần nhắc lại quan điểm “Văn hóa còn thì dân tộc còn và ngược lại, văn hóa mất thì dân tộc mất” và thật vậy, lịch sử hơn 4.000 năm của dân tộc Việt Nam, trong đó có hàng ngàn năm bị thực dân, đế quốc đô hộ nhưng dân tộc Việt Nam vẫn giữ được “hồn cốt” dân tộc, điều đó đã chứng minh những di sản văn hóa được bảo tồn, gìn giữ đến hôm nay chính là giá trị tinh thần cao đẹp, là sức mạnh nội sinh của dân tộc, có vai trò “soi đường cho quốc dân đi”, hướng con người đến những giá trị “chân, thiện, mỹ” đặc sắc nhất, nhân văn nhất và tiến bộ nhất.


Lễ thỉnh sắc Thần hoàng đình Phú Khánh, xã Phú Khánh, huyện Thạnh Phú. Ảnh: Hữu Nghĩa

Trao truyền văn hóa truyền thống

Với những giá trị to lớn mà di sản văn hóa nói chung, văn hóa truyền thống nói riêng được trao truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác và được tiếp thu có chọn lọc một cách khoa học, sáng tạo, vận dụng một cách phù hợp vào tình hình, điều kiện, hoàn cảnh cụ thể đã góp phần bảo tồn và tôn vinh các giá trị di sản văn hóa truyền thống của tỉnh nhà. Cụ thể là việc bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa nghi lễ truyền thống dân gian tại các đình, chùa, đền, lăng, miếu (miễu)… của tỉnh đã từng bước trở thành nét đặc trưng độc đáo của di sản văn hóa phi vật thể quê hương, đồng thời hòa nhập với xu thế phát triển nghi thức lễ hội truyền thống chung của cả nước.

So với các tỉnh trong khu vực đồng bằng sông Cửu Long thì Bến Tre là một trong những tỉnh bảo tồn và phát huy khá tốt lĩnh vực di sản văn hóa và nghi lễ truyền thống trong các dịp lễ hội tại các đình, chùa, đền, lăng, miếu.

Nhìn lại những năm đầu quê hương được giải phóng, đất nước được hòa bình, thống nhất, mặc dù khó khăn còn chồng chất nhưng người dân luôn có ý thức bảo tồn, giữ gìn và khôi phục lại những giá trị di sản văn hóa truyền thống ở những ngôi đình làng. Mặc dù chiến tranh đã tàn phá, bom đạn làm cháy rụi sắc phong, tượng thờ hoặc sập đổ hư hại hoàn toàn công trình, có nơi chỉ còn lại nền đất trống… nhưng với ý nghĩa và tầm quan trọng của những ngôi đình, chùa, đền, miếu đối với đời sống nhân dân, sự gắn kết cộng đồng, thắt chặt tình làng nghĩa xóm đã khuyến khích người dân tự nguyện khôi phục lại. Dù có nơi đình không còn sắc phong, nhưng người dân vẫn giữ được phong tục thờ cúng long trọng.

Những ngày cúng đình, chùa, miễu, lăng đều diễn ra theo ngày cố định trong năm nên đã trở thành ngày lễ hội cộng đồng, tập hợp đông đảo người dân địa phương và các khu vực lân cận đến tham dự. Chương trình lễ cúng diễn ra từ 1 đến 3 ngày, gồm có phần lễ (theo phong tục của mỗi địa phương: rước sắc (đối với đình có sắc thần), nghinh ông (đối với lăng thờ cá Ông), nhạc lễ, diễn xướng hay tiến dâng phẩm vật lên các vị thần linh, tiền hiền, hậu hiền, những người có công khai hoang mở cõi, anh hùng, liệt sĩ…) và phần hội (hát bội, các trò chơi dân gian, thi mâm xôi, bonsai, trang trí mâm ngũ quả…).

Thạc sĩ Bùi Hữu Nghĩa – Hội viên Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam cho biết: “Mặc dù phong tục, nghi thức thờ cúng mỗi địa phương có khác nhau, song tựu trung lại với mục đích, ý nghĩa là bảo tồn giá trị di sản văn hóa truyền thống của cha ông được lưu truyền từ đời này sang đời khác giúp con người có đời sống văn hóa tinh thần phong phú, gần gũi, hài hòa với thiên nhiên và cố kết cộng đồng ngày càng bền chặt, hướng con người đến một giá trị cao đẹp, thánh thiện luôn có niềm tin, niềm hy vọng vượt qua khó khăn, vươn lên làm chủ cuộc sống vật chất và toại nguyện về đời sống tinh thần phong phú”.

Phát huy giá trị văn hóa tốt đẹp

Ông Nguyễn Văn Nhanh (Bảy Nhanh), 76 tuổi là Kế hiền của đình Châu Hưng (di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh), tham gia Hương chức đình gần 30 năm cho biết: Mỗi năm đình Châu Hưng cúng hai lệ chính: Tháng 6 – Lễ Hạ điền; Tháng 12 – Lễ Thượng điền, ngoài ra, ngày 18 tháng Giêng còn có lễ cúng Tiên sư. Đình Châu Hưng còn lưu giữ khá đầy đủ các giá trị di sản văn hóa tinh thần, thể hiện qua sơ đồ bố trí thờ tự, các đồ thờ cúng, nghi lễ truyền thống nhân các lệ cúng đình mà nhiều thế hệ hương chức và người dân nơi đây gìn giữ đến hôm nay.  Theo ông Bảy Nhanh, bảo tồn giá trị di sản văn hóa xuất phát từ người dân địa phương và do người dân giữ gìn và quyết định sự tồn tại và phát triển, vì giá trị di sản văn hóa góp phần to lớn vào việc phát huy các giá trị tốt đẹp trong đời sống của con người và cộng đồng dân cư.

Để bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hóa truyền thống nói chung, phong tục thờ cúng tại các đình, chùa, lăng, đền, miếu tại tỉnh nhà nói riêng, cần được sự lãnh đạo, định hướng của cấp ủy đảng, sự quản lý điều hành của chính quyền, sự chung tay của các ngành, các cấp, các tổ chức chính trị – xã hội đối với sự nghiệp phát triển văn hóa truyền thống, sự định hướng tổ chức lễ hội của các cơ quan quản lý văn hóa. Chương trình, nghi thức cúng tế phải trang trọng, tôn nghiêm, văn minh, tiến bộ. Không lợi dụng việc cúng tế để tuyên truyền mê tín dị đoan, lợi dụng để vận động tài trợ, kêu gọi đóng góp… làm mất đi ý nghĩa, nét đẹp văn hóa truyền thống trong cộng đồng.

Bảo tồn và phát huy di sản văn hóa truyền thống cần kết hợp hài hòa, có chọn lọc giữa bản sắc văn hóa truyền thống của dân tộc với tinh hoa văn hóa tiến bộ, hiện đại của nhân loại; khuyến khích cộng đồng dân cư tích cực, chủ động sáng tạo văn hóa mới lành mạnh, văn minh, phù hợp với phong tục, tập quán và điều kiện cụ thể của cộng đồng dân cư.

Nguyễn Loan

Nguồn: Dulichvn

Khánh Hòa: Tháp Bà Ponagar được xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt

Ngày 19/01, ông Lê Văn Hoa – Phó Giám đốc Sở Văn hóa và Thể thao Khánh Hòa cho biết, Phó Thủ tướng Chính phủ Lê Thành Long đã ký Quyết định số 152, ngày 17/01/2025, về xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt (đợt 17, năm 2025) đối với 5 di tích.


Trong đó, có di tích kiến trúc nghệ thuật Tháp Bà Ponagar. Các di tích còn lại được xếp hạng đợt này gồm: Di tích kiến trúc nghệ thuật chùa Bối Khê (huyện Thanh Oai, TP. Hà Nội); di tích kiến trúc nghệ thuật đền Xám (huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định); di tích lịch sử Cụm di tích liên quan đến nhà Mạc ở Dương Kinh (huyện Kiến Thụy, TP. Hải Phòng); di tích lịch sử Cụm di tích Từ Lương Xâm – Căn cứ bản doanh của Ngô Quyền năm 938 (quận Hải An, TP. Hải Phòng). Khu vực bảo vệ các di tích quốc gia đặc biệt được xác định theo biên bản và bản đồ trong hồ sơ. Phó Thủ tướng cũng giao Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Chủ tịch UBND các cấp nơi có di tích được xếp hạng nêu trên, trong phạm vi nhiệm vụ và quyền hạn của mình thực hiện việc quản lý Nhà nước đối với di tích theo quy định của pháp luật về di sản văn hóa.

Di tích Tháp Bà Ponagar vừa được Chính phủ xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt.

Tháp Bà Ponagar hiện tọa lạc ở phường Vĩnh Phước (TP. Nha Trang), đã được xếp hạng di tích quốc gia vào năm 1979. Theo tài liệu hiện còn lưu giữ, di tích Tháp Bà Ponagar được người Chăm xây dựng từ thế kỷ VIII đến thế kỷ XIII, trên đồi Cù Lao để thờ Nữ thần Ponagar là Mẹ Xứ sở của người Chăm, nên tên thường gọi là Tháp Bà Ponagar. Khu di tích Tháp Bà Ponagar là một quần thể kiến trúc gồm có tháp cổng, Mandapa và khu đền tháp. Tuy nhiên, do biến động của lịch sử, nên hiện nay khu di tích còn lại 5 công trình kiến trúc ở hai mặt bằng là Mandapa và khu đền tháp.

Khu vực Mandapa, có bốn hàng cột lớn hình bát giác, xây bằng gạch nung, bao gồm 10 cột lớn và 12 cột nhỏ. Khu đền tháp, hiện còn 4 tháp là: Tháp Đông Bắc hay còn được gọi là Tháp chính, cao 23m, được xây dựng lần đầu vào thế kỷ VIII và được xây dựng lại vào thế kỷ XI, bên trong tháp đặt tượng thờ Nữ thần Ponagar; Tháp Nam cao 18m, có niên đại xây dựng vào thế kỷ XIII, đây là nơi thờ thần Shiva, còn theo truyền thuyết của người Việt thì tháp thờ chồng của Thiên Y A Na Thánh Mẫu nên gọi là tháp Ông; Tháp Đông Nam, ngôi tháp có quy mô nhỏ nhất chỉ cao 7,1m, có niên đại khoảng thế kỷ XI đến thế kỷ XII, thờ thần Skandha – con thần Shiva, còn theo truyền thuyết của người Việt, tháp thờ ông bà Tiều là cha mẹ nuôi của Thiên Y A Na Thánh Mẫu; Tháp Tây Bắc, cao 9m, là ngôi tháp duy nhất còn khá nguyên vẹn về kiến trúc và trang trí, tháp thờ thần Ganesha, còn theo truyền thuyết của người Việt thì tháp thờ Cô, Cậu – con của Thiên Y A Na Thánh Mẫu.

Di tích Tháp Bà Ponagar có kỹ thuật xây dựng và phương pháp chế tạo ra những viên gạch để xây các đền tháp hết sức độc đáo, cho đến nay vẫn còn có nhiều câu hỏi chưa tìm được lời giải đáp. Ngoài ra, di tích Tháp Bà Ponagar còn có các bia ký được dựng từ thời phong kiến để giới thiệu về di tích. Di tích Tháp Bà Ponagar vốn được người Chăm xây dựng để thờ Nữ thần Ponagar, nhưng từ năm 1653, từ sự cộng cư, hòa cư của người Việt và người Chăm đã đánh dấu sự hình thành và phát triển một cách mạnh mẽ tín ngưỡng thờ Mẹ Xứ sở của người Chăm với tín ngưỡng thờ Thiên Y A Na Thánh Mẫu của người Việt.

Đồng bào Chăm thực hành nghi lễ cúng dâng Nữ thần Ponagar – Mẹ Xứ sở tại Lễ hội Tháp Bà Ponagar.

Hàng năm, từ ngày 20 đến 23-3 âm lịch, tại di tích Tháp Bà Ponagar diễn ra Lễ hội Tháp Bà Ponagar – Di sản văn hóa phi vật thể Quốc gia. Từ nhiều năm nay, di tích Tháp Bà Ponagar là một địa điểm du lịch nổi tiếng ở TP. Nha Trang thu hút số lượng lớn khách đến tham quan mỗi ngày.

Nhân Tâm

Nguồn: Dulichvn

Lưu giữ nét đẹp thư pháp

Ngày nay, nghệ thuật thư pháp phát triển rộng khắp, không chỉ thu hút những người lớn tuổi mà còn rất nhiều bạn trẻ tham gia. Qua đó, góp phần bảo tồn, lưu giữ các giá trị văn hóa dân tộc, trao truyền lại cho thế hệ kế cận.

“Mỗi năm hoa đào nở
Lại thấy ông đồ già
Bày mực tàu giấy đỏ
Bên phố đông người qua…”

1. Gắn bó với nghệ thuật thư pháp suốt 20 năm qua, hai anh em nhà “ông đồ” Huỳnh Triều và Huỳnh Long (hậu duệ nhiều đời của Tiền quân Nguyễn Huỳnh Đức ở phường Khánh Hậu, TP.Tân An) cho biết, tục cho chữ thư pháp diễn ra quanh năm nhưng đặc biệt ý nghĩa và rộn ràng hơn là vào dịp đầu xuân.

Thầy Huỳnh Long (phường Khánh Hậu, TP.Tân An) chăm chú viết chữ thư pháp trên tấm giấy đỏ, từng đường nét đều toát lên sự tinh tế và điêu luyện

“Chúng tôi gắn bó với thư pháp để tìm kiếm những giá trị thiêng liêng và cốt lõi của bộ môn nghệ thuật này. Đối với tôi, nghệ thuật thư pháp góp phần gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc. Bởi thế, trong các thú chơi nghệ thuật thì chơi chữ là khó nhất và cũng là thanh cao nhất” – ông Huỳnh Long nói.

Cho chữ thư pháp không chỉ là hoạt động nghệ thuật mà còn là một hành động văn hóa mang đậm tính giáo dục. Người cho chữ phải hội tụ cả kiến thức uyên thâm và phẩm chất đạo đức cao đẹp; có kỹ năng viết chữ điêu luyện và am hiểu những giá trị văn hóa, những triết lý sống được gửi gắm trong những câu danh ngôn, thơ ca, tục ngữ,…

“Những con chữ được trao đi thường mang ý nghĩa về nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, về đạo làm người, đạo thầy trò, tình cảm gia đình và trách nhiệm với xã hội” – ông Huỳnh Triều cho biết.

Để có được những nét chữ mềm mại, uyển chuyển trao tay mọi người, họ đã tốn không ít công sức theo đuổi bộ môn nghệ thuật này. Nhớ lại quãng thời gian đến với thư pháp, ông Huỳnh Triều kể phải lên Sài Gòn sưu tầm những gì liên quan đến thư pháp mang về để hai anh em cùng nhau nghiên cứu, tìm hiểu, tự mày mò học qua Internet và các nghệ nhân, tập viết rồi dần dần nét chữ càng hoàn thiện hơn.

Những nét chữ mềm mại hay mạnh mẽ tùy theo nội dung, ý nghĩa của chữ, câu đối nhưng vẫn bảo đảm bố cục hài hòa, bắt mắt, đường nét thanh thoát, đậm nhạt như một bức tranh. Do đó, để trở thành người cho chữ thư pháp đòi hỏi người học phải nắm vững phương pháp cấu tạo của chữ, hiểu được một số quy luật ngữ âm học của chữ; đồng thời, phải có sự khổ luyện và liên tục.

Với mong muốn gìn giữ nét đẹp văn hóa truyền thống của cha ông, anh em nhà họ Huỳnh thường xuyên tổ chức các lớp dạy thư pháp, tạo cơ hội cho những người yêu thích bộ môn nghệ thuật này có thể học hỏi và trau dồi kỹ năng.

Ông Huỳnh Long chia sẻ: “Việc theo đuổi nghệ thuật thư pháp đòi hỏi nhiều yếu tố như năng khiếu, sự kiên nhẫn, quá trình rèn luyện không ngừng cùng sự sáng tạo. Hiện nay, lớp học của tôi thu hút nhiều học viên trẻ, trong đó có những em không chỉ đam mê thư pháp mà còn yêu thích tìm hiểu lịch sử và văn hóa dân tộc. Điều này khiến chúng tôi rất vui mừng, bởi thế hệ trẻ ngày nay vẫn quan tâm đến các giá trị truyền thống. Nhờ vậy, những tinh hoa của cha ông sẽ được gìn giữ và phát huy, không mai một trong nhịp sống hiện đại”.

2. Nhắc đến nghệ thuật thư pháp không chỉ nghĩ đến những đường nét mềm mại, uốn lượn trên trang giấy mà còn là một nét văn hóa đậm chất Việt, đặc biệt trong dịp Tết Nguyên đán. Tại huyện Châu Thành, chị Nguyễn Thị Yến Oanh (xã Thanh Phú Long) cũng góp phần quan trọng trong việc giữ gìn và lan tỏa nét đẹp này.

Chị Nguyễn Thị Yến Oanh (thứ 2, phải qua, xã Thanh Phú Long, huyện Châu Thành) trong một buổi cho chữ thư pháp

Chị Oanh là giáo viên dạy Tin học. Ngay từ những năm còn là sinh viên, chị bắt đầu có niềm đam mê với nghệ thuật thư pháp nên quyết định đăng ký theo học một khóa thư pháp cơ bản tại TP.Tân An. Từ đó, dù là giáo viên Tin học đang công tác tại Trường THCS Long Trì nhưng chị vẫn duy trì niềm đam mê bên những con chữ thư pháp.

Gần đây, chị còn có duyên tham gia các khóa học thư pháp cơ bản và nâng cao do thầy Huỳnh Long hướng dẫn, giúp chị có những kiến thức sâu hơn về thư pháp.

Với những nỗ lực không ngừng, chị Oanh cùng nhiều đồng hương đã thành lập Câu lạc bộ Thư pháp Châu Thành cách đây không lâu. Dù mới ra mắt nhưng câu lạc bộ đã tạo nên những ấn tượng đặc biệt khi tham gia cho chữ tại các sự kiện như Phiên chợ 0 đồng, Tết quân – dân,… Nhờ vậy, nét đẹp nghệ thuật thư pháp đang dần trở lại gần gũi hơn với người dân trong huyện, nhất là dịp Tết Nguyên đán.

Chị Oanh chia sẻ: “Lễ hội Làm Chay ở địa phương trước đây phải nhờ sự hỗ trợ từ các câu lạc bộ thư pháp tại TP.Tân An và huyện Tân Trụ. Nay thì huyện Châu Thành cũng có những người viết thư pháp, sẵn sàng tham gia các hoạt động văn hóa tại địa phương. Với tôi, thư pháp không chỉ là nghệ thuật mà còn là một cách giảm stress và “rèn tâm” trong cuộc sống”.

Thầy Huỳnh Long với giấy đỏ, mực tàu, nắn nót từng con chữ thư pháp

Dịp Tết Nguyên đán, thư pháp lại trở thành điểm nhấn trong nhiều gia đình khi nhiều người lựa chọn những từ ngữ ý nghĩa như Phúc, Lộc, Thọ, Tâm. Thư pháp không chỉ là nghệ thuật viết chữ mà còn là biểu tượng của tâm hồn và giá trị văn hóa Việt.

Dẫu cuộc sống hiện đại bận rộn, những con chữ mềm mại vẫn hiện diện như một nhịp cầu nối liền quá khứ với hiện tại, giữ cho những giá trị tinh thần mãi trường tồn./.

Khánh Duy – Thu Thảo

Nguồn: Dulichvn

Bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hóa

Lúc sinh thời, cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhiều lần nhắc lại quan điểm “Văn hóa còn thì dân tộc còn và ngược lại, văn hóa mất thì dân tộc mất” và thật vậy, lịch sử hơn 4.000 năm của dân tộc Việt Nam, trong đó có hàng ngàn năm bị thực dân, đế quốc đô hộ nhưng dân tộc Việt Nam vẫn giữ được “hồn cốt” dân tộc, điều đó đã chứng minh những di sản văn hóa được bảo tồn, gìn giữ đến hôm nay chính là giá trị tinh thần cao đẹp, là sức mạnh nội sinh của dân tộc, có vai trò “soi đường cho quốc dân đi”, hướng con người đến những giá trị “chân, thiện, mỹ” đặc sắc nhất, nhân văn nhất và tiến bộ nhất.


Lễ thỉnh sắc Thần hoàng đình Phú Khánh, xã Phú Khánh, huyện Thạnh Phú. Ảnh: Hữu Nghĩa

Trao truyền văn hóa truyền thống

Với những giá trị to lớn mà di sản văn hóa nói chung, văn hóa truyền thống nói riêng được trao truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác và được tiếp thu có chọn lọc một cách khoa học, sáng tạo, vận dụng một cách phù hợp vào tình hình, điều kiện, hoàn cảnh cụ thể đã góp phần bảo tồn và tôn vinh các giá trị di sản văn hóa truyền thống của tỉnh nhà. Cụ thể là việc bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa nghi lễ truyền thống dân gian tại các đình, chùa, đền, lăng, miếu (miễu)… của tỉnh đã từng bước trở thành nét đặc trưng độc đáo của di sản văn hóa phi vật thể quê hương, đồng thời hòa nhập với xu thế phát triển nghi thức lễ hội truyền thống chung của cả nước.

So với các tỉnh trong khu vực đồng bằng sông Cửu Long thì Bến Tre là một trong những tỉnh bảo tồn và phát huy khá tốt lĩnh vực di sản văn hóa và nghi lễ truyền thống trong các dịp lễ hội tại các đình, chùa, đền, lăng, miếu.

Nhìn lại những năm đầu quê hương được giải phóng, đất nước được hòa bình, thống nhất, mặc dù khó khăn còn chồng chất nhưng người dân luôn có ý thức bảo tồn, giữ gìn và khôi phục lại những giá trị di sản văn hóa truyền thống ở những ngôi đình làng. Mặc dù chiến tranh đã tàn phá, bom đạn làm cháy rụi sắc phong, tượng thờ hoặc sập đổ hư hại hoàn toàn công trình, có nơi chỉ còn lại nền đất trống… nhưng với ý nghĩa và tầm quan trọng của những ngôi đình, chùa, đền, miếu đối với đời sống nhân dân, sự gắn kết cộng đồng, thắt chặt tình làng nghĩa xóm đã khuyến khích người dân tự nguyện khôi phục lại. Dù có nơi đình không còn sắc phong, nhưng người dân vẫn giữ được phong tục thờ cúng long trọng.

Những ngày cúng đình, chùa, miễu, lăng đều diễn ra theo ngày cố định trong năm nên đã trở thành ngày lễ hội cộng đồng, tập hợp đông đảo người dân địa phương và các khu vực lân cận đến tham dự. Chương trình lễ cúng diễn ra từ 1 đến 3 ngày, gồm có phần lễ (theo phong tục của mỗi địa phương: rước sắc (đối với đình có sắc thần), nghinh ông (đối với lăng thờ cá Ông), nhạc lễ, diễn xướng hay tiến dâng phẩm vật lên các vị thần linh, tiền hiền, hậu hiền, những người có công khai hoang mở cõi, anh hùng, liệt sĩ…) và phần hội (hát bội, các trò chơi dân gian, thi mâm xôi, bonsai, trang trí mâm ngũ quả…).

Thạc sĩ Bùi Hữu Nghĩa – Hội viên Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam cho biết: “Mặc dù phong tục, nghi thức thờ cúng mỗi địa phương có khác nhau, song tựu trung lại với mục đích, ý nghĩa là bảo tồn giá trị di sản văn hóa truyền thống của cha ông được lưu truyền từ đời này sang đời khác giúp con người có đời sống văn hóa tinh thần phong phú, gần gũi, hài hòa với thiên nhiên và cố kết cộng đồng ngày càng bền chặt, hướng con người đến một giá trị cao đẹp, thánh thiện luôn có niềm tin, niềm hy vọng vượt qua khó khăn, vươn lên làm chủ cuộc sống vật chất và toại nguyện về đời sống tinh thần phong phú”.

Phát huy giá trị văn hóa tốt đẹp

Ông Nguyễn Văn Nhanh (Bảy Nhanh), 76 tuổi là Kế hiền của đình Châu Hưng (di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh), tham gia Hương chức đình gần 30 năm cho biết: Mỗi năm đình Châu Hưng cúng hai lệ chính: Tháng 6 – Lễ Hạ điền; Tháng 12 – Lễ Thượng điền, ngoài ra, ngày 18 tháng Giêng còn có lễ cúng Tiên sư. Đình Châu Hưng còn lưu giữ khá đầy đủ các giá trị di sản văn hóa tinh thần, thể hiện qua sơ đồ bố trí thờ tự, các đồ thờ cúng, nghi lễ truyền thống nhân các lệ cúng đình mà nhiều thế hệ hương chức và người dân nơi đây gìn giữ đến hôm nay.  Theo ông Bảy Nhanh, bảo tồn giá trị di sản văn hóa xuất phát từ người dân địa phương và do người dân giữ gìn và quyết định sự tồn tại và phát triển, vì giá trị di sản văn hóa góp phần to lớn vào việc phát huy các giá trị tốt đẹp trong đời sống của con người và cộng đồng dân cư.

Để bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hóa truyền thống nói chung, phong tục thờ cúng tại các đình, chùa, lăng, đền, miếu tại tỉnh nhà nói riêng, cần được sự lãnh đạo, định hướng của cấp ủy đảng, sự quản lý điều hành của chính quyền, sự chung tay của các ngành, các cấp, các tổ chức chính trị – xã hội đối với sự nghiệp phát triển văn hóa truyền thống, sự định hướng tổ chức lễ hội của các cơ quan quản lý văn hóa. Chương trình, nghi thức cúng tế phải trang trọng, tôn nghiêm, văn minh, tiến bộ. Không lợi dụng việc cúng tế để tuyên truyền mê tín dị đoan, lợi dụng để vận động tài trợ, kêu gọi đóng góp… làm mất đi ý nghĩa, nét đẹp văn hóa truyền thống trong cộng đồng.

Bảo tồn và phát huy di sản văn hóa truyền thống cần kết hợp hài hòa, có chọn lọc giữa bản sắc văn hóa truyền thống của dân tộc với tinh hoa văn hóa tiến bộ, hiện đại của nhân loại; khuyến khích cộng đồng dân cư tích cực, chủ động sáng tạo văn hóa mới lành mạnh, văn minh, phù hợp với phong tục, tập quán và điều kiện cụ thể của cộng đồng dân cư.

Nguyễn Loan

Nguồn: Dulichvn

Cộng đồng tham gia bảo tồn các giá trị văn hoá

Chủ thể của lễ hội là cộng đồng, cộng đồng làng, cộng đồng nghề nghiệp, cộng đồng tôn giáo tín ngưỡng, cộng đồng thị dân và lớn hơn cả là cộng đồng quốc gia dân tộc. Cộng đồng chính là chủ thể sáng tạo, hoạt động, hưởng thụ và bảo tồn các giá trị văn hóa của lễ hội.


Bà con Sán Chỉ trò chuyện với du khách trong Hội Mùa vàng Bình Liêu năm 2024.

Từ bao đời nay, cộng đồng dân cư ở Quảng Ninh sống quần cư với tinh thần đoàn kết, trọng tình, trọng nghĩa. Truyền thống này thể hiện ở chữ hiếu với cha mẹ, ông bà, tôn sư trọng đạo, tôn vinh các bậc tiền bối có công khai khẩn mở mang quê hương. Nhiều nơi ở Quảng Ninh có tục tế tổ, chạp tổ, tảo mộ, có miếu thờ Tiên Công.

Người Quảng Ninh cũng phóng khoáng và tự do trong tư duy nên đây là miền đất có nhiều lễ hội dân gian mang tính xã hội và tính nhân văn cao, là thông điệp nối kết quá khứ và hiện tại. Các lễ hội có phần nghi lễ nghiêm trang, phần hội phóng khoáng, vui vẻ giúp con người gắn kết lại với nhau.

Rước kiệu trong lễ hội đại phan của người Sán Dìu ở xã Cộng Hòa, TP Cẩm Phả.

Tại Quảng Ninh, cộng đồng tham gia lễ hội còn bao gồm đông đảo khách du lịch. Theo cách hiểu đó, sinh hoạt lễ hội là sinh hoạt văn hoá cộng đồng không chỉ là sinh hoạt cộng đồng của dân cư bản địa mà còn của du khách đến từ nhiều vùng khác. Do đó, hoà mình vào không khí lễ hội, nghĩa là du khách đã được trải nghiệm, được trao truyền các giá trị văn hoá. Do vậy, tính chất bảo tồn đã có sẵn ở hoạt động đó.

Tại các lễ hội ở Quảng Ninh, những trò chơi truyền thống như đua thuyền, các đám rước, các tập tục dân gian gắn với lễ hội cũng cần được lan tỏa, để du khách có thể trực tiếp trải nghiệm. Nhập vai vào các hình thức diễn xướng đó, người trải nghiệm không chỉ là du khách, mà còn như một người dân thực thụ, một thành viên trong cộng đồng có lễ hội… Điều này sẽ kích thích và tạo ra sức hút đối với du khách khi hòa mình vào không khí lễ hội.

Sự tham gia của cộng đồng du khách cũng sẽ tạo ra sự kết nối các lễ hội, trong đó có lễ hội ở vùng Yên Tử. GS.TS Lê Hồng Lý, Chủ tịch Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam, cho rằng, lễ hội dân gian nói lên sự phong phú của không gian văn hóa Yên Tử. Theo không gian của dãy Yên Tử thì lễ hội dân gian trong khu vực này không chỉ thuộc khu vực Yên Tử, mà còn là một hệ thống chuỗi lễ hội suốt dãy Yên Tử trải qua các tỉnh Hải Dương, Bắc Giang và Quảng Ninh. Vì thế, lễ hội dân gian cũng như các loại hình khác không dừng lại ở một điểm mà trải rộng trên một không gian lớn và có sự kết nối giữa các nơi để thành một không gian văn hóa tâm linh hết sức hấp dẫn. Hơn nữa, các lễ hội này không phải chỉ là những lễ hội tôn giáo đơn thuần mà là rất nhiều lễ hội dân gian diễn ra xung quanh khu vực, để tạo nên một không gian văn hóa tín ngưỡng hấp dẫn. Riêng ở Quảng Ninh có thể điểm ra các lễ hội như: Lễ hội đền An Sinh, lễ hội của các làng ven dãy Yên Tử. Kết nối với các lễ hội theo dãy Yên Tử là nhiều lễ hội khác liên quan đến nhà Trần trên đất Quảng Ninh như: Lễ hội Bạch Đằng, Lễ hội đền Đức Ông, Lễ hội đền Cửa Ông, Lễ hội Vân Đồn…

Quang cảnh không gian chính tổ chức lễ hội mùa vàng miền sóong cọ xã Đại Dực, huyện Tiên Yên.

Bên cạnh việc bảo tồn lễ hội truyền thống, Quảng Ninh cũng xây dựng và duy trì nhiều lễ hội hiện đại đã được cộng đồng cư dân bản địa và du khách đón nhận. Theo các nhà nghiên cứu văn hoá, lễ hội hiện đại là cơ hội quảng bá tiềm năng thế mạnh những thành tựu phát triển kinh tế – xã hội, quảng bá văn hoá con người Quảng Ninh nói riêng, Việt Nam nói chung. Lễ hội Hoa anh đào hay Lễ hội Hokkaido gần đây là những ví dụ điển hình cho việc thắt chặt quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam với các nước trên thế giới, trong đó có ngoại giao nhân dân, thông qua hoạt động văn hoá lễ hội. Đây sẽ là mẫu hình tương lai cho nhiều hoạt động văn hoá tương tự, cho thấy vị trí kết nối hội tụ và lan toả của Quảng Ninh. Không chỉ kết nối với Hải Phòng, Bắc Giang, Hải Dương, mà còn ra các vùng khác trong nước và vượt ra ngoài biên giới.

Phạm Học

Nguồn: Dulichvn

Về thăm đình Vĩnh Bình (Tiền Giang), tham gia Lễ hội Kỳ yên

Đình Vĩnh Bình, tọa lạc thị trấn Vĩnh Bình, huyện Gò Công Tây, tỉnh Tiền Giang đã có từ hơn 2 thế kỷ trước, từ thuở những nhóm cư dân người Việt đầu tiên khẩn hoang vùng đất Gò Công.


Trải qua bao biến thiên của lịch sử, ngôi đình làng này vẫn còn lưu giữ nhiều giá trị văn hóa, tín ngưỡng tốt đẹp của dân tộc và nghệ thuật kiến trúc truyền thống độc đáo của vùng đất Nam bộ. Trong đó, Lễ hội Kỳ yên là một trong những hoạt động văn hóa, tín ngưỡng tiêu biểu của cộng đồng dân cư nơi đây.

Dấu xưa ở ngôi đình hơn 200 năm tuổi

Đình Vĩnh Bình được xây dựng vào đầu thế kỷ thứ XIX, là một minh chứng cho quá trình khẩn hoang lập ấp của cư dân vùng Gò Công. Theo lời của cụ Trần Văn Cẩm Xuân (84 tuổi, ngụ thị trấn Vĩnh Bình) – một trong những bậc cao niên thuộc Ban Phụng tự đình Vĩnh Bình thì tại vùng đất này từ rất sớm đã xuất hiện nhóm cư dân người Việt đến khai hoang vùng đất Gò Công. Trong đó, vào khoảng nửa sau thế kỷ XVIII có ông Trần Văn Huê cùng hơn 40 người đến đây khai hoang, lập nghiệp.

Tưng bừng Lễ hội Kỳ yên đình Vĩnh Bình năm 2025.

Năm Mậu Thìn 1808, làng Vĩnh Lợi được thành lập (lúc đó thuộc Tổng Hòa Bình, huyện Kiến Hòa, trấn Ðịnh Tường). Sau khi nhân dân quần tụ, làm ăn ổn định, thì xin lập đình. Trong giai đoạn này, ông Huê đứng chân trong chính quyền làng, sửa sang ngôi miếu có từ trước thành đình làng Vĩnh Lợi, với mục đích thờ Thành Hoàng, cầu mưa thuận, gió hòa, người dân có cuộc sống an vui, sung túc.

Tiếng lành đồn xa, sau đó người Việt khắp nơi lần lượt di cư đến ngày một nhiều. Trong quá trình cộng cư sinh sống với nhau đã diễn ra quá trình giao lưu, tiếp biến văn hóa.

“Đình Vĩnh Bình trước đây được cất theo kiến trúc truyền thống của đình làng Nam bộ xưa gồm 3 căn, 2 chái. Phía trước đình có võ ca, phía trước võ ca có sân khấu. Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, thống nhất đất nước, qua nhiều biến đổi, đến năm 1995, cùng với sự quyên góp của nhân dân, chính quyền địa phương cho xây dựng một ngôi đình mới, tọa lạc tại thị trấn Vĩnh Bình” –  cụ Xuân kể.

Dẫn chúng tôi đi tham quan đình Vĩnh Bình, cụ Xuân say sưa kể: “Qua nhiều thăng trầm, biến cố của lịch sử nhưng đình Vĩnh Bình vẫn tồn tại và để lại nhiều dấu ấn về kiến trúc xây dựng đình Nam bộ. Ngôi đình mới gồm khu vực chánh điện, nơi thờ Tả ban, Hữu ban; nơi thờ Tiền hiền, Hậu hiền; bàn Hội đồng và khu vực thờ các vị Anh hùng dân tộc.

Qua nhiều lần trùng tu, hiện đình Vĩnh Bình có lối kiến trúc theo lối nhà dọc, cửa đình quay về hướng Bắc. Nét đặc sắc của ngôi đình này là nghệ thuật chạm khắc, trang trí hoa văn, tranh đắp nổi trên tường và tượng gốm trang trí cả trong và bên ngoài đình. Trong đó, phải kể đến nhiều chi tiết của đình được gìn giữ vẹn nguyên qua hơn 2 thế kỷ, với 8 cây cột chạm hình rồng, bao lam chạm hình phụng…”.

Hằng năm, vào khoảng giữa tháng Chạp (âm lịch), đình Vĩnh Bình, thị trấn Vĩnh Bình tổ chức Lễ hội Kỳ yên, thu hút hàng ngàn lượt người đến cúng viếng, cầu mong mưa thuận, gió hòa, người dân có cuộc sống yên vui, hạnh phúc. Với tuổi đời hơn 200 năm, ngôi đình cổ xưa ở đất Gò Công ghi dấu bao nhiêu thăng trầm, biến cố lịch sử của vùng đất này.

Trong giai đoạn kháng chiến chống Pháp và Mỹ, đình còn là nơi che giấu, hội họp, phát tán truyền đơn của lực lượng cách mạng. Năm 2016, đình Vĩnh Bình vinh dự đón nhận Bằng Di tích lịch sử – văn hóa cấp tỉnh.

Tưng bừng lễ hội kỳ yên

Theo các bậc cao niên trong Ban Quản lý di tích đình Vĩnh Bình, các hoạt động thờ cúng, tín ngưỡng của đình vẫn được duy trì trong suốt 2 thế kỷ qua. Tiếp nối truyền thống ông cha, thời gian qua, Ban Quản lý đình Vĩnh Bình mặc dù còn gặp nhiều khó khăn nhưng vẫn duy trì việc gìn giữ, bảo vệ di tích và thực hiện các nghi thức tín ngưỡng.

Ban Phụng tự đình giới thiệu kiến trúc độc đáo đình Vĩnh Bình. 

Trong đó, việc thờ cúng diễn ra quanh năm, lễ vật đơn giản là sản vật địa phương, mùa nào thức ấy nhưng ấm áp lòng thành, chất phác người dân Nam bộ. Lễ hội quan trọng nhất là Lễ  Kỳ yên vào tháng Giêng âm lịch hằng năm, với mục đích cầu mong mưa thuận, gió hòa, quốc thái dân an.

Hằng năm, lễ hội diễn ra từ ngày 14 đến ngày 16 tháng Chạp, nhân dân trong vùng rất hân hoan với lễ hội này. Năm 2025, Lễ hội Kỳ yên diễn ra từ ngày 14 đến ngày 16 tháng Chạp (nhằm ngày 13 đến ngày 15/1).

Theo ông Nguyễn Văn Kiếm, Trưởng Ban Phụng tự đình Vĩnh Bình, trong 3 ngày diễn ra lễ hội với các nghi thức như: Lễ Cung nghinh Sắc Thần đến Thiên Y Thánh Miếu, Lễ tế Bà, di Sắc Thần về đình an vị, bà con nhân dân đến cúng tế Thần, Lễ cúng Tiền hiền, Hậu hiền; Đội Lân rồng múa biểu diễn quanh khu phố chợ Vĩnh Bình và các tuyến đường nội ô thị trấn Vĩnh Bình để chúc mừng sự phát triển thịnh vượng của quê hương.

Trong những ngày diễn ra Lễ hội Kỳ yên, đường phố thị trấn Vĩnh Bình nhộn nhịp hẳn lên, nhà cửa được trang hoàng tươm tất, nhiều nhà chưng mâm ngũ quả trước cửa để đón rước “Sắc Thần”, cầu một năm quốc thái dân an, mưa thuận, gió hòa.

Từ trưa ngày 14 tháng Chạp, Đội lân rồng của đình cung thỉnh linh từ “Bàn các ấp” của các khu phố trên địa bàn thị trấn Vĩnh Bình về đình, để cung thỉnh những vị đang được thờ tại các miếu và thỉnh vong linh các bậc tiền bối có công với địa phương. Đến 17 giờ chiều cùng ngày, đoàn rước “linh vị thần” đi một vòng chợ Vĩnh Bình, rồi đưa đến miếu Bà, cúng tế rất long trọng; sau đó đưa “linh vị thần” trở về đình Vĩnh Bình an vị.

Dân làng dâng lễ vật như: Xôi, thịt, trà, rượu, bánh trái, thậm chí cả heo quay… đến cúng đình. Vào nửa đêm, lễ “Tống gió” được tiến hành, những con tàu bằng giấy kiếng được trang trí cầu kỳ, thắp những cây đèn cầy thả trôi sông cùng các nghi lễ “Tống gió” độc, những điều xui xẻo ra biển, kết thúc 3 ngày đêm sống trong những cảm xúc, tâm linh của nhiều nghi lễ, náo nhiệt của Lễ hội Kỳ yên.

“Lễ hội Kỳ yên đình Vĩnh Bình là một trong những nét đẹp văn hóa dân gian của huyện Gò Công Tây. Lễ hội được tổ chức trang nghiêm, tiết kiệm, không mê tín dị đoan, mang đậm những giá trị đặc sắc của văn hóa truyền thống, thắt chặt tình nghĩa xóm giềng; đồng thời, đây còn là dịp để con cháu tưởng nhớ đến tổ tiên, ông cha ta đã có công khai khẩn mảnh đất này. Là thế hệ đi sau, chúng ta phải có trách nhiệm giữ gìn, bảo tồn, tôn tạo, phát huy những giá trị của lịch sử, văn hóa của  đình Vĩnh Bình” – ông Kiếm cho biết thêm.

Với những giá trị lịch sử, văn hóa, vào năm 2017, Lễ hội Kỳ yên đình Vĩnh Bình được công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể cấp tỉnh.

V. Phương

Nguồn: Dulichvn.org.vn

Đậm đà hương vị bánh in ngày tết

Cách đây gần 40 năm, hành trang mang theo về nhà chồng của bà Trần Thị Hai (ấp 6, xã Thạnh Đức, huyện Bến Lức, tỉnh Long An) là nghề làm bánh in được truyền dạy qua nhiều thế hệ trong gia đình. Và cũng ngần ấy năm, bà Hai vẫn gắn bó, thủy chung với nghề này, góp phần mang hương xuân cho các gia đình mỗi dịp tết đến.


Theo bà Trần Thị Hai (bên trái, ấp 6, xã Thạnh Đức, huyện Bến Lức), để chiếc bánh in bảo đảm chất lượng, quan trọng nhất bảo đảm an toàn vệ sinh thực phẩm và khâu nhào bột, khuấy đường

Vừa trò chuyện, bà Hai vừa nhanh tay nhào bột cho vào khuôn để ra lò những chiếc bánh in thơm ngon, kịp giao đến khách đặt hàng ngày tết.

Theo bà Hai, bánh in được làm theo mùa vụ chứ không liên tục quanh năm như những sản phẩm khác nên nhiều người đã bỏ nghề, kiếm công việc ổn định hơn. Để bánh in bảo đảm chất lượng, quan trọng nhất là phải bảo đảm an toàn vệ sinh thực phẩm và chú ý khâu nhào bột, khuấy đường.

Ngoài ra, khâu in bánh cũng phải khéo léo để bánh in chặt, đẹp mắt nhưng vẫn giữ được hương vị đặc trưng của bột nếp. Chiếc bánh in thành phẩm bán giá 13.000 đồng. Nhân bánh thì tùy theo yêu cầu, sở thích mà khách hàng có thể lựa chọn như đậu xanh, chuối, đậu phộng, sầu riêng,… và có thể thêm chút gừng để bánh được thơm ngon hơn.

Bà Hai chia sẻ: Nghề làm bánh in là nghề gia truyền, đến thế hệ tôi không rõ là đời thứ mấy đã gắn bó. Chỉ biết trước đây, mẹ và bà ngoại tôi đều sống bằng nghề này.

Cũng chính nghề làm bánh in đã giúp tôi nuôi các con học hành đến nơi, đến chốn và có việc làm ổn định. 10 trở lại đây, dù nhu cầu làm bánh in hay các loại bánh, mứt cho đám tiệc, lễ, tết dần ít đi nhưng tôi chưa bao giờ suy nghĩ sẽ bỏ nghề.

Tôi mong tới đây, các cấp Hội Liên hiệp Phụ nữ mở các lớp hướng dẫn, truyền dạy kinh nghiệm nghề làm bánh truyền thống, bánh dân gian để các chị em có thêm cơ hội phát triển kinh tế cũng như gìn giữ nghề truyền thống đang đứng trước nguy cơ mai một.

Để bánh in chặt, đẹp mắt nhưng vẫn giữ được hương vị đặc trưng của bột nếp đòi hỏi người thợ làm bánh phải tỉ mỉ, khéo léo

Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ xã Thạnh Đức – Nguyễn Thị Thúy Hằng cho biết: “Hội rất quan tâm, tạo điều kiện để nhiều hộ làm bánh, mứt có tay nghề tham gia trưng bày, bán bánh vào các dịp lễ, tết. Các dịp họp mặt, hội nghị, địa phương cũng ưu tiên đặt bánh dân gian đãi khách. Ngoài ra, Hội còn tạo điều kiện để các hộ có nhu cầu tiếp cận nguồn vốn vay Ngân hàng Chính sách xã hội để đầu tư, phát triển nghề bánh truyền thống”.

Ngày trước, các loại bánh truyền thống chủ yếu phục vụ gia đình, đãi bạn bè vào dịp lễ, tết hoặc làm quà biếu khách phương xa.

Ngày nay, thị trường đa dạng các loại bánh, mứt nhưng bánh truyền thống vẫn giữ hương vị đậm đà, đáp ứng nhu cầu của thực khách cũng như làm đẹp thêm bàn thờ tổ tiên mỗi khi tết đến, xuân về./.

Việt Hằng – Kim Phượng

Nguồn: Dulichvn.org.vn

Trải nghiệm không khí Tết cổ truyền tại Làng cổ Đường Lâm (Hà Nội)

Từ ngày 18/1 đến ngày 16/2/2025 (tức từ ngày 19 tháng Chạp năm Giáp Thìn đến ngày 19 tháng Giêng năm Ất Tỵ), tại Làng cổ Đường Lâm, thị xã Sơn Tây (Hà Nội) sẽ diễn ra chương trình “Tết làng Việt”, hứa hẹn mang đến cho du khách những trải nghiệm thú vị về không khí Tết cổ truyền.


Tham dự chương trình Tết làng Việt, du khách được trải nghiệm các phong tục truyền thống trong dịp Tết cổ truyền trong không gian những ngôi nhà cổ ở Đường Lâm. Ảnh: Nina May

Đây là năm thứ tư thị xã Sơn Tây tổ chức chương trình Tết làng Việt nhằm quảng bá những giá trị văn hóa của Sơn Tây – xứ Đoài nói riêng và truyền thống dân tộc Việt Nam nói chung.

Chương trình “Tết làng Việt” do Phòng Văn hóa và Thông tin thị xã, Ban Quản lý di tích Làng cổ Đường Lâm, xã Đường Lâm và các phòng, ban, ngành chức năng phối hợp thực hiện, mang đến cho du khách những trải nghiệm hấp dẫn, thú vị, cuốn hút.

Bí thư Đảng ủy xã Đường Lâm Nguyễn Đăng Thạo cho biết, nhằm phát huy các giá trị di tích, di sản trên địa bàn và kích cầu du lịch, vào mỗi dịp đón Tết cổ truyền của dân tộc, thị xã Sơn Tây và địa phương lại tổ chức chương trình Tết làng Việt. Đây là hoạt động nhằm giữ gìn những nét đẹp văn hóa truyền thống cho các thế hệ mai sau và quảng bá những giá trị văn hóa dân tộc tới bạn bè quốc tế. Thông qua chương trình Tết làng Việt góp phần xúc tiến, giới thiệu du lịch Làng cổ Đường Lâm, các đặc sản địa phương, điểm đến du lịch tới người dân và du khách, nhất là người nước ngoài đang sinh sống tại Việt Nam và kiều bào Việt Nam ở nước ngoài.

Chương trình có nhiều nội dung hấp dẫn, như: giới thiệu không gian chợ Tết truyền thống tại sân đình Mông Phụ, xã Đường Lâm, với những gian hàng giới thiệu các đặc sản, sản phẩm thủ công, làng nghề của địa phương; không gian trải nghiệm văn hóa Tết cổ truyền với các màn biểu diễn nghệ thuật, nhạc cụ dân tộc, trình diễn áo dài, viết thư pháp…

Du khách cũng sẽ được trải nghiệm làm diều sáo, nặn tò he, chăm sóc hoa thủy tiên, các sản phẩm lưu niệm… và trải nghiệm làm đặc sản của địa phương thông qua việc tự làm bánh chưng, bánh tẻ, các loại kẹo lạc, kẹo dồi…

Ngoài ra, du khách sẽ được giới thiệu các phong tục truyền thống trong dịp Tết, thăm nhà cổ, thưởng thức các món ăn truyền thống trong dịp Tết của người dân Đường Lâm, như bánh chưng, gà Mía, thịt quay đòn, chè kho…

Tại khu vực đình làng và cổng làng Mông Phụ có khu vực giới thiệu các trò chơi dân gian như chọi gà, bịt mắt đập niêu, ô ăn quan, diều sáo, bắt chạch trong chum, đấu vật, đá cầu, cờ người…; trình diễn không gian hát văn, hát xẩm, hát chèo, trống hội…

Việt Hoàng

Nguồn: Dulichvn.org.vn

TIN MỚI NHẤT