Thống đốc NHNN: Năm 2022, rủi ro lạm phát đang có áp lực lớn

0
Thống đốc NHNN: Năm 2022, rủi ro lạm phát đang có áp lực lớn

Thống đốc Nguyễn Thị Hồng cho rằng phải đánh giá hoạt động tiền tệ của ngân hàng và kinh tế vĩ mô để xác định dư địa giảm lãi suất. Bà bày tỏ lo ngại về rủi ro lạm phát năm 2022.

Thủ tướng, Bộ trưởng Kế hoạch và Đầu tư trả lời chất vấn Sáng 12/11, sau khi kết thúc phần chất vấn của Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng, Thủ tướng Phạm Minh Chính sẽ trả lời chất vấn của đại biểu Quốc hội.
  • Chưa nên đặt vấn đề sửa Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa

    Đại biểu Nguyễn Văn Thân (Thái Bình) hỏi suy nghĩ của Bộ trưởng
    về những quy định không còn phù hợp trong Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa
    cũng như việc kéo dài thời hạn giảm 30% thuế thu nhập cho doanh nghiệp nhỏ và vừa
    đến năm 2023.

    Trả lời, Bộ trưởng KHĐT Nguyễn Chí Dũng chia sẻ Luật Hỗ trợ
    doanh nghiệp nhỏ và vừa rất quan trọng nhưng mới ban hành, Chính phủ mới ban
    hành Nghị định 80 để hướng dẫn thực hiện các chương trình hỗ trợ doanh nghiệp
    trong luật này. Hiện nay, các quy định liên quan đang được triển khai thực hiện,
    còn vấn đề gì cần triển khai để hỗ trợ doanh nghiệp thì Chính phủ chỉ đạo rà
    soát, nghiên cứu để bổ sung vào Nghị định 80.

    “Tôi nghĩ thời gian tới chúng ta cần tập trung triển khai thực
    hiện hiệu quả Nghị định 80, hỗ trợ cho các cụm liên kết ngành, chuyển đổi số
    cho doanh nghiệp… là những thứ cần làm ngay, còn đặt vấn đề sửa luật thì chưa
    nên. Chúng ta sẽ chậm lại để có đánh giá, tổng kết sau”, ông Dũng nói.

  • Có thể phát hành trái phiếu để huy động 180.000 tỷ trong dân

    Trả lời một số câu hỏi về chính sách tài khóa trong thời
    gian tới, Bộ trưởng Tài chính Hồ Đức Phớc cho rằng sẽ áp dụng linh hoạt các
    chính sách về thuế, thu chi ngân sách đảm bảo cho nền kinh tế phát triển nhanh,
    bền vững.

    Đối với chính sách thuế, Bộ trưởng Tài chính đề nghị Quốc hội,
    Chính phủ tiếp tục áp dụng giãn, hoãn thuế, phí, giảm thuế đối với giá xăng dầu
    lĩnh vực hàng không. Ngoài ra, thuế VAT, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế các hộ
    sản xuất kinh doanh; giãn khoản thuế cho hộ, doanh nghiệp chậm nộp khi làm ăn
    thua lỗ.

    Bên cạnh đó, ông Phớc cho biết Bộ sẽ tập trung thu trên nền
    tảng số, sàn thương mại điện tử, phát hành hóa đơn điện tử để tránh hoàn thuế,
    trốn thuế.

    Ông cũng cho biết đến nay, nợ công của nước ta là 56,8%, vẫn
    dưới 60% nhưng vượt ngưỡng cảnh báo (55%). Dư nợ Chính phủ là 51,8%, như vậy
    năm 2021 nợ công khoảng 3 triệu 750 tỷ đồng. Bộ trưởng Tài chính cho biết ông ủng
    hộ các gói kích cầu, song các gói này phải phát huy hiệu quả để tăng thu ngân
    sách mà không tăng bội chi ngân sách.

    Ông cho biết đã tính đến việc huy động nguồn lực cho chương
    trình phục hồi kinh tế. Trong đó có việc phát hành trái phiếu Chính phủ để huy
    động tiền trong dân với số tiền khoảng 180.000 tỷ trong 2 năm.

    Song, ông cũng lưu ý khi nền kinh tế có nguồn tiền rồi, liệu
    có hấp thụ được tốt không và hấp thụ ở những lĩnh vực nào, ông cho rằng nên tập
    trung vào các dự án đầu tư công, công trình trọng điểm, những lĩnh vực kinh tế
    tạo đột phá để tăng trưởng. Ông cho rằng nên sớm lập các dự án để có thể sử dụng
    hiệu quả nguồn tiền trong các gói kích cầu.

    Về chi ngân sách, ông Phớc cho rằng trước mắt cần tiết kiệm
    chi thường xuyên mà chuyển sang chi đầu tư phát triển. Ông cho biết đã cắt giảm
    được 10% chi thường xuyên, thời gian tới Bộ đề nghị cắt giảm tiếp 10% nữa để đầu
    tư và chống dịch.

    Thu tuong se tra loi chat van dai bieu Quoc hoi anh 1
  • Còn dư địa để giảm lãi suất?

    Phát biểu trước Quốc hội, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn
    Thị Hồng cho biết đại dịch Covid-19 đã tác động nghiệm trọng đến tình hình hoạt
    động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp và người dân.

    Từ đầu năm 2020 khi dịch bệnh xảy ra, trong tổ chức điều
    hành về lãi suất, NHNN đã 3 lần giảm lãi suất điều hành với tổng mức giảm
    1,5-2%/năm. Đây là mức giảm sâu so với các nước trong khu vực.

    Bên cạnh đó, NHNN cũng đã chỉ đạo và kêu gọi các tổ chức tín
    dụng thực hiện giảm lãi suất và mặt bằng đã giảm khoảng 1,66%/năm so với trước
    dịch.

    Thống đốc NHNN cho biết thêm từ khi có dịch Covid-19 đến
    nay, các tổ chức tín dụng đã giảm khoảng 30.000 tỷ đồng tiền lãi để hỗ trợ người
    dân, doanh nghiệp và sẽ tiếp tục thực hiện giảm từ nay cho đến cuối năm. Ngoài
    ra, hệ thống ngân hàng đã giảm hơn 2.000 tỷ đồng tiền phí cho các khách hàng.

    “Thông qua các chính sách giảm lãi suất, phí này đã giảm được
    chi phí đầu vào của các doanh nghiệp và người dân”, Thống đốc Nguyễn Thị Hồng
    chia sẻ.

    Lãnh đạo NHNN cho biết nhiệm vụ của hoạt động quản lý tiền tệ
    là đảm bảo điều hành của ngân hàng trung ương, góp phần kiểm soát lạm phát và ổn
    định kinh tế vĩ mô, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế, nhưng không chủ quan với lạm
    phát và đảm bảo vai trò huyết mạch của nền kinh tế.

    Theo đó, các TCTD phải vừa hoạt động đảm bảo an toàn, hiệu
    quả để sẵn sàng khả năng chi trả cho khách hàng vừa phải hỗ trợ người dân,
    doanh nghiệp. Vì vậy, việc xem xét các chính sách, công cụ thời gian tới, NHNN
    luôn phải đảm bảo đạt được 2 mục tiêu. Đồng thời, đảm bảo các cân đối lớn của
    vĩ mô như nợ công, bội chi ngân sách.

    Thống đốc cho biết để có thể xác định còn dư địa giảm lãi suất
    nữa hay không, qua đánh giá thực trạng về hoạt động tiền tệ của ngân hàng và
    kinh tế vĩ mô, NHNN cho rằng mục tiêu kiểm soát lạm phát dưới 4% năm nay có thể
    đạt được (lạm phát đến hết tháng 10 là 1,81%). Tuy nhiên, trong năm 2022, rủi
    ro lạm phát đang có áp lực lớn.

    Phân tích rõ hơn, Thống đốc Nguyễn Thị Hồng cho biết các nền
    kinh tế thế giới đang gần phục hồi khi chiến lược vaccine bao phủ, điều này dẫn
    tới giá cả hàng hóa đang có xu hướng gia tăng, các chỉ số của giá nhiều mặt
    hàng hóa như xăng dầu đã tăng 55% so với cuối năm trước. Các nước phát triển
    thì lạm phát đã tăng lên mức cao nhất trong lịch sử với Mỹ tăng 5,3% trong
    tháng 9.

    Trong khi đó, nền kinh tế Việt Nam có độ mới cửa lớn với tổng
    kim ngạch xuất nhập khẩu đạt trên 200% GDP nên áp lực rủi ro lạm phát nhập khẩu
    rất lớn.

    Về chính sách lãi suất, lãnh đạo NHNN cho biết các ngân hàng
    trung ương thế giới đang có xu hướng dừng chính sách nới lỏng tiền tệ. Hiện có
    tới 65 lượt tăng lãi suất trên thế giới.

    Trong khi đó, với thị trường trong nước, nợ xấu của các tổ
    chức tín dụng đang gia tăng. Trong thời gian vừa qua, các ngân hàng đã giảm lãi
    suất bằng chính nguồn lực tài chính của mình chứ không phải tiền ngân sách, nên
    khi nợ xấu gia tăng chắc chắn bản thân các ngân hàng phải sử dụng nguồn lực tự
    có để xử lý.

    “Nếu để tình hình tài chính của các tổ chức tín dụng suy giảm
    sẽ ảnh hưởng tới khả năng chi trả và an toàn của hệ thống. Đây là bài học kinh
    nghiệm rất lớn từ thời gian trước khi mà tăng trưởng tín dụng cao, thực hiện
    các gói hỗ trợ lãi suất năm 2008, không tính toán cẩn thận dẫn đến rủi ro lạm
    phát năm 2011, có thời điểm lên tới 18%”, Thống đốc nhấn mạnh.

    Về phía NHNN, Thống đốc Nguyễn Thị Hồng cho biết trong thời
    gian tới, cơ quan quản lý tiền tệ sẽ tiếp tục chỉ đạo hệ thống các tổ chức tín
    dụng tiết giảm chi phí hoạt động để tiếp tục giảm lãi suất. Tuy nhiên, vẫn phải
    đảm bảo an toàn hoạt động của từng tổ chức tín dụng cũng như toàn hệ thống để
    tránh tác động dây chuyền.

    Đồng thời NHNN sẽ tiếp tục phối hợp với các Bộ Tài chính, Bộ
    KHĐT để tính toán gói hỗ trợ lãi suất với quy mô, phạm vi, đối tượng hợp lý
    trên cơ sở vẫn đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô và phòng ngừa rủi ro lạm phát cũng
    như phòng ngừa rủi ro đối với an toàn hoạt động của hệ thống ngân hàng.

    Thu tuong se tra loi chat van dai bieu Quoc hoi anh 2
  • Sẽ làm đường ven biển Đồng bằng sông Cửu Long giai đoạn 2021-2025

    Liên quan đến ý kiến của đại biểu Trần Thị Ngọc Diễm (Sóc
    Trăng) về việc đầu tư 2 tỷ USD cho Đồng bằng sông Cửu Long, trong đó có làm đường
    ven biển, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng chia sẻ đây là dự án ODA nên chúng ta không
    chỉ thực hiện một quy trình, thủ tục theo quy định của luật trong nước mà còn
    phụ thuộc quy trình nước ngoài, nên mất thời gian hơn. Song theo ông Dũng, nếu
    không làm nhanh theo thủ tục rút gọn hay quy trình đặc biệt thì khó triển khai
    trong giai đoạn 2021-2025.

    “Chúng tôi sẽ nghiên cứu để hài hòa hóa các thủ tục trong nước
    nước và nước ngoài để làm sao đảm bảo quy định nhưng rút ngắn thời gian, mục
    tiêu là triển khai ngay trong 2021-2025 để giúp Đồng bằng ứng phó với biến đổi
    khí hậu”, Bộ trưởng KHĐT cam kết.

  • Chậm lập quy hoạch vì lần đầu tiên làm quy hoạch tổng thể

    Trả lời câu hỏi của đại biểu Trần Văn Tiến (Vĩnh Phúc) về
    công tác lập quy hoạch, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng thừa nhận việc triển khai lập
    quy hoạch còn chậm.

    Giải thích vì nguyên nhân khách quan, ông Dũng cho biết do
    chúng ta lần đầu tiên thực hiện theo phương pháp tích hợp, làm quy hoạch tổng
    thể. “Trước đây cả nước chưa bao giờ làm quy hoạch tổng thể mà chỉ làm quy hoạch
    từng ngành. Cũng vì lần đầu tiên nên năng lực tư vấn và các kiến thức các cơ
    quan chưa theo kịp, số lượng nhiều, làm đồng thời trong cùng một thời gian nên
    thực hiện còn đang rất khó”, ông Dũng trần tình.

    Đến nay, ông thông tin đã xây dựng xong khung định hướng quy
    hoạch tổng thể quốc gia để tình Thủ tướng; quy hoạch 5 vùng kinh tế còn lại
    cũng cơ bản đã xong tới phần nghiên cứu và đang lấy ý kiến hoàn thiện, sẽ trình
    Thủ tướng sớm nhất trong tháng 11-12 để các địa phương, bộ ngành dựa trên khung
    định hướng này lập quy hoạch của ngành, địa phương mình mà không nhất thiết chờ
    xong quy hoạch cấp trên mới lập quy hoạch cấp dưới.

    Với các quy hoạch ngành, Bộ trưởng KHĐT đã có 19/38 quy hoạch
    đã hoàn thành, quy hoạch tỉnh có 20/63 quy hoạch đã hoàn thành.

    Ông Dũng cho biết Chính phủ và Thủ tướng đã có 2 nghị quyết
    đôn đốc yêu cầu tất cả quy hoạch từ quy hoạch quốc gia đến quy hoạch ngành, quy
    hoạch tỉnh phải hoàn thành trước 31/12.

    “Chúng tôi đang đôn đốc các địa phương, bộ ngành để đảm bảo
    tiến độ trong thời gian tới”, ông Dũng nói.

    Thu tuong se tra loi chat van dai bieu Quoc hoi anh 3
  • Tại sao không hỗ trợ dân trực tiếp bằng tiền mặt?

    Trong phần tranh luận, đại biểu Nguyễn Văn Hiển (Lâm Đồng)
    đưa ý kiến đồng tình với nhiều quan điểm Bộ trưởng KHĐT đã nêu về kế hoạch xây
    dựng gói hỗ trợ phục hồi kinh tế. Tuy nhiên, đại biểu cho biết câu hỏi của ông
    là theo các chuyên gia, để hỗ trợ an sinh xã hội và phục hồi kinh tế sau đại dịch,
    Việt Nam một gói hỗ trợ tài khóa đủ lớn quy mô khoảng 3-4% GDP, trong đó phải
    có gói hỗ trợ trực tiếp bằng tiền mặt, chứ không phải cần gói hỗ trợ 3-4% GDP bằng
    tiền mặt.

    Vấn đề đặt ra là nếu làm như vậy sẽ dẫn đến thâm hụt ngân
    sách và sẽ phải vượt bội chi ngân sách, tăng nợ công, nợ Chính phủ. Nhưng nếu
    gói hỗ trợ không đủ lớn sẽ khiến nền kinh tế chậm phục hồi so với các nước và
    kéo theo nhiều hệ lụy.

    Ông cũng đánh giá trong báo cáo kinh tế xã hội của Chính phủ
    hiện nay cũng không thể hiện rõ một kế hoạch tổng thể và một mức chi cho gói hỗ
    trợ tài khóa, tiền tệ để phục hồi nền kinh tế. Trên từng lĩnh vực thì đã có báo
    cáo về các gói hỗ trợ này tuy nhiên còn rất riêng lẻ, đại biểu Hiển cho biết
    mong muốn ở đây là cần có một kế hoạch tổng thể, thống kê, tổng hợp và dự báo đầy
    đủ.

    Ngoài nguồn lực của ngân sách thì cần có chương trình để huy
    động cả nguồn lực bên ngoài ngân sách để phục hồi và phát triển kinh tế. Ông
    Nguyễn Văn Hiển đề nghị Bộ KHĐT và Chính phủ làm rõ các vấn đề này.

    Trả lời phần tranh luận trên, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng cho
    biết với các gói hỗ trợ phục hồi kinh tế, việc quan trọng đặt ra nếu không nới
    trần nợ công và trần bội chi thì sẽ không có nguồn lực để phục hồi và phát triển.

    Tuy nhiên, nếu nới các chỉ tiêu này mà thực hiện không hiệu
    quả sẽ dẫn tới hệ lụy cho nền kinh tế, mất cân đối vĩ mô, cân đối lớn.

    “Vậy nới bao nhiêu là đủ, 1-2% hay nhiều hơn, nới ra rồi thì
    huy động bằng cách nào, xử lý vào đâu cho hiệu quả”, Bộ trưởng KHĐT chia sẻ.

    Theo ông Dũng, hiện nay các vấn đề này đang được các bộ,
    ngành tính toán và chưa đưa ra kịch bản 1 cách cụ thể, Các kịch bản đã được xây
    dựng nhưng tạm thời chưa báo cáo Quốc hội tại kỳ họp này mà phải cần thời gian
    để tính toán kỹ lưỡng và báo cáo các cấp thẩm quyền trước khi đưa ra trình Quốc
    hội.

    Tuy nhiên, Bộ trưởng KHĐT nhấn mạnh sẽ lưu ý các vấn đề đại
    biểu Hiển chia sẻ trong quá trình xây dựng chương trình.

    Thu tuong se tra loi chat van dai bieu Quoc hoi anh 4
  • Tranh luận về tăng bội chi và nợ công

    Tranh luận với Bộ trưởng KHĐT về khả năng tăng bội chi và nợ
    công, đại biểu Lê Minh Nam (Hậu Giang) cho rằng chúng ta cần đánh giá kỹ lưỡng,
    thận trọng về nhu cầu, khả năng hấp thụ vốn đầu tư công và các yếu tố liên quan
    trước khi quyết định.

    Ông phân tích về nợ công cuối năm 2021 ước tính 44% GDP – ở
    mức thấp, do từ năm 2021 ta điều chỉnh tăng GDP theo cách tính mới. Do đó giá
    trị tuyệt đối của nợ công không giảm nhưng mẫu số GDP tăng nên tỷ lệ này thấp.
    “Việc này tạo cảm giác còn dư địa tăng nợ công nhưng thực chất không hoàn toàn
    như vậy”, ông Nam nói.

    Ông dẫn lời Bộ trưởng Tài chính trong giai đoạn 2016-2020, tổng
    vay của Chính phủ là 1,852 triệu tỷ đồng; giai đoạn 2021-2025 dự kiến vay 3,068
    triểu tỷ nên nợ công dự kiến năm 2025 khoảng 45,6% theo GDP mới, còn nếu tính
    theo GDP cũ khoảng 57,9% – tức đã vượt ngưỡng 55%.

    “Vì vậy nếu phải ưu tiên kiểm soát nợ công để đảm bảo an ninh
    tài chính và các cân đối vĩ mô thì phải thận trọng”, ông Nam phân tích.

    Về bội chi, ông Nam cho biết Chính phủ đặt mục tiêu giảm dần
    thâm hụt ngân sách giai đoạn 2021-2025 khoảng 3,7% GDP, như vậy, nếu tăng bội
    chi 1% sẽ tăng gánh nặng giảm thấp tỷ lệ này trong những năm tiếp theo nên phải
    thận trọng tỷ lệ nợ công và bội chi để hạn chế rủi ro.

    “Trước khi tính đến kịch bản tăng nợ công và bội chi nên
    tính đến sử dụng các gói kích cầu, chính sách tài khóa, tiền tệ hợp lý để thúc
    đẩy phát triển kinh tế, tăng thu ngân sách, giảm bội chi và tăng cường quản trị
    nguồn lực hiện có, đặc biệt đẩy nhanh tiến độ giải ngân vốn đầu tư công”, ông
    Nam nêu quan điểm.

    Chia sẻ với quan điểm của đại biểu, Bộ trưởng Nguyễn Chí
    Dũng khẳng định việc xây dựng chương trình phuc hồi kinh tế đã được tính toán
    thận trọng, trong đó có lưu ý vấn đề tăng bội chi và nợ công cũng như khả năng
    hấp thụ của nền kinh tế để không phá vỡ an toàn tài chính chung.

    Ông nhấn mạnh đây là vấn đề quan trọng để đảm bảo kinh tế vĩ
    mô và các cân đối lớn nên phải tính toán thận trọng đảm bảo phục hồi, phát triển
    nền kinh tế và cân nhắc vấn đề an toàn tài chính. Cụ thể trong vấn đề này, ông
    Dũng cho biết sẽ được Bộ trưởng Tài chính và Thống đốc Ngân hàng Nhà nước chia
    sẻ sau.

    Riêng về đầu tư công, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng cho biết đã
    nói rất nhiều, đây là vấn đề nan giải mà chưa giải quyết được triệt để. “Giải
    pháp đột phá để giải ngân cao hơn trong năm tới rất quan trọng, nếu làm không tốt
    thì kể cả gói hỗ trợ có tập trung cho đầu tư công cũng rất khó hấp thụ và giải
    ngân được”, ông Dũng nói.

  • Quan tâm hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa

    Đại biểu Trịnh Xuân An (Đồng Nai) đặt vấn đề khó khăn đối với
    các doanh nghiệp nội trong giai đoạn hiện nay. 9 tháng đầu năm, ông An cho biết
    91.000 doanh nghiệp đã rút lui khỏi thị trường. Số này chủ yếu là doanh nghiệp
    nhỏ, lĩnh vực thương mại, dịch vụ.

    Ông đề nghị Bộ trưởng đánh giá kỹ đối với các chính sách hỗ
    trợ khó khăn cho doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp nhỏ và vừa. Ông cũng nhấn
    mạnh vai trò của các ngân hàng trong gói hỗ trợ, cần điều chỉnh mức lãi suất hợp
    lý. Nếu số doanh nghiệp này không hồi phục kịp thời, ông tin rằng mức tăng trưởng
    6,5% GDP sẽ rất khó khăn.

    Thừa nhận thực trạng mà địa biểu An nêu, Bộ trưởng Nguyễn
    Chí Dũng cho biết vừa qua các chính sách hỗ trợ mới chủ yếu hướng tới doanh
    nghiệp khỏe, có doanh thu, có lợi nhuận. Song, doanh nghiệp yếu, bị mất doanh
    thu thì chưa được quan tâm, hỗ trợ đúng mức.

    Các doanh nghiệp nhỏ chưa được hỗ trợ trực tiếp bằng các
    chính sách tài khóa, mới chủ yếu là chính sách chung. “Chúng tôi lưu ý vấn đề
    này để tham mưu Chính phủ có chính sách cần thiết hỗ trợ doanh nghiệp khó khăn
    mà không có doanh thu, không có lợi nhuận”, ông Dũng nói.

    Thu tuong se tra loi chat van dai bieu Quoc hoi anh 5
  • Chương trình phục hồi kinh tế phải mạnh dạn hơn

    Trả lời câu hỏi của đại biểu Quốc hội Nguyễn Cao Sơn (Hòa
    Bình) về việc xây dựng kịch bản để ứng phó với rủi ro, đảm bảo các cân đối lớn
    của nền kinh tế. Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng cho biết Bộ KHĐT tiếp cận theo 2 kịch
    bản là không có chương trình phục hồi hoặc có chương trình phục hồi. Từ đó xác
    định mức nợ công, bội chi, lạm phát với từng kịch bản.

    Hiện Bộ KHĐT đang cùng Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước thực
    hiện chỉ đạo của Thủ tướng và Chủ tịch Quốc hội tính toán về việc sử dụng các
    công cụ về chính sách tài khóa, tiền tệ, cũng như khả năng phân bổ, sử dụng và
    hấp thụ của nền kinh tế.

    “Về quan điểm, chúng tôi cho rằng phải mạnh dạn hơn để phát
    triển kinh tế, đảm bảo phục hồi phát triển kinh tế, đặc biệt là sự phục hồi của
    các doanh nghiệp. Bên cạnh đó, vẫn phải đảm bảo tăng trưởng quy mô GDP của nền
    kinh tế, tăng thu ngân sách, tạo nhiều việc làm cho xã hội nhưng vẫn đảm bảo an
    toàn về nợ công và bội chi ngân sách”, ông nói.

    Ông cũng nhấn mạnh công cụ quan trọng nhất là phải theo dõi
    chặt chẽ diễn biến của giá cả, nợ xấu… điều chỉnh điều hành linh hoạt cung tiền
    để giảm áp lực lạm phát. Bảo đảm nguồn cung nguyên nhiên vật liệu, đầu tư công,
    đảm bảo hiệu quả mang tính dẫn dắt nguồn vốn ngoài Nhà nước cùng tham gia.

    Thu tuong se tra loi chat van dai bieu Quoc hoi anh 6
  • Chương trình phục hồi kinh tế sẽ tính đến khả năng trả nợ

    Trả lời câu hỏi của đại biểu Nguyễn Thị Việt Nga (Hải Dương)
    về cách tiếp cận xây dựng chương trình khôi phục nền kinh tế sau đại dịch, Bộ trưởng Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng
    nêu 7 định hướng lớn.

    Trước hết là tiếp cận theo diễn biến của tình hình dịch bệnh,
    tiến độ tiêm vaccine và khả năng cung ứng thuốc điều trị khi chuyển sang trạng
    thái bình thường mới là thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch
    Covid-19. Từ đó chủ động xây dựng phương án và kịch bản để đối phó.

    Hai là xây dựng chính sách theo hướng mở để có thể điều chỉnh
    linh hoạt, phù hợp với nhu cầu thực tế của các đối tượng cần hỗ trợ trong từng
    thời gian cụ thể.

    Ba là vừa hỗ trợ phục hồi nhanh trong ngắn hạn vừa lồng ghép
    với chiến lược, kế hoạch 5 năm trong dài hạn.

    Bốn là các chính sách phải bảo đảm kinh tế vĩ mô và các cân
    đối lớn của nền kinh tế như an toàn tài chính quốc gia, hoạt động của các tổ chức
    tín dụng và các chỉ tiêu về nợ công, lạm phát.

    Năm là các chính sách này hướng tới tác động cả về phía cung
    và phía cầu, cả về kinh tế và an sinh xã hội, lao động việc làm và phải có trọng
    tâm trọng điểm.

    Sáu là phù hợp với khả năng huy động và trả nợ.

    Cuối cùng là có nhóm giải pháp kiểm soát, giám sát chặt chẽ
    trong việc thực hiện để đạt các mục tiêu đề ra.

    Thu tuong se tra loi chat van dai bieu Quoc hoi anh 7
  • Không nới bội chi và nợ công khó tăng trưởng

    Cũng trong phiên chiều 11/11, Bộ trưởng KHĐT Nguyễn Chí Dũng cho rằng nếu Chính phủ hỗ trợ bằng tiền mặt, tung tiền ra thị trường, cấp tiền cho người dân thì rủi ro, nguy cơ lớn là tăng lạm phát.

    Ông cũng thể hiện quan điểm ủng hộ nới bội chi và nợ công trong khoảng có thể kiểm soát được vì nếu không nới thì rất khó có điều kiện để tăng trưởng.

    “Không tăng trưởng thì không thể thực hiện các mục tiêu đề ra như kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội 2021-2025, chiến lược 2021-2030, khát vọng đến năm 2045 là nước phát triển”, ông Dũng nói.

    Cũng từ đó, ông cho rằng Việt Nam có thể bỏ hết các cơ hội từ Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, từ thời kỳ “dân số vàng” hay từ các hiệp định thương mại tự do, lỡ nhịp cuộc chơi và tụt hậu.

    Ông đề nghị nghiên cứu nới bội chi và nợ công để thúc đẩy quy mô nền kinh tế lớn lên, khi đó tự khắc bội chi và nợ công sẽ giảm xuống, có thể cao hơn số cũ một chút nhưng có thể chấp nhận được. Bộ trưởng KHĐT nhắc lại nếu không nới nợ công và bội chi sẽ không có đầu tư, không có phát triển.

    Thu tuong se tra loi chat van dai bieu Quoc hoi anh 8
  • Trình Quốc hội chương trình phục hồi kinh tế vào kỳ họp cuối năm

    Tại phiên chất vấn chiều 11/11, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng cho biết Bộ KHĐT đang nghiên cứu tham mưu Chính phủ xây dựng chương trình phục hồi phát triển kinh tế, xã hội để trình Quốc hội trong kỳ họp tới.

    “Đây là một vấn đề lớn, phức tạp, quan trọng của đất nước, tác động toàn bộ tới nền kinh tế”, ông Dũng nhấn mạnh.

    Chương trình sẽ đảm bảo chủ động sản xuất kinh doanh cho doanh nghiệp, đảm bảo tăng trưởng 2021-2025 là 6,5-7%. Ông Dũng nói và cho biết dự kiến Chính phủ sẽ trình Quốc hội về chương trình phục hồi kinh tế vào kỳ họp cuối năm. Chương trình dự kiến kéo dài trong 2 năm (2022-2023).

Nguồn: News.zing.vn