
Thống đốc Nguyễn Thị Hồng cho rằng phải đánh giá hoạt động tiền tệ của ngân hàng và kinh tế vĩ mô để xác định dư địa giảm lãi suất. Bà bày tỏ lo ngại về rủi ro lạm phát năm 2022.
-
Chưa nên đặt vấn đề sửa Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa
Đại biểu Nguyễn Văn Thân (Thái Bình) hỏi suy nghĩ của Bộ trưởng
về những quy định không còn phù hợp trong Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa
cũng như việc kéo dài thời hạn giảm 30% thuế thu nhập cho doanh nghiệp nhỏ và vừa
đến năm 2023.Trả lời, Bộ trưởng KHĐT Nguyễn Chí Dũng chia sẻ Luật Hỗ trợ
doanh nghiệp nhỏ và vừa rất quan trọng nhưng mới ban hành, Chính phủ mới ban
hành Nghị định 80 để hướng dẫn thực hiện các chương trình hỗ trợ doanh nghiệp
trong luật này. Hiện nay, các quy định liên quan đang được triển khai thực hiện,
còn vấn đề gì cần triển khai để hỗ trợ doanh nghiệp thì Chính phủ chỉ đạo rà
soát, nghiên cứu để bổ sung vào Nghị định 80.“Tôi nghĩ thời gian tới chúng ta cần tập trung triển khai thực
hiện hiệu quả Nghị định 80, hỗ trợ cho các cụm liên kết ngành, chuyển đổi số
cho doanh nghiệp… là những thứ cần làm ngay, còn đặt vấn đề sửa luật thì chưa
nên. Chúng ta sẽ chậm lại để có đánh giá, tổng kết sau”, ông Dũng nói. -
Có thể phát hành trái phiếu để huy động 180.000 tỷ trong dân
Trả lời một số câu hỏi về chính sách tài khóa trong thời
gian tới, Bộ trưởng Tài chính Hồ Đức Phớc cho rằng sẽ áp dụng linh hoạt các
chính sách về thuế, thu chi ngân sách đảm bảo cho nền kinh tế phát triển nhanh,
bền vững.Đối với chính sách thuế, Bộ trưởng Tài chính đề nghị Quốc hội,
Chính phủ tiếp tục áp dụng giãn, hoãn thuế, phí, giảm thuế đối với giá xăng dầu
lĩnh vực hàng không. Ngoài ra, thuế VAT, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế các hộ
sản xuất kinh doanh; giãn khoản thuế cho hộ, doanh nghiệp chậm nộp khi làm ăn
thua lỗ.Bên cạnh đó, ông Phớc cho biết Bộ sẽ tập trung thu trên nền
tảng số, sàn thương mại điện tử, phát hành hóa đơn điện tử để tránh hoàn thuế,
trốn thuế.Ông cũng cho biết đến nay, nợ công của nước ta là 56,8%, vẫn
dưới 60% nhưng vượt ngưỡng cảnh báo (55%). Dư nợ Chính phủ là 51,8%, như vậy
năm 2021 nợ công khoảng 3 triệu 750 tỷ đồng. Bộ trưởng Tài chính cho biết ông ủng
hộ các gói kích cầu, song các gói này phải phát huy hiệu quả để tăng thu ngân
sách mà không tăng bội chi ngân sách.Ông cho biết đã tính đến việc huy động nguồn lực cho chương
trình phục hồi kinh tế. Trong đó có việc phát hành trái phiếu Chính phủ để huy
động tiền trong dân với số tiền khoảng 180.000 tỷ trong 2 năm.Song, ông cũng lưu ý khi nền kinh tế có nguồn tiền rồi, liệu
có hấp thụ được tốt không và hấp thụ ở những lĩnh vực nào, ông cho rằng nên tập
trung vào các dự án đầu tư công, công trình trọng điểm, những lĩnh vực kinh tế
tạo đột phá để tăng trưởng. Ông cho rằng nên sớm lập các dự án để có thể sử dụng
hiệu quả nguồn tiền trong các gói kích cầu.Về chi ngân sách, ông Phớc cho rằng trước mắt cần tiết kiệm
chi thường xuyên mà chuyển sang chi đầu tư phát triển. Ông cho biết đã cắt giảm
được 10% chi thường xuyên, thời gian tới Bộ đề nghị cắt giảm tiếp 10% nữa để đầu
tư và chống dịch. -
Còn dư địa để giảm lãi suất?
Phát biểu trước Quốc hội, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn
Thị Hồng cho biết đại dịch Covid-19 đã tác động nghiệm trọng đến tình hình hoạt
động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp và người dân.Từ đầu năm 2020 khi dịch bệnh xảy ra, trong tổ chức điều
hành về lãi suất, NHNN đã 3 lần giảm lãi suất điều hành với tổng mức giảm
1,5-2%/năm. Đây là mức giảm sâu so với các nước trong khu vực.Bên cạnh đó, NHNN cũng đã chỉ đạo và kêu gọi các tổ chức tín
dụng thực hiện giảm lãi suất và mặt bằng đã giảm khoảng 1,66%/năm so với trước
dịch.Thống đốc NHNN cho biết thêm từ khi có dịch Covid-19 đến
nay, các tổ chức tín dụng đã giảm khoảng 30.000 tỷ đồng tiền lãi để hỗ trợ người
dân, doanh nghiệp và sẽ tiếp tục thực hiện giảm từ nay cho đến cuối năm. Ngoài
ra, hệ thống ngân hàng đã giảm hơn 2.000 tỷ đồng tiền phí cho các khách hàng.“Thông qua các chính sách giảm lãi suất, phí này đã giảm được
chi phí đầu vào của các doanh nghiệp và người dân”, Thống đốc Nguyễn Thị Hồng
chia sẻ.Lãnh đạo NHNN cho biết nhiệm vụ của hoạt động quản lý tiền tệ
là đảm bảo điều hành của ngân hàng trung ương, góp phần kiểm soát lạm phát và ổn
định kinh tế vĩ mô, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế, nhưng không chủ quan với lạm
phát và đảm bảo vai trò huyết mạch của nền kinh tế.Theo đó, các TCTD phải vừa hoạt động đảm bảo an toàn, hiệu
quả để sẵn sàng khả năng chi trả cho khách hàng vừa phải hỗ trợ người dân,
doanh nghiệp. Vì vậy, việc xem xét các chính sách, công cụ thời gian tới, NHNN
luôn phải đảm bảo đạt được 2 mục tiêu. Đồng thời, đảm bảo các cân đối lớn của
vĩ mô như nợ công, bội chi ngân sách.Thống đốc cho biết để có thể xác định còn dư địa giảm lãi suất
nữa hay không, qua đánh giá thực trạng về hoạt động tiền tệ của ngân hàng và
kinh tế vĩ mô, NHNN cho rằng mục tiêu kiểm soát lạm phát dưới 4% năm nay có thể
đạt được (lạm phát đến hết tháng 10 là 1,81%). Tuy nhiên, trong năm 2022, rủi
ro lạm phát đang có áp lực lớn.Phân tích rõ hơn, Thống đốc Nguyễn Thị Hồng cho biết các nền
kinh tế thế giới đang gần phục hồi khi chiến lược vaccine bao phủ, điều này dẫn
tới giá cả hàng hóa đang có xu hướng gia tăng, các chỉ số của giá nhiều mặt
hàng hóa như xăng dầu đã tăng 55% so với cuối năm trước. Các nước phát triển
thì lạm phát đã tăng lên mức cao nhất trong lịch sử với Mỹ tăng 5,3% trong
tháng 9.Trong khi đó, nền kinh tế Việt Nam có độ mới cửa lớn với tổng
kim ngạch xuất nhập khẩu đạt trên 200% GDP nên áp lực rủi ro lạm phát nhập khẩu
rất lớn.Về chính sách lãi suất, lãnh đạo NHNN cho biết các ngân hàng
trung ương thế giới đang có xu hướng dừng chính sách nới lỏng tiền tệ. Hiện có
tới 65 lượt tăng lãi suất trên thế giới.Trong khi đó, với thị trường trong nước, nợ xấu của các tổ
chức tín dụng đang gia tăng. Trong thời gian vừa qua, các ngân hàng đã giảm lãi
suất bằng chính nguồn lực tài chính của mình chứ không phải tiền ngân sách, nên
khi nợ xấu gia tăng chắc chắn bản thân các ngân hàng phải sử dụng nguồn lực tự
có để xử lý.“Nếu để tình hình tài chính của các tổ chức tín dụng suy giảm
sẽ ảnh hưởng tới khả năng chi trả và an toàn của hệ thống. Đây là bài học kinh
nghiệm rất lớn từ thời gian trước khi mà tăng trưởng tín dụng cao, thực hiện
các gói hỗ trợ lãi suất năm 2008, không tính toán cẩn thận dẫn đến rủi ro lạm
phát năm 2011, có thời điểm lên tới 18%”, Thống đốc nhấn mạnh.Về phía NHNN, Thống đốc Nguyễn Thị Hồng cho biết trong thời
gian tới, cơ quan quản lý tiền tệ sẽ tiếp tục chỉ đạo hệ thống các tổ chức tín
dụng tiết giảm chi phí hoạt động để tiếp tục giảm lãi suất. Tuy nhiên, vẫn phải
đảm bảo an toàn hoạt động của từng tổ chức tín dụng cũng như toàn hệ thống để
tránh tác động dây chuyền.Đồng thời NHNN sẽ tiếp tục phối hợp với các Bộ Tài chính, Bộ
KHĐT để tính toán gói hỗ trợ lãi suất với quy mô, phạm vi, đối tượng hợp lý
trên cơ sở vẫn đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô và phòng ngừa rủi ro lạm phát cũng
như phòng ngừa rủi ro đối với an toàn hoạt động của hệ thống ngân hàng. -
Sẽ làm đường ven biển Đồng bằng sông Cửu Long giai đoạn 2021-2025
Liên quan đến ý kiến của đại biểu Trần Thị Ngọc Diễm (Sóc
Trăng) về việc đầu tư 2 tỷ USD cho Đồng bằng sông Cửu Long, trong đó có làm đường
ven biển, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng chia sẻ đây là dự án ODA nên chúng ta không
chỉ thực hiện một quy trình, thủ tục theo quy định của luật trong nước mà còn
phụ thuộc quy trình nước ngoài, nên mất thời gian hơn. Song theo ông Dũng, nếu
không làm nhanh theo thủ tục rút gọn hay quy trình đặc biệt thì khó triển khai
trong giai đoạn 2021-2025.“Chúng tôi sẽ nghiên cứu để hài hòa hóa các thủ tục trong nước
nước và nước ngoài để làm sao đảm bảo quy định nhưng rút ngắn thời gian, mục
tiêu là triển khai ngay trong 2021-2025 để giúp Đồng bằng ứng phó với biến đổi
khí hậu”, Bộ trưởng KHĐT cam kết. -
Chậm lập quy hoạch vì lần đầu tiên làm quy hoạch tổng thể
Trả lời câu hỏi của đại biểu Trần Văn Tiến (Vĩnh Phúc) về
công tác lập quy hoạch, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng thừa nhận việc triển khai lập
quy hoạch còn chậm.Giải thích vì nguyên nhân khách quan, ông Dũng cho biết do
chúng ta lần đầu tiên thực hiện theo phương pháp tích hợp, làm quy hoạch tổng
thể. “Trước đây cả nước chưa bao giờ làm quy hoạch tổng thể mà chỉ làm quy hoạch
từng ngành. Cũng vì lần đầu tiên nên năng lực tư vấn và các kiến thức các cơ
quan chưa theo kịp, số lượng nhiều, làm đồng thời trong cùng một thời gian nên
thực hiện còn đang rất khó”, ông Dũng trần tình.Đến nay, ông thông tin đã xây dựng xong khung định hướng quy
hoạch tổng thể quốc gia để tình Thủ tướng; quy hoạch 5 vùng kinh tế còn lại
cũng cơ bản đã xong tới phần nghiên cứu và đang lấy ý kiến hoàn thiện, sẽ trình
Thủ tướng sớm nhất trong tháng 11-12 để các địa phương, bộ ngành dựa trên khung
định hướng này lập quy hoạch của ngành, địa phương mình mà không nhất thiết chờ
xong quy hoạch cấp trên mới lập quy hoạch cấp dưới.Với các quy hoạch ngành, Bộ trưởng KHĐT đã có 19/38 quy hoạch
đã hoàn thành, quy hoạch tỉnh có 20/63 quy hoạch đã hoàn thành.Ông Dũng cho biết Chính phủ và Thủ tướng đã có 2 nghị quyết
đôn đốc yêu cầu tất cả quy hoạch từ quy hoạch quốc gia đến quy hoạch ngành, quy
hoạch tỉnh phải hoàn thành trước 31/12.“Chúng tôi đang đôn đốc các địa phương, bộ ngành để đảm bảo
tiến độ trong thời gian tới”, ông Dũng nói. -
Tại sao không hỗ trợ dân trực tiếp bằng tiền mặt?
Trong phần tranh luận, đại biểu Nguyễn Văn Hiển (Lâm Đồng)
đưa ý kiến đồng tình với nhiều quan điểm Bộ trưởng KHĐT đã nêu về kế hoạch xây
dựng gói hỗ trợ phục hồi kinh tế. Tuy nhiên, đại biểu cho biết câu hỏi của ông
là theo các chuyên gia, để hỗ trợ an sinh xã hội và phục hồi kinh tế sau đại dịch,
Việt Nam một gói hỗ trợ tài khóa đủ lớn quy mô khoảng 3-4% GDP, trong đó phải
có gói hỗ trợ trực tiếp bằng tiền mặt, chứ không phải cần gói hỗ trợ 3-4% GDP bằng
tiền mặt.Vấn đề đặt ra là nếu làm như vậy sẽ dẫn đến thâm hụt ngân
sách và sẽ phải vượt bội chi ngân sách, tăng nợ công, nợ Chính phủ. Nhưng nếu
gói hỗ trợ không đủ lớn sẽ khiến nền kinh tế chậm phục hồi so với các nước và
kéo theo nhiều hệ lụy.Ông cũng đánh giá trong báo cáo kinh tế xã hội của Chính phủ
hiện nay cũng không thể hiện rõ một kế hoạch tổng thể và một mức chi cho gói hỗ
trợ tài khóa, tiền tệ để phục hồi nền kinh tế. Trên từng lĩnh vực thì đã có báo
cáo về các gói hỗ trợ này tuy nhiên còn rất riêng lẻ, đại biểu Hiển cho biết
mong muốn ở đây là cần có một kế hoạch tổng thể, thống kê, tổng hợp và dự báo đầy
đủ.Ngoài nguồn lực của ngân sách thì cần có chương trình để huy
động cả nguồn lực bên ngoài ngân sách để phục hồi và phát triển kinh tế. Ông
Nguyễn Văn Hiển đề nghị Bộ KHĐT và Chính phủ làm rõ các vấn đề này.Trả lời phần tranh luận trên, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng cho
biết với các gói hỗ trợ phục hồi kinh tế, việc quan trọng đặt ra nếu không nới
trần nợ công và trần bội chi thì sẽ không có nguồn lực để phục hồi và phát triển.Tuy nhiên, nếu nới các chỉ tiêu này mà thực hiện không hiệu
quả sẽ dẫn tới hệ lụy cho nền kinh tế, mất cân đối vĩ mô, cân đối lớn.“Vậy nới bao nhiêu là đủ, 1-2% hay nhiều hơn, nới ra rồi thì
huy động bằng cách nào, xử lý vào đâu cho hiệu quả”, Bộ trưởng KHĐT chia sẻ.Theo ông Dũng, hiện nay các vấn đề này đang được các bộ,
ngành tính toán và chưa đưa ra kịch bản 1 cách cụ thể, Các kịch bản đã được xây
dựng nhưng tạm thời chưa báo cáo Quốc hội tại kỳ họp này mà phải cần thời gian
để tính toán kỹ lưỡng và báo cáo các cấp thẩm quyền trước khi đưa ra trình Quốc
hội.Tuy nhiên, Bộ trưởng KHĐT nhấn mạnh sẽ lưu ý các vấn đề đại
biểu Hiển chia sẻ trong quá trình xây dựng chương trình. -
Tranh luận về tăng bội chi và nợ công
Tranh luận với Bộ trưởng KHĐT về khả năng tăng bội chi và nợ
công, đại biểu Lê Minh Nam (Hậu Giang) cho rằng chúng ta cần đánh giá kỹ lưỡng,
thận trọng về nhu cầu, khả năng hấp thụ vốn đầu tư công và các yếu tố liên quan
trước khi quyết định.Ông phân tích về nợ công cuối năm 2021 ước tính 44% GDP – ở
mức thấp, do từ năm 2021 ta điều chỉnh tăng GDP theo cách tính mới. Do đó giá
trị tuyệt đối của nợ công không giảm nhưng mẫu số GDP tăng nên tỷ lệ này thấp.
“Việc này tạo cảm giác còn dư địa tăng nợ công nhưng thực chất không hoàn toàn
như vậy”, ông Nam nói.Ông dẫn lời Bộ trưởng Tài chính trong giai đoạn 2016-2020, tổng
vay của Chính phủ là 1,852 triệu tỷ đồng; giai đoạn 2021-2025 dự kiến vay 3,068
triểu tỷ nên nợ công dự kiến năm 2025 khoảng 45,6% theo GDP mới, còn nếu tính
theo GDP cũ khoảng 57,9% – tức đã vượt ngưỡng 55%.“Vì vậy nếu phải ưu tiên kiểm soát nợ công để đảm bảo an ninh
tài chính và các cân đối vĩ mô thì phải thận trọng”, ông Nam phân tích.Về bội chi, ông Nam cho biết Chính phủ đặt mục tiêu giảm dần
thâm hụt ngân sách giai đoạn 2021-2025 khoảng 3,7% GDP, như vậy, nếu tăng bội
chi 1% sẽ tăng gánh nặng giảm thấp tỷ lệ này trong những năm tiếp theo nên phải
thận trọng tỷ lệ nợ công và bội chi để hạn chế rủi ro.“Trước khi tính đến kịch bản tăng nợ công và bội chi nên
tính đến sử dụng các gói kích cầu, chính sách tài khóa, tiền tệ hợp lý để thúc
đẩy phát triển kinh tế, tăng thu ngân sách, giảm bội chi và tăng cường quản trị
nguồn lực hiện có, đặc biệt đẩy nhanh tiến độ giải ngân vốn đầu tư công”, ông
Nam nêu quan điểm.Chia sẻ với quan điểm của đại biểu, Bộ trưởng Nguyễn Chí
Dũng khẳng định việc xây dựng chương trình phuc hồi kinh tế đã được tính toán
thận trọng, trong đó có lưu ý vấn đề tăng bội chi và nợ công cũng như khả năng
hấp thụ của nền kinh tế để không phá vỡ an toàn tài chính chung.Ông nhấn mạnh đây là vấn đề quan trọng để đảm bảo kinh tế vĩ
mô và các cân đối lớn nên phải tính toán thận trọng đảm bảo phục hồi, phát triển
nền kinh tế và cân nhắc vấn đề an toàn tài chính. Cụ thể trong vấn đề này, ông
Dũng cho biết sẽ được Bộ trưởng Tài chính và Thống đốc Ngân hàng Nhà nước chia
sẻ sau.Riêng về đầu tư công, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng cho biết đã
nói rất nhiều, đây là vấn đề nan giải mà chưa giải quyết được triệt để. “Giải
pháp đột phá để giải ngân cao hơn trong năm tới rất quan trọng, nếu làm không tốt
thì kể cả gói hỗ trợ có tập trung cho đầu tư công cũng rất khó hấp thụ và giải
ngân được”, ông Dũng nói. -
Quan tâm hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa
Đại biểu Trịnh Xuân An (Đồng Nai) đặt vấn đề khó khăn đối với
các doanh nghiệp nội trong giai đoạn hiện nay. 9 tháng đầu năm, ông An cho biết
91.000 doanh nghiệp đã rút lui khỏi thị trường. Số này chủ yếu là doanh nghiệp
nhỏ, lĩnh vực thương mại, dịch vụ.Ông đề nghị Bộ trưởng đánh giá kỹ đối với các chính sách hỗ
trợ khó khăn cho doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp nhỏ và vừa. Ông cũng nhấn
mạnh vai trò của các ngân hàng trong gói hỗ trợ, cần điều chỉnh mức lãi suất hợp
lý. Nếu số doanh nghiệp này không hồi phục kịp thời, ông tin rằng mức tăng trưởng
6,5% GDP sẽ rất khó khăn.Thừa nhận thực trạng mà địa biểu An nêu, Bộ trưởng Nguyễn
Chí Dũng cho biết vừa qua các chính sách hỗ trợ mới chủ yếu hướng tới doanh
nghiệp khỏe, có doanh thu, có lợi nhuận. Song, doanh nghiệp yếu, bị mất doanh
thu thì chưa được quan tâm, hỗ trợ đúng mức.Các doanh nghiệp nhỏ chưa được hỗ trợ trực tiếp bằng các
chính sách tài khóa, mới chủ yếu là chính sách chung. “Chúng tôi lưu ý vấn đề
này để tham mưu Chính phủ có chính sách cần thiết hỗ trợ doanh nghiệp khó khăn
mà không có doanh thu, không có lợi nhuận”, ông Dũng nói. -
Chương trình phục hồi kinh tế phải mạnh dạn hơn
Trả lời câu hỏi của đại biểu Quốc hội Nguyễn Cao Sơn (Hòa
Bình) về việc xây dựng kịch bản để ứng phó với rủi ro, đảm bảo các cân đối lớn
của nền kinh tế. Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng cho biết Bộ KHĐT tiếp cận theo 2 kịch
bản là không có chương trình phục hồi hoặc có chương trình phục hồi. Từ đó xác
định mức nợ công, bội chi, lạm phát với từng kịch bản.Hiện Bộ KHĐT đang cùng Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước thực
hiện chỉ đạo của Thủ tướng và Chủ tịch Quốc hội tính toán về việc sử dụng các
công cụ về chính sách tài khóa, tiền tệ, cũng như khả năng phân bổ, sử dụng và
hấp thụ của nền kinh tế.“Về quan điểm, chúng tôi cho rằng phải mạnh dạn hơn để phát
triển kinh tế, đảm bảo phục hồi phát triển kinh tế, đặc biệt là sự phục hồi của
các doanh nghiệp. Bên cạnh đó, vẫn phải đảm bảo tăng trưởng quy mô GDP của nền
kinh tế, tăng thu ngân sách, tạo nhiều việc làm cho xã hội nhưng vẫn đảm bảo an
toàn về nợ công và bội chi ngân sách”, ông nói.Ông cũng nhấn mạnh công cụ quan trọng nhất là phải theo dõi
chặt chẽ diễn biến của giá cả, nợ xấu… điều chỉnh điều hành linh hoạt cung tiền
để giảm áp lực lạm phát. Bảo đảm nguồn cung nguyên nhiên vật liệu, đầu tư công,
đảm bảo hiệu quả mang tính dẫn dắt nguồn vốn ngoài Nhà nước cùng tham gia. -
Chương trình phục hồi kinh tế sẽ tính đến khả năng trả nợ
Trả lời câu hỏi của đại biểu Nguyễn Thị Việt Nga (Hải Dương)
về cách tiếp cận xây dựng chương trình khôi phục nền kinh tế sau đại dịch, Bộ trưởng Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng
nêu 7 định hướng lớn.Trước hết là tiếp cận theo diễn biến của tình hình dịch bệnh,
tiến độ tiêm vaccine và khả năng cung ứng thuốc điều trị khi chuyển sang trạng
thái bình thường mới là thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch
Covid-19. Từ đó chủ động xây dựng phương án và kịch bản để đối phó.Hai là xây dựng chính sách theo hướng mở để có thể điều chỉnh
linh hoạt, phù hợp với nhu cầu thực tế của các đối tượng cần hỗ trợ trong từng
thời gian cụ thể.Ba là vừa hỗ trợ phục hồi nhanh trong ngắn hạn vừa lồng ghép
với chiến lược, kế hoạch 5 năm trong dài hạn.Bốn là các chính sách phải bảo đảm kinh tế vĩ mô và các cân
đối lớn của nền kinh tế như an toàn tài chính quốc gia, hoạt động của các tổ chức
tín dụng và các chỉ tiêu về nợ công, lạm phát.Năm là các chính sách này hướng tới tác động cả về phía cung
và phía cầu, cả về kinh tế và an sinh xã hội, lao động việc làm và phải có trọng
tâm trọng điểm.Sáu là phù hợp với khả năng huy động và trả nợ.
Cuối cùng là có nhóm giải pháp kiểm soát, giám sát chặt chẽ
trong việc thực hiện để đạt các mục tiêu đề ra. -
Không nới bội chi và nợ công khó tăng trưởng
Cũng trong phiên chiều 11/11, Bộ trưởng KHĐT Nguyễn Chí Dũng cho rằng nếu Chính phủ hỗ trợ bằng tiền mặt, tung tiền ra thị trường, cấp tiền cho người dân thì rủi ro, nguy cơ lớn là tăng lạm phát.
Ông cũng thể hiện quan điểm ủng hộ nới bội chi và nợ công trong khoảng có thể kiểm soát được vì nếu không nới thì rất khó có điều kiện để tăng trưởng.
“Không tăng trưởng thì không thể thực hiện các mục tiêu đề ra như kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội 2021-2025, chiến lược 2021-2030, khát vọng đến năm 2045 là nước phát triển”, ông Dũng nói.
Cũng từ đó, ông cho rằng Việt Nam có thể bỏ hết các cơ hội từ Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, từ thời kỳ “dân số vàng” hay từ các hiệp định thương mại tự do, lỡ nhịp cuộc chơi và tụt hậu.
Ông đề nghị nghiên cứu nới bội chi và nợ công để thúc đẩy quy mô nền kinh tế lớn lên, khi đó tự khắc bội chi và nợ công sẽ giảm xuống, có thể cao hơn số cũ một chút nhưng có thể chấp nhận được. Bộ trưởng KHĐT nhắc lại nếu không nới nợ công và bội chi sẽ không có đầu tư, không có phát triển.
-
Trình Quốc hội chương trình phục hồi kinh tế vào kỳ họp cuối năm
Tại phiên chất vấn chiều 11/11, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng cho biết Bộ KHĐT đang nghiên cứu tham mưu Chính phủ xây dựng chương trình phục hồi phát triển kinh tế, xã hội để trình Quốc hội trong kỳ họp tới.
“Đây là một vấn đề lớn, phức tạp, quan trọng của đất nước, tác động toàn bộ tới nền kinh tế”, ông Dũng nhấn mạnh.
Chương trình sẽ đảm bảo chủ động sản xuất kinh doanh cho doanh nghiệp, đảm bảo tăng trưởng 2021-2025 là 6,5-7%. Ông Dũng nói và cho biết dự kiến Chính phủ sẽ trình Quốc hội về chương trình phục hồi kinh tế vào kỳ họp cuối năm. Chương trình dự kiến kéo dài trong 2 năm (2022-2023).
Nguồn: News.zing.vn