Cầu và đường Inca

0
Cầu và đường Inca

Hệ thống đường sá Inca là một trong những kỳ công nổi tiếng nhất xưa nay ở Tân thế giới, sánh với hệ thống đường sá La Mã ở Cựu lục địa. Hệ thống đường dài 25.000 km nối liền Cuzco, thủ đô Inca nằm trên cao của dãy Andes phía nam Peru, đến các lãnh thổ trải rộng bao la của đế quốc.

a

Hệ thống cầu đường Inca.

Pedro de Cieza de Leon, một chiến binh Tây Ban Nha trẻ tuổi, đã viết như sau khi đi trên con đường quốc lộ chính trong những năm 1540: “Theo ký ức của dân chúng, tôi không tin việc ghi chép về một con đường khác có thể sánh với con đường này, chạy xuyên qua các thung lũng sâu rồi đến các đỉnh núi cao, len lỏi qua các đống tuyết, đầm lầy, đá chưa hề khai thác, dọc theo các sông thay đổi dòng chảy bất thường”.

Hai tuyến đường hợp thành xương sống của hệ thống: Qhapaq Nan (Con đường phú quý) chạy từ Cuzco đến Quito (ngày nay thuộc Ecuador) và một đường ven biển chạy song song, được nối với nhau bằng hàng chục đường ngang, các đoạn đường nhánh vươn rộng về tận phía Nam như Santiago, ở Chile và từ phía đông đến tận Tây bắc Argentina. Tuyến cao nguyên đến tận phía bắc thuộc vùng biên giới Colombia – Ecuador ngày nay và một con đường Chinh phục chạy từ trung tâm hành chính Húanuco Pampa ở phía bắc miền trung Peru đến Chacha poyas, trên các sườn núi phía đông dãy Andes. Một số đường, trong số các tuyến cao nhất, dẫn đến các điện thờ trên đỉnh núi, cao hơn 5.000 m so với mực nước biển.

Người Tây Ban Nha, những người đầu tiên đặt chân đến đây, đặc biệt chú ý tới Qhapaq Nan. Đây là con đường mang nhiều nét đặc trưng của văn hoá Inca. Các đường nhánh dài được xây dựng quy mô lớn, được tô điểm bằng đá lát cống nước, kênh thoát nước và đường đắp đất nâng cao nền đường phía trên vùng đất đầm lầy. Các mỏ đá hay vỉa đá địa phương gần con đường dùng làm nguồn cung cấp đá xây dựng. Các đoạn dốc đứng được xử lý bằng một loạt bậc thang xây bằng đá khai thác hay đá gọt đẽo. (Do các dân tộc trên dãy Andes không có xe, bậc thang là giải pháp đơn giản đối với các con dốc đặc biệt dựng đứng). Chiều rộng tuyến đường thay đổi theo địa hình. Ở phía nam Húanuco Pampa, các nhà nghiên cứu thấy có một đoạn đường lót đá dài 20 km , rộng 16 m, chạy xuyên qua nơi hẻo lánh chưa có người ở hay qua các đồng bằng trên cao.

a

Một con đường còn lại ở Cuzco.

Trong vùng rừng rậm trên núi cao, người Inca làm các tuyến đường trải sỏi, bám vào vách núi, các bậc thang thường khoét vào đá chưa khai thác. Vì dốc dựng đứng và địa hình gồ ghề đã nên người ta phải thiết kế những con đường hẹp, chỉ rộng từ 1 đến 3 m. Ở vùng sa mạc hiếm khi mưa, đường không hề lót đá, nói chung được xây dựng không quy mô như cung đường trên cao nguyên. Thế nhưng, một số đoạn ven biển lại xử lý bằng hàng loạt bậc thang khi đường đi vào các vùng đồi nằm dưới thấp, chiều rộng dao động từ 3 đến 10 m, khi đường băng qua vùng sa mạc, chỉ có các trụ đá hay gỗ dùng làm trụ đánh dấu. Ở đoạn đường qua thung lũng ẩm ướt, người Inca xây các bức tường bằng gạch sống hay tapia (đất nện) để ngăn không cho người và đoàn lạc đà IIama đi chệch giẫm lên cánh đồng ven đường.

Vượt sông

Người Inca không hề nghĩ đến mái vòm. Thay vào đó, họ nghĩ ra cách làm cầu treo rất khéo để băng qua các khoảng cách rộng. Họ dùng dây thừng bện võng xuống ở giữa, căng ra bằng các trụ đá. 

Một vài cầu kiểu Inca hiện nay vẫn còn ở Huninchir, tây nam Cuzco. Khoảng 500 người từ bốn cộng đồng sống rải rác quanh khu vực này bỏ ra ba ngày mỗi năm để làm lại cầu treo. Trước khi làm cầu, mỗi hộ phải thắt một đoạn dây thừng, gọi là k’eswa, từ cuống hoa khô của loại cỏ q’oya, rồi lấy tên này đặt cho cầu: K’eswa Chaka, có nghĩa Cầu dây thừng. Phụ nữ thắt cuống hoa để có sợi dây thừng dày cỡ ngón tay, dài 50 m. Ngày đầu tiên, dân làng tập hợp đặt dây thừng ở hai bên sông. Nam giới ở mỗi cộng đồng kéo dài dây thừng dọc theo đường thành ba nhóm, mỗi nhóm 24 sợi, sau đó thắt những sợi dây này thành dây cáp thật chặt rồi bện lại với nhau. Sau khi bện xong, dây thừng có đường kính khoảng 20 cm, cần đến tám người khoẻ mạnh mới vác nổi từng đoạn đến địa điểm làm cầu.

Cáp bện được những người đàn ông mang đến hẻm núi buộc vào hòn đá dẫn, neo vào các dầm phía sau trụ đá. Sau đó họ chia thành hai nhóm, giữa tiếng reo hò, căng dây, quấn đoạn dây quanh các dầm đá ở hai bên sông. Vào cuối ngày thứ hai, làm tiếp phần sàn cầu: bốn sợi dây bện nặng nề căng thật thẳng băng qua vực, hai sợi cáp bện nhỏ hơn dùng làm tay vịn. Vào ngày cuối cùng, chaka-kamayoq, tức thợ cả xây cầu, giạng chân qua bốn sợi cáp bện, duỗi ra hết sức mình rồi buộc một dụng cụ bằng gỗ băng qua phía dưới cầu để các dây không chập vào nhau, sau đó mới buộc các dây lại. Thợ cả qua cầu, có một người thứ hai theo sau, buộc dây cáp làm tay vịn với phần sàn cầu bằng một mũi khâu đơn giản. Kế đến họ lót sàn cầu bằng các tấm chiếu, thế là cầu hoàn tất.

Vào thời đại Inca, cầu ở Huinchiri là chỗ vượt qua vùng hẻo lánh nằm trên sông nhánh phía thượng lưu của sông Apurimac, quy mô nhỏ so với các cầu treo Inca đồ sộ. Dân làng áp dụng công nghệ và nguyên tắc tổ chức lao động tương tự như tổ tiên Inca, không hề chịu ảnh hưởng châu Âu.

Từ Huinchiri xuôi về hạ lưu là địa điểm xây dựng cầu treo nổi tiếng nhất. Cầu bắc qua hẻm núi Apurimac, phía tây Cuzco, được bảo quản chu đáo đến thế kỷ 19. Cầu được xây dựng bằng năm sợi dây cáp dày 10 cm bằng cabuya bện, một loại cây giống như cây thùa, có sàn cầu làm bằng những cây que, gậy nhỏ buộc chặt với các dây làm bằng da sống. Dây thừng bện neo với các trụ đá.

Người Inca cũng làm nhiều cầu khác bằng đá hay gỗ nhưng không lớn. Thỉnh thoảng, họ cũng dùng phà để vượt sông. Nhưng chính cầu treo và mối quan hệ mật thiết với oroyas – một giỏ treo lủng lẳng từ một dây cáp nối với cả hai bờ sông – mới tạo ấn tượng nhất trong công nghệ xây cầu của người Inca.

(Theo 70 kỳ quan thế giới cổ đại)

Nguồn: Vnexpress.net