Điểm đến du lịch

Những địa điểm du lịch hấp hẫn những địa điểm du lịch trong nước, địa điểm du lịch nước ngoài được chúng tôi tổng hợp và đưa tin đến Quý bạn đọc đam mê du lịch có cái nhìn tổng quan nhất về các địa danh du lịch để quyết định cho mình cho những chuyến du lịch ý nghĩa nhất

Linh thiêng lễ cúng bản của người Dao đỏ

Năm nào cũng vậy, người Dao đỏ ở thôn Sả Séng, xã Tả Phìn (huyện Sa Pa, tỉnh Lào Cai) cũng tổ chức một nghi lễ quan trọng mang tính cộng đồng rất cao. Lễ cúng được tổ chức đúng ngày Thìn, tháng 5 âm lịch.

Đây là một nghi lễ truyền thống có sự tham gia của toàn thể người dân trong thôn, sau khi bà con đã cấy xong vụ mùa.

Ngay từ sáng sớm, bà con đã mổ lợn, gà và mang rượu thịt, cùng các lễ vật đến miếu thờ của thôn để chuẩn bị lễ cúng. Trong lễ cúng có 4 thầy cúng tham gia cúng, trong đó có một ông chủ lễ cúng chính… Nghi lễ tổ chức để cúng thần linh, thổ địa, thần cây, thần núi, thần suối, thần rừng cầu mong cho con người khỏe mạnh, bình an, mùa màng tươi tốt, vật nuôi trong nhà lớn nhanh.

 

Ngày nay, mặc dù không còn nguyên bản lễ cúng như trước nữa, ít nhiều đã có những biến đổi văn hóa trong việc tổ chức cúng lễ, không còn việc phạt vạ do tục “cấm bản” nữa, nhưng đây vẫn được xem như một nét đặc sắc trong sắc màu văn hóa của đồng bào Dao đỏ ở Sả Séng, huyện Sa Pa, Lào Cai.

 

Sau khi hoàn thành các bài cúng theo nghi lễ, dân làng đến bái miếu thờ.

 

Ba thầy cúng phụ trách ba mâm cỗ cúng xua đuổi tà ma ôn dịch

 

 

Nguồn: Vietnamtourism.gov.vn

Dã ngoại giữa lòng hồ Trị An

Cùng với đảo Đồng Trường, đảo Ó được ví như một viên ngọc hoang dã nằm giữa lòng hồ thủy điện Trị An thơ mộng.

Ở đó, ngoài cảm giác của một thế giới thiên nhiên hoang dã biệt lập với cuộc sống xô bồ bên ngoài, du khách còn được đắm mình trong cảm giác của những làn nước trong vắt mát lạnh, xa xa là những dãy núi chập chùng của vườn quốc gia Nam Cát Tiên huyền thoại.

 

 

Chúng tôi đến đảo Ó (huyện Vĩnh Cửu, Đồng Nai) vào một buổi sáng trời nắng nóng, đặc trưng của những ngày mùa hè phương Nam. Nằm yên bình giữa mặt hồ Trị An mênh mông phẳng lặng, đảo Ó thực sự là một cảnh quan nổi bật của miền Đông Nam bộ bởi chung quanh đây xưa kia vốn chỉ có rừng già. Nhìn từ xa, đảo Ó chỉ như một vệt mờ hiện lên giữa làn nước xanh biếc mùa thủy điện bắt đầu tích nước.

 

Một hòn đảo xanh nổi giữa lòng hồ thủy điện; đó là hình ảnh mà gần nửa thế kỷ trước, người dân địa phương này có nằm mơ cũng không thấy. Một nguồn lợi thủy sản, một bộ lọc không khí làm mát dịu cái nóng như nung của vùng đất đỏ miền Đông, một nguồn điện cho quốc gia và còn là cảnh quan du lịch gần gũi với thiên nhiên. Đặc biệt, là được đắm chìm trong màu xanh bất tận của núi rừng, sông nước nơi đây sau những ngày căng thẳng với công việc.

 

Có khá nhiều đường để đến chơi đảo Ó. Nếu sử dụng phương tiện giao thông công cộng, từ Biên Hòa hay TPHCM, có thể đi xe buýt vào tận trung tâm thị trấn Vĩnh An, huyện Vĩnh Cửu. Xe buýt số 12 từ Bến Thành đi Giang Điền, bạn xuống xe ở ngã ba Trị An (Bùi Chu) đi tiếp xe buýt vào Vĩnh An. Từ đó chỉ đi xe ôm chừng hơn 1km đến khu du lịch Đảo Ó – Đồng Trường, nơi có bến thuyền du lịch ra đảo. Nếu có xe riêng, mọi chuyện sẽ dễ dàng, thuận tiện hơn nhiều. Chúng tôi, theo cách của riêng mình, đi từ ngã ba Cây Gáo men theo hương lộ 2 tới bến đò của ngư dân làm nghề đánh cá ở Bến Gỗ trên hồ Trị An để ra đảo.

 

Anh Dũng, một ngư dân chất phác sống nhiều năm quanh khu hồ Trị An vui vẻ nhận lời đưa tôi ra đảo, những ngày này, thời tiết nóng nên khách du lịch tới đảo Ó và đảo Đồng Trường (nằm cạnh đảo Ó) rất đông. Tuy nhiên, phần lớn họ đi theo “tua”, nghĩa là đến khu du lịch Đồng Trường rồi đi ca-nô ra đảo. Sau đó, mọi dịch vụ khác trên đảo đều có hướng dẫn tận tình của công ty du lịch. Tuy nhiên, nếu có điều kiện, thong thả giong thuyền buồm giữa mênh mông sóng nước lòng hồ Trị An để đến với đảo Ó thì thích nhất.

 

Được hình thành từ khi Nhà nước quyết định chặn dòng sông Đồng Nai để hình thành công trình thủy điện Trị An, có sản lượng trung bình hàng năm 1,7 tỉ KWh hòa vào lưới điện quốc gia, khu du lịch đảo Ó – Đồng Trường cũng ra đời. Theo những người dân quanh vùng thì trước kia, đấy là hai quả đồi được người dân trồng chuối và trồng hồ tiêu. Thế nên, khi nơi đây được làm hồ thủy điện thì quả đồi đó trở thành đảo. Và từ đó, một điểm đến thích hợp cho những chuyến dã ngoại cuối tuần, những ngày nghỉ lễ… của người dân Đồng Nai và TPHCM.

 

Ra đảo Ó, hầu hết du khách đều có sự chuẩn bị nước uống và thức ăn nhẹ mang theo. Tuy nhiên, đừng quên một điều là lòng hồ Trị An chính là một nguồn thủy sản dồi dào với nhiều món đặc sản tươi ngon, không nên bỏ qua khi có dịp về đây. Một trong những món ăn được ưa chuộng nhất chính là cá lăng được đánh bắt từ dưới lòng hồ Trị An. Theo những ngư dân sống ở gần Bến Gỗ thì mùa này, khi nước mưa từ thượng nguồn Đồng Nai đổ về nhiều cũng là lúc hồ thủy điện Trị An tích nước khiến lòng hồ dồi dào nguồn tôm cá vô cùng.

 

Trong đó, cá lăng được coi là đặc sản được ưa chuộng nhất ở đây. Những chú cá tươi ngon, béo ngậy còn quẫy đành đạch, có khi nặng tới vài ba ký lô, được đánh bắt dưới lòng hồ lên là bữa ăn không thể ngon hơn trong một chuyến dã ngoại, thám du nơi đây.

 

Cá lăng có thể nấu canh chua, chiên giòn hay kho tộ nhưng không gì bằng việc ngồi dưới những hàng cây tỏa nắng lấp lánh mà thưởng thức món cá lăng nướng muối ớt. Mùi cá thơm lừng, mùi hương thơm của những hàng tràm phảng phất khiến cho ta có cảm giác như thoát được những bon chen vất vả của cuộc sống thường nhật phần nào.

 

Ở khu du lịch Đảo Ó – Đồng Trường nằm bên thị trấn Vĩnh An, nhà hàng luôn sẵn sàng món lẫu cá lăng ngon tuyệt, còn có món tép rang cuốn bánh tráng khá độc đáo. Nhưng đặc biệt hơn cả là món thịt heo rừng nướng. Heo rừng thuần chủng được thả rong trên đảo Đồng Trường, nằm sát đảo Ó. Khách muốn thưởng thức món heo rằng nướng phải đặt trước; có thể ăn ở nhà hàng trong bờ hoặc trên đảo Ó đều thích, nhất là trong những đêm lửa trại trên đảo thì tuyệt vời.

 

Trên đảo cũng có nhà hàng, phòng ngủ và cho thuê lều, võng… ban đêm, điện chạy máy nổ đến 22g, nếu khách có yêu cầu, trả thêm tiền xăng theo giờ, máy điện sẽ chạy tiếp tục theo ý muốn. Nhiều đôi bạn trẻ, nhiều gia đình gồm cả trẻ em, người cao tuổi và nhất là những nhóm học sinh, sinh viên đã đến đây nghỉ lại qua đêm và có dịp vui chơi, hát hò bên ánh lửa bập bùng và sáng hôm sau thức dậy đón ánh mặt trời tỏa ánh hồng ban mai trên mặt nước lung linh vệt sóng của những con thuyền đánh cá vào bờ.

 

Tuy dòng nước ở thượng nguồn sông Đồng Nai và sông Bé luôn đục ngầu phù sa nhưng chảy khi tới hồ Trị An, nó lại mang một màu xanh vô cùng yên bình và êm ả. Có thể do trong lòng hồ có nhiều tảo, những loài vi sinh vật có khả năng làm lắng đọng phù sa nên cảnh mây trời non nước nơi đây lúc nào cũng đẹp đẽ. Và, sẽ là một điều tuyệt vời nếu du khách có thể giong thuyền, lướt đi trên những con sóng lăn tăn trên mặt hồ mênh mông này.

 

 

Nguồn: Vietnamtourism.gov.vn

Bạch Dinh: Nét xưa nơi thành phố biển

Bạch Dinh là cái tên mà người Việt gọi tòa dinh thự lộng lẫy màu trắng tọa lạc trên sườn Núi Lớn, thuộc Bãi Trước của thành phố biển Vũng Tàu.

Nhắc đến Vũng Tàu, chắc hẳn ai cũng biết đó là một thành phố du lịch biển thanh bình, thu hút mọi du khách trong và ngoài nước. Vũng Tàu còn được biết đến với mệnh danh là “Singapore của Việt Nam”. Và… ở nơi ấy còn có một di tích lịch sử vô cùng hấp dẫn đối với du khách – đó là Bạch Dinh.

 


Dọc theo Bãi Trước về phía Núi Lớn, chúng ta dễ dàng trông thấy một tòa nhà sừng sững, uy nghi màu trắng với mái ngói đỏ nổi bật trên nền xanh cây cỏ. Theo sử sách ghi lại, ngọn đồi mà Bạch Dinh tọa lạc ngày nay chính là pháo đài Phước Thắng có nhiệm vụ kiểm soát biển Cần Giờ của triều Nguyễn (năm Minh Mạng thứ 20). Nơi đây cũng là nơi đã nổ phát súng đầu tiên vào hạm đội Pháp khi chúng tấn công Sài Gòn – Gia Định (bằng đường biển) và đã cản được bước tiến của quân Pháp trong 1 ngày đêm. Đó là chiến tích oanh liệt của quân, dân Vũng Tàu trong buổi đầu kháng chiến chống Pháp.


Tuy nhiên sau khi thực dân Pháp chiếm quyền cai trị Đông Dương thì đã cho san phẳng pháo đài và xây dựng tại đây một dinh thự mới làm nơi nghỉ mát cho toàn quyền Paul Doumer, gọi là Villa Blanche (theo tên con gái của ông ta). Nghĩa tiếng Việt của từ “Villa Blanche” lại có sự trùng hợp với sắc vẻ bề ngoài của nó nên người dân gọi là Bạch Dinh tức biệt thự trắng. Về sau, Bạch Dinh thuộc quyền cai quản của Công sứ Nam Kỳ người Pháp.

 

Đặc biệt khi tới thăm nơi đây, chúng ta không khỏi bùi ngùi xót thương cho vị vua yêu nước Thành Thái từng bị giam lỏng trước khi ông bị đày đi biệt xứ tại Reunion (Vua Thành Thái bị giam lỏng tại đây từ năm 1907 tới năm 1916).


Bạch Dinh tọa lạc ở độ cao gần 30m so với mực nước biển, mặt trước hướng ra biển, lưng tựa vào núi tạo thế vững chắc. Tòa dinh thự này được chia làm ba tầng (hầm, trệt và lầu), cao 19m, dài 28m và rộng 15m, được bao quanh bởi màu xanh mướt của cây cối rừng Sứ, rừng Gia Tỵ. Tất cả tạo nên khung cảnh đẹp đẽ, yên bình.


Đứng từ Bạch Dinh, chúng ta có thể bao quát cảnh Bãi Trước, nhìn thẳng ra là Hòn Hải Ngưu có dáng hình như con trâu đằm.

 

Bạch Dinh mang đậm nét kiến trúc điển hình của phong cách Châu Âu thế kỷ 19 cùng với những họa tiết cổ xưa tinh tế của nghệ thuật Hy Lạp. Nguyên liệu chính được sử dụng để trang trí và tạo hình là sứ men. Trên từng mảng tường là những gương mặt phụ nữ Châu Âu xinh đẹp như thiên thần, là đôi chim công xòe cánh phô những chấm bạc lấp lánh, đôi cá chép uốn lượn như muốn hóa rồng…Từng chi tiết sắc sảo cùng sự phối màu chuyên nghiệp khiến cho vẻ đẹp của Bạch Dinh thêm phần lộng lẫy. Đáng chú ý nhất là 8 bức tượng bán thân bằng sứ men màu đồ sộ, mang phong cách Hy Lạp bao quanh ba mặt tường chính của dinh thự.


Bước chân tới đây, du khách còn được tận mắt chứng kiến vẻ đẹp thơ mộng của không gian thanh bình. Mùa mưa, rừng bao quanh Bạch Dinh xanh ngút ngàn, từng cành lá giá tỵ xòe ô che kín lối đi. Mùa lá rụng, Bạch Dinh ngập tràn hoa sứ, sắc sứ đỏ, trắng, hồng rực rỡ cả khu vườn.

 

Trải qua hơn 100 năm thử thách cùng thời gian, Bạch Dinh vẫn giữ nguyên dáng vẻ uy nghi, sang trọng và kết cấu kiến trúc nguyên vẹn như ban đầu. Đến thăm Bạch Dinh, du khách còn được chiêm ngưỡng bộ sưu tập gốm sứ vô cùng quý giá thời nhà Thanh được vớt lên từ Hòn Cau, rất có giá trị và nổi tiếng, đang được Bảo tàng tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu trưng bày và giới thiệu.


Nổi bật về kiến trúc, hấp dẫn bởi lịch sử, Bạch Dinh đã được Bộ Văn hóa Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) công nhận là Di tích lịch sử – văn hóa Quốc gia ngày 4/8/1992. Đến với Bạch Dinh, chúng ta không những được tận hưởng không khí trong lành của biển, rừng mà còn trải lòng mình theo dòng lịch sử đã đi qua. Ở nơi đây, thời gian không trôi đi mãi mãi mà đang hiện hữu rõ nét từ dĩ vãng buồn đau đến hiện tại rạng rỡ an lành.

Nguồn: Vietnamtourism.gov.vn

Chùa Vĩnh Nghiêm – bản sắc văn hóa Phật giáo Việt Nam

Chùa Vĩnh Nghiêm (Bắc Giang) từ lâu đã được du khách trong nước và quốc tế biết đến không chỉ đơn thuần là một điểm du lịch, bởi vẻ đẹp của kiến trúc và phong cảnh hữu tình hiếm thấy mà còn bởi bản sắc đặc biệt của văn hóa Phật giáo Việt Nam nơi đây…

Tọa lạc trên quả đồi thấp, bao quanh là những ngọn núi non, sông nước, chùa Vĩnh Nghiêm cổ kính và tĩnh lặng thu hút vào tầm mắt của du khách thập phương là một phong cảnh hữu tình. Chùa nhìn ra ngã ba sông, phía Lục Đầu Giang – Kiếp Bạc, vùng Cẩm Lý cửa ngõ ra vào núi Yên Tử. Bao quanh chùa là núi non trong đó có núi Cô Tiên. Bên kia sông là vương phủ của Trần Hưng Đạo, đền Kiếp Bạc.

 


Tương truyền chùa được dựng từ đầu thời Lý Thái Tổ (1010-1028), tới thời vua Trần Thánh Tông (1258-1278) đều có các vị cao tăng tu hành nên chùa được tu tạo nguy nga, tráng lệ. Khi vua Trần Nhân Tông (1258-1308) từ bỏ ngôi vua đã đến chùa Vĩnh Nghiêm thụ giới, lấy hiệu là Hương Vân Đại Đầu Đà, sáng lập nên Thiền phái Phật giáo Việt Nam, Ngài cùng hai đệ tử là Pháp Loa và Huyền Quang tạo nên Trúc Lâm Tam tổ của Thiền phái Trúc Lâm Việt Nam.


Vì vai trò đặc biệt mà chùa Vĩnh Nghiêm được xây dựng với quy mô rất lớn. Diện tích cả khu chùa rộng khoảng 10.000 m2, mở đầu là cổng Tam quan, đi vào hơn 100m là chùa Hộ (hay còn gọi là Tiền Đường). Đường vào chùa Hộ, xưa được trồng thông để chùa thành trốn tùng lâm hữu tình, hiện tại vẫn còn một vài cây đứng trên sân chùa như những chứng tích của thời gian. Ngay trên sân chùa là một tấm bia to 6 mặt đó là tấm bia năm Hoằng Định. Đây là dấu vết lâu đời nhất của chùa hiện còn. Đối diện với tấm bia cổ là vườn tháp mộ của 8 vị sư, đều được xây dựng mãi sau này.


Từ chùa Hộ trở vào, các khối kiến trúc nối tiếp nhau xây trên trục chính theo một hướng đông nam và được phân cách bằng một khoảng sân hẹp. Trong chùa có 4 khối: Chùa Phật (các nhà Tiền đường tức chùa Hộ, Thiêu hương và Thượng điện) hình chữ “công” nhà tổ đệ nhất cũng hình chữ “công” – gác chuông hai tầng tám mái – nhà Tổ đệ nhị và nhà Trai Đường kiểu chuôi vồ. Hai bên còn có các dãy nhà Tả vu và Hữu vu, mỗi dãy gồm 18 gian rộng rãi là nơi hàng năm các sư về an cư kết hạ.

 

Cả 4 khối kiến trúc trên đều theo kết cấu khung gỗ cổ truyền, nhưng từ khối nhà Tổ đệ nhất trở về sau thì có thêm một số cột gạch và tường gạch hỗ trợ chịu lực. Ngay các thành phần kiến trúc gỗ, trừ bốn cột chính nhà Thượng Điện to lớn lực lưỡng bóng lộn là dấu vết thời gian của thời Lê, còn lại những cột kèo thanh thoát thời Nguyễn. Kiến trúc chùa thể hiện trình độ thẩm mỹ tuyệt vời của người xưa với toàn bộ cảnh chùa có độ cao thấp, sự giãn cách khác nhau, tạo ra một nhịp điệu phong phú. Song nói chung nó tuyệt đối không vươn cao đột ngột mà có xu hướng dàn trải, kéo dài theo chiều sâu, để luôn gây bất ngờ cho du khách.


Chùa Vĩnh Nghiêm vốn từ xưa là nơi đào luyện tăng đồ Phật giáo nên là nơi tàng trữ các bộ ván khắc kinh, theo sách nhà chùa để lại “Tàng kinh các” rộng tới 10 gian nhà. Đó là những bộ ván kinh có từ 700 năm nay, là kho sách cổ vô cùng quý giá. Nhiều kệ ván in kinh vẫn còn. Đó là kho ván khắc in, người xưa gọi là Mộc thư khố, là hiện vật minh chứng chùa Vĩnh Nghiêm từng thống lĩnh 72 chốn tùng lâm.


Mộc bản chùa Vĩnh Nghiêm hiện tại có tất cả 3.050 bản khắc gỗ với 9 đầu sách lớn thuộc hai loại kinh, sách chính: Loại kinh sách có nguồn gốc từ Trung Hoa, Ấn Độ được các Phật tổ Thiền phái Trúc Lâm kế truyền, chú dẫn theo tư tưởng Việt Nam và loại kinh sách của các Tổ sư Thiền phái Trúc Lâm sáng tác truyền lại.


Qua khảo sát, các nhà nghiên cứu thấy rằng, những mộc bản này đều do chính các nghệ nhân vùng Bắc Giang, Bắc Ninh và Hải Dương tổ chức khắc trong nhiều khoảng thời gian khác nhau. Vật liệu dùng làm bản khắc là gỗ thị và hầu hết được khai thác tại vườn chùa. Đây là loại gỗ thường được dùng để làm bản khắc in vì gỗ mềm, mịn, dai, dễ khắc, ít cong vênh, khó nứt vỡ.


Các mộc bản được khắc bằng chữ Hán hoặc Nôm với kĩ thuật khắc ngược , đây là một kĩ thuật rất khó và tinh vi để khi in ra giấy sẽ trở thành chữ xuôi. Mỗi mặt khắc tương ứng với 2 trang sách. Kiểu chữ rất chân phương và sắc nét. Điều đó chứng tỏ các nghệ nhân người Việt xưa không chỉ giỏi về mặt kĩ thuật mà còn là những người rất am hiểu về cách thức tổ chức văn bản, cũng như thông thạo về chữ Hán và chữ Nôm, một loại hình chữ viết cổ có cấu tạo rất phức tạp của người Việt.


Các mộc bản có kích thước không đồng đều. Bản khắc lớn nhất có chiều dài hơn 1m, rộng 40-50cm, bản nhỏ nhất khoảng 15x20cm. Qua quan sát, người ta thấy rằng, bề mặt các ván in được phủ một lớp màu đen bóng, đó chính là dấu vết của mực in còn sót lại trên bề mặt bản khắc sau những lần in ấn. Và cũng chính nhờ có lớp mực in này bảo vệ nên các bản khắc vẫn tồn tại bền bỉ qua thời gian mà không hề bị mối mọt, ẩm mốc phá hỏng.

 

Các bản mộc thư chủ yếu ghi chép kinh luật nhà Phật, lịch sử hình thành và phát triển Thiền phái Trúc Lâm, trước tác của 3 vị tổ Thiền phái làTrần Nhân Tông, Pháp Loa và Huyền Quang; ngoài ra còn có các tác phẩm thơ, phú, nhật ký của Mạc Đĩnh Chi và một số vị cao tăng. Nghiên cứu mộc thư khố, chúng ta có lượng thông tin phong phú, đa dạng về lịch sử Phật giáo, tư tưởng hành đạo, nhập thế của Thiền phái Trúc Lâm, văn học, phong tục tập quán cùng sự phát triển của nghề khắc in mộc thư và nghệ thuật chạm khắc gỗ của Việt Nam…


Trải qua bao thăng trầm biến cố của lịch sử, giờ đây kho Mộc thư khố này được coi như là bảo vật quốc gia. Đặc biệt, trong phiên họp chiều 16/5/2012 tại Bangkok (Thái Lan) Mộc bản chùa Vĩnh Nghiêm đã chính thức được công nhận là Di sản tư liệu Thế giới, Khu vực châu Á – Thái Bình Dương.


Khi được cầm trên tay, tận mắt nhìn những con chữ khắc một cách tinh xảo trên đó, cảm giác của tôi như đang cầm báu vật, như đang chạm vào lịch sử Phật giáo Việt Nam, như đang cảm nhận hơi ấm của tiền nhân truyền lại hậu thế nhân gian những thông điệp về cõi người, về sự vô thường của trời đất vũ trụ bao la… Đúng là “Ai qua Yên Tử – Quỳnh Lâm/ Vĩnh Nghiêm chưa tới, thiền tâm chưa đành”.

 

Nguồn: Vietnamtourism.gov.vn

Khám phá nét duyên thầm của thành phố Trà Vinh

Trà Vinh gây ấn tượng với du khách bởi nét vẻ yên bình, nhiều cảnh đẹp, các công trình kiến trúc theo kiểu Khmer, nền ẩm thực phong phú, độc đáo cùng các danh thắng nổi tiếng như ao Bà Om hay các lễ hội Ok Om Bok…

Trà Vinh cách TP HCM 150km về phía nam, cách Cần Thơ 80km về phía đông. Để đến Trà Vinh, du khách thường đi theo quốc lộ 1A qua Long An, Mỹ Tho đến Bến Tre rồi tới thị trấn Mỏ Cày.

 

 

Từ thị trấn Mỏ Cày, du khách đi phà qua sông Cổ Chiên là đến đất Trà Vinh. Bến phà này sắp hoàn thành sứ mệnh vận chuyển khi cầu Cổ Chiên gần đó đi vào hoạt động.

 

Đến Trà Vinh không thể không nhắc đến những ngôi chùa Khmer độc đáo của đồng bào nơi đây. Trong đó nổi bật nhất là chùa Vàm Rây, huyện Trà Cú được xây dựng lại từ nền ngôi chùa cũ bị tàn phá trong chiến tranh. Chùa Vàm Rây được xem như một trong những ngôi chùa Khmer đẹp nhất miền Tây.

 

Chùa Kosla cũng là một ngôi chùa đẹp ở huyện Trà Cú. Cảnh sắc yên bình và thanh tịnh nơi cửa chùa để để du khách có một không gian thư thái xa những vội vã đời thường.

 

Từ thành phố Trà Vinh đi thị trấn Châu Thành, du khách sẽ đến chùa Hang (chùa Kompong chary, nghĩa là bến cây đa). Ngôi chùa xinh đẹp này nằm giữa một khu rừng nhiều cây gỗ lớn là nơi sinh sống của các loài chim.

 

Dọc theo quốc lộ 53 từ Trà Vinh đi về hướng thị trấn Tiểu Cần, du khách sẽ đến cụm danh lam thắng cảnh nổi tiếng nhất của tỉnh Trà Vinh là chùa Âng, ao Bà Om và trung tâm nghiên cứu văn hóa Khmer.

 

Ao Bà Om là danh thắng nổi tiếng nhất của tỉnh Trà Vinh, du khách ai đến đây cũng ngỡ ngàng trước cảnh sắc lạ lùng kì thú cũng những bộ rễ cây với đủ hình dạng kỳ lạ nổi trên mặt đất.

 

Bánh canh Bến Có, đặc sản của đất và người nơi đây, bán ngay dưới chân cầu Bến Có.

 

Ngoài bánh canh Bến Có, còn có rất nhiều món hủ tiếu, mì được biến tấu khi đến miền đất này. Ở chợ Trà Vinh có rất nhiều quán mì phá lấu nổi tiếng mà du khách có thể thử qua.

 

Không nổi tiếng như bún nước lèo Sóc Trăng, nhưng bún nước lèo Trà Vinh cũng có nét đặc sắc riêng của nó. Dọc con đường Đồng Khởi là hàng quán bún nước lèo nổi tiếng của tỉnh Trà Vinh.

 

Một trong những món đặc sản thường được du khách mua về làm quà đó là bánh tét Trà Cuôn ở huyện Cầu Ngang, từ quốc lộ 53 đi về huyện Duyên Hải. Có nhiều loại cho quý khách chọn lựa như bánh tét nhân thịt, nhân chuối…/.

Nguồn: Vietnamtourism.gov.vn

Bến Tre – Điểm đến hấp dẫn vùng Đồng bằng sông Cửu Long

Bến Tre vùng đất trù phú với rất nhiều điểm tham quan, khám phá dành cho du khách trong và ngoài nước.

Là một trong 13 tỉnh châu thổ Đồng bằng sông Cửu Long, Bến Tre – xứ sở của những cây dừa, được mệnh danh là Xứ sở dừa Việt Nam mang đặc trưng của sông nước miệt vườn Nam Bộ, được hợp thành bởi ba dãy cù lao: cù lao Minh, cù lao Bảo và cù lao An Hoá.

 

Với vị trí thuận lợi, từ thành phố Hồ Chí Minh bằng đường bộ du khách chỉ mất khoảng 90 phút đã có mặt ở trung tâm thành phố Bến Tre, một điểm đến hấp dẫn và thu hút du khách cả du lịch sinh thái sông nước miệt vườn lẫn du lịch văn hoá – lịch sử, du lịch làng nghề.

 

Với lợi thế hệ thống kênh rạch chằng chịt, phong phú, những cù lao đầy ắp hoa trái của du lịch sông nước miền Tây, du khách đến với Bến Tre sẽ có cơ hội ngắm nhìn các cảnh đẹp thiên nhiên với những vườn cây trái sum suê, tấp nập ghe xuồng.

 

Du lịch sinh thái nơi đây mang đậm dấu ấn miệt vườn của đồng bằng Nam Bộ. Tiêu biểu cho loại hình du lịch này là Khu du lịch sinh thái cồn Phụng, với những công trình có lối kiến trúc độc đáo một thời gắn với tên tuổi Đạo Dừa Nguyễn Thành Nam.

 

Đến với khu du lịch cồn Phụng, du khách sẽ được trải nghiệm vẻ đẹp của cảnh sông nước hữu tình, được tham quan sân rồng, toà tháp và cửu trùng đài; đi bộ trên con đường làng tham quan cơ sở sản xuất kẹo dừa và hàng thủ công mỹ nghệ từ dừa.

 

Du lịch sinh thái Bến Tre còn trải rộng đến những vườn cây ăn trái ở huyện Chợ Lách và Cái Mơn, tâm điểm của nhiều loại trái cây ngon, hoa kiểng đẹp từ xưa đã nổi tiếng khắp Nam Bộ.

 

Với những du khách muốn tìm hiểu về truyền thống, di tích văn hoá – lịch sử, danh nhân thì khi đến Bến Tre cũng có rất nhiều lựa chọn để tham quan, viếng thăm. Đó là khu Đền thờ và lăng mộ nhà thơ yêu nước Nguyễn Đình Chiểu (xã An Đức, huyện Ba Tri), khu mộ vị khai khoa tiến sĩ Nam kỳ lục tỉnh Phan Thanh Giản (xã Bảo Thạnh, huyện Ba Tri), hay khu mộ của nhà giáo danh tiếng Võ Trường Toản (xã Bảo Thạnh, huyện Ba Tri).

 

Ngược về vùng hoa kiểng Cái Mơn – Chợ Lách, du khách có thể ghé thăm nhà bia tưởng niệm nhà bác học Trương Vĩnh Ký, người được xếp vào danh sách 18 nhà bác học của thế giới thế kỷ thứ 19. Du khách cũng thường đến với huyện Giồng Trôm nơi có khu tưởng niệm nữ tướng Nguyễn Thị Định (xã Lương Hoà, huyện Giồng Trôm), khu di tích lãnh binh Nguyễn Ngọc Thăng (xã Mỹ Thạnh, huyện Giồng Trôm), hay làng nghề truyền thống sản xuất bánh tráng Mỹ Lồng, bánh phồng Sơn Đốc, khu di tích Đồng Khởi tại xã Định Thuỷ, huyện Mỏ Cày Nam,  chùa Tuyên Linh ở xã Minh Đức, huyện Mỏ Cày Nam, khu căn cứ Y4 (Khu căn cứ Khu uỷ Sài Gòn – Gia Định) ở Tân Thanh Tây, huyện Mỏ Cày Bắc, hay khu di tích đường Hồ Chí Minh trên biển tại xã Thạnh Phong, huyện Thạnh Phú,…

 

Không dừng lại ở đó, du lịch Bến Tre còn quyến rũ bởi những làn điệu dân ca mang đậm sắc thái vùng sông nước miền Tây Nam Bộ của các nghệ nhân đờn ca tài tử xứ dừa.

 

Bến Tre còn là nơi hội tụ nhiều làng nghề thủ công truyền thống độc đáo như: làng nghề sản xuất kẹo dừa, làng nghề sản xuất các mặt hàng thủ công mỹ nghệ từ dừa, làng nghề dệt chiếu truyền thống ở An Hiệp (Châu Thành), Nhơn Thạnh (thành phố Bến Tre) và Thành Thới B (Mỏ cày Nam), làng nghề đan giỏ cọng dừa (cồn Ốc), nghề sản xuất bánh tráng Mỹ Lồng, bánh phồng Sơn Đốc (Giồng Trôm), làng nghề cây giống và hoa kiểng Cái Mơn – Chợ Lách, làng nghề cá khô Bình Thắng (Bình Đại) và An Thuỷ (Ba Tri).

Và đã trở thành một phần không thể thiếu trong mỗi chuyến đi đến xứ sở này, du khách sẽ không thể bỏ qua việc thưởng thức các món ăn đặc sản miệt vườn cùng các loài thuỷ sản nước ngọt và rất nhiều món đặc trưng khác của miệt biển Bến Tre tại các điểm du lịch. Nhiều món ăn đặc sản địa phương chế biến từ dừa nổi tiếng ở nơi này có thể nhắc đến như: tép rang dừa, lươn um nước dừa, tôm luộc nước dừa, gỏi củ hũ dừa, cơm nấu trái dừa,…

 

Ngoài ra, khi đến với nơi này, du khách còn được tận hưởng các hương vị ngọt ngào của đủ các loại trái cây, uống nước dừa xiêm, mật ong kết hợp với nghe đờn ca tài tử Nam Bộ, cũng như sẽ được trải nghiệm đi cầu khỉ, xe ngựa trên đường làng ngắm cảnh sinh hoạt thường nhật của cư dân vùng sông nước Bến Tre, tham gia hoạt động tát mương bắt cá, tham quan nhà cổ,…

 

Không ồn ào phô trương như các điểm du lịch ở các tỉnh khác, Bến Tre với nhiều sản phẩm và nhiều loại  hình du lịch phong phú và hấp dẫn, diện mạo du lịch của Bến Tre luôn mang nét đẹp dịu dàng, để lại những ấn tượng không phai về một xứ sở hiền hoà, thơ mộng, có sức quyến rủ lạ kỳ khiến du khách luôn mong tìm về mỗi khi có dịp ghé thăm miền Tây.

 

Đến với vùng đất địa linh nhân kiệt này, du khách sẽ tạm quên đi cuộc sống ồn ào nơi thành thị để tận hưởng không khí yên lành, tĩnh lặng, đầy thân thiện giữa thiên nhiên sông nước hữu tình và cuộc sống bình dị của người dân nơi đây với những giây phút thú vị, thoải mái và đầy khám phá./.

 

 

Nguồn: Vietnamtourism.gov.vn

Đón năm mới ở cực Bắc Tổ quốc

Mùa xuân đang về trên khắp mọi miền Tổ quốc. Với những người ham trải nghiệm, những ngày nghỉ Tết là khoảng thời gian tuyệt vời để thực hiện hành trình khắp các cung đường đất nước.

Họ đi tìm sắc hoa đào, hoa mận, tìm kiếm hương xuân theo cách riêng, ở nơi chốn riêng, để cảm nhận vẻ đẹp tuyệt vời của đất nước.

  

Năm mới 2015, chúng tôi đã chọn cho mình cách trải nghiệm riêng, đón Giao thừa trên đỉnh núi Rồng, nơi có cột cờ thiêng liêng cực Bắc Tổ quốc. Một khoảnh khắc thôi lúc giao thời giữa năm cũ và năm mới ở nơi thiêng liêng ấy cũng đủ để biết bao trái tim rộn ràng, hạnh phúc. Đồng bào Lô Lô, Mông, Dáy… ở nơi địa đầu vốn không có thói quen đón Giao thừa Tết Dương lịch như ở những nơi khác. Với họ, Tết Dương lịch cũng đơn giản như một dịp cuối tuần, khi tết đã cận kề. Bởi vậy, nếu tết cổ truyền nơi cực Bắc là lúc người dân các thôn bản cùng nhau vui tết, hội hè, thì vào dịp Tết Dương lịch, đồng bào nơi đây lại có thêm ngày hội mới, khi những người yêu du lịch đổ về thăm mang theo rộn ràng tiếng nói, tiếng cười. 
 


Tết Dương lịch 2015, những nẻo đường hướng đến chân cột cờ Lũng Cú phấp phới bóng cờ đỏ sao vàng. Từng đoàn xe máy của các “Phượt tử” nỗi nhau lên cực Bắc. Những cánh đồng hoa tam giác mạch nở muộn dường như thắm hơn, rực rỡ hơn trong cái giá rét của vùng cao. Đâu đó ở nhiều nơi, bên các bờ rào đá, trong thung lũng đã thấp thoáng bóng đào rừng. Dường như thiên nhiên cũng biết chào đón những bước chân du khách. Chiều trước thời khắc Giao thừa, thị trấn nhỏ dưới chân núi Long Cư tấp nập người qua lại, dân ham xê dịch tranh thủ thời gian ghé thăm các thôn bản,  khám phá đời sống thường nhật của người Lô Lô, người Mông… và cũng để tận mắt thấy cách thức người vùng cao nấu rượu chuẩn bị cho mùa xuân mới thế nào. Hương rượu ngô lẫn vào sương núi, hòa trong không khí, phảng phất, ngất ngây, nồng đượm. Người vùng cao nấu rượu chuẩn bị cho dịp tết cổ truyền từ rất sớm, trước cả tháng trời.

Cờ đỏ tung bay trong những ngày nắng đông, bầu trời nơi cực Bắc như cao và xanh hơn, du khách nhẩn nha chờ đợi thời khắc chuyển giao năm cũ và năm mới. Những câu chuyện vui buồn trong năm được kể lại cho nhau nghe, kể mãi cho đến khi cái giá lạnh đẫm sương đêm của đá núi sương rừng bao phủ bốn bề núi. Những gương mặt rạng ngời hạnh phúc và tình yêu, tình yêu dành cho quê hương và niềm đam mê khám phá khắp mọi miền Tổ quốc tươi đẹp.

 

 

 

Nguồn: Vietnamtourism.gov.vn

Khách nước ngoài đón Tết trong không gian văn hóa Tây Nguyên

Khách nước ngoài đón Tết Tây trong không gian văn hóa Tây Nguyên là một trải nghiệm thú vị và rất mới cho những du khách thích khám phá những không gian mang đậm bản sắc văn hóa rất Tây Nguyên.
 

Thay vì đón một cái Tết Tây đậm chất hiện đại, những du khách người nước ngoài đã chọn cho mình một không gian riêng – không gian ở các làng đồng bào dân tộc thiểu số ở Kon Tum để đón Tết.

 

Trình diễn cồng chiêng của dân tộc Jrai trong Lễ hội ăn trâu


Những ngày đầu năm mới 2015, các làng đồng bào dân tộc thiểu số ở ngoại thành thành phố Kon Tum, tỉnh Kon Tum, trở nên đông vui, nhộn nhịp bởi có thêm những vị khách mới đến từ các nước như Bỉ, Canada, Italy… Họ cùng ăn uống, ngủ nghỉ tại làng, lên rẫy với bà con, cùng trải nghiệm cuộc sống thú vị của người đồng bào bản xứ.

Dù không cùng tiếng nói nhưng với ngôn ngữ hình thể, ra hiệu bằng đồ vật cùng sự mến khách của những người dân địa phương đã để lại nhiều ấn tượng và tình cảm cho những vị khách lạ lẫm này.

Ông Michel Olier – du khách người Canada hào hứng cho biết: “Qua tìm hiểu thông tin trên mạng, tôi quyết định chọn ngôi làng này làm nơi trải nghiệm cuộc sống và tìm hiểu về văn hóa của con người nơi đây. Đây là cái Tết đầu tiên tôi có mặt ở một nơi hoàn toàn lạ lẫm nhưng con người nơi đây thì lại rất thân thiện, cởi mở. Chúng tôi cùng ăn, ngủ, cùng làm việc với nhau như trong một gia đình. Đây thực sự là một trải nghiệm thú vị và hấp dẫn. Tôi rất thích.”

Không chỉ hòa mình trong không khí đón chào năm mới rất mới lạ, những du khách người nước ngoài còn được trải nghiệm những phong tục, tập quán của người địa phương, cùng mang gùi lên rẫy…

“Sáng sáng cùng người dân lên rẫy, cùng tham gia trồng trọt và thưởng thức những món ăn đặc sản. Đặc biệt là món rượu cần rất thú vị và hấp dẫn dù mùi vị của nó rất lạ…,” Michel Olier cười chia sẻ.

Những du khách khi đến với làng bản dịp đón năm mới có được cảm giác đậm chất văn hóa, bên cạnh việc sống, sinh hoạt dưới những ngôi nhà sàn truyền thống, những đêm hội cồng chiêng cùng với những điệu nhảy mê hoặc cũng thường xuyên được tổ chức.

Già làng A Bang – làng Kon K’Tu cho biết, để thu hút khách du lịch, đặc biệt là khách du lịch nước ngoài đến với những bản làng nhiều hơn, già cùng người dân trong làng đã tu sửa nhà cửa, vệ sinh sạch sẽ để đón du khách đến.

Bên cạnh đó, già cùng với các thanh niên và những nghệ nhân tổ chức các đêm văn nghệ như đánh cồng chiêng, kèn, đàn tơrưng… Ngoài việc để du khách thưởng thức nét văn hóa truyền thống của mình còn giúp địa phương lưu giữ những tinh hoa văn hóa này.

Một năm mới đã đến với biết bao ước nguyện tốt đẹp. Cùng với sự phát triển của cả nước, những ngôi làng của đồng bào dân tộc thiểu số Tây Nguyên cũng đã tìm cho mình hướng đi với những phương thức sản xuất, những dịch vụ mới đầy hứa hẹn. Họ đang dần tự tin hơn, ngày càng hội nhập với môi trường tiến bộ hơn để đời sống của bà con ngày càng được cải thiện./.

Nguồn: Vietnamtourism.gov.vn

Huyền ảo trên đỉnh Mẫu Sơn

Vượt 15km đường dốc, chúng tôi có mặt trên đỉnh Mẫu Sơn, nơi đây sương mù dày đặc, phủ kín cả cây cỏ vạn vật, xa xa những làn hơi sương bay trong gió, tạo nên khung cảnh mờ ảo đẹp lung linh, thôi thúc du khách tới để cảm nhận cái lạnh tê tái của xứ Lạng.

Nằm cách thành phố Lạng Sơn 30 km về phía đông, giáp với biên giới Việt – Trung, Mẫu Sơn sừng sững với độ cao trung bình 800 – 1.000 m so với mặt nước biển, bao gồm một quần thể 80 ngọn núi lớn nhỏ với đỉnh cao nhất là Phia Po (1.541 m, còn gọi là đỉnh Công hay Công Sơn – nơi đặt cột mốc 42, biên giới Việt Trung). Diện tích khu Mẫu Sơn khoảng 550 km².

 

 

Về mùa đông nhiệt độ ở Mẫu Sơn xuống tới nhiệt độ âm, thường xuyên có băng giá và có thể có tuyết rơi. Nhiệt độ trung bình ở đây là 15,5°C, đỉnh núi quanh năm có mây phủ, hơi sương lả lướt bay, quyện vào nhau kết thành những khối đặc quánh trắng xóa.

 

Là địa điểm thu hút khách du lịch tới tham quan bởi vẻ đẹp mờ ảo, cho những ai muốn trải nghiệm cái lạnh tê tái của xứ Lạng.

 

Nguồn: Vietnamtourism.gov.vn

Gió lộng đèo Thung Khe

“Đường lên Tây Bắc quanh co” – câu hát trong bài ca “Đường lên Tây Bắc” của nhạc sỹ Văn An lại vang lên khi chúng tôi trên hành trình từ Tây Bắc về xuôi. Cung đường này cuốn hút dân phượt bởi cảm giác đổ đèo và níu kéo của núi rừng.

Đánh dấu hết đèo dốc cao thăm thẳm có lẽ chính là đỉnh đèo Thung Khe và điểm dừng chân đỉnh đèo Đá Trắng. Từ đây nhìn xuống thung lũng thấy cả thị trấn Mai Châu thu gọn vào ống kính với gió thổi lồng lộng.

 

 

Không biết đã bao nhiêu lần đi qua con đường này, nhưng lần nào cũng vậy, khi từ Sơn La xuôi về Hà Nội, đến đỉnh đèo Thung Khe, chúng tôi cũng dừng xe đứng ngắm cảnh vật nơi này. Thị trấn du lịch Mai Châu được thu vào tầm mắt. Cảnh đẹp tự nhiên này đãi ngộ du khách mỗi khi dừng xe nơi đỉnh dốc. Cũng vài năm nay, nơi đây được xây dựng một trạm với cột cờ, vài chiếc ghế đá cho khách nghỉ chân ngắm cảnh. Đêm trước vừa uống rượu cần, múa xòe cùng cô gái Thái xóm Lầu, xã Mai Hạ, huyện Mai Châu. Rượu Mai Hạ nhấp môi mà rượu chảy đến đâu nhận ra cái nóng đang đốt ruột gan đến đấy. Cô gái Thái thấy chàng trai Hà Nội say rượu cứ ngâm nga câu thơ “Mai Châu mùa em thơm nếp xôi” mà cười nói “Sáng mai, lên đèo Thung Khe, gió thổi quên Mai Châu ngay mà”. Thế mà, giờ đã đứng ở đỉnh đèo, nhìn xuống thung lũng, ruộng nước, ruộng bậc thang, nhà sàn, rừng cây rồi cả con đường chạy xuyên qua huyện về hướng Pù Luông.

Cô gái Hà Thị Tình, bán quán nước trên đỉnh đèo Thung Khe thì cứ cười khi chúng tôi hỏi thăm. “Em họ Vi à?”, “Không, em họ Hà, em cũng ở Mai Châu, các anh không quen gió núi, đứng đó là lạnh đấy”. Rồi một chiếc xe ô tô cũng dừng chân, vài người bước xuống chụp ảnh, bắt tay chào tạm biệt. Hóa ra, cán bộ miền xuôi lên công tác, rồi cán bộ miền ngược tiễn chân tới tận đỉnh đèo Thung Khe. Cái tình lưu luyến như tên em gái quán gió đèo cao vậy.

Nếu đèo Thung Khe cuốn hút vì tầm nhìn vọng cảnh thì đèo Đá Trắng lại níu chân vì dãy quán lá mới với làn khói bếp bảng lảng trong sương núi. Chỉ chạy xuôi thêm qua một mỏm núi, sườn núi đang bên tay phải thì giờ ở bên tay trái. Dãy quán lá bán hàng của người Mường chủ yếu bán ngô nếp luộc, cua đá, mấy cành phong lan. Có người thì gọi dãy quán này là chợ đèo vì đủ thứ được bán như chợ nhưng chủ yếu là quán dừng chân cho khách uống bát nước ngô, nhâm nhi bắp ngô nếp luộc. Đèo Đá Trắng có tên gọi như vậy vì phía sườn núi phía đông toàn đá trắng đắp lên thành đèo. Phía dưới thung lũng gọi là “Bãi Dê” với lô xô những tảng đá đen lớn nhỏ rải rác giữa đồng cỏ bao la. Từ trên đỉnh đèo nhìn xuống giống như một đàn dê đang thong dong gặm cỏ.

Dừng chân nơi đây, dãy quán ngay sát dốc đá trắng, mùi ngô nếp luộc, cơm lam nóng hổi vô cùng thú vị. Cô gái Mường dòng họ Đinh Công cùng mẹ chồng ra quán bán hàng, vừa róc vỏ ống cơm lam vừa kể chuyện dòng họ nổi tiếng Đinh Công của dân tộc Mường. Thứ lạ nhất với chúng tôi chính là bó hạt rừng có tên “Mắc khén”. Rang muối, nướng ớt, rang mắc khén rồi tất cả giã lẫn với lá mùi tàu và tỏi sẽ được đĩa “Chéo” để chấm măng luộc, thịt nướng thơm ngon tê tê đầu môi. Mấy năm trở lại đây, người miền xuôi cũng đã biết tẩm mắc khén với thịt đem nướng. Món quà này luôn được du khách mang về xuôi làm quà. Một chút dừng chân hưởng gió núi đèo Thung Khe, ăn ngô nếp đèo Đá Trắng, rồi lúc lên xe đã lủng lẳng cân thịt lợn lửng thui rơm cắt ngang, nhành phong lan rừng, chục ống cơm lam, vài bó mắc khén và “lồng” cua đá núi. Chỉ vậy thôi mà qua con đường này lần nào cũng phải dừng chân.

Nguồn: Vietnamtourism.gov.vn

TIN MỚI NHẤT