Điểm đến du lịch

Những địa điểm du lịch hấp hẫn những địa điểm du lịch trong nước, địa điểm du lịch nước ngoài được chúng tôi tổng hợp và đưa tin đến Quý bạn đọc đam mê du lịch có cái nhìn tổng quan nhất về các địa danh du lịch để quyết định cho mình cho những chuyến du lịch ý nghĩa nhất

Có một vườn chim giữa lòng Tràng An

Ninh Bình vốn là địa danh được biết đến với rất nhiều khu du lịch sinh thái hấp dẫn, nhưng đến với Thung Nham, địa danh nằm trong vùng lõi của quần thể danh thắng Tràng An, du khách sẽ được trải nghiệm cảm giác hoàn toàn mới mẻ với hành trình đầy lôi cuốn giữa một khu vườn bạt ngàn chim.

Từ thành phố Ninh Bình, theo quốc lộ 1A khoảng 12 km về phía nam, Thung Nham nằm giữa trung tâm quần thể danh thắng Tràng An vừa được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới đầu tiên của Việt Nam. Sự sống động của một khung cảnh nên thơ giữa tự nhiên đã và đang mời gọi, níu chân những du khách trong nước và ngoài nước.

 

 

Sau trận mưa đêm xối xả, buổi sáng ở Thung Nham mờ ảo trong màn sương sớm như một bức tranh thủy mặc. Mái chèo khoát đẩy đều đặn êm đềm, đưa con đò lững lờ trôi trong sự tĩnh lặng của núi rừng và đầm nước. Vậy mà chớm trưa, nắng đã kịp len lỏi tới thung lũng làm đổi mầu cảnh vật, phủ kín sự ấm áp thay cho những se lạnh buổi sớm.

 

Con người, cảnh vật bỗng hòa mình trong những chuyển động của thư thái, của những cảm xúc háo hức đến lạ lùng.

 

Tuy nhiên, một món quà khác, tuyệt vời hơn rất nhiều mà Thung Nham dành tặng cho du khách lại chính là vườn chim bạt ngàn. Với hệ sinh thái rừng ngập nước tự nhiên trên diện tích khoảng 334 ha, trong đó có 19 ha rừng nguyên sinh, vườn chim Thung Nham là nơi cư trú tuyệt vời của khoảng gần năm mươi loài chim. Trong đó, có những loài chim được ghi vào sách Đỏ như: Giang Sen, Cốc Đế nhỏ… Và khi mặt trời vừa ló rạng, lũ chim bay đi kiếm mồi ở xa, tối đến tìm về tổ ấm đem lại một khung cảnh đẹp đến nao lòng.

 

Bởi đó cũng là lúc, những loài chim ăn đêm bắt đầu cuộc hành trình sinh tồn làm khuấy động cả một góc trời, của “kẻ đến, người đi”.

 

Chính nhờ cảnh quan tuyệt vời này, Thung Nham ngày nay đang cố gắng vươn mình trở thành một trung tâm thu hút du lịch không chỉ của riêng Tràng An mà còn của cả tỉnh Ninh Bình. Ngoài vườn chim, Thung Nham đang sở hữu rất nhiều những điểm tham quan hấp dẫn khác như: Cây đa di chuyển, Cây ruối nghìn năm, Khu miệt vườn, Thung lũng tình yêu, Động vái Giời, Hang Bụt, Động Tiên Cá, Động Thủy Cung, Động Ba Cô hay Rừng nguyên sinh trên núi đá vôi. Sau hành trình khám phá đó, du khách sẽ được nghỉ ngơi trong những ngôi nhà sàn ngay dưới chân núi với tiện nghi sinh hoạt hiện đại mà không thiếu đi sự dân dã với bữa ăn mang đậm hương vị đồng quê như lợn cắp nách, gà đồi, cá hồ tự nhiên, măng vầu, rau rừng.

 

Hãy đến với Thung Nham để nhâm nhi ly rượu nếp Kim Sơn, cất cao tiếng hát, kết nối bạn bè và thả hồn vào không gian tĩnh mịch, đầy bình yên nơi đây.

 

Nguồn: Vietnamtourism.gov.vn

Đặc sản hạt bàng Côn Đảo – món ngon không thể bỏ qua

Nếu đến Côn Đảo, bạn sẽ dễ dàng nhận thấy bàng là một loại cây mọc nhiều bên mỗi con đường, trước cửa nhà dân và len lỏi trong các khu dân cư. Có lẽ không ở đâu bàng lại được trồng nhiều như ở Côn Đảo.
 

Nhiều dãy phố, con đường với hàng bàng cổ thụ, thân sần sùi càng tô đậm hơn nét cổ kính, trầm mặc cho địa danh Côn Đảo linh thiêng của Tổ quốc.

 


Điều đáng nói là từ quả bàng, người dân Côn Đảo đã có thêm thu nhập và cải thiện đời sống khi hạt bàng trở thành một món quà đặc sản cho du khách khi đến với Côn Đảo trong những năm gần đây.

Chị Nguyễn Thùy Hương, Nhà khu 8, huyện Côn Đảo cho biết gia đình chị đã gắn bó với nghề làm đặc sản hạt bàng từ 9 năm nay. Tuy không đi thu hoạch trực tiếp, nhưng chị tổ chức thu mua hạt của những hộ dân trên địa bàn.

Mùa bàng rộ, gia đình chị thường mua mỗi lần hàng trăm kg hạt bàng. Sau đó chị rang lên, rồi đóng gói bán cho khách du lịch hoặc bỏ mối cho các điểm bán lẻ.

Hạt bàng Côn Đảo được chế biến hoàn toàn thủ công, được rang theo hai vị mặn và ngọt. Bàng rang ngọt khó hơn rang muối vì nếu không biết canh lượng đường, canh lửa thì đường sẽ không khô và không bám đều lên khắp hạt bàng.

Ở những xưởng sản xuất quy mô như nhà chị Hương, mỗi mẻ sẽ rang khoảng 10kg trong thời gian 1 giờ đồng hồ. Khi rang phải để lửa nhỏ và phải đảo thật đều tay để bàng không bị cháy.

Một kg hạt bàng rang tùy thời điểm có giá từ 200.000-400.000 đồng, hạt bàng mặn bán bằng giá với hạt bàng ngọt.

Đến Côn Đảo lần thứ ba, lần nào chị Nguyễn Thị Xanh (thành phố Cần Thơ) cũng ghé cửa hàng nhà chị Hương để mua cả chục kg hạt bàng về làm quà cho người thân.

Chị Xanh cho biết: “Tôi đã đi du lịch rất nhiều nhưng hạt bàng này chỉ Côn Đảo mới có, trong đất liền cũng có hạt bàng nhưng không ngon và không có vị bùi bùi rất đặc trưng như Côn Đảo. Cứ mỗi lần đi Côn Đảo là bạn bè lại nhờ mua hạt bàng, nên hôm nay tôi đã mua 6kg rồi, giờ lại ra mua thêm.”

Còn ông Helleputte Jean Marie, du khách đến từ Bỉ cho biết: “Lần nào ra Côn Đảo, tôi cũng mua hạt bàng, hạt bàng Côn Đảo rất ngon. Tôi có cảm giác nó giống với một số hạt ở đất nước tôi như là hạt óc chó nhưng ít béo hơn. Hạt bàng cũng dễ ăn hơn đậu phụng.”

Ngoài những người rang và chế biến hạt bàng, ở Côn Đảo, nhiều hộ dân đều tranh thủ thời gian rảnh rỗi đi nhặt hạt bàng về phơi khô và tách vỏ lấy nhân đem bán để có thêm thu nhập.

Chị Châu Thị Tuyết và chị Nguyễn Ngọc Lệ, ở khu 9, Côn Đảo, mỗi ngày cũng kiếm được gần 100.000 đồng từ nhặt hạt bàng.

Chị Lệ cho biết, muốn nhặt được những hạt bàng cho chất lượng tốt, phải đi từ 2-3 giờ sáng, vì khi đó, sau một đêm dơi ăn, những quả bàng chín sẽ rụng xuống, chưa bị những người lao công quét dọn.

Quả bàng sau khi được nhặt về được đem phơi nắng cho khô rồi chặt lấy nhân. Lấy hạt bàng tuy không khó nhưng phải kiên nhẫn. Người quen tay ngồi cả ngày cũng chỉ chặt được khoảng một kg nhân bàng và phải chặt thật khéo để không bị vỡ hạt.

Thực tế những năm qua, hạt bàng đã tạo thêm thu nhập cho nhiều gia đình người dân ở Côn Đảo. Tuy nhiên, bàng chỉ đơm hoa kết trái theo mùa, từ khoảng tháng Ba đến tháng Chín hàng năm và các công đoạn chế biến hạt bàng đều làm thủ công nên bà con chỉ tranh thủ thời gian rảnh rỗi để có thêm thu nhập và tạo ra sản phẩm du lịch đặc trưng, ý nghĩa cho hòn đảo đầy ắp lịch sử này./.

 

Nguồn: Vietnamtourism.gov.vn

Vịnh Hạ Long – Thiên đường trên mặt đất

Julia (quốc tịch Mỹ, hiện đang sống tại Amsterdam, Hà Lan) là người rất thích đi du lịch. Cô chia sẻ rằng, cô đã rất vui khi trong một chuyến đi đến Việt Nam, cô đã gặp Scott, một người cũng có sở thích. Hai người yêu nhau, sau đó kết hôn. Kể từ đó, họ tiếp tục cùng nhau đi du lịch…

Hiện nay hai người đang quản lý trang web homelessandconfused.com chuyên chia sẻ kinh nghiệm du lịch khắp thế giới. Đặc biệt trang web dành khá nhiều bài viết về Việt Nam. Bài viết này là một trong số đó…

 

 

Sau sáu ngày mưa ở Hội An và Huế, thật chẳng khác gì đến thiên đường khi mà sau một giấc ngủ qua đêm trên tàu để tới Hà Nội, mở mắt ra chúng tôi đã thấy ánh mặt trời chiếu rọi. Chúng tôi xuống xe lửa với một cái ba lô nặng trên lưng và bắt một chuyến xe khách kéo dài 4 tiếng để tới Hạ Long – nơi chúng tôi sẽ nghỉ lại vài ngày. Khi xuống bến cảng chuẩn bị đi thăm Vịnh, chúng tôi đã mang theo một số hộp bia (loại giá rẻ) để có thể cùng nhau uống vào buổi chiều, bởi nghe nói giá cả trên tàu thăm Vịnh thường được nâng lên rất cao do lượng khách đến đây du lịch ngày càng nhiều. Sau khi chuẩn bị đầy đủ mọi thứ, chúng tôi lên thuyền bắt đầu hành trình của mình vào Vịnh Hạ Long.

 

Chiếc thuyền thực sự rất tuyệt! Chúng tôi được phục vụ một bữa trưa với hải sản tươi sống: Tôm biển chiên dầu tỏi, nem rán, cá sốt cà chua, cơm trắng, khoai tây chiên, mực chiên và cả trái cây tươi nữa… Dù biết sẽ không thông minh cho lắm nếu tôi ăn hết những thứ đó ngay trước khi đi thuyền kayak, thăm dò các hang động hay tắm nắng, nhưng liệu có ai có thể cưỡng lại được sức hấp dẫn của những món ăn đó chứ? Sau bữa ăn, chúng tôi không có nhiều thời gian ở lại dưới khoang tàu, tuy nhiên, như thế cũng tốt bởi kể từ khi ở TP Hồ Chí Minh đến giờ chúng tôi chưa một lần được thấy ánh mặt trời thực sự.

 

Trước khi bắt đầu chuyến đi, mọi người đã nói với tôi rằng, tôi sẽ không thể cảm nhận được hết vẻ đẹp nơi đây nếu tôi chưa được tận mắt thấy. Và quả thực đúng như vậy! Các núi đá vôi nhô lên khỏi biển tạo nên khung cảnh hoàn hảo cho một cuộc thám hiểm. Mặc dù có rất nhiều thuyền trên biển mỗi ngày, nhưng tôi lại không hề thấy sự yên tĩnh nơi đây bị khách du lịch phá hỏng. Điều này đặc biệt đúng khi chúng tôi dừng lại tại một khu chợ nổi và quyết định đi thuyền kayak. Tôi và người bạn chèo thuyền của mình cùng đi vào một bãi cạn được bao quanh bởi những núi đá vôi. Sự yên tĩnh bao trùm lấy chúng tôi. Vào một khoảnh khắc nào đó, tôi đã thực sự chết lặng trước không gian ấy…

 

Tôi nghĩ rằng những bức ảnh sẽ nói được nhiều hơn, tuy nhiên vẫn không thể lột tả hết được vẻ đẹp nơi đây (một phần vì chiếc máy ảnh tội nghiệp của tôi đã bị trục trặc bởi vài trận mưa trước đó). Thật may cho chúng tôi là thời tiết rất đẹp, trời đầy nắng trong suốt mấy ngày chúng tôi ở đó.

 

Nếu bạn chỉ có thể đến thăm Việt Nam một ngày thì hãy dành một ngày đó cho Vịnh Hạ Long, vì đây thực sự như là viên ngọc quý trong chiếc “Vương miện đất nước”…

 

Nguồn: Vietnamtourism.gov.vn

Làng cổ Thổ Hà – Dấu ấn văn hóa nghìn năm Bắc Bộ

Trải dài dòng sông Cầu thơ mộng, Thổ Hà (xã Vân Hà, huyện Việt Yên) là một trong những ngôi làng hiếm hoi còn giữ được vẻ đẹp văn hóa cổ của vùng Kinh Bắc, nơi mà đâu đó vẫn còn phảng phất phong vị hữu tình của nét xưa cây đa, bến nước, sân đình và những nếp nhà cổ san sát nằm sâu trong ngõ hẻm…

Thổ Hà từng được coi một trong ba trung tâm gốm sứ cổ xưa nhất của người Việt. Gốm Thổ Hà mang những nét đặc sắc riêng hiếm có: độ sành cao, không thấm nước, tiếng kêu như chuông, màu men nâu đỏ mịn màng, ấm áp và gần gũi. Gốm có độ bền vĩnh cửu dù được chôn trong đất, ngâm trong nước. Làng chỉ làm đồ gốm gia dụng, những chum vại, tiểu sành, chĩnh chõ nổi tiếng một thời.

Làng cổ Thổ Hà –  Dấu ấn văn hóa nghìn năm Bắc Bộ

Ngày nay, dấu tích của nghề gốm vang bóng một thời vẫn còn hiển hiện trong những bức tường ngõ cổ và bức tường nhà xây toàn bằng những mảnh gốm vỡ hay tiểu sành phế phẩm, không dùng chút vôi vữa nào, chỉ dùng bùn của sông Cầu để kết dính. Vẫn là con đường xưa, còn đó những nếp nhà rêu phong, mái đình cong trầm mặc vắt ngang qua chiều dài lịch sử văn hóa Việt; ngôi chùa cổ kính hàng trăm năm tuổi là một trong những di tích cấp quốc gia được công nhận sớm nhất, năm 1960. Đến đây du khách chắc hẳn sẽ phải ngạc nhiên về những sáng tạo của người xưa khi đưa những chất liệu sành vào trong kiến trúc làng.

Theo nhịp sống hiện đại, tường gạch vôi được xây lên thay thế cho những bức tường cũ, chuyện xây nhà bằng tiểu sành chỉ còn trong ký ức, như minh chứng cho thời quá vãng vàng son của nghề gốm Thổ Hà

Thổ Hà, không chỉ có nghề gốm cổ truyền, mà còn sở hữu một quần thể di sản kiến trúc của làng cổ, trong đó có ba di tích lịch sử văn hóa được nhà nước công nhận là Đình, Chùa và Văn Chỉ, với gần hai chục tấm bia đá ghi bằng chữ nho ở cả hai mặt. Thổ Hà còn nổi tiếng với những kiến trúc cổ từ nhà cửa đến cổng làng, khu giếng cổ đều được làm bằng gạch nung và sành đắp nổi không tráng men.

Cổng làng Thổ Hà có kiến trúc đẹp, bề thế và cổ kính, được làm từ đôi bàn tay của những nghệ nhân dân gian của làng, thể hiện sự thịnh vượng của nghề gốm xưa kia. Đây là một trong những cổng đẹp nhất ở vùng hạ và trung lưu sông Cầu.

Cổng làng Thổ Hà là một trong những cổng đẹp nhất ở vùng hạ và trung lưu sông Cầu

Cổng nằm ở ngay đầu làng phía trước đình, bên tả là hồ nước rộng, bên hữu có cây đa hàng trăm năm tuổi, đây là những nét rất đặc trưng mang đậm dấu ấn văn hóa của cư dân đồng bằng Bắc Bộ với hình ảnh cổng làng, cây đa, bến nước, sân đình cùng những vòm cổng, những khu miếu thờ, từ chỉ, đình, chùa… Ngoài ra, trong làng vẫn còn lưu giữ được một số ngôi nhà cổ xây dựng cách đây trên 100 năm, tiêu biểu cho các ngôi nhà cổ thuộc đồng bằng Bắc Bộ.

Đình Thổ Hà là một ngôi đình nổi tiếng của xứ Kinh Bắc, được xây dựng vào năm 1692, thời vua Lê Hy Tông. Đình Thổ Hà tiêu biểu cho không gian tâm linh, văn hóa của người Việt với nét kiến trúc đặc trưng. Ðình có quy mô lớn, kết cấu kiến trúc tương đối hoàn chỉnh. Các mảng chạm khắc thể hiện phong cách thời Lê rõ nét, độc đáo. Ðề tài thể hiện trên các cấu kiện kiến trúc chủ yếu là “tứ linh, tứ quý” hoa lá cách điệu, chim thú và con người. Con rồng ở đình Thổ Hà được chạm ở nhiều bộ phận: đầu dư, bẩy, kẻ, cốn, ván nong, câu đầu với các đề tài rồng ổ, rồng mẹ cõng rồng con, rồng và thiếu nữ… Bởi vậy, không ngẫu nhiên mà các nhà khoa học lại xem đình Thổ Hà là một bông hoa về nghệ thuật kiến trúc cổ Việt Nam. Năm 1962, đình Thổ Hà đã được xếp hạng là Di tích kiến trúc – nghệ thuật cấp quốc gia.

Trong đình có ba tấm bia lớn là: Thủy tạo đình miếu bi, Cung sao sự tích thánh, Bia sao sắc phong. Có lẽ một trong những điều thu hút sự chú ý của du khách chính là nội dung được ghi ở tấm bia Thủy tạo đình miếu bi. Tại đây, mô tả khá kỹ địa hình núi sông của làng Thổ Hà: phía Đông đẹp đẽ như rồng quay về chốn tổ; phía Tây hùng vĩ như dáng hổ ngồi chầu; phía Nam có núi Hằng Lĩnh và dòng sông Nguyệt Đức, đó là sách trời đã định; phía Bắc có ngọn núi Lát, hun đúc khí thiêng cho dải đất Thổ Hà. Từ địa thế này làng đã sản sinh ra những bậc anh tài, giỏi dang, đỗ đạt, làm quan văn võ, áo đỏ tía rực rỡ chốn triều đình. Cũng từ mảnh đất này, nghề bán buôn, làm ăn sinh sôi, phát triển nhiều người giàu có, nhà nào cũng có nghề gốm phát đạt.

Chùa Thổ Hà có tên là “Đoan Minh Tự”. Niên biểu chính thức của chùa chưa được tìm thấy. Căn cứ dòng chữ ghi trên đôi rồng đá ở cửa chùa thì năm Giáp Thân 1580 đời nhà Mạc mua rồng đá, năm Canh Thân 1610 chùa được tu sửa lại. Như vậy, chùa phải được xây dựng từ trước đó.

Chùa xây dựng theo kiểu nội công ngoại quốc, có quy mô lớn, bao gồm cổng tam quan, gác chuông và tiền đường. Tam quan chùa nằm sát sau đình. Gác chuông và tiền đường được chạm trổ lộng lẫy với các đề tài rồng mây, hoa lá. Thời gian kháng chiến, quả chuông to trong gác chuông được lấy để đúc vũ khí. Trong chùa có tượng Phật tổ Như Lai to lớn và tượng Phật bà Quan Âm ngồi trên tòa sen.

Từ tòa Tam Bảo theo hai dãy hành lang vào tới Động Tiên, là một công trình kiến trúc hiếm có. Động tiên đã ghi lại đầy đủ hình ảnh Thích Ca từ lúc mới sinh ra, lúc trưởng thành và khi lìa bỏ kinh thành vào động tu hành đến đắc đạo. Tiếp theo đi qua sân rộng tới nhà Tổ, nơi đây thờ Sư Tổ và các vị sư đã trụ trì chùa. Chùa Thổ Hà được xếp hạng là Di tích lịch sử văn hóa năm 1996.

Văn chỉ làng Thổ Hà được xây dựng vào thế kỷ 17 (theo tấm bia còn lưu giữ thì được xây dựng vào năm Vĩnh Thịnh thứ 5, năm 1680) thờ Khổng Tử, Tứ Phối, 72 vị tiên hiền… Nơi đây được coi là cái nôi của nền học thức Thổ Hà. Đây cũng là địa điểm thu hút khá đông du khách đến tham quan, nhất là vào mùa thi cử, các sĩ tử đều đến đây thắp hương, lễ bái với tấm lòng thành kính. Văn chỉ làng Thổ Hà được công nhận là Di tích lịch sử văn hóa ngày 28/2/1999.

Vẻ đẹp cổ kính, thuần Việt, sự hồn hậu, mến khách của người dân với nghề làm gốm cổ truyền, làng Thổ Hà là một địa chỉ du lịch hấp dẫn với du khách và các nhà nghiên cứu văn hóa.

 

Nguồn: Vietnamtourism.gov.vn

Lên Mộc Châu đón tết cùng đồng bào Mông

(TITC) – Người Mông ở Mộc Châu (Sơn La) có hai dịp Tết trong năm là Tết Độc lập và Tết cổ truyền. Đến Mộc Châu những dịp Tết này, du khách sẽ bị cuốn hút bởi bản sắc văn hóa đa dạng được thể hiện qua những phong tục tập quán đặc sắc của đồng bào Mông.

 

Từ sau Cách mạng Tháng Tám và Bác Hồ đọc bản Tuyên ngôn độc lập năm 1945 đến nay, đồng bào dân tộc Mông ở Mộc Châu đã lập nên một cái Tết mới là Tết Độc lập (hay còn gọi là Tết Cờ đỏ sao vàng) để mừng Quốc khánh 2/9 và tỏ lòng biết ơn Đảng, Bác Hồ. Tết Độc lập diễn ra trong 3 ngày, từ ngày 31/8 đến hết ngày 2/9. Trong dịp này, tất cả người Mông từ các bản làng gần xa, không phân biệt già trẻ, gái trai, giàu nghèo xúng xính trong những bộ quần áo đẹp nhất tập trung ở trung tâm phố huyện để tham gia các hoạt động của ngày Tết. Đến đây, du khách không chỉ có dịp chiêm ngưỡng những trang phục truyền thống sặc sỡ, đủ màu sắc mà còn được tham gia nhiều hoạt động văn hóa, thể thao, trò chơi dân gian thú vị như: kéo co, đẩy gậy, bắn nỏ, múa xòe, đánh tu lu, giã bánh dầy, tung còn, thi văn hóa ẩm thực các dân tộc; biểu diễn dân ca, dân vũ, tấu nhạc cụ dân tộc…

 

Được chờ đợi nhất trong dịp Tết Độc lập hàng năm chính là phiên chợ tình mỗi năm chỉ họp một lần vào đêm mùng 1, rạng sáng mùng 2/9. Sắc váy trắng của người Mông Đơ, váy đen của người Mông Đu, váy đỏ của người Mông Si, váy xanh của người Mông Súa cùng váy hoa của người Mông Lềnh… hòa vào nhau kéo về phiên chợ như một rừng hoa rực rỡ sắc màu. Tuy người rất đông, ngựa xe kín đường, kín chợ nhưng không hề có tiếng cãi cọ, chen lấn, xô đẩy, chỉ có những bàn tay nắm lấy những bàn tay, những ánh mắt nhìn nhau đắm đuối, những cử chỉ thân mật… Nhiều thế hệ thanh niên gặp nhau ở phiên chợ tình đã nên vợ nên chồng, cũng có những mối tình không dẫn đến hôn nhân, nhưng họ vẫn giữ mối quan hệ bạn bè tốt đẹp. Mỗi năm, họ gặp lại nhau một lần vào đêm chợ tình để thăm hỏi, động viên nhau. Vì vậy, đêm chợ tình, bố mẹ, con cái mỗi người đều đi theo lối riêng của mình và hẹn đến sáng thì cùng nhau về bản, tuyệt nhiên không ai hỏi đêm qua người kia gặp ai, ở đâu, làm gì… Cuộc vui nào rồi cũng qua, để lại kỷ niệm sâu nặng về tình yêu, tình anh em, bạn bè và âm vang của những bài ca, điệu múa ẩn chứa tâm hồn người dân miền sơn cước.

 

 

Diễn ra từ ngày 30/11 âm lịch hàng năm (trước Tết Nguyên đán khoảng 1 tháng) và kéo dài trong suốt 3 ngày, Tết cổ truyền là dịp để đồng bào Mông vui chơi, gặp gỡ nhau sau một năm lao động vất vả. Vì vậy, dù làm ăn ở đâu xa, người Mông cũng nhớ ngày Tết truyền thống của dân tộc mình mà về thắp hương tổ tiên, mong các cụ phù hộ cho gia đình luôn mạnh khỏe, làm ăn phát tài.

 

Vào trước ngày 30/11 âm lịch, người Mông tạm gác mọi công việc thường ngày để tập trung sửa sang nhà cửa, thay mới ban thờ, mổ lợn, làm bánh dầy (thay vì làm bánh chưng như người Kinh)… chuẩn bị đón Tết. Buổi chiều ngày 30/11, tất cả các dụng cụ canh tác như cày, cuốc, xẻng, dao, cào… đều được gia chủ dán giấy niêm phong rồi xếp vào cạnh góc bàn thờ, 10 ngày sau mới lấy ra sử dụng. Trong dịp Tết cổ truyền, người Mông luôn thờ ma nhà và những vật dụng giúp họ sinh sống, phát triển.

 

Khoảnh khắc giao thừa của đồng bào Mông được tính bằng tiếng gà gáy đầu tiên trong đêm 30 Tết. Vào thời khắc này, mọi người trong gia đình ngồi quây quần bên bếp lửa hát những bài hát truyền thống đón xuân hoặc ôn lại những câu chuyện của năm cũ.

 

Tết cổ truyền của người Mông cũng là dịp để các đôi trai gái tìm hiểu nhau. Từ sáng sớm, họ đã chuẩn bị quần áo mới, đến đúng 7 giờ sáng ngày mùng 1 Tết thì tập trung tại một địa điểm rộng để chơi trò ném quả vải (quả do tự tay họ làm ra bằng vải sợi). Chàng trai ném quả vải về hướng cô gái mà mình thích, nếu cô gái đó thích thì bắt lấy, coi như là sự đồng ý. Ngược lại, cô gái cũng làm như vậy với chàng trai mà họ thích. Đến tối, họ lại tập trung để chơi trò ném quả lông, y như trò ném quả vải. Nhiều đôi trai gái trong bản nên duyên vợ chồng cũng nhờ vào Tết cổ truyền và những trò chơi mang đậm bản sắc dân tộc này.

 

Người Mông rất mến khách, họ quan niệm nếu Tết có khách lạ đến chơi thì cả năm sẽ gặp may mắn. Vì vậy, khách đến nhà người Mông trong dịp Tết luôn được đón tiếp rất chu đáo, được mời ăn, mời rượu và mời ngủ tại nhà. Trước khi ra về, người Mông còn mừng tuổi cho khách 2 chiếc bánh dầy do chính tay họ làm ra.

 

Lên Mộc Châu đón Tết cùng đồng bào Mông chính là cơ hội để du khách khám phá những phong tục, nghi lễ cùng nét văn hóa độc đáo được lưu giữ qua nhiều thế hệ. Những trò chơi, những câu hát, tiếng khèn… như chất xúc tác kết nối mọi người, tăng thêm tình đoàn kết của đồng bào các dân tộc. Để rồi, đến hẹn lại lên, du khách lại muốn thêm một lần quay về miền sơn cước để được ngồi bên chén rượu, mâm cỗ, bếp lửa cùng tình người ấm áp xua tan cái giá lạnh nơi vùng cao này.

 

Phạm Phương

 

Nguồn: Vietnamtourism.gov.vn

Khám phá huyền thoại Ngũ Hành Sơn (Đà Nẵng)

Ngũ Hành Sơn được hình thành bởi quần thể năm ngọn núi Kim – Mộc – Thuỷ – Hoả – Thổ được “bao bọc” bởi rất nhiều huyền thoại khác nhau.

 

Đây là một tuyệt tác về cảnh quan thiên nhiên “sơn kỳ thủy tú”, huyền ảo thơ mộng mà tạo hóa đã ban tặng cho Đà Nẵng.

 

Ngũ Hành Sơn nằm cách trung tâm Đà Nẵng khoảng 8 km về phía Đông Nam, trên một bãi cát mênh mông gần bờ biển, thuộc làng Hoà Khuê, ấp Sơn Thủy, huyện Hòa Vang nay thuộc phường Hòa Hải, quận Ngũ Hành Sơn. 


Nơi đây, các dấu ấn văn hoá – lịch sử còn in đậm trên mỗi công trình chùa, tháp đầu thế kỷ XIX, trên mỗi tác phẩm điêu khắc Chăm của thế kỷ XIV, XV. Những bút tích thi ca thời Lê, Trần còn in dấu trên các vách đá rêu phong trong các hang động.


Những di tích văn hoá – lịch sử như mộ mẹ tướng quân Trần Quang Diệu, đền thờ công chúa Ngọc Lan (em gái vua Minh Mạng), bút tích sắc phong quốc tự còn lưu giữ tại chùa Tam Thai của triều Nguyễn, đến các di tích lịch sử đấu tranh cách mạng như: Địa đạo núi đá Chồng, hang Bà Tho, núi Kim Sơn, hang Âm Phủ,… Tất cả chứng minh hùng hồn về một Ngũ Hành Sơn huyền thoại, về một vùng đất địa linh nhân kiệt đầy chất sử thi.


Chùa Tam Thai


Chùa Tam Thai tọa lạc trên ngọn Thủy Sơn – một trong năm ngọn Ngũ Hành Sơn  thuộc quần thể danh thắng Non Nước – Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng.


Là một ngôi chùa cổ (xây dựng năm 1930), được xem là quốc tự và di tích Phật giáo. Năm 1825, Minh Mạng trong chuyến tuần du Ngũ Hành Sơn đã cho xây dựng lại chùa, năm 1827 cho đúc 9 tượng và 3 chuông lớn. Thời vua Minh Mạng có một công chúa (con vua Gia Long) đến xin xuất gia. Tương truyền vua đã thiết lập du cung ở đây để nghỉ ngơi và tham quan thắng cảnh Ngũ Hành Sơn.


Chánh điện thờ Phật Di Lặc bằng đồng lớn ngồi trên tòa sen, hai bên thờ tượng Quan Thánh và Bồ Tát. Chùa là nơi từng được quốc sư Hưng Liên trụ trì và đã truyền từ lúc khai sơn đến nay được 18 đời.


Chùa cũng là nơi có nhiều khách hàng hương thăm viếng, cầu Phật, đặc biệt là vào dịp lễ, Tết.


Động Âm Phủ


Hệ thống hang động trong quần thể Ngũ Hành Sơn là cả một thế giới kỳ bí. Với sự kiến tạo độc đáo của thiên nhiên, động Âm Phủ được xem là một trong những hang động lớn và huyền bí nhất trong quần thể hang động ở khu danh thắng Ngũ Hành Sơn.


Động Âm Phủ có tên từ thời vua Minh Mạng (đầu thế kỷ 19), khi nhà vua vi hành đến ngọn núi này. Theo thuyết âm dương, trong đời sống con người và vạn vật luôn tồn tại hai mặt đối lập: có ngày phải có đêm, có sinh phải có tử. Vì thế, trên ngọn Thủy Sơn có đường lên trời thì dưới chân có động xuống Âm Phủ. Trong động Âm Phủ có nhiều truyền thuyết vừa thực, vừa ảo. Thực ở đây là con người ai cũng có một lần sinh và một lần tử, còn ảo ở đây là sự phân xử của tạo hóa về cái thiện và cái ác của kiếp con người.


Bởi thế, trong động Âm Phủ được chia làm hai ngách, đó là ngách lên trời và ngách xuống âm phủ. Âm phủ là thế giới của người chết. Theo giáo lý của đạo Phật, chết không phải là hết mà là sự chuyển tiếp để đầu thai về cảnh giới khác. Người tích thiện nhiều sẽ được siêu thoát, kẻ gây nên tội ác sẽ bị đọa đày. Thiện và ác đến đây sẽ được phân minh. Theo định luật âm ty, con người trước khi chết, các linh hồn phải qua chiếc cầu Âm Dương trên sông Nại Hà định mệnh.


Động Huyền Không


Nằm trong quần thể danh thắng Ngũ Hành Sơn, Huyền Không là một trong những động đẹp nhất, huyền ảo nhất, có giá trị tâm linh to lớn nhất. Động Huyền Không là một động lộ thiên, vòm hình tròn, nền bằng phẳng, trên vòm có 5 lỗ thông ra bên ngoài, ánh sáng tràn vào đây tạo một không khí huyền bí lung linh cho hang động.

 

Có chu vi khoảng 25m, Huyền Không động được bài trí khá đa dạng, ngay bậc cấp bước xuống động, hai bên là tượng của các vị Thiện và Ác như nhắc nhở con người phải luôn thánh thiện, từ bi hướng đến cõi sắc không của Phật.


Trên cao nhất là tượng Phật Thích Ca, được làm vào năm 1960 bởi nghệ nhân Nguyễn Chất, người nổi tiếng ở làng đá mỹ nghệ Non Nước. Bên dưới là bàn thờ Phật Địa Tạng Vương Bồ Tát. Bên trái động có đền thờ bà Ngọc Phi (bà Chúa Tiên), là nơi du khách đến cầu tài, cầu lộc; đền thờ bà Lồi Phi (Chúa Thượng Ngàn) được du khách đến cầu nguyện về sức khỏe và sự bình an.


Sâu bên phải là đền Trang Nghiêm Tự cổ kính được xây dựng năm 1825, gồm ba gian. Gian chính thờ Phật Quan Âm, bên trái thờ 3 vị Thánh (gồm Quan Công, Quan Bình và Châu Xương) tượng trưng cho đức độ, trí dũng và lòng trung thành. Đặc biệt, gian bên phải thờ Ông Tơ, Bà Nguyệt, nơi các đôi trai gái đến cầu duyên, mong được Nguyệt Lão buộc sợi chỉ hồng trăm năm hạnh phúc.


Quanh vòm động có nhiều nhiễu đá bám vào vách tạo nên những hình thù lạ, đó là khuôn mặt ông già nhìn nghiêng, là hình con chim hạc hay đà điểu, hình hai đầu voi với chiếc vòi thả xuống, là con cò cùng chiếc mỏ dài nhọn ép vào vách động…


Động Vân Thông


Động Vân Thông nằm gọn trong lòng núi, hình tròn như đường ống chếch lên phía ngọn núi. Trong động có một tấm bia cổ, khắc 3 chữ “Ngũ Uẩn Sơn”, giữa động có một tượng Phật rất lớn. Sau lưng là đường đi lên động, càng vào sâu càng hẹp và hướng lên đỉnh núi, phải bám vào các tảng đá mới lên được. Cuối động là miệng thông ra ngoài to bằng cái nong (đường kính khoảng hơn 1m). Ánh sáng từ đỉnh dọi vào trong động, tạo ánh hào quang rực rỡ.


Ở động Quan Âm, nhiều thạch nhũ tạo ra những bức tượng Phật rất độc đáo, trong đó, khối thạch nhũ tạo thành tượng Quán Thế Âm Bồ Tát hoàn hảo, đẹp hơn bất cứ pho tượng nào do thợ điêu khắc tạc nên. Cuối động là hồ nước mát trong, lạnh ngọt quanh năm, được gọi là hồ nước Cam lồ. Trên những vách đá rêu phong, du khách đến đây còn có thể tìm thấy những bút tích đề thơ, vịnh cảnh của các thi nhân từ thời Trần, Lê…


Đặc biệt, đứng ở Vọng Giang Đài trên ngọn Thủy Sơn, có thể nhìn con sông Trường Giang chảy xanh biếc, phóng tầm mắt bao quát phong cảnh và khám phá những hang động nổi tiếng.


Ngũ Hành Sơn được ví như hòn non bộ khổng lồ giữa lòng thành phố Đà Nẵng. Cùng với Bà Nà, Sơn Trà, nơi đây được xem là điểm dừng chân hấp dẫn đối với khách du lịch mỗi khi đến với miền Trung trên hành trình khám phá các di sản thế giới./.

 

Nguồn: Vietnamtourism.gov.vn

Cù Lao Câu vẻ đẹp hoang sơ

Cù Lao Câu là một trong những điểm đến lý tưởng cho những ai say mê khám phá với những bãi tắm tuyệt đẹp, triền cát trắng mịn màng chạy dài, uốn lượn bên làn nước trong xanh và những con sóng êm đềm vỗ bờ. Đặc biệt, Cù Lao Câu hấp dẫn du khách ở vẻ đẹp kỳ ảo của đá.

 

 

Sự kỳ diệu của đá

 

Từ đất liền nhìn ra Cù Lao Câu trông như một chiến hạm lớn và còn được mệnh danh là vương quốc đá . Đá ở đây bạt ngàn, những lùm cây xanh chen vào đá, pha sắc xanh vào màu nâu bóng thời gian của đá. Bao quanh đảo là hàng vạn khối đá nhiều màu sắc và hình thù, trông như những đàn thú với nhiều loại lớn nhỏ…Ngoài quần thể đá đủ hình dáng từ chim se sẻ đến rùa, gấu… đảo còn có những hang, khe thiên tạo, dáng rất lạ. Theo địa thế của từng khu, nhiều cái tên mới ra đời như hang Tình yêu, khe Sung Sướng, bãi Tắm Tiên, bãi San Hô, bãi Cá Suốt…

 

Vài năm gần đây, Cù Lao Câu là một trong những điểm đến của các tour du lịch xanh với những ai say mê khám phá vẻ đẹp kỳ thú của đá. Đảo có bãi biển tuyệt đẹp với làn nước màu ngọc bích trong veo, bãi cát trắng hoang sơ nằm bên hàng ngàn bãi đá nhiều màu sắc có hình thù độc đáo, đẹp kỳ ảo. Bàn tay tài tình của tạo hóa đã biến đá nơi đây thành nhiều dáng hình. Xen kẽ các khu vườn đá là những bãi cỏ xanh mướt.

 

Sở hữu làn nước biển trong veo cùng các bãi đá trải dài với các hình dạng kì thú, Cù Lao Câu dường như đẹp trong mọi thời điểm. Vào lúc ban trưa, màu vàng của nắng, màu xanh của nước biển hòa quyện lẫn nhau khiến bạn chỉ muốn lao mình xuống vùng vẫy thật thỏa thê. Buổi chiều, mây mùa hè trắng bồng bềnh trên nền xanh, những bông lau trắng cao hơn đầu người phất phơ trong gió, trời cao lồng lộng và biển xanh ngắt, lăn tăn, rì rào, dịu êm. Ngắm nhìn hoàng hôn từ cầu tàu hoặc bình minh trên bãi đá ven biển sẽ mang lại cho bạn những cảm xúc khó quên.

 

Nếu bạn thích gần gũi với thiên nhiên, thích những cảm giác mới lạ thì mặt phẳng của những tảng đá trên đảo sẽ là chỗ nghỉ ngơi lý tưởng. Trong màn đêm yên tĩnh tuyệt đối, bạn có thể cảm nhận được cơn gió biển hiu hiu, nghe tiếng sóng vỗ bờ rì rào, ngắm trăng sao, cùng hàng trăm chiếc đèn đủ màu sắc của những chiếc ghe đánh cá neo đậu trên biển.

 

Ngoài ra, du khách còn có cơ hội tham quan và cầu bình an, may mắn cho mình và gia đình tại Chùa Hang, khám phá vẻ đẹp của biển Hàng Dương và thưởng thức những món ăn đặc sản chỉ có tại nơi đây như: Cháo rắn, nai nướng…

 

Hệ sinh thái đa dạng

 

Xung quanh đảo nước trong xanh, khi thủy triều xuống bờ biển làm lộ ra vô vàn vỏ ốc, vỏ sò đẹp làm say mê nhiều du khách. Quanh đảo có nhiều loại hải sản sinh sống; nếu như du khách có thể trang bị cho mình một cây cần câu và chút mồi chắc chắn du khách sẽ có những giây phút thú vị tại hòn đảo hoang sơ kỳ thú này. Ở trên đảo còn có giếng cạn để lấy nước sạch xưa gọi là Giếng Tiên.

 

Đảo còn nguyên dáng vẻ hoang sơ với thảm thực vật phong phú, đa dạng; khí hậu trong lành, mát mẻ, dọc hai bên con đường là cỏ và hoa dại đẹp mắt.

Nhưng điểm đặc biệt nhất của Cù Lao Câu là vùng nước xung quanh có sự hiện diện của các hệ sinh thái biển nhiệt đới điển hình, đó là những rạn san hô và thảm cỏ biển, có giá trị lớn về đa dạng sinh học. Đây còn là nơi sinh sống và là bãi đẻ của nhiều loại thủy sinh vật quý hiếm. Suốt dọc đường, từ bãi biển Phước Thể, nơi tàu xuất phát ra đến đảo là vô vàn san hô.

 

Nước trong veo, xanh ngắt để lộ bên dưới những rạn san hô sống đủ hình dáng, màu sắc. Do nằm trong vùng chịu ảnh hưởng của hiện tượng nước trồi, nên khu vực này được xem là nơi có ý nghĩa lớn trong việc duy trì và bổ sung đa dạng sinh học, nhờ vào khả năng thích ứng san hô với sự thay đổi khí hậu.

 

Hoang sơ, đầy bí ẩn và thú vị là ấn tượng mà Cù Lao Câu mang đến cho những ai đã từng một lần đến đảo. Đây là nơi thích hợp cho những người thích khám phá vẻ đẹp của biển, yêu cảm giác mạo hiểm, hứng thú với những hoạt động như đi câu mực đêm, đánh cá, ngắm san hô…

 

 

Nguồn: Vietnamtourism.gov.vn

Bình minh trên biển Quy Nhơn

Nằm trên dải đất ven biển miền Trung nhiều nắng gió nhưng tạo hóa đã ban tặng cho nơi đây một bãi biển đẹp.

 

Đó là bãi biển Quy Nhơn, uốn cong  theo vầng trăng khuyết với bãi cát vàng thoai thoải trải dài 5km từ mũi Tấn đến Ghềnh Ráng, thành phố Quy Nhơn (Bình Định).

 

Nhưng có lẽ, với du khách ngoài việc đi tắm biển, thưởng thức những món ăn hải sản ngon quyến rũ đặc sắc vùng miền thì điều hạnh phúc nhất là được chiêm ngưỡng vẻ đẹp của biển cả trong buổi sớm bình minh. Mặt trời bắt đầu nhô lên ở rất xa, như ở dưới biển từ từ mọc lên. Những tia nắng sớm nhất của bình minh rực hai màu đỏ vàng rọi xuống dòng biển xanh biếc không làm chói mắt những người dạo biển; và cũng bởi những cụm mây, màn sương mỏng manh còn chưa kịp tan ở đâu kéo xuống cứ mơn man sóng biển, tạo nên một cái khung cảnh mờ mờ ảo ảo, như thực như không.

 

Buổi sáng ở Quy Nhơn rất thanh bình. Nó không phải là cái ồn ào, đông đúc như rất nhiều những bờ biển khác trong mùa du lịch. Đến cả tiếng sóng cũng như êm như ru. Những con tàu lớn chở hàng chậm rãi cập cảng. Xa xa một góc thành phố Quy Nhơn đang thức dậy, đón chào một ngày mới. Những rặng dừa ven biển bắt đầu vươn mình hứng lấy tia nắng đầu tiên. Còn với những chiếc thuyền câu mực của người dân làng chài sau một đêm lao động miệt mải vất vả đã cập bến nghỉ ngơi dưỡng sức chuẩn bị cho hành trình tiếp theo.

 

Dường như  tất cả muốn níu chân du khách lưu lại lâu hơn để khám phá vẻ đẹp quyến rũ của mảnh đất này…

 

 

Nguồn: Vietnamtourism.gov.vn

Quần thể di tích lịch sử, danh thắng núi Mằn

Theo ghi chép của Đồng Khánh dư địa chí (Quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn năm 1886-1888), Hoành Bồ thời bấy giờ có nhiều núi đá đẹp như núi Bân (núi Mằn), núi Truyền Đăng, núi Hạp, núi Phượng Các…

 

Tuy nhiên, chỉ có hai ngọn núi nổi tiếng được xếp hạng vào danh lam thắng tích thời Đồng Khánh là núi Mằn và núi Truyền Đăng. Hiện núi Truyền Đăng (núi Bài Thơ ngày nay) thuộc địa phận TP Hạ Long, đã được xếp hạng di tích cấp quốc gia nằm trong khu di tích lịch sử và thắng cảnh núi Bài Thơ.

 

Núi Mằn là ngọn núi đá lèn cao vách dựng, nằm giữa hai nhánh suối Đá Trắng (Bạch Thạch Khe) và suối Lưỡng Kỳ (khe Bân) đổ ra sông Đá Trắng. Nằm trên độ cao gần 300m so với mực nước biển, hình dáng của ngọn núi khiến ta liên tưởng đến con voi ở trong thế quỳ phục, vòi chúc xuống khe Bân. Hệ thống các tảng đá tự nhiên, lớn, nhưng tương đối đồng đều bao quanh núi Mằn như vành mũ. Điểm xuyết giữa màu trắng xanh của những phiến đá là màu xanh của lá, màu đỏ vàng của các loài hoa cùng hệ thực vật bốn mùa tươi tốt ở xung quanh. Lưng chừng núi với vách đá cheo leo và hiểm trở còn có các hang động với những thớ đá, nhũ đá mịn màng, rực rỡ sắc màu, tạo nên vẻ đẹp kỳ diệu, huyền bí. Từ trên đỉnh núi Mằn nhìn xuống, phía Đông và phía Tây ngọn núi có dòng sông Bân và sông Đá Trắng chảy lượn bao quanh, nước trong xanh như mắt ngọc, tạo thành bức tranh sơn thuỷ đầy mê hoặc.

 

Không chỉ là danh thắng đẹp, có cảnh sắc hữu tình với câu sấm trạng nổi tiếng lưu truyền đến tận ngày nay “Mằn sơn án hải, vạn đại Đế Vương”, ngọn núi nổi tiếng từ thời Đồng Khánh còn chứa đựng những giá trị về lịch sử, văn hoá. Theo lời người dân địa phương kể lại, từ ngàn xưa, nhân dân trong vùng thường coi núi Mằn và núi Bài Thơ là hai cặp núi song sinh với nhiều truyền thuyết hấp dẫn, ly kỳ. Trong đó, núi Mằn gắn liền với truyền thuyết “Ông khổng lồ gánh đá vá trời”. Tương truyền rằng, mỗi bước chân ông đi qua đều gắn liền với một số địa danh lưu truyền đến ngày nay. Đặc biệt, khi ông trở vai, đôi gánh gãy làm đôi, một bên gánh rơi xuống TP Hạ Long là núi Bài Thơ, một bên rơi xuống địa phận Xích Thổ (huyện Hoành Bồ) chính là núi Mằn ngày nay. Di tích núi Mằn còn gắn liền với các sự tích lịch sử về Cao Sơn Đại Vương, Quý Minh Đại Vương và các truyền thuyết liên quan đến hệ thống đình, miếu nằm rải rác trên địa phận xã Thống Nhất và thị trấn Trới (huyện Hoành Bồ), như: Miếu Ông Cộc, miếu Ông Lang, miếu Ông Dài, đình Xích Thổ…

 

Để thờ thần núi Mằn (Cao Sơn, Quý Minh Đại Vương) và Long Hải sơn thần (vị thần cả cai quản vùng sông nước), nhân dân trong vùng đã xây dựng đền Bạch Trạch ngay dưới chân núi. Trải qua nhiều biến cố lịch sử, đến nay đền không còn thờ Cao Sơn, Quý Minh Đại Vương và Long Hải sơn thần, mà xây dựng thêm am thờ Phật và thờ Mẫu Thượng Ngàn, Tam toà Thánh Mẫu. Đền có khuôn viên gần 1.000m2, bao gồm các công trình: Phủ Bà Chúa Đá trắng, am Thờ Phật, nơi thờ Sơn Thần và Cung bà Chúa Bản thổ. Hầu hết các công trình được xây trạch, trát vữa, mái lợp ngói tây và nền lát gạch hoa. Cùng trong quần thể di tích núi Mằn còn có đền ông Cộc, Ông Dài, Ông Lang, miếu Cạch Trạch.

 

Với vẻ đẹp hữu tình tạo hoá đã ban tặng cùng với hệ thống đền, miếu gắn liền với nhiều truyền thuyết lịch sử, vừa qua quần thể di tích lịch sử – danh thắng núi Mằn đã được Bộ VH,TT&DL quyết định xếp hạng di tích cấp quốc gia. Đây là cơ sở, là hành lang pháp lý cho việc lập quy hoạch bảo tồn, tôn tạo để giữ gìn và phát triển di tích núi Mằn thành một trong những điểm tham quan du lịch hấp dẫn của huyện Hoành Bồ nói riêng, tỉnh Quảng Ninh nói chung.

 

 

Nguồn: Vietnamtourism.gov.vn

Điểm tham quan thác Khe Vằn

Huyện Bình Liêu có tiềm năng phát triển du lịch với nhiều cảnh đẹp rất tự nhiên và hoang sơ, như thác Khe Vằn, ruộng bậc thang; những nét văn hoá đặc sắc của những bản làng dân tộc Dao, Sán Chỉ với điệu hát Soóng Cọ, sản phẩm thủ công thêu thùa, những món ăn truyền thống giàu bản sắc của dân tộc thiểu số vùng núi Bắc Bộ…

 

Trong đó, điểm tham quan thác Khe Vằn (xã Húc Động) đang được huyện phối hợp xúc tiến đầu tư xây dựng thành một trong tuyến, điểm du lịch tại địa phương.

 

Xã Húc Động hiện không chỉ nổi tiếng về trồng dong riềng, sản xuất miến dong, mà còn được nhiều người biết đến với thác Khe Vằn độc đáo, một điểm du lịch hấp dẫn của huyện. Thác cao khoảng 100m, có 3 tầng nước chảy, đổ xuống trắng xoá, tạo nên một không gian sơn thuỷ hữu tình với cảnh sắc bầu trời, cây xanh, đá, nước, âm thanh rì rào, hơi nước mát lan toả. Dù mùa mưa hay mùa khô, dòng nước ở đây vẫn chảy không ngừng tạo nên vùng khí hậu đặc trưng rất dễ chịu. Mùa du lịch, trong cái nóng bức của mùa hè, du khách được đằm mình trong làn nước trong mát của dòng thác, cảm giác hoà mình vào thiên nhiên đó thật khoan khoái. Thác Khe Vằn đã được công nhận là di tích danh thắng cấp tỉnh tháng 1-2011.

 

Trong buổi làm việc triển khai xây dựng tuyến, điểm du lịch trên địa bàn huyện diễn ra trung tuần tháng 7 vừa qua tại xã Húc Động giữa UBND huyện Bình Liêu, Sở VH-TT&DL với Công ty TNHH MTV Nam Phong đã đưa ra mục tiêu phát huy tiềm năng của thác Khe Vằn và khắc phục hạn chế về cơ sở hạ tầng xã Húc Động, để đón khách du lịch đến từ các thị trường châu Âu, Mỹ. Về lâu dài, bằng các nguồn đầu tư, huyện sẽ từng bước hoàn thiện cơ sở hạ tầng và triển khai khai thác sản phẩm du lịch theo quy hoạch bảo tồn di tích danh thắng gắn với phát triển du lịch trên địa bàn, hướng đến khách du lịch đa dạng từ thị trường trong và ngoài nước.

 

Trên cơ sở này, hiện Bình Liêu đã có kế hoạch triển khai xây dựng tuyến, điểm du lịch trên địa bàn. Trong đó, với điểm tham quan thác Khe Vằn, trước mắt huyện chỉ đạo phối hợp tu sửa, cải tạo những đoạn dốc, ổ voi, ổ gà, điểm sạt lở và che khuất tầm nhìn, tạo điều kiện cho các phương tiện lưu thông đến trung tâm xã; tu sửa đường từ trung tâm xã đến chân thác, đường vào các bản Khe Vằn, Sú Cáu; đẩy mạnh tuyên truyền người dân giữ gìn cảnh quan môi trường, không chặt phá rừng, gây ô nhiễm môi trường khu vực quanh thác; thành lập đội TNTN làm công tác VSMT, hướng dẫn, giúp đỡ du khách trong quá trình tham quan; lựa chọn các ruộng bậc thang, viết các lời dẫn về nguồn gốc di tích giới thiệu với du khách; làm các đồ thủ công truyền thống, các món ăn dân tộc; thành lập đội văn nghệ, xây dựng địa điểm nghỉ chân ăn uống, mua sắm, trưng bày sản phẩm v.v..

 

Ông Trần Minh, Chủ tịch UBND xã cho biết: Địa phương đề cao công tác tuyên truyền cho người dân trong xã, nhất là ở các thôn gần khu vực thác hiểu được giá trị, tiềm năng của thác Khe Vằn để có ý thức bảo vệ chung. Cùng với đó, xã vận động nhân dân các dân tộc Sán Chỉ, Dao trên địa bàn bảo tồn trang phục truyền thống, phong tục sinh hoạt sản xuất, nhà ở phù hợp để tạo nét văn hoá đặc trưng thu hút du khách. Đặc biệt, người Sán Chỉ ở Húc Động có truyền thống hát Soóng Cọ từ hàng trăm năm nay. Vào những đêm trăng sáng, trai gái ngồi hát đối đáp với nhau bên dòng thác Khe Vằn, những câu hát trữ tình chính là sợi tơ hồng gắn kết các đôi nam nữ, nhiều người đã nên vợ, nên chồng từ những buổi hát giao duyên như thế. Ngày hội Tháng Ba được người Sán Chỉ tổ chức vào tháng 3 âm lịch hàng năm, hiện trở thành một sản phẩm du lịch mà trong đó hát Soóng Cọ là linh hồn của ngày hội. Húc Động đã đưa vào hoạt động có hiệu quả 2 CLB hát Soóng Cọ và dự kiến cho ra mắt thêm 3 CLB hát Soóng Cọ trong năm nay để bảo tồn các nét văn hoá dân tộc Sán Chỉ, đồng thời tạo ra sản phẩm dân ca địa phương phục vụ du khách. Cùng với đó là khai thác sản vật ở địa phương như miến dong, cá, ốc suối, gà đồi.

 

Ông Trần Nhuận Vinh, Giám đốc Công ty TNHH MTV Nam Phong, cho biết: Nhằm đa dạng hoá và phát triển các sản phẩm du lịch của tỉnh, mở rộng các tuyến, điểm du lịch mới, nhất là các tuyến du lịch biên giới để kết nối các tour du lịch, kéo dài thời gian lưu trú của du khách, Công ty đã tiến hành khảo sát thực địa các điểm đến có tiềm năng phát triển sản phẩm du lịch tại huyện Bình Liêu là thác Khe Vằn (Húc Động), núi Cao Ba Lanh (Đồng Văn)… Đơn vị đánh giá Bình Liêu giống như Sa Pa thu nhỏ của Quảng Ninh, sẽ phát triển rất tốt du lịch sinh thái và du lịch văn hoá. Việc mở các điểm đến du lịch văn hoá các dân tộc thiểu số sẽ góp phần làm phong phú các sản phẩm du lịch, đáp ứng nhu cầu thực tế của khách du lịch đến Quảng Ninh. Nếu biết khai thác và phát huy, Bình Liêu sẽ là điểm đến kết nối với Vịnh Hạ Long…

 

 

Nguồn: Vietnamtourism.gov.vn

TIN MỚI NHẤT