Điểm đến du lịch

Những địa điểm du lịch hấp hẫn những địa điểm du lịch trong nước, địa điểm du lịch nước ngoài được chúng tôi tổng hợp và đưa tin đến Quý bạn đọc đam mê du lịch có cái nhìn tổng quan nhất về các địa danh du lịch để quyết định cho mình cho những chuyến du lịch ý nghĩa nhất

Đêm trên Vịnh Hạ Long – bình yên và thanh thản

Rob và Lina Eroh là hai vợ chồng sống tại San Francisco (Mỹ). Rob là kỹ sư phần mềm và Lina là nhà văn. Cả hai đều rất yêu thích du lịch; họ từng đi nhiều nơi trên thế giới và thường kể lại những chuyến đi của mình trên trang web cá nhân hay gửi cho các tạp chí về du lịch.

Bài viết dưới đây của hai người được đăng tải trên trang web: erohisms.com.

 

Vợ chồng Rob và Lina Eroh trên vịnh Hạ Long

 

Vịnh Hạ Long với hơn 1.000 đảo đá lớn nhỏ thực sự là một địa điểm du lịch hàng đầu ở Việt Nam. Bạn có thể biết đến Hạ Long qua những bức ảnh, bưu thiếp hay những clip trên Internet, nhưng những thứ đó không thể nào sánh được với trải nghiệm trực tiếp, tận mắt chứng kiến sự kì diệu của cảnh quan nơi đây. Nếu bạn là một người yêu thích những nơi hoang sơ yên tĩnh xen lẫn chút phiêu lưu mạo hiểm, Vịnh Hạ Long chính là nơi bạn nên đến.

 

Để tổ chức một chuyến đi Hạ Long, theo chúng tôi, việc lên một kế hoạch hợp lý là điều hết sức quan trọng. Kinh nghiệm đầu tiên mà chúng tôi rút ra sau chuyến thăm Hạ Long, đó là bạn phải dành ít nhất 3 ngày mới tạm cho là đã khám phá tương đối đầy đủ về danh thắng này. Khoảng thời gian đó đủ để bạn tham quan những địa điểm du lịch nổi tiếng trên Vịnh cũng như tận hưởng bầu không khí trong lành và chiêm ngưỡng cảnh tượng thiên nhiên kì thú.

 

Sự thật thì du lịch Hạ Long không có gì là quá tốn kém. Bạn có thể dễ dàng chọn một chuyến du lịch 3 ngày chỉ với 55 Đôla (tất nhiên với mức giá đó, mọi dịch vụ chỉ ở mức trung bình). Về phần chúng tôi, chúng tôi tham quan Vịnh Hạ Long vào mùa hè với giá 37 Đôla/người/ngày, một mức giá phù hợp với chúng tôi và điều kiện chuyến đi thực sự rất tốt. Có lẽ điều khó khăn nhất đối với khách du lịch chính là chọn được một công ty tổ chức du lịch tốt với mức giá phù hợp. Bởi có rất nhiều công ty hay thậm chí cá nhân ở đây kinh doanh tổ chức tour du lịch với rất nhiều mức giá khác nhau.

 

Hoạt động thú vị và được yêu thích nhất, có lẽ là việc chèo thuyền kayak đi thăm các hang động trên Vịnh. Chúng tôi đã được tự mình chèo thuyền vào “hang James Bond” (hang được quay trong bộ phim nổi tiếng “Điệp viên 007 – Ngày mai không bao giờ chết”) và dành hàng giờ thám hiểm phía trong. Thật là một trải nghiệm không thể nào quên! Hai đêm trên Vịnh là hai trong số ít những đêm chúng tôi có được giấc ngủ bình yên sau một khoảng thời gian dài sống ở các thành phố lớn. Chúng tôi dành một đêm trên tàu và một đêm trên đảo. Cả hai nơi đều yên tĩnh và trong lành, tạo cảm giác thanh bình tĩnh lặng tuyệt đối.

 

Không gian trên biển có lẽ khiến cả những người khó tính nhất cũng phải hài lòng. Chỉ cần bạn dậy sớm lúc mặt trời mọc và dành thời gian đón những tia nắng đầu tiên trong ngày, mọi thứ sẽ trở nên thanh thản và bình yên một cách kì lạ…

Rob và Lina Eroh

Nguồn: Vietnamtourism.gov.vn

Khám phá Ma Ly Pho – Lai Châu

Ma Ly Pho là mảnh đất xa xôi của tỉnh địa đầu Lai Châu, nơi biên thùy của Tổ quốc thiêng liêng. Nắng gió Ma Ly Pho được cộng hưởng tuyệt vời của dòng Nậm Na – chi lưu lớn của dòng Đà giang khi nhập vào Việt Nam đã uốn lượn “tưới” dòng nước đầu tiên cho vùng đất này.

 

Ma Ly Pho thuần hậu và đẹp tinh khiết. Có nhà thơ đã ví: “Lối vào Ma Ly Pho như sợi chỉ xuyên qua xống váy Mèo”, hình tượng nghệ thuật ấy giờ đây vẫn nguyên vẹn khi Ma Ly Pho có những cô gái dân tộc Mông xinh đẹp ngày ngày tắm dòng Nậm Na, phơi váy mèo trên những dải cỏ xanh mướt mát bốn mùa.

 

 

Ma Ly Pho đọc chệch đi là Mã Lỳ Pho nghĩa là “dốc sức ngựa”. Ma Ly Pho hiểm trở, thăm thẳm gập ghềnh những dãy núi chênh vênh xám ngoét đá. Đấy là thử thách với bất kỳ ai muốn khám phá mảnh đất huyền bí thơ mộng và hoang dã này. Những dốc lên thẳng đứng, dốc xuống hoắm sâu luôn là “bài tập” trắc nghiệm cho sự can đảm, mạo hiểm của người ưa khám phá.

Nhưng nếu có đủ bản lĩnh vượt qua “dốc sức ngựa” bạn sẽ thấy một Ma Ly Pho hiền lành như cô gái. Ở đấy không có những ngôi nhà khang trang, toàn nhà sàn hoặc nhà trình tường, những cô gái Mông bên bậu cửa chăm chỉ thêu dệt và nhoẻn những nụ cười tươi như hoa cúc quỳ bên sườn núi.

 

Những món ăn cầu kỳ của vùng Tây Bắc cũng được Ma Ly Pho hội tụ như một tinh hoa đất trời. Này món “khâu nhục” với thịt lợn đã được hầm cách thủy trông bóng nhẫy. Đây “thắng cố” ngựa còn thơm mùi cỏ non, mùa đông tê rét có được bát “tháng cố” ngun ngút khói cũng cảm thấy ấm lòng, ấm dạ.

 

Từ hoàng hôn, người lạ đến Ma Ly Pho sẽ phải trải qua cảm giác đượm buồn của mảnh đất biên thùy. Khói lam chiều từ những ngôi nhà sàn bên sườn núi bay theo gió, quẩn vào những tán cây rừng rồi hoà vào màn sương sẽ cho bạn một cảm giác đậm đặc buồn. Nhưng cảm giác ấy cũng rất cần thiết cho những người ưa khám phá, đặc biệt với Ma Ly Pho.

 

Đêm đến, lẻ tẻ trên sườn đồi, trên lưng chừng núi hay dưới những thung lũng xa xa có ánh đèn lập lòe như những chú đom đóm bay đêm. Nhưng bạn cũng dễ dàng chọn được “đất lành” ở Ma Ly Pho để cắm trại qua đêm, hay chọn những hang đá đốt lửa sưởi ấm và nướng cá bắt ở dòng Nậm Na.

 

Và cuối cùng là tình người Ma Ly Pho lúc nào cũng hừng hực bởi tính hiếu khách, thật thà hiếm có của người Mông bản địa. Không khí chan hòa ấy đem lại cho mỗi người như cảm giác là người một nhà – mái nhà chung là Ma Ly Pho. Khi bạn rời xa, họ sẽ tiễn chân kèm theo câu với gọi: “U mạn gi” tức là, hẹn gặp lại./.

Nguồn: Vietnamtourism.gov.vn

Đến An Giang khám phá ẩm thực vùng Thất Sơn

Vùng núi Thất Sơn, An Giang không chỉ có cảnh quan đẹp mắt, thu hút khách du lịch mà nơi đây còn có những món ăn hấp dẫn không thể bỏ qua.

 

Không nhiều điểm du lịch cũng như tài nguyên văn hóa như những tỉnh, thành lớn khác trên cả nước nhưng ở An Giang cũng có những nét đặc trưng văn hóa hấp dẫn, thú vị. Thành phố Châu Đốc thuộc tỉnh An Giang được biết đến rộng rãi với Lễ hội vía Bà Chúa xứ, núi Sam. Khu du lịch núi Sam cũng là một trong những khu du lịch thu hút khách du lịch tại đồng bằng sông Cửu Long với nhiều di tích lịch sử, tôn giáo quan trọng như: Lăng Thoại Ngọc Hầu, chùa Tây An, Chùa Phước Điền…Đặc biệt là khu vực núi Thất Sơn gồm 7 ngọn núi tiêu biểu là Thiên Cẩm Sơn; Ngũ Hồ Sơn; Phụng Hoàng Sơn; Ngọa Long Sơn; Liên Hoa Sơn; Anh Vũ Sơn; Thủy Đài Sơn. Khu vực này không chỉ có cảnh quan thiên nhiên hùng vĩ, đẹp mắt mà còn có ẩm thực vô cùng nổi tiếng, hấp dẫn.


Ẩm thực vùng núi Thất Sơn được hình thành qua suốt quá trình lịch sử, chính người dân là những người đã tạo nên hương vị riêng cho các món ăn tại đây với cách gia giảm, chế biến gia vị được truyền từ đời này qua đời khác kết hợp với thực phẩm, nông phẩm tươi của vùng. Những món ăn nổi tiếng nhất tại Thất Sơn có Cháo cá rau đắng; Bánh xèo; Gỏi sầu đâu và các món chế biến từ măng tươi.


Gỏi sầu đâu là món ăn khai vị kết hợp từ vị đắng dìu dịu của sầu đâu và vị mặn, ngọt, dai dai của khô cá lóc (cũng có thể thay cá lóc bằng cá sặc bổi). Hai vị này quyện với nhau tạo ra một món ăn hấp dẫn không thể nhầm lẫn với bất kỳ món gỏi nào khác. Để có 1 đĩa gỏi ngon, cần phải chọn được những đọt sầu đâu non kèm với bông. Khô cá lóc phải được nướng trên than đỏ lửa, sau khi nướng chín, xé ra từng miếng nhỏ rồi trộn chung với đọt sầu đâu, thêm vào ít nước me chua, đường, ớt. Tất cả phải đúng liều lượng để tạo nên món ăn không thể quên với những ai đã từng nếm thử.

 

Cháo cá rau đắng là món cháo mang đến nhiều dư vị hấp dẫn và thích thú cho du khách. Hấp dẫn bởi không có nhiều vùng có rau đắng, để có được thứ rau này, người dân địa phương phải lên núi cao tìm và hái về. Đúng như tên gọi, rau đắng có vị đắng , nhưng khi ăn cùng với cháo cá nóng, nó lại mang đến cho thực khách cảm giác ngọt mát sau cảm giác đắng 1 chút lúc ban đầu.


Với nhiều khách du lịch, bánh xèo vùng Thất Sơn thậm chí còn ngon hơn vùng đồng bằng, không phải vì các đầu bếp ở đây khéo léo hơn mà món ăn này ngon do đĩa rau rừng ăn kèm. Khác với vùng đồng bằng, đĩa rau sống ăn kèm bánh xèo ở đây toàn những loại rau dại, quanh năm tươi tốt như lá sung, cát lồi, tàu bay, ngạnh, đọt bứa, kim thất…

 

Các món ẩm thực từ măng tại vùng Thất Sơn rát đa dạng như: canh măng chua, ếch xào măng, măng xào gà, măng xào thịt bò, măng luộc chấm vừng…Sở dĩ măng ở đây nổi tiếng vì nó được người dân hái về từ trên núi, măng núi có hương vị thơm mát nhưng rất giòn do đó khi kết hợp với thực phẩm nào cũng dễ tạo nên một món ăn ngon.


Không chỉ có những món ăn kể trên, gà hấp lá trúc, bánh canh Vĩnh Trung, cốm dẹp Tri Tôn, Tung lò mò…cũng là những món ăn ngon khó cưỡng với khách du lịch khi đến với vùng núi Thất Sơn.


Nếu lựa chọn An Giang cho chuyến du lịch sắp tới hoặc chuẩn bị có chuyến công tác tại mảnh đất này, du khách hãy dành thời gian tới vùng núi Thất Sơn để thưởng thức ẩm vùng mang phong vị rất riêng nơi đây.

 

 

Nguồn: Vietnamtourism.gov.vn

Khám phá Hang Phiêng Tung – Thái Nguyên

Vào giai đoạn hậu kỳ đá cũ, trên địa bàn miền Bắc Việt Nam đã xuất hiện những bộ lạc cư trú trên các địa hình khác nhau từ miền núi đến đồng bằng, sinh sống với phương thức săn bắt hái lượm.

Thái Nguyên với địa hình nhiều núi đá đã trở thành một nơi cư trú khá thuận lợi cho những bộ lạc thời kỳ hậu đá cũ. Những di vật phát hiện tại hang Phiêng Tung đã cho chúng ta biết đến một kỹ nghệ đá mới – kỹ nghệ công cụ mảnh tước. 

 

Hang Phiêng Tung tiếng Tày có nghĩa là cao và bằng, nằm ở phía Đông nam núi Mèo, thuộc địa phận xóm Trung Sơn (Bản Cái), xã Thần Sa, Võ Nhai. 

 

 

Hang có hình thù như miệng con hổ nên nhân dân trong vùng gọi là hang Miệng Hổ. Hang rộng khoảng 10m, dài 20m cao 7m, cửa quay về hướng đông nam, cao hơn thung lũng phía dưới khoảng 50m, cách sông Nghinh Tường  khoảng 50m về phía bắc. Bên trong hang có tầng ngách nhỏ, không chứa di vật khảo cổ. Nền hang dốc thoải vào bên trong, trên có nhiều đá tảng lăn. Hang này rất thuận tiện cho người nguyên thủy cư trú. Con sông nhỏ Nghinh tường nước chảy quanh năm từ phía Bắc qua phía đông và phía nam của chân núi Mèo. Đoạn qua sông này về mùa cạn nổi lên những bãi đá cuội lớn, đây chính là nguồn nguyên liệu phong phú của người nguyên thủy dùng để chế tác công cụ. Điểm nổi bật của bộ sưu tập Phiêng Tung là sự phổ biến mảnh tước nhỏ có vết tu chỉnh, trong đó công cụ mõi nhọn và công cụ nạo cắt chiếm số lượng lớn. 

 

Đồng thời với khai quật hang Phiêng Tung, các nhà khảo cổ còn tiến hành đào thám sát di chỉ hang Nà Khù. Những tài liệu thu được từ nhóm di tích phiêng Tung-Nà Khù tuy chưa thật phong phú, nhưng đã gợi nên sự tồn tại của một nhóm di tích khảo cổ có những đặc trưng riêng, mới lạ mà các văn hóa khác không có. Di vật phổ biến ở đây có kỹ thuật gia công mảnh tước làm công cụ nạo, cắt và mũi nhọn. Công cụ mảnh tước nhiều hơn hẳn công cụ hạch cuội. Công cụ mũi nhọn từ mảnh tước tạo thành một loại hình khá quy chỉnh. Năm 1980, đã phát hiện gần 10 di chỉ trong hang động ở thung lũng này; một trong những phát hiện có ý nghĩa lớn nhất là di chỉ mái đá Ngườm. Liên tiếp các năm 1980,1982 di chỉ mái đá Ngườm được khai quật lần thứ nhất và lần thứ hai. Cho đến nay trên lãnh thổ Việt nam đã tìm thấy 8 địa điểm khảo cổ học có công cụ mảnh tước được tu chỉnh lần thứ hai. Trong số 8 địa điểm này, hai địa điểm điển hình cho kỹ nghệ công cụ mảnh tước là là di chỉ đá Ngườm và di chỉ hang Phiêng Tung./.

Nguồn: Vietnamtourism.gov.vn

Chùa Thầy – Chốn thiền môn thanh tịnh cuốn hút du khách

Nằm gọn dưới chân một dải núi đá vôi hình vòng cung nổi lên giữa vùng đồng bằng xã Sài Sơn, huyện Quốc Oai, Hà Nội, chùa Thầy từ lâu đã nổi tiếng không chỉ ở những truyền thuyết kỳ ảo, linh thiêng xung quanh cuộc đời thiền sư Từ Đạo Hạnh, mà còn bởi vẻ đẹp của kiến trúc, non nước hữu tình, cảnh trí như chốn bồng lai.

Tương truyền, chùa Thầy được xây dựng từ thời Lý (TK XI), trên thế đất hình con rồng. Phía trước chùa, bên trái là ngọn Long Đẩu, lưng chùa và bên phải dựa vào núi Sài Sơn. Chùa quay mặt về hướng Nam. Trước chùa, nằm giữa Sài Sơn và Long Đẩu là một hồ rộng mang tên Long Chiểu hay Long Trì. Phía trước hồ có một doi đất lớn chạy từ khoảng giữa của dải núi nhô ra như một con rồng đang trườn mình uống nước hồ.

 

 

Kiến trúc chùa Thầy là sự hội nhập giữa tín ngưỡng bản địa với Phật giáo, giữa tính chất từ bi của Phật với sự linh thiêng của Thánh. Chùa Thầy được biểu hiện bằng một cấu trúc hoàn chỉnh gắn kết giữa kiến trúc chùa với một cung Thánh nối vào phía sau tòa nhà Tam Bảo trên cùng một trục. Phần chính của chùa Thầy gồm ba tòa song song với nhau gọi là chùa Hạ, chùa Trung và chùa Thượng. Chùa Hạ là nhà tiền tế, bày các tượng Đức Ông, Thánh hiền, Bát bộ Kim Cương. Chùa Trung bày bàn thờ Phật, hai bên có hai tượng Hộ pháp, tượng Thiên vương. Chùa Thượng nằm tách biệt hẳn, ở vị trí cao nhất, có biển đề Đại hùng Bảo điện, có tượng Di Đà tam tôn.

Chùa Thầy có tới ba pho tượng Từ Đạo Hạnh. Một được đặt tại nhà Tổ, một ở ban thờ chính và một đặt trong khám Từ Đạo Hạnh tại điện Thánh. Trong đó, pho tượng Từ Đạo Hạnh ở kiếp tu tiên được làm theo hình thức tượng rối đặt trong khám thờ tại điện Thánh là đáng chú ý hơn cả. Pho tượng này được tạo tác một cách đặc biệt nhằm đề cao vai trò của đức thánh Từ – vị thánh được nhân dân trong vùng tôn xưng như ông tổ của nghề múa rối nước.

 

Hội chùa Thầy diễn ra từ ngày mùng năm đến ngày mùng bảy tháng ba Âm lịch hàng năm. Trong ngày hội, nhiều tăng ni, Phật tử và du khách từ các nơi khác về dự rất đông.

Không chỉ có những nghi thức tôn giáo, hội chùa Thầy còn có trò múa rối nước mang đậm sắc thái dân gian. Du khách đi hội chùa Thầy, ngoài thú vui vãn cảnh chùa, còn có thêm thú vui mạo hiểm leo núi, khám phá thiên nhiên thơ mộng và hùng vĩ ở nơi đây.

Cảnh quan non nước hữu tình và những truyền thuyết sống động về đức Thánh Từ Đạo Hạnh đã làm cho vùng đất Sài Sơn trở nên linh thiêng.

Và ở đó, chùa Thầy trở thành một chốn thiền môn thanh tịnh cuốn hút du khách gần xa tìm về vãn cảnh, lễ Phật./.

Nguồn: Vietnamtourism.gov.vn

Chùa Linh Sơn giữa bạt ngàn núi rừng Lâm Đồng

Chùa Linh Sơn là một trong những ngôi chùa đẹp và cổ kính của Đà Lạt. Chùa được xây dựng từ năm 1936 đến năm 1940 thì hoàn thành.

Chùa Linh Sơn là một trong những ngôi chùa đẹp và cổ kính của Đà Lạt. Chùa được xây dựng từ năm 1936 đến năm 1940 thì hoàn thành. Mang tên một quả núi ở Ấn Độ – núi Linh Thửu – tương truyền là nơi Phật tổ truyền pháp bộ kinh Diệu pháp liên hoa và khai sơn thiền tông, chùa Linh Sơn là một quần thể kiến trúc bao gồm nhiều công trình lớn nhỏ tọa lạc trên một quả đồi rộng chừng 4 ha. Tòa chính điện gồm hai ngôi nhà nối liền nhau.

 

 

Chùa được xây dựng theo phong cách kiến trúc Á Đông, hai mái xuôi hơi cong ở phía cuối trên có hai con rồng uốn khúc đối xứng vươn lên giữa trời cao. Phía trước có 4 trụ lớn và phía dưới diềm mái là màng trang trí hoa văn hình chữ vạn cách điệu. Trên cột trong chính điện và trước tiền đường có treo nhiều câu đối, đặc biệt câu đối khảm xà cừ đượm ngát hương thiền:

 

Sơn sắc đạm tùy nhân nhập viện,

Tùy thanh tĩnh thính khách đàm thiền.

(Màu núi nhạt theo đường vào viện,

Tiếng trung im nghe khách đàm thiền).

 

Gian bên dưới có tượng hộ pháp di đà, gian bên phải là tượng ông thiện, ông ác. Ở phần chính điện có tượng Phật Thích Ca ngồi trên hoa sen được đúc bằng đồng từ năm 1952 cao 1,70m, nặng 1.205kg. Bên phải nội điện có Đại Hồng Chung nặng 450kg treo trên giá được làm bằng gỗ quý. Bên trái nội điện là giá trống có chiều dài 1m và đường kính rộng 0,75m. Cách không xa chính điện về phía bên phải là một bảo tháp hình bát giác cao 3 tầng. Bên trái chính điện là Tổ đường, là nơi thờ Đạt Ma sư tổ và hai bên là bàn thờ các vị tăng sĩ viên tịch cũng như những người dân thường mà thân nhân họ muốn được thờ phụng tại chùa. Trong chùa Linh Sơn còn có phòng phát hành kinh bổn và nhà vãng sinh, là nơi quản thi hài Phật tử mà gia quyến họ muốn cử hành tang lễ tại chùa. Ngoài ra, chùa Linh Sơn còn có một giảng đường khá lớn được xây dựng năm 1972 và hiện tại là trường cơ bản Phật học của tỉnh Lâm Đồng.

 

Nguồn: Vietnamtourism.gov.vn

Động Xá Nhè hoang sơ, kỳ bí

Động Xá Nhè nằm trong khung cảnh thiên nhiên hùng vĩ của vùng rừng núi Tủa Chùa (Điện Biên). Hệ thống thạch nhũ trong hang đẹp lộng lẫy, nhưng cho tới nay vẫn chưa nhiều người khám phá được đến tận cùng của hang động dài 700m này.

 

Độc đáo nhũ đá

 

Theo các bậc cao niên trong bản Pàng Dề B, xã Xá Nhè (Tủa Chùa, Điện Biên), hang động Xá Nhè được người dân ở đây tìm ra từ lâu lắm rồi. Động Xá Nhè nằm dưới chân một vách núi cao dựng đứng, cách trung tâm xã Sáng Nhè khoảng 1km. Hang nằm ở độ cao trên 1.500m so với mực nước biển, cửa hang rộng 5m, cao khoảng 18m.

 

 

Với 5 khoang lớn nhỏ kéo dài khoảng 700m, hang Xá Nhè sở hữu nhiều nét đẹp kỳ thú, độc đáo ở hệ thống nhũ đá bên trên và rừng măng đá, nhũ đá phía dưới. Tháng 3.2014, hang động Xá Nhè đã được Bộ VHTTDL xếp hạng là danh lam thắng cảnh cấp quốc gia.

 

Ông Sùng A Hồng, cán bộ văn hóa xã Xá Nhè cho biết: “Trước đây khách tới thăm động chưa đông, từ khi được xếp hạng là danh lam thắng cảnh cấp quốc gia, khách từ các tỉnh ngoài, thậm chí là cả khách quốc tế mỗi khi tới Điện Biên đều tìm đường lên thăm động”.

 

Toàn động Xá Nhè được chia làm 5 khoang, mỗi khoang đều có một vẻ đẹp kỳ bí riêng. Trần khoang có hình vòm cung, trên trần động là những khối nhũ đá rủ xuống lấp lánh với đường nét khi thì mềm mại, uyển chuyển như thác nước, lúc mang dáng vẻ sắc nhọn như san hô biển. Từng khối thạch nhũ như những dòng thác đang tuôn chảy với vô số hạt kết tinh sáng lấp lánh. Dưới nền động là những rừng măng đá, nhũ đá muôn hình muôn vẻ với nhiều hình thù kỳ lạ.

 

Càng vào sâu, động càng lộng lẫy bởi hằng hà sa số những đường nét, hình dáng do thạch nhũ, măng đá tạo nên. Tuy đều là những tác phẩm điêu khắc tự nhiên làm từ đá nhưng vẻ đẹp của mỗi khoang động không hề giống nhau, tạo cho người xem sự thú vị và kích thích trí tò mò, đam mê khám phá.

 

Tạo thêm nhiều sức hút

 

Mặc dù động Xá Nhè có những thế mạnh thu hút du khách đã thấy rõ, nhưng có một thực tế là các sản phẩm khác cũng như việc kết hợp với các thắng cảnh khác trong khu vực để phát huy thế mạnh du lịch vùng còn chưa thực sự phong phú.

 

Ông Nguyễn Viết Điển- Trưởng phòng Văn hóa – Thông tin huyện Tủa Chùa cho biết: Sau khi được xếp hạng di tích quốc gia danh lam thắng cảnh, trách nhiệm quản lý nhà nước hang động Xá Nhè được giao cho UBND xã. Tuy nhiên để phát huy được hết thế mạnh của động, địa phương cần sớm đầu tư xây dựng hệ thống đường giao thông vào cửa hang, đường đi, cầu trong hang cũng như các công trình phụ trợ để phục vụ du khách. Ngoài ra chúng tôi sẽ phải nghiên cứu kết hợp với các sản phẩm du lịch khác như chợ phiên Xá Nhè, trình diễn khèn Mông, giới thiệu ẩm thực độc đáo của người Mông để níu giữ du khách ở lại với Tủa Chùa”.

 

Chợ phiên xã Xá Nhè họp ở trung tâm xã Xá Nhè được hình thành từ vài năm nay, cứ 6 ngày lại có một phiên chợ. Cứ đến phiên chợ, đồng bào các dân tộc: Mông, Thái, Dao, Phù Lá… từ các thôn, bản tấp nập đổ về chợ. Chợ họp từ sáng sớm đến xế chiều, hàng mang xuống chợ chủ yếu là nông sản thực phẩm, dụng cụ lao động sản xuất, trang phục các dân tộc. Nếu các tour du lịch đến thăm hang động Xá Nhè kết hợp thêm được với chợ phiên Xá Nhè, chắc chắn trong tương lai, Xá Nhè sẽ thu hút khách nhiều hơn.

 

Đến với huyện vùng cao Tủa Chùa, bên cạnh thắng cảnh động Xá Nhè, du khách còn có thể thưởng ngoạn cảnh thiên nhiên hoang sơ của cao nguyên núi đá Tủa Chùa.

Nguồn: Vietnamtourism.gov.vn

Thăm quan ngôi chùa lưu giữ Bảo vật Quốc gia tại vùng Kinh Bắc

Chùa Bút Tháp – một ngôi chùa cổ nổi tiếng vùng Kinh Bắc với vẻ đẹp cổ kính, hài hòa và pho tượng Quan Âm nghìn tay, nghìn mắt đã được công nhận là Bảo vật Quốc gia.

 

Chùa Bút Tháp nằm ven dòng sông Đuống, thuộc địa phận xã Đình Tổ, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh. Chùa có tên chữ là Ninh Phúc tự được xây dựng vào thế kỷ thứ 17 thời Hậu Lê. Chùa Bút Tháp là một trong số ít những ngôi chùa ở Việt Nam còn giữ được khá nguyên vẹn lối kiến trúc sơ khai, đây cũng là địa chỉ hành hương mà các Phật tử từ khắp các tỉnh/thành trên cả nước tìm về mỗi dịp lễ hội đầu năm.


Từ trung tâm Hà Nội đến chùa Bút Tháp khoảng 40 km, đường đi rất đẹp vì thuận lợi. Có lẽ cũng bởi yếu tố thuận lợi đó mà ngày càng có nhiều khách thăm quan tìm về vãn cảnh chùa, đặc biệt là khách du lịch quốc tế. Hiện nay, tại chùa đang lưu giữa một pho tượng được coi là Bảo vật quốc gia – pho tượng Quan âm Nghìn mắt, nghìn tay ( Thiên thủ, thiên nhãn). Bảo vật quốc gia có chiều cao 3,7m, ngang 2,1m, có 11 đầu, 46 tay lớn và 954 tay nhỏ, dài ngắn khác nhau. Tượng được đặt trên tòa sen rồng đội, với dáng hành đạo, thư thái, pho tượng này cũng được coi là kiệt tác của điêu khắc Phật giáo  Việt Nam.


Mặc dù đang là nơi lưu giữ một báu vật vô giá, có một không hai nhưng không phải đến khi bức tượng này được công nhận là Bảo vật Quốc gia năm 2012, chùa Bút Tháp mới nổi tiếng và trở thành điểm thăm quan tâm linh hấp dẫn. Ngôi chùa cổ vùng Kinh Bắc này đã được biết đến từ rất lâu bởi vẻ đẹp cổ kính, và kiến trúc chuẩn mực cùng với vô số tác phẩm nghệ thuật mà chùa đang lưu giữ.

Sẽ không quá chút nào khi nói rằng, chùa Bút Tháp có kiến trúc chẩn mực theo kiểu “Nội công ngoại quốc”, có nghĩa là có hai hành lang dài nối liền nhà tiền đường ở phía trước với nhà hậu đường ở phía sau làm thành một khung hình chữ nhật bao quanh lấy nhà thiêu hương, nhà thượng điện hay các công trình kiến trúc khác ở giữa. Toàn bộ kiến trúc chính của chùa Bút Tháp quay theo hướng Nam mà theo đạo Phật đây là hướng của trí tuệ.


Các công trình kiến trúc của chùa được thiết kế bố trí rất cân xứng, chặt chẽ ở khu vực trung tâm nhưng lại vô cùng tự nhiên ở xung quanh. Khu trung tâm bao gồm 8 nếp nhà đều nằm ngang, chạy song hành được bố trí trên một trục dọc kiểu mô hình đường thần đạo. Ngoài cùng là Tam Quan, tiếp đó là gác chuông hai tầng tám mái, kế đó là tòa Tiền Đường, Thiêu Hương, nhà Thượng Điện, Cầu Đá, toà Tích Thiện Am, Trung Đường, Phủ Thờ, nhà Hậu Đường và kết thúc là hàng tháp đá sau nhà Hậu Đường, trong đó có tháp đá Tôn Đức 5 tầng, cao 11m là nơi đặt xá lị thiền sư Minh Hạnh, vị tổ thứ hai của chùa. Bên trái chùa có nhà thờ tổ Chiết Tuyết và ngôi tháp đá Báo Nghiêm tám mặt, 5 tầng cao 13m là nơi táng xá lị của thiền sư Chiết Tuyết. Hai bên dọc theo toà Tiền đường là hai nhà bia và hai dãy hành lang chạy suốt chiều dài của chùa. Nối giữa Thượng Điện và Tích Thiện Am là chiếc cầu đá cong bắc ngang hồ sen. Cầu dài 4m gồm 3 nhịp uốn cong vồng. Mặt cầu lát đá xanh, hai bên cầu có 12 bức phù điêu đá chạm chim muông, hoa lá công phu, tinh xảo.

 

Qua chiếc cầu đá nhỏ xinh với kiến trúc độc đáo là Tích Thiện Am. Tên gọi Tích Thiện Am có hàm ý là nơi chứa điều tốt lành. Tích Thiện Am được xây dựng năm Tân Dậu (1681) đến năm Tân Mùi (1691). Trong Tích Thiện Am, có tòa cửu phẩm liên hoa – tháp bằng gỗ, 9 tầng, 8 mặt, 9 đài sen tượng trưng cho 9 cấp tu hành chính quả của Phật giáo. Không chỉ có vậy Tích Thiện Am còn có 26 bức tranh được chạm khắc đá xanh bạc theo nhiều chủ đề khác nhau từ trời mây, hoa lá đến chim muông, muôn thú. Đây được xem như là biểu tượng của Tứ linh, Tứ quý, đồng thời hàm chứa ý nghĩa Phật đạo sâu sắc.


Nói đến kiến trúc độc đáo của chùa mà không nhắc đến tháp Báo Nghiêm sẽ là thiếu xót. Tháp Báo Nghiêm giống như cây bút khổng lồ, vươn thẳng tới trời cao thanh vắng. Tháp cao 13,05m, 5 tầng với một phần đỉnh xây bằng đá xanh, 5 góc của 5 tầng có 5 quả chuông nhỏ, xung quanh tháp được trang trí hoa văn sinh động. Lòng tháp có một khoang tròn đường kính 2,29m. Tầng dưới cùng của tháp này có 13 bức chạm đá, chủ yếu là hình các con thú được chạm khắc rất tinh xảo.


Không chỉ các công trình kiến trúc mà cảnh quan sân vườn của chùa cũng được thiết kế rất hài hòa tạo nên một quần thể kiến trúc đẹp, ấn tượng. Chùa có nhiều cây cổ thụ với tán lá rộng, dày tỏa bóng mát khắp sân chùa mang lại không khí vô cùng dễ chịu kể cả giữa lúc trời đang nắng gắt.


Đã hàng trăm năm trôi qua, dù một số công trình đã xuống cấp và phải tu bổ song chùa Bút Tháp ngày nay vẫn giữ được dáng vẻ cổ kính, thanh tịnh như thửa mới được xây dựng. Đến thăm quan, vãn cảnh chùa Bút Tháp, du khách sẽ cảm thấy tâm hồn tĩnh lại, cảm thấy sự bình yên thanh thản, thêm vào đó sẽ được tận mắt chiêm ngưỡng Bảo vật Quốc gia của Việt Nam.

 

Nguồn: Vietnamtourism.gov.vn

Đền thờ Mẫu Âu Cơ – tinh hoa đất Tổ

Từ xa xưa, thờ Mẫu đã trở thành nét đẹp tiêu biểu trong văn hóa của người Việt. Nhiều nhà sử học cho rằng, mỹ tục này xuất phát từ mảnh đất Hiền Lương (huyện Hạ Hòa, tỉnh Phú Thọ), nơi có đền thờ Tổ Mẫu Âu Cơ.

 

 

Lịch sử của ngôi đền huyền thoại

 

Dưới tán lá sum suê của cây đa cổ thụ, không biết bao nhiêu thế hệ con cháu Lạc Hồng đã từng dâng hương tỏ lòng thành kính với mẹ Âu Cơ và kể cho nhau nghe truyền thuyết về người mẹ vĩ đại của dân tộc.

 

 

Tục truyền rằng, ngày nàng Âu Cơ chào đời ở động Lăng Xương (nay thuộc huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ) có mây lành che chở, hương thơm tỏa ngát khắp không gian. Lớn lên, nàng xinh đẹp, thông minh hơn người, chăm đọc chữ, giỏi đàn sáo, lại tinh thông âm luật. Sau khi kết duyên với Lạc Long Quân – con trai của Kinh Dương Vương, nàng Âu Cơ sinh hạ một bọc trứng, nở thành một trăm người con. Một ngày, thấy các con đã lớn khôn, Lạc Long Quân nói với mẹ Âu Cơ: “Ta là giống Rồng, nàng là giống Tiên, tuy khí âm dương hợp lại mà thành trăm con, nhưng chung hợp thật khó vì dòng giống bất đồng”. Nói xong, Lạc Long Quân dẫn 50 con xuống biển.

 

Mẹ Âu Cơ đưa 50 con lên non, đi đến đâu cũng thu phục nhân tâm, khai phá rừng hoang. Một ngày, đi qua Hiền Lương, nơi có núi cao, đồng rộng, sông dài, Mẹ liền cho khai hoang, dạy dân cấy lúa, trồng dâu, nuôi tằm, dệt vải. Khi trang ấp đã tươi đẹp, Mẹ vội vã đi đến vùng đất mới. Sau này, mẹ Âu Cơ trở về Hiền Lương, gắn bó suốt phần đời còn lại với nơi này. Ngày 25 tháng chạp năm Nhâm Thân, mẹ Âu Cơ bay về trời, để lại dưới gốc đa dải yếm lụa. Ở đó, nhân dân đã dựng lên ngôi miếu thờ phụng, đời đời tưởng nhớ Quốc Mẫu.

 

Đền thờ Tổ Mẫu Âu Cơ chính thức được xây dựng dưới triều vua Lê Thánh Tông (1442 – 1497). Thần tích của đền ghi lại rằng, ngôi đền nằm ẩn dưới gốc đa cổ thụ, mặt quay về hướng chính nam, bên tả có giếng Loan, bên hữu có giếng Phượng, phía trước có núi Giác đẹp như một án thư, sau lưng sông Hồng uốn khúc như rồng thiêng bao bọc. Trải qua hơn năm thế kỷ, đền Mẫu xuống cấp nghiêm trọng. Năm 1998, Đảng bộ và nhân dân Hiền Lương tiến hành trùng tu ngôi đền.

 

Ngôi đền không rộng lớn, đồ sộ nhưng lại được đánh giá cao về mặt nghệ thuật. Khách tham quan có thể tìm thấy ở đây nhiều di vật như tượng Tổ Mẫu Âu Cơ, tượng Đức Ông Đột Ngột Cao Sơn hay các bức chạm tinh tế trên cửa võng, xà ngang, diềm chung quanh cửa thượng cung. Hiện nay, đền chính có bố cục theo kiểu chữ Đinh với ba gian hậu cung và năm gian đại bái.

 

Đền thờ Mẫu Âu Cơ kết hợp với chùa Linh Phúc tạo thành một quần thể di tích có sức hút đặc biệt với du khách thập phương. Bà Nguyễn Thị Tuyết Mai, Trưởng Ban Quản lý Khu di tích Đền Mẫu Âu Cơ cho biết: “Được sự đồng ý của chính quyền, chúng tôi đang nhanh chóng khôi phục đình thờ Đức Ông Đột Ngột Cao Sơn (người con thứ hai của Mẫu) nằm cách đền Mẫu 500m về phía đông để đáp ứng nhu cầu tham quan, tín ngưỡng của nhân dân”.

 

Con cháu Lạc Hồng hướng về cội nguồn

 

“Mồng bảy trong tiết tháng giêng

Dân Hiền tế lễ trống chiêng vang trời…”

 

Như một thói quen đã ngấm vào máu thịt, mùa xuân đến cũng là lúc nhân dân Hiền Lương rục rịch tập tế nam, tế nữ, rước kiệu, chuẩn bị lễ vật,… cho ngày “Tiên giáng”. Còn hàng triệu đồng bào ta ở mọi miền đất nước ùn ùn hành hương về đất Tổ, cúi lạy anh linh mẹ Âu Cơ và hòa mình vào không khí nhộn nhịp của mùa lễ hội.

 

Sáng sớm mùng bảy tháng giêng, lễ hội đền Mẫu được mở đầu bằng lễ tế Thành Hoàng ở đình, đội tế toàn nam giới. Sau đó, tám cô gái mặc đồng phục sẽ uyển chuyển rước một cỗ kiệu bát cống sơn son thiếp vàng theo nhịp trống từ đình vào đền. Đi đầu đám rước là những lá cờ thần, sau kiệu là những vị chức sắc mặc áo dài khăn xếp, rồi đến người đi trảy hội.

 

Có nhiều ý kiến cho rằng, điểm thu hút nhất của lễ hội nằm ở lễ tế nữ do 12 cô gái thanh tân, có nhan sắc và học vấn thực hiện. Các thiếu nữ đều mặc áo dài, đầu đội khăn kim tuyến, chân đi hài thêu, thắt lưng lụa, riêng chủ tế mặc trang phục hoàn toàn mầu đỏ. Sau khi lễ tế nữ kết thúc, các trò chơi dân tộc như đu tiên, cờ người, chọi gà, tổ tôm điếm có thưởng sẽ được tổ chức ở ngoài sân đền.

 

Lễ vật dâng lên Mẫu không quá cầu kỳ, đều là cỗ chay, ngũ quả, tiền giấy,… Trong đó có một thứ bánh truyền thống của người Hiền Lương, làm từ bột nếp hảo hạng và mật ong, được nhào kỹ thành hình trụ tròn, rồi cắt thành từng đoạn như đốt tre hấp chín. 100 cầu bánh ngọt tượng trưng cho lễ vật của 100 người con dâng lên mẹ.

 

Bên cạnh ngày lễ chính “Tiên giáng” mùng bảy tháng giêng, trong năm còn có ngày “Tiên thăng” 25 tháng chạp, ngày 10 – 11 tháng hai, ngày 12 tháng ba, ngày 13 tháng tám âm lịch.

 

Khách thập phương đến tận hưởng mùa lễ hội rộn rã trên đất thiêng, có người dù chưa từng gặp mặt, biết tên, nhưng vẫn trao nhau nụ cười thân thiện, ánh mắt trìu mến. Có lẽ, ngôi đền cổ kính nằm khiêm nhường bên gốc đa mấy trăm năm tuổi đã làm sống dậy trong trái tim họ niềm tự hào về nòi giống Tiên Rồng và bọc trăm trứng huyền thoại, khiến người với người gần gũi nhau hơn.

 

Vào tháng giêng, tháng hai, khu di tích đền thờ Tổ Mẫu Âu Cơ có nhiều nét đẹp làm say lòng người. Còn vào những ngày chớm đông như bây giờ, đến thăm đền lại đem đến một cảm giác bình yên lạ thường! Không cờ hoa rực rỡ, không trống kèn vang trời, không tấp nập người qua lại, chỉ còn mùi hương trầm quyện với hương ngọc lan phả vào tiết trời se se lạnh của miền bắc. Dưới mái đền rêu phong, đưa tầm mắt ra xa, du khách sẽ được chiêm ngưỡng những ruộng ngô xanh non, núi Giác nằm uy nghiêm trong làn sương mờ ảo.

 

Trong khoảnh khắc thiêng liêng ấy, hồn người trở về với sự thư thái, tĩnh lặng vốn có để lắng nghe lời thì thầm của sông núi. Rằng áo cơm, đất đai, biên cương ta có hôm nay đều do mẹ Âu Cơ cùng các con vun trồng, khai khẩn, giữ gìn. Khi thiên tai ập đến hay chiến tranh gian khổ, Mẹ vẫn luôn dang tay che chở, dẫn lối cho con cháu vượt qua sóng gió.

 

Ngày nay, đồng bào ta dù đi xa tới đâu, dù đang hạnh phúc hay hoạn nạn, vẫn có một nơi để trở về. Đó là nơi mẹ Âu Cơ đã để lại dải lụa đào rồi bay về trời. Hình ảnh người mẹ nhân từ của dân tộc vừa nhắc nhở mỗi chúng ta luôn khắc ghi đạo lý “Uống nước nhớ nguồn”, vừa tiếp thêm sức mạnh cho dòng giống Tiên Rồng giữ vững tinh thần đoàn kết, tự lực tự cường để xây dựng và bảo vệ từng tấc đất tổ tiên truyền lại.

 

Nguồn: Vietnamtourism.gov.vn

Mộc Châu mùa hoa khoe sắc

Cao nguyên Mộc Châu (Sơn La) là nơi vốn được thiên nhiên ưu đãi với khí hậu ôn hòa, hoa trái quanh năm. Đặc biệt vào khoảng thời gian từ tháng 11 đến tháng 3 là mùa của nhiều loài hoa khoe sắc như hoa cải, hoa trạng nguyên, hoa mận, hoa dã quỳ, hoa xuyến chi…

Cũng thời gian này, cao nguyên Mộc Châu trở thành điểm du lịch hấp dẫn dành cho những người yêu thiên nhiên.

 

 

Thông thường, ở Mộc Châu mùa Đông nắng sẽ lên muộn hơn so với các mùa khác. Khoảng 9-10 giờ là du khách có thể bắt gặp những cánh đồng hoa, những thung lũng bạt ngàn sắc hoa tinh khôi trong nắm sớm.

 

Màu vàng hoa dã quỳ, màu đỏ thắm trạng nguyên, màu trắng của hoa mận đầu mùa kết hợp với khung cảnh núi rừng thơ mộng ngút ngàn sẽ khiến cho du khách cảm thấy như lạc vào xứ sở thần tiên.

 

Tận dụng đất dưới những vườn hoa mận, bà con người dân tộc Mông bản Pa Khen, thị trấn Nông trường Mộc Châu trồng hoa cải tạo nên một thảm hoa trắng muốt, lung linh.

 

Giờ đây, không cần phải tìm đến tận Đà Lạt mộng mơ bạn mới có thể chiêm ngưỡng những bông hoa nắng, mà đến cao nguyên Mộc Châu bạn cũng sẽ tìm thấy những bông dã quỳ nở vàng trên khắp những con đường ngược xuôi, những bản làng nằm gói mình trong thung lũng.

 

Con đường đến đồi chè Tân Lập, Ba Phách hay dọc theo các xã Vân Hồ, Loóng Luông và những con đường đất ở quanh thị trấn Mộc Châu là địa điểm lý tưởng để bắt gặp những vạt hoa dã quỳ.

 

Hoa dã quỳ, loài hoa được coi như dấu hiệu báo mùa Đông đã về trên thảo nguyên.

 

Thời điểm ngắm và chụp ảnh hoa đẹp nhất là buổi sáng, khi ánh nắng bắt đầu làm tan lớp sương mù và hoa còn ướt sương.

 

Nếu đi dọc tuyến Quốc lộ 6 đoạn từ xã Loóng Luông của huyện Vân Hồ đến thị trấn Nông trường của huyện Mộc Châu, du khách bắt gặp hai bên đường những thảm hoa xuyến chi, hoa cải trắng muốt thấp thoáng phía xa.

 

Thong thả dạo bước trong theo những lối mòn đường đất, bạn sẽ thấy trước mặt là những luống cải chạy hút tầm mắt. Màu trắng của hoa cải tượng trưng cho vẻ đẹp trong trẻo của đất trời Tây Bắc.

 

Nếu những luống cải là do những người dân bàn địa nơi đây trồng từ tháng 10-12 để làm thực phẩm phục vụ cuộc sống thì những loài hoa như xuyến chi, trạng nguyên, dã quỳ là những loài hoa hoang dã mọc tự nhiên vào thời điểm cuối năm.

 

Điểm xuyết cho vẻ đẹp của cao nguyên những ngày này là hoa trạng nguyên đua nhau khoe sắc đỏ. Sắc đỏ chạy dài theo các sườn đồi, từ nương chè xanh mướt vào tận từng ngõ xóm tạo thành những bức tường hoa thơ mộng.


Hoa trạng nguyên mọc tràn đồi núi, bản làng. Cây mọc đến đâu, người dân Mộc Châu chỉ cần tỉa cành, phát lối là đã thành một con đường hoa đỏ rực đẹp đến mê hồn.

 

Hoa như níu chân người lữ khách, hoa là điểm nhấn cho sắc màu trên cao nguyên xanh. Những đóa hoa trạng nguyên đẹp mộc mạc mà bí ẩn như tâm hồn những cô gái Mông, Dao, Thái trên cao nguyên bao la.

 

Suốt dọc tuyến Quốc lộ 6 đoạn bắt đầu đến Cao nguyên Mộc Châu, hoa mận nở trẳng bản Chiềng Ly xã Vân Hồ, huyện Vân Hồ.

Rừng hoa mận trắng muốt chạy dài theo thung lũng trên đường vào Ngũ Động Bản Ôn, thị trấn Nông trường.

 

Mùa hoa ở Mộc Châu cũng là mùa của những đàn ong di cư đến tìm phấn, hút mật.

 

Mùa hoa mận bắt đầu nở từ đầu tháng 12 đến tháng 2 hằng năm. Cũng vào thời điểm này, cao nguyên Mộc Châu là địa điểm lý thú để những người nuôi ong ở Tây Nguyên đưa đàn ong ra phương Bắc hút mật.

 

Nguồn: Vietnamtourism.gov.vn

TIN MỚI NHẤT