Điểm đến du lịch

Những địa điểm du lịch hấp hẫn những địa điểm du lịch trong nước, địa điểm du lịch nước ngoài được chúng tôi tổng hợp và đưa tin đến Quý bạn đọc đam mê du lịch có cái nhìn tổng quan nhất về các địa danh du lịch để quyết định cho mình cho những chuyến du lịch ý nghĩa nhất

Đổ giàn – Lễ hội văn hoá đặc sắc “Miền Đất Võ”

Hơn 200 năm về trước, trên quê hương “Miền Đất Võ” Bình Định đã từng hình thành, tồn tại và phát triển một hoạt động võ thuật mang đậm nét văn hoá truyền thống, đó là Lễ hội Đổ giàn hay còn gọi là Lễ hội tranh heo, Lễ hội xô cỗ…

Bình Định – một vùng đất nổi tiếng về truyền thống thượng võ. Là người dân đất Việt, có lẽ ai cũng biết đến câu ca dao: Ai về Bình Định mà coi/ Con gái Bình Định cầm roi đi quyền… Câu ca trên đã từng lưu truyền tại “miền Đất Võ” hàng trăm năm nay, phần nào khắc họa không khí của Lễ hội tranh heo xưa kia.

 

 

Cách thị trấn Bình Định (huyện An Nhơn) khoảng hơn 10km về phía Tây – Bắc, có 2 làng võ nổi tiếng là An Thái và An Vinh. Tại đây, bên cạnh cộng đồng người Việt, còn có cộng đồng người Hoa di cư sang làm ăn, sinh sống. Người dân bản địa gọi họ là dân Ngũ Bang (gồm Triều Châu, Quảng Đông, Phúc Kiến, Phúc Châu, Hải Nam). Diện mạo của khu phố chợ An Thái có những nét phảng phất gần giống với kiến trúc của những khu phố cổ Hội An (Quảng Nam). Xưa kia, nơi đây từng là một trong những trung tâm giao thương, mua bán sầm uất. Chính điều kiện kinh tế – xã hội của vùng đất trù phú này đã “khai sinh” ra Lễ hội làm chay – Đổ giàn – tranh heo.

 

Theo các cụ cao niên ở An Thái, An Vinh, cứ 4 năm một lần, vào dịp lễ Vu Lan (rằm tháng 7), tại vùng đất này lại diễn ra lễ hội làm chay – đổ giàn – tranh heo. Địa điểm dựng giàn là khu vực gò Am Hồn, chùa Bà Hỏa, chùa Hội Quán (thờ bà Thiên Hậu Thánh mẫu). Về hình thức, giàn gần giống với sàn đấu võ đài ngày nay, nhưng cao ráo, chắc chắn. Để lễ hội diễn ra sôi nổi, thu hút đông đảo khách thập phương, những người có trách nhiệm và người dân địa phương đã “chung vai gánh vác”, chuẩn bị rất chu đáo. Trước ngày diễn ra lễ hội, hầu hết các gia đình trong vùng, không phân biệt sang – hèn, giàu – nghèo, đều tự giác đem vật phẩm (heo, bò, gà…) đến đóng góp. Tên của chủ nhân được ghi vào một tấm thẻ và gắn vào lễ vật.

 

Trước khi Lễ hội Đổ giàn – tranh heo diễn ra, các chùa trong vùng đều tiến hành làm chay cầu nguyện cho bá tánh được an cư, lạc nghiệp. Đầu tiên là lễ rước bài vị từ hai chùa Quan Thánh Đế Quân, Xuân Quang Trang và lễ rước nước thánh từ sông Kôn đưa về. Đoàn đi rước bài vị và rước nước thánh khoảng 30 người, đi đầu có 4 người khiêng kiệu, mặc trang phục “học trò gia lễ”, cùng Ban trị sự và ban nhạc, chiêng, trống… Sau khi rước bài vị và lư nhang về chùa Hội Quán thì tiến hành lễ khai kinh, làm chay, tụng kinh suốt 3 ngày, 3 đêm. Ban đêm còn có múa lục cúng, múa bông… Hết ngày thứ 3 thì chuyển sang lễ chẩn bần (phát chẩn cho người nghèo). Tiếp đó, một lá phướn màu ngũ sắc đề 4 chữ Phúc – Đức – Thần – Tài từ trong chùa được mang ra, treo lên trên giàn để mỗi người lấy một miếng làm phước. Trước khi diễn ra Lễ Đổ giàn, tranh heo, trong chùa tiến hành nghi thức cúng vãn (cúng lần cuối), sau đó gióng trống, chiêng, báo hiệu cho Ban trị sự bên ngoài biết để mở đầu Lễ hội Đổ giàn, tranh heo.

 

Theo lệnh của người “chủ xướng”, các võ sư cao niên từ 4 hướng Đông – Tây – Nam – Bắc lần lượt quăng heo xuống… Võ sĩ thuộc các võ đường, làng võ nổi tiếng như: An Thái, An Vinh, Thuận Truyền, Trường Định… bắt đầu “tham chiến” theo cách “bài binh, bố trận” của võ phái mình. Tuy có nhiều “chiêu thức” khác nhau, song thuờng thì võ phái nào cũng chia làm 3 nhóm chính, gồm: tiên phong, tiếp ứng, cản hậu. Võ đường nào đột phá vòng vây, vác được heo về vị trí quy định thì phần thắng thuộc về bên đó.

 

Cuộc thi tài tranh heo diễn ra cực kỳ sôi nổi, hấp dẫn, kịch tính… Một bên thì cố tìm cách để mang, vác con heo thoát khỏi vòng vây để đem về bên mình, một bên thì bằng mọi cách để ngăn cản không để đối phương mang heo thoát ra. Những đường quyền, cước, thế, miếng gia truyền độc đáo, “thoắt ẩn, thoắt hiện” của các lò võ, làng võ có dịp được thể hiện, phô diễn. Mặc dù, cuộc tranh heo diễn ra gay cấn, quyết liệt, song không hề có chuyện “cay cú ăn thua”, ra đòn ác ý; tất cả đều vì mục đích đề cao nét đẹp truyền thống của võ thuật.

 

Cùng với các võ sư, võ sĩ, hàng ngàn người tham dự lễ hội cũng nhiệt tình hò reo, cổ vũ cuồng nhiệt, làm cho không khí của lễ tranh heo thực sự là một “đại hội võ lâm”. Kết thúc cuộc thi tài, toàn bộ số heo được tập trung lại để “Ban giám khảo” xem xét và công bố kết quả. Bên nào thua thì về lo “rút kinh nghiệm”, luyện tập để… 4 năm sau thi tài trở lại.

 

Đặc biệt, ngay sau khi Lễ Đổ giàn – tranh heo kết thúc, lễ hội còn diễn ra nhiều tiết mục như chưng cộ, múa lân. Chưng cộ là một hình thức biểu diễn nghệ thuật hát bội đặc sắc. Theo đó, cộ được “thiết kế” từ 2 chiếc xe cộ, thành một chiếc kiệu. Xung quanh cộ có vẽ, trang trí những hình ảnh về các tích tuồng. Ngoài ra, lễ hội còn diễn ra các trò chơi dân gian như đá gà (chọi gà), đánh cờ người, đốt pháo bông…

 

Trong những ngày diễn ra Lễ hội, hàng ngàn người từ khắp nơi trong tỉnh Bình Định và cả những tỉnh lân cận cũng đổ về vùng đất An Thái, An Vinh dự hội.

 

Hơn 2 thế kỷ đã trôi qua, song dư âm của những ngày lễ hội xưa như vẫn còn nồng ấm đến hôm nay. Tên tuổi của các võ sư, võ sĩ như Diệp Trường Phát (còn gọi là Tàu Sáu), Hồ Ngạnh, Ba Phùng, Hồ Chi (còn gọi là Năm Trừu), Hương mục Ngạc, Hương mục Đài, Chín Giác, Hương kiểm Mỹ… vẫn còn in đậm trong tâm trí của người dân nơi đây. Chính vùng đất này cũng đã từng đóng cho đội quân Tây Sơn những võ tướng, văn thần, cùng hàng ngàn nghĩa binh, góp phần lập nên những chiến công hiển hách của dân tộc.

 

Trải qua hơn 2 thế kỷ, Lễ hội Đổ giàn phần nào bị mai một. Điều đáng mừng là từ năm 2005, ngành VHTTDL Bình Định đã đầu tư, hỗ trợ cho công tác sưu tầm, phục dựng lại Lễ hội Đổ giàn xưa. Hy vọng rằng, trong thời gian tới, Lễ hội Đổ giàn sẽ tiếp tục được quan tâm phục hồi, dàn dựng thật hiệu quả và đưa vào Chương trình Liên hoan Võ cổ truyền quốc tế…

 

Nguồn: Vietnamtourism.gov.vn

Về Bình Thuận du lịch cùng đá

Cùng với nét đẹp dịu dàng của nước, thướt tha của cát, thiên nhiên còn ưu ái ban tặng cho Bình Thuận nét đẹp trầm tư của đá.

 

Chùa Cổ Thạch và bãi đá màu ở biển Tuy Phong là những thắng cảnh tuyệt đẹp làm say lòng biết bao nhiêu du khách. Ai một lần đến Tuy Phong, hẳn không khỏi ngẩn ngơ khi nghe tiếng chuông chùa ngân mềm vách núi. Ngôi chùa đá cổ kính nằm trầm mặc bên biển cả mênh mông. Xa hơn chút là bãi đá màu kỳ lạ. Những viên đá mịn nhẵn cỡ nắm tay ken nhau tạo thành bãi.

 

Dưới ánh sáng huyền ảo lúc hoàng hôn, màu đá lấp lánh trong màu nước xanh lơ, đen, xám, vàng, trắng… bạn có thể chọn cho mình vài viên để kỷ niệm chuyến đi. Điều kỳ lạ nhất, đá như có sức sống, biết lớn, biết thở, biết đi. Đêm đêm từ biển đá trườn lên lấp đầy vào bãi. Đến Tuy Phong, ra về lòng du khách hẳn không khỏi bâng khuâng nhớ đá.

 

Vào Thuận Quý, du khách lại được chứng kiến nét đẹp kì vĩ khác của đá. Đá ở đây mang vẻ ngạo nghễ, ngang tàng. Hàng ngàn, hàng vạn năm gió biển bào mòn tạo thành những dãy đá thoạt trông giống đoàn chiến mã xông trận. Giữa buổi trưa nồng nàn nắng biển, bên tai bạn như từ xa xưa vọng lại tiếng ngựa hý, gươm khua, tiếng trống, tiếng kèn thúc trận. Thuận Quý, điểm du lịch nổi tiếng của Hàm Thuận Nam. Về Thuận Quý ngoài thú tắm biển, nghe đá xung trận, khách còn tự tạo cho mình thú vui đi bắt ghẹ đá. Những con ghẹ có lớp vỏ dày, cứng, nằm náu mình trong các gộp đá ven biển, bạn cứ tha hồ lục tìm, túm được con nào nướng ngay con ấy, thật tuyệt vời nếu có thêm xị rượu gạo… Ngoài đá Thuận Quý, Hàm Thuận Nam còn có đá Hòn Lan. Những dãy đá xám xịt xếp chồng nối tiếp. Không như đá Thuận Quý, cứng cáp, ngạo nghễ, đá Hòn Lan là loại đá xốp, mặt lồi lõm, loang lỗ, khoét tạo đủ hình thù, hang động, mang vẻ đẹp ngậm ngùi, kì bí. Hòn Lan một thắng cảnh đẹp, hữu tình, nơi có truyền thuyết về cái chết đau thương do cá rô chui vào cổ họng của người con gái quê nghèo Mũi Điện.

 

Về Thuận Nam, du khách còn có dịp ghé Kê Gà, chèo thuyền ra biển thăm đảo đá, nơi có ngọn hải đăng cao vời vợi và rừng sứ già hoa trắng nở đã suốt trăm năm.

 

Chẳng tốn thời gian gì cho lắm, mời du khách tiếp tục xuôi Nam, dừng chân ở Ngảnh Tam Tân thuộc xã Tân Tiến, thị xã La Gi, du khách tiếp tục cuộc rong chơi với đá và biển. Mõm Đá Chim, thắng cảnh du lịch tuyệt vời. Đá nhấp nhô trên sóng, đá nấp trong cát, đá xôn xao trong gió, một nét đẹp thẫn thờ, trầm mặc.

 

Đến Bình Thuận, đi đâu, về đâu, du khách đều có thể tìm gặp nét đẹp riêng của đá. Với Hòn Bà – La Gi, ở hòn đảo nhỏ cách bờ 2km này, du khách có dịp tận mắt trước sự lung linh màu đá trong từng hang động. Đá Hòn Bà xanh lơ theo màu trời, màu nước, mang nét đẹp dịu dàng, sâu lắng. Những chú hàu, những chị vú nàng bám trên vách đá luôn là món ăn ngon, lạ để du khách nặng lòng với đảo.

Nguồn: Vietnamtourism.gov.vn

Bình Định – huyền thoại miền đất võ

Như ta đã biết, Tây Sơn là một huyện của Bình Định. Đặc điểm địa lý của huyện Tây Sơn hàm chứa yếu tố đắc địa của một cái nôi võ thuật.

 

Đồi núi phía tây là sự tiếp dẫn sơn mạch của Trường Sơn trập trùng tráng khí, với những ngọn núi thiêng đã đi vào các thư tịch cổ như ngọn Hánh Hót, ngọn Trưng Sơn (hòn Sung), ngọn Hoành Sơn (có núi Ấn và núi Kiếm), núi Ông Nhạc, núi Ông Bình, núi ông Dũng, hòn Lĩnh lương. Những truông, hang, gò nổng gắn liền với việc luyện quân: gò Tập binh, gò Cấm cố, bãi Tập voi, căn cứ Hầm Hô, mật khu Linh Đỗng… Dòng sông Kôn với những bến sông thịnh đạt về đường mua bán, đồng thời cũng là chốn gặp gỡ đi về của anh hùng hào kiệt: bến Trường Trầu, quán Chiêu Anh gắn liền với bước khởi nghiệp của Nguyễn Nhạc… Những làng xã âm vang như Kiên Mỹ, Phú Lạc, Xuân Hòa, An Vinh, Thuận Truyền, Thuận Nhứt,… Ấy là nơi cúi đầu nghe sông hát, ngẩng đầu nghe núi reo, nhắm mắt nghe roi quyền xé gió. Ấy là Tây Sơn, tiêu điểm của đất võ Bình Định. Huyện Tây Sơn là nơi phát tích của phong trào khởi nghĩa nông dân Tây Sơn, một phong trào được ví là cơn bão táp lịch sử mà tinh hoa của võ thuật Bình Định được phát huy cao độ. Do ảnh hưởng rộng lớn của phong trào, thời kỳ Tây Sơn và hậu Tây Sơn, khái niệm võ Tây Sơn trùng khít với khái niệm võ Bình Định. Hai chữ Tây Sơn đã được sử dụng với hàm nghĩa “nhận diện” một vùng văn hóa rộng hơn rất nhiều so với nghĩa thực.


Võ cổ truyền Bình Định bao gồm cả các dòng võ cổ truyền tại Tây Sơn và các dòng võ của các địa phương khác trên tỉnh Bình Định. Nói như thế không có nghĩa là các dòng võ này phát triển độc lập tuyệt đối với nhau. Các đặc điểm chung như có bài thiệu, nguyên tắc “túc bất ly địa” (chân không rời đất)… nói lên sự thống nhất tương đối của các dòng võ cổ truyền Bình Định ở những nội dung cơ bản. Ngoài ra, giữa các dòng võ ấy vẫn có nhiều điểm khác biệt. Quyền An Thái đường nét sắc sảo, bay bướm, tiến thoái linh hoạt trong khi quyền An Vinh nghiêng về đánh móc, ra đòn hiểm. Giữa côn pháp các dòng võ cũng có sự phân biệt, đặc biệt các phép roi rút, roi cộng lực, roi đổ thủy, roi nghịch là “đặc sản” riêng của roi Thuận Truyền do Đại võ sư Hồ Ngạnh sáng tạo. Suốt quá trình hình thành và phát triển trên cùng một không gian lịch sử – văn hóa, giữa các dòng võ, các làng võ luôn có sự giao lưu, học hỏi lẫn nhau. Nhờ vậy, mà võ học Bình Định mới trở thành một di sản nhiều tầng lớp, phong phú và uyên diệu.

 

Liên hoan Quốc tế Võ cổ truyền – Đặc sản đất Bình Định


Từ ý tưởng phải tập hợp các môn võ Việt Nam đang phát triển ở các nước trên thế giới, UBND tỉnh Bình Định thống nhất và năm 2005 đã chính thức đặt vấn đề với UBTDTT Việt Nam tổ chức gặp mặt các CLB, các võ đường võ cổ truyền Việt Nam trên thế giới lại và lấy tên: Liên hoan Quốc tế Võ cổ truyền Việt Nam và đề nghị cho phép Bình Định tổ chức 2 năm một lần đã được sự ủng hộ nhiệt tình của Trung ương và các ngành, các tỉnh trên cả nước và các môn phái võ Việt Nam trên thế giới.


Qua 4 kỳ tổ chức Liên hoan, lần lượt với các chủ đề: Hội tụ và phát triển; Nâng tầm võ Việt; theo bước chân Hoàng đế Quang Trung… và lần thứ V với chủ đề “Bảo tồn và phát huy võ cổ truyền Việt Nam”. Ngày 27/12/2012 Bộ VHTTDL đã có quyết định số 5079/QĐ-BVHTTDL về công nhận võ cổ truyền Bình Định là Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia.

 

Nhìn lại bốn kỳ Liên hoan Quốc tế Võ cổ truyền Bình Định, Liên hoan Quốc tế Võ cổ truyền Việt Nam tại Bình Định lần thứ I (2006) chỉ có 21 quốc gia và vùng lãnh thổ cùng 29 đoàn võ của các tỉnh trong nước thì lần thứ II (2008) có 26 quốc gia và vùng lãnh thổ (với 74 đoàn/26 quốc gia và vùng lãnh thổ) cùng 35 đoàn trong nước. Liên hoan lần thứ III (2010) có 31 quốc gia và vùng lãnh thổ (với 70 đoàn quốc tế) cùng 35 đoàn trong nước. Kỳ thứ IV (2012) có 69 đoàn của 27 quốc gia và vùng lãnh thổ và gần 40 đoàn trong nước. Tại kỳ đại hội thứ IV này có 15 đoàn võ đối kháng của các CLB các tỉnh thành phố thi đấu đài tạo thêm không khí sôi nổi và đầy kịch tính, đồng thời cũng tạo thêm sân chơi cho các nước tham gia biểu diễn đêm khai mạc đêm bế mạc và tưng bừng trong đêm lễ hội đường phố.


Diễn ra từ ngày diễn ra từ 01-04/8/2014 tại Thành phố Quy Nhơn, Liên hoan Quốc tế Võ cổ truyền Việt Nam lần thứ V có sự tham gia của 30 quốc gia và vùng lãnh thổ, quy tụ hàng trăm võ sư, võ sĩ, võ sinh khắp các châu lục đến tranh tài và biểu diễn.


Liên hoan gồm các hoạt động chính: Lễ dâng hương tại Bảo tàng Quang Trung và Đàn tế Trời – Đất (tại Tây Sơn); Lễ khai mạc Liên hoan; Cuộc thi Người đẹp Quốc tế Võ cổ truyền Việt Nam; Thi đấu võ cổ truyền các CLB trong nước; Lễ hội đường phố; Lễ bế mạc Liên hoan và chung kết cuộc thi chọn Người đẹp Quốc tế Võ cổ truyền Việt Nam.

 

Bên cạnh đó còn có các chương trình hưởng ứng gồm: Giao lưu tại 6 võ đường và biểu diễn tại 7 địa điểm của 4 huyện, thị xã, thành phố; Liên hoan ảnh nghệ thuật khu vực Miền trung – Tây Nguyên; Cuộc thi tài năng trẻ diễn viên sân khấu tuồng chuyên nghiệp toàn quốc năm 2014; Tham quan danh thắng và di tích lịch sử văn hóa; Hội đánh Bài chòi cổ dân gian; Đại hội sáng lập Liên đoàn Quốc tế Võ cổ truyền Việt nam và Hội thảo khoa học bảo tồn và phát huy võ cổ truyền Việt Nam.


Đặc biệt, chương trình đêm khai mạc năm nay với chủ đề “Bảo tồn và phát huy võ cổ truyền Việt Nam” có sự khác biệt sâu sắc đó là – đón nhận danh hiệu: “Võ cổ truyền Bình Định là Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia”. Chương trình diễn ra vào 20h00 ngày 01/8, được truyền hình trực tiếp trên sóng Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Truyền hình TP. Hồ Chí Minh, Đài Phát thanh và Truyền hình Bình Định.


Với nhiều hoạt động văn hóa, thể thao, du lịch được lồng ghép tinh tế, Liên hoan là cơ hội để các đoàn võ thuật trong và ngoài nước gặp gỡ, giao lưu, trao đổi về bảo tồn và phát triển võ cổ truyền Việt Nam ở trong nước và trên thế giới. Thông qua các hoạt động tại Liên hoan, Bình Định giới thiệu các danh lam thắng cảnh, địa danh lịch sử, làng nghề truyền thống, văn hóa ẩm thực và tiềm năng kinh tế của tỉnh nhằm thu hút du khách trong nước và quốc tế.

 

 

Nguồn: Vietnamtourism.gov.vn

Ra cù lao Chàm (Quảng Nam) khám phá hang yến

Nói đến yến, người ta nghĩ đến Khánh Hòa bởi đây được mệnh danh là xứ “rừng trầm, biển yến”. Tuy nhiên, ở miền Trung, ngoài Khánh Hòa, cù lao Chàm- Quảng Nam cũng là một nơi rất nhiều chim yến tập trung sinh sống.

 

Hàng chục năm trước, hang yến là vùng bất khả xâm phạm, nhưng nay, hang đã mở cửa để khách tham quan, tạo thêm điểm du lịch mới ở cù lao Chàm. Đến đây, du khách vừa khám phá nghề nuôi yến lấy tổ, vừa tìm hiểu việc thờ tổ nghề yến trên đảo.

 

Giã từ Cửa Đại đầy thơ mộng và quyến rũ của phố Hội, tàu lướt sóng đưa chúng tôi ra cù lao Chàm- vùng đất mang dấu tích của người cổ đại cách nay hàng ngàn năm và hàng trăm năm trước là cảng biển quan trọng giao du với phương Tây. Thay vì dừng lại khám phá vẻ đẹp viên mãn của cù lao này, chúng tôi lại tiếp tục ghép đoàn trên chuyến tàu khác để ra hang yến- một tour du lịch mới lạ, hấp dẫn với những trải nghiệm thú vị.

 

Từ xa xưa, hẻm núi của các đảo xung quanh cù lao Chàm đã có loài yến cư ngụ. Chúng làm tổ trên các vách đá, sâu trong khe núi. Người dân bản địa bất kể mạng sống, leo lên những vách đá cheo leo ấy lấy tổ yến dâng vua chúa. Và ngay từ khoảng thế kỷ 17, triều đình nhà Nguyễn đã chú ý đến nghề yến khi phân bổ ông Hồ Văn Hòa làm “Quản linh tam tỉnh yến hộ”, quản lý hoạt động khai thác tổ yến ở Quảng Nam, Bình Định và Khánh Hòa. Riêng Hội An, yến được khai thác chủ yếu ở các đảo nhỏ trong quần đảo cù lao Chàm, như: hòn Khô, hòn Tò Vò, hòn Lao…

 

Ra xa bờ, nhất là phía Đông hòn Lao, sóng to gió lớn. Con tàu nhấp nhô theo từng đợt sóng. Khu vực này không có những bãi cát trắng mịn màng như Cửa Đại hay cù lao Chàm. Thay vào đó là những khối đá ngàn đời hiên ngang, vững chãi trước mưa gió và sóng biển. Khách không khỏi trầm trồ trước những khe núi hiểm trở, nơi chim yến đến làm tổ, trú ngụ và sinh sản. Nhìn từ xa, hang yến chỉ là một khe nứt hẹp từ mặt biển lên đến gần đỉnh núi, cao đến hàng chục mét. Đến gần, mới thấy miệng hang rộng rãi. Chim yến từ biển bay vào đây làm tổ bằng nước miếng của mình rồi sinh và nuôi con cho đến khi chúng biết bay. Những người khai thác tổ yến phải ở lại hang nhiều tháng ròng để chăm sóc tổ. Người ta làm những giàn giáo bằng tre nối với nhau cao hàng chục mét lên tới miệng hang. Hằng ngày, họ leo lên giàn tre đó tiếp cận tổ, phun sương cho tổ ẩm, dễ khai thác. Công việc cực nhọc và nguy hiểm nhưng mỗi tổ khai thác được chỉ nặng khoảng 10 gram, thường khoảng 100-120 tổ mới được một kg. Mỗi kg tổ yến có giá hàng chục triệu đồng; loại tốt có khi giá lên đến 2-3 lượng vàng.

 

Du khách tự do khám phá hang yến và tìm hiểu về nghề truyền thống hàng trăm năm của xứ cù lao. Những giàn giáo bằng tre để thợ chăm sóc tổ, khai thác yến không khỏi khiến du khách “lạnh lưng” bởi tính mạo hiểm và bất trắc của nghề này. Nhiều công nhân khai thác yến tâm sự: Phụ nữ lấy chồng làm nghề yến cũng như lấy chồng đi biển, “hồn treo cột buồm”. Trước đây, cuộc sống của thợ khai thác yến ở hang yến rất buồn do tách biệt với môi trường xung quanh. Từ khi hang yến được đưa vào khai thác du lịch, ngày nào cũng có vài đoàn ghé thăm. Khách du lịch thường trò chuyện, hỏi về chuyện đời, chuyện nghề của công nhân nên các anh cảm thấy rất vui và tự hào với công việc của mình.

 

Vẫn còn một hang yến khác, hiểm trở kỳ vĩ hơn. Ngược hướng về bãi Hương- bãi Làng, du khách ghé thăm hang Tai- nơi có sản lượng khai thác yến cao nhất trên đảo cù lao Chàm. Tại đây, du khách có thể leo núi xem chim yến, tắm biển, lặn nông (lặn cạn, không cần khí tài) để chiêm ngưỡng thế giới muôn màu, muôn vẻ của các loài san hô. Quay lại cù lao Chàm, đến bãi Hương, khách được đưa đến viếng miếu thờ tổ nghề yến. Lịch sử hình thành nghề, miếu tổ và những câu chuyện kể về các bậc tiền hiền, khai cơ lập nghiệp mang đến cho khách nhiều cung bậc cảm xúc, nhất là đạo lý sống nhân ái yêu thương của cư dân làng đảo. Tại bãi Hương, du khách còn có thể trải nghiệm cuộc sống của làng nghề chài lưới qua loại hình du lịch homestay hoặc lang thang trên các ngả đường lộng gió biển. Và du khách cũng không nên bỏ qua cơ hội khám phá vẻ đẹp hoang sơ của bãi Nần, bãi Xếp, bãi Ruộng bên cạnh những bãi vốn đã nổi tiếng như bãi Ông, bãi Chồng, bãi Bấc./.

Nguồn: Vietnamtourism.gov.vn

Núi Mằn – nét đẹp trầm tích đất Quảng Ninh

Thiên nhiên đã ban tặng núi Mằn (huyện Hoành Bồ, tỉnh Quảng Ninh) một cảnh quan đẹp, sơn thủy hữu tình cùng hệ động thực vật phong phú. Đây cũng là núi đá duy nhất còn nguyên vẹn trên khu vực vịnh Cửa Lục, vùng đệm của di sản vịnh Hạ Long. Không chỉ có cảnh quan đẹp, danh thắng núi Mằn còn gắn với những câu chuyện văn hóa, lịch sử hấp dẫn, xứng đáng được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch công nhận là danh lam thắng cảnh quốc gia vào đầu tháng 7 này.

 

Nằm giữa hai nhánh suối là suối Đá Trắng (Bạch Thạch Khe) và suối Lưỡng Kỳ (Khe Bân) đổ ra sông Đá Trắng, núi Mằn xưa còn có tên gọi là núi Bân, một ngọn núi đẹp và điển hình cho hệ thống núi đá vôi của huyện Hoành Bồ. Hình dáng núi giống như một con voi đang trong thế quỳ phục, vòi chúc xuống khe Bân. Núi Mằn cao khoảng 300 m so với mực nước biển, có các vách đá cao dựng đứng, khe núi hiểm trở, lưng chừng núi có các tảng đá tự nhiên bao quanh như hình vành mũ, liên kết với nhau vững chắc, tạo thành những nét độc đáo riêng mà không ngọn núi nào trong vùng có được. Bên trong những rãnh núi hiểm trở có những hang động lừng chừng núi với những thớ, nhũ đá khá đẹp, trên đỉnh núi có rất nhiều vỏ ốc, sò… và có cả những vũng nước tự nhiên trong vắt mà người dân trong vùng gọi là Thiên Bể (hoặc Giếng Trời)… Bên cạnh những nét độc đáo riêng, núi Mằn còn có hệ thực vật núi đá vôi khá phong phú và đa dạng, có nhiều cây thuốc nam, phong lan và một số loài thú quý như khỉ vàng, kỳ đà, tắc kè, chim chóc. Phía đông của Núi Mằn còn có Hang đầu Bụt, bên trong hang có nhiều nhũ đá rất đẹp…


Bên cạnh những vẻ đẹp do thiên nhiên ban tặng, núi Mằn còn gắn với truyền thuyết ly kỳ về “Ông khổng lồ gánh đá vá trời” từ thuở khai thiên lập địa. Đến nay, nơi đây vẫn còn lưu lại nhiều địa danh gắn với truyền thuyết này như ruộng ông Khổng Lồ, đồi ông Khổng Lồ, rồi vết chân ông bước qua sông Cửa Lục tạo thành những dải đất có hình bàn chân (chân ông Khổng Lồ). Đặc biệt, là khi ông trở vai làm đòn gánh gãy làm đôi, một bên gánh rơi xuống thành phố Hạ Long (là núi Truyền Đăng – núi Bài Thơ), một bên rơi xuống địa phận Xích Thổ (Hoành Bồ) chính là núi Mằn ngày nay…

 

Bên cạnh giá trị về cảnh quan, tâm linh, núi Mằn còn có những giá trị gắn với lịch sử, văn hóa của dân tộc. Theo các nhà nghiên cứu về lịch sử, địa chất, địa mạo, thì núi Mằn chứa đựng nhiều trầm tích văn hóa Sơn Vi, Đông Sơn, cần phải được nghiên cứu một cách hệ thống và toàn diện. Những bút tích bằng chữ Hán cổ, đồ thờ tự phát hiện trong hang động tại núi Mằn những hiện vật như vỏ sò, ngao, các loài cây sú, vẹt… và những hệ thực vật biển hóa thạch phát hiện trong hang động là minh chứng về nguồn gốc, sự hình thành, phát triển của di tích, không chỉ có giá trị về danh thắng mà còn có giá trị về địa chất cổ sinh học.


Các nhà nghiên cứu về lịch sử thì cho rằng, núi Mằn từng là đại bản doanh của quân đội nhà Lý trong cuộc kháng Tống thế kỷ XI. Trong hai lần kháng chiến chống giặc Nguyên – Mông (1285, 1288), núi Mằn được Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn chọn làm đại bản doanh dự bị chiến lược của đạo thủy binh nhà Trần. Sau chiến thắng trận Bạch Đằng năm 1288, vua Trần Thánh Tông đã chỉ huy quân đội nhà Trần vượt biển tiến vào vịnh Cửa Lục, đóng quân tại núi Mằn rồi từ đó tiến lên chặn đánh và truy kích quân Nguyên do Thoát Hoan chỉ huy trên đường rút chạy về nước qua đường Đình Lập – Lạng Sơn…

 

Nguồn: Vietnamtourism.gov.vn

Thăm chùa Hải Tạng ở Cù Lao Chàm, Quảng Nam

Từ Cửa Đại, thành phố Hội An, Quảng Nam đến Cù Lao Chàm, một địa điểm thuộc vùng biển Việt Nam, nếu đi bằng phương tiện tàu siêu tốc mất khoảng 20 phút và bằng thuyền gỗ thì mất chừng 1 giờ.

Được biết, vào năm 2009, khi được UNESCO công nhận là Khu dự trữ sinh quyển thế giới, Cù Lao Chàm, trong đó có chùa Hải Tạng, trở thành một địa danh du lịch biển nổi tiếng của miền Trung nước ta.

 

 

Cù Lao Chàm từng là cảng rất cổ để tàu thuyền ngoại quốc của các nước như Bồ Đào Nha, Trung Hoa, Nhật Bản… đổ hàng vào Trà Nhiêu, Hội An (Quảng Nam). Trên đó có một ngôi chùa – điểm tựa tâm linh của cư dân trên đảo và cho thương thuyền các nước ghé vào trú tránh bão và hành lễ, cầu nguyện mưa thuận gió hòa…

 

Từ Bãi Làng trên đảo Hòn Lao, men theo những con đường nhỏ ngoằn ngoèo chừng 300m là đến xóm Cốm, nơi có chùa Hải Tạng trầm mặc cổ kính.

 

 

 

Ấn tượng đầu tiên là cổng tam quan đầy rêu phong nhuộm màu thời gian. Tam quan với lối kiến trúc xưa gồm 4 trụ biểu cao 5m, chóp trụ có khối hình hoa sen, rộng 1,5m. Tam quan được chia làm ba cổng, với hai lối vào nhỏ và một lối vào lớn được thiết kế theo kiểu mái vòm, bờ nóc, bờ hồi đắp nổi nhiều đường nét uốn lượn mềm mại, uyển chuyển và bên trên lợp ngói âm dương. Kết nối tam quan là bức tường thành bằng đá bao bọc xung quanh trang nhã với những đường nét hoa văn gọn gàng bao lấy khu vực và cả khuôn viên ngôi chùa.

 

Phía trước sân chùa là tượng Bồ-tát Quan Âm đứng trên đài sen giữa lòng hồ sen nhỏ, mặt hướng về phía biển Đông như che chở cho cuộc sống an lành của những ngư dân nơi đây. Sau khi làm lễ thắp hương tại thánh tượng Bồ-tát, từ đây du khách có thể vào tham quan ngôi chùa để trải nghiệm lòng mình với cõi Phật.

 

Kiến trúc bên trong ngôi chùa còn khá nguyên vẹn. Ở mái hiên, dép hoành cách điệu với hình lồng đèn, thân chạm hình hoa lá, đầu là những cánh sen lật đỡ thẳng lên đòn tay, dưới chạm nổi hình đầu rồng. Hệ thống cửa “thượng song hạ bản”, gồm 3 bộ, mỗi bộ 4 cánh ngăn không gian bên ngoài với không gian nội thất.

 

Hệ thống hoành phi, câu đối sơn son thếp vàng, uy nghiêm, lớp lang huyền ảo thiêng liêng hài hòa với cấu trúc tượng pháp thờ tự đa dạng. Nổi bật ở chánh điện là bộ Tam thế. Kế đến là tượng Thích Ca ngồi trên đài sen. Đặc biệt, trong chùa hiện vẫn còn lưu giữ đại hồng chung rất có giá trị về mặt lịch sử và văn hóa. Trên chuông có một con rồng mang phong cách mỹ thuật Việt thời Lê sơ. Có nhiều ý kiến cho rằng quả chuông ở chùa Hải Tạng được chú tạo trước cả thời điểm xây dựng chùa.

 

Được biết, cùng với sự phát triển của Phật giáo Đàng Trong, chùa Hải Tạng là một biểu tượng kiến trúc văn hóa Phật giáo độc đáo tiêu biểu trên đảo Cù Lao Chàm, Hội An, Quảng Nam và cho cả vùng đất thiêng liêng nằm về phía Đông của Tổ quốc.

 

Chùa được xây dựng vào năm Cảnh Hưng thứ XIX (1758). Sau đó, do có bão lớn làm hư hại nặng, chùa dời về vị trí như hiện nay vào năm Tự Đức nguyên niên (1848). Đây là một công trình đẹp, có quy mô lớn với kiến trúc kiểu “chồng rường giả thủ” chia 3 gian 2 lòng, có hậu tẩm, kết cấu vì kèo gỗ và các chi tiết kiến trúc được chạm trổ công phu. Chùa tọa lạc sát chân núi phía Tây của đảo Hòn Lao, thuộc xã Tân Hiệp (Hội An), phía sau tựa vào núi, mặt nhìn ra một thung lũng nhỏ là cánh đồng lúa duy nhất của Cù Lao Chàm.

 

Theo các bậc cao niên ngụ cư ở thôn Bãi Làng, xã Tân Hiệp trên Cù Lao Chàm cho biết: Tương truyền, các cây cột được vận chuyển từ ngoài Bắc đem vào làm một chùa nào đó trong Nam nhưng khi đi ngang Cù Lao Chàm, trời tối nên phải neo thuyền nghỉ lại. Sáng ra, thuyền tiếp tục lên đường, nhưng thật lạ, biển tự dưng dậy sóng, thuyền cứ xoay tròn, lòng vòng không đi ra khỏi Cù Lao Chàm được. Sau có người trong đoàn khấn nguyện rồi quyết định dùng số gỗ đó làm chùa nơi cù lao này.

 

Đến Cù Lao Chàm, du khách nên một lần viếng chùa Hải Tạng cổ kính để được sống lại với bao truyền thuyết và không khí thiêng liêng nơi một vùng đất còn hoang sơ.

 

Sự hiện hữu của ngôi chùa đã làm cho cảnh sắc Cù Lao Chàm trở nên hiền hòa, thuần khiết và có chiều sâu về tâm linh. Ngôi cổ tự thực sự hài hòa giữa thiên nhiên đã làm nên vẻ đẹp riêng của một vùng sinh thái. Ngôi chùa này đã đi vào tâm thức của bao người dân, là một bộ phận không thể tách rời của một vùng đất thiêng liêng của người Hội An (Quảng Nam) nói riêng và của quê hương nói chung.

 

Rời chùa Hải Tạng, lòng chúng tôi cứ man mác nhớ về một vùng Cù Lao Chàm lắng đọng tâm thức trong tiếng chuông chùa ngân xa, để rồi mong một lần nữa gác bỏ những lo toan muộn phiền âu lo của cuộc sống đời thường để quay về đất liền mang mạch sống thiêng liêng mà trung tâm là ngôi chùa trên xã đảo xa xôi này.

Nguồn: Vietnamtourism.gov.vn

Hà Nội và những gánh hàng rong

Ít ai biết được hàng rong có từ bao giờ. Chỉ thấy rằng, khi nói đến cuộc sống của thành phố ngàn năm tuổi này, người ta không thể không nhắc đến hàng rong, như một nét riêng của văn hóa Hà thành.

Hà Nội 36 phố phường với những mái ngói xô nghiêng, với những gánh hàng rong bạc màu rêu phong của phố cũ. Theo thời gian, Hà Nội đã thay cho mình một màu áo mới. Những bức tường rêu phong nơi phố cổ không còn như xưa. Thay vào đó là những dãy nhà cao tầng, là những khu trung tâm thương mại rộng lớn.

 

Những gánh hàng rong trên đường phố Hà Nội thời Pháp thuộc


Người ta chỉ còn nhìn thấy một Hà Nội xa xưa trong đáy hồ Gươm, hồ Tây và những gánh hàng rong. Người Hà Nội như nhìn thấy chính họ ở một thời đã qua. Hà Nội có thể già đi. Nhưng những gánh hàng rong chẳng bao giờ cũ.


Khi mọi người còn đang yên giấc, đâu đấy đã nghe thấy những tiếng rao, nhiều người đã thành thói quen cứ nghe thấy những âm thanh đó là biết giờ dậy chuẩn bị một ngày mới. Rồi tiếng rao khản đặc cất lên nặng nề, dấu hiệu của sự mệt mỏi sau một ngày bôn ba trên khắp mọi nẻo đường là khi đồng hồ đã chỉ 11 giờ đêm.


Nhiều người cho rằng, ở một khía cạnh nào đấy, những tiếng rao, những gánh hàng rong là một phần không thể thiếu của đời sống đô thị. Không cần bước chân xuống đường, những người dân đô thị vẫn mua sắm được đủ thực phẩm cần thiết cho sinh hoạt của gia đình từ những gánh hàng rong. Với đôi quang gánh trên vai, những người bán rong lang thang trên các đường phố rao bán đủ các loại hàng mà người mua cần đến. Hầu hết người bán hàng đều là dân tỉnh lẻ hoặc vùng lân cận Hà Nội. Việc ruộng đồng không đủ, vào những ngày nông nhàn họ rủ nhau ra thành phố kiếm sống bằng những gánh hàng rong.

 


Hàng ngày, cứ sáng sớm khi trời còn tờ mờ chưa tỏ bóng người, họ đã phải thức dậy lấy hàng rồi toả đi các ngả. Với số tiền ít ỏi kiếm được từ những gánh hàng rong mỗi ngày, những người phụ nữ ấy đã gánh trên vai cả gánh nặng cuộc đời, gánh thêm cả tương lai của những đứa con trai, con gái và cả một chút gì văn hóa đất kinh kỳ.

 

Thật thú vị biết bao, giữa trưa hè oi bức, được ăn bát tào phớ màu trắng ngà, mát lạnh, sóng sánh nước đường mà người bán khéo léo múc trong chiếc thùng gỗ nhỏ, mỗi bát chỉ vài lượt óc đậu mỏng tang. Hay giữa tiết thu hanh hao nắng và se se lạnh, được ngồi nhón từng nhúm cốm vòng xanh mướt thơm mùi hương lúa mới trong mảnh lá sen già mua của cô hàng cốm, bỏ vào miệng như thấy cả hương trời đất lan tỏa qua những hạt cốm dẹt, deo dẻo, mỏng manh. Rồi những tối mùa đông giá rét, ngồi quanh gánh hàng ngô nướng, khoai nướng trên vỉa hè mà hít hà, mà xuýt xoa trên tay bắp ngô non vừa nướng trên lò than hoa đỏ rực mà thấy ấm lòng, quên đi cái rét căm căm thổi đến từ phương Bắc.

 

Hà Nội có thể già đi, nhưng những gánh hàng rong chẳng bao giờ cũ


Cứ để ý sẽ thấy, hàng rong Hà Nội đẹp theo mùa. Khi những ngày hạ đã vắt sang thu cho đến tận chớm đông, nhiều người thích ngắm những gánh hàng hoa, trên ấy bồng bềnh những đóa sen đỏ cuối mùa, nhưng đài sen xanh như níu kéo ánh mặt trời gay gắt, những đóa cúc vàng hơn màu nắng. Thu vào sâu hơn nữa, người Hà Nội sẽ được ngắm phố với màu xanh của hàng cốm, màu hồng của hồng…

 

Theo thời gian, Hà Nội chuyển mình thay áo mới, những phố vắng khi xưa giờ chen chúc xe và người. Khi những nhà hàng, những quán ăn sang trọng, những quán cà phê và đủ mọi thứ đèn mọc lên như nấm giữa cái thành phố nhộn nhịp này, những gánh hàng rong như sợi xích của thời gian lưu giữ lại những nếp văn hóa thắm đượm cái tình, cái hồn của người Việt.


Và chắc chắn, trong ký ức, trong tâm hồn những đứa con Hà Nội, hình ảnh gánh hàng rong và những tiếng rao khuya đã in dấu rất sâu, đã cũ kỹ và êm đềm, như khúc nhạc đằm sâu trong bản tình ca xưa, ngàn năm vẫn còn da diết… Nên có người đi xa, nửa đêm thao thức nhớ tiếng “Khúc ơ….” tuổi thơ mà ứa cả nước mắt trong giấc mơ khắc khoải vọng quê hương. Có người đi xa, một ngày kia quay trở về thành phố, gặp gánh hàng hoa buổi sớm như gặp lại cố nhân, mà cứ thế trong lòng rưng rưng mãi.

 

Nguồn: Vietnamtourism.gov.vn

Bản Hon – Điểm du lịch văn hóa cộng đồng dân tộc Lự

Bản Hon, xã Bản Hon, huyện Tam Đường (tỉnh Lai Châu) có hai dân tộc Lự và Mông cùng sinh sống, trong đó dân tộc Lự chiếm 89,4%, Mông chiếm 8,5%, còn lại là dân tộc khác.

Đầu năm 2013, Bản Hon được Ủy ban Nhân dân tỉnh Lai Châu ký quyết định là một trong sáu điểm du lịch văn hóa cộng đồng hấp dẫn đưa vào khai thác.

Với hơn một trăm ngôi nhà sàn được bảo tồn nguyên trạng, cùng với nghề dệt và tập tục sinh hoạt văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc đồng bào Lự, Bản Hon nằm cách trung tâm thành phố Lai Châu hơn 10km và nằm trên tuyến du lịch “vòng cung Tây Bắc,” cách điểm du lịch Sa Pa không xa, đường đi thuận lợi, là lợi thế giúp Bản Hon thu hút khách du lịch.

 

Đường liên thôn bản đã được bê tông hóa 100%, thuận tiện cho việc đi lại của người dân và du khách khi đến thăm Bản Hon. (Ảnh: Thanh Hà/TTXVN)

 

157 hộ người Lự đang sinh sống ở Bản Hon, với hàng trăm ngôi nhà sàn được bảo tồn nguyên trạng. (Ảnh: Thanh Hà/TTXVN)

 

Đến với Bản Hon, khách du lịch sẽ được khám phá và trải nghiệm cuộc sống sinh hoạt, lao động của người dân bản địa. (Ảnh: Thanh Hà/TTXVN)

 

Trang phục truyền thống của người Lự với đường nét hoa văn độc đáo được làm bởi những bàn tay khéo léo của người phụ nữ. (Ảnh: Thanh Hà/TTXVN)

 

Nguồn: Vietnamtourism.gov.vn

Huyền thoại hồ Thang Hen

Cách thành phố Cao Bằng khoảng 30 km theo Tỉnh lộ 205, địa danh hồ Thang Hen thuộc xã Quốc Toản (Trà Lĩnh) được nhắc đến như một trong những địa chỉ du lịch sinh thái nổi bật, hấp dẫn, với phong cảnh thơ mộng, hữu tình gắn liền với những truyền thuyết, sự tích kỳ bí.


 

Huyền thoại về hồ Thang Hen là một sự khám phá thú vị đối với du khách. Theo truyền thuyết dân gian, ngày xưa ở Cao Bằng có một chàng trai tên là Sung thông minh, tuấn tú. Chàng thi đỗ làm quan và được vua ban thưởng bảy ngày vinh quy bái tổ. Về quê, chàng kết hôn cùng nàng Boóc xinh đẹp. Mải quyến luyến bên người vợ mới cưới, chàng quên mất ngày trở về kinh. Đến đêm thứ Bảy chàng mới sực nhớ, vội chia tay vợ và bố mẹ chạy về kinh. Giữa đêm tối trong rừng hoang, chàng chạy được 36 bước chân thì ngã đầu đập vào núi rồi chết. 36 bước chân của chàng ngày nay là 36 cái hồ lớn nhỏ với những tên gọi khác nhau của tiếng địa phương thuộc huyện Trà Lĩnh. Tương truyền rằng nơi chàng nằm xuống chính là hồ Thang Hen ngày nay.

 

Hiện nay, quần thể hồ Thang Hen có 36 hồ tự nhiên, mỗi hồ cách xa nhau vài chục hoặc vài trăm mét. Các hồ đều có bờ ngăn riêng, tuy nhiên, tất cả đều thông nhau bởi các hang động ngầm dưới lòng đất. 36 hồ nước ngọt tự nhiên này nằm trong một thung lũng rộng lớn tiếp giáp giữa xã Quốc Toản (Trà Lĩnh) và xã Ngũ Lão (Hòa An). Những tên hồ được đặt theo tiếng địa phương như: Thang Vạt, Nà Ma, Thang Loỏng, Thang Hoi… có từ hàng trăm năm nay. Trong đó, Thang Hen là hồ lớn nhất trong quần thể 36 hồ. Hồ Thang Hen có chiều dài gần 2.000 m, rộng 500 m, được bao quanh bởi những tán rừng già xen lẫn những mỏm đá tai mèo và có độ sâu tới 40 m. Tên của hồ Thang Hen theo tiếng địa phương có nghĩa là “đuôi ong”, bởi từ trên cao phóng tầm mắt nhìn xuống, du khách sẽ liên tưởng hình dáng của hồ có hình tựa như đuôi con ong. Các hồ tự nhiên này có nhiều đặc sản do thiên nhiên ban tặng với hơn 100 loại cá lớn, nhỏ khác nhau, như tôm, tép, cá chép vây đỏ, cá nheo…

 

Thang Hen có phong cảnh sơn thủy hữu tình với những hàng cây xanh vươn mình trên vách đá cheo leo, soi bóng xuống mặt nước xanh ngát, uốn vòng theo lòng thung lũng mấp mô những mỏm đá ngầm. Vào buổi sáng, từ đỉnh núi phóng tầm mắt xuống lòng hồ có thể thấy những đám mây lướt qua hệt như những dải lụa trắng tung bay trong gió. Phía đầu nguồn của hồ có một cái hang rộng gọi là hang Thang Hen. Miệng hang sâu 200 m, rộng khoảng 5 – 6 m, cao chừng 5 m thông thẳng lên đỉnh núi. Nước từ trong hang chảy ra quanh năm không dứt. Mỗi ngày hồ Thang Hen đều có 2 đợt thủy triều lên và xuống. Đặc biệt vào khoảng tháng 9 – 10, thời kỳ lập thu, trong một đêm, nước hồ Thang Hen bị rút cạn chỉ trong vài ba giờ đồng hồ. Không kể mùa lũ hoặc mùa khô, nước trong hồ Thang Hen quanh năm xanh ngắt. Khu vực hồ Thang Hen có bờ vực đá dựng đứng sâu từ 5 m – 30 m, trên núi đá có những loại cây gỗ quý hiếm như nghiến cổ thụ có tuổi thọ hằng trăm năm và nhiều giống hoa lan rừng, các loại thực vật đa dạng phong phú cùng với nhiều loại thú hoang dã như khỉ vàng, gà gô, chim gáy rừng…

 

Chỉ mất một giờ đi xe máy hoặc ôtô, du khách có thể đến Thang Hen để được tận hưởng không khí mát lành, ngắm cảnh sông nước, núi rừng hùng vĩ, thơ mộng, chèo thuyền từ hồ này sang hồ khác, thưởng thức các món ăn đậm đà bản sắc dân tộc từ sản phẩm của hồ và được nếm hương vị rượu thơm ngon nồng ấm chưng cất từ ngô và men lá theo phương pháp cổ truyền của dân tộc Tày.

 

Nguồn: Vietnamtourism.gov.vn

Sàng Ma Sáo – điểm hẹn hấp dẫn

Người dân thân thiện, mến khách, cảnh quan thiên nhiên hùng vĩ với những dãy núi trùng điệp, bạt ngàn rừng già nguyên sinh bên những thửa ruộng bậc thang quyến rũ bốn mùa, xã Sàng Ma Sáo (Bát Xát) đã trở thành điểm đến hấp dẫn du khách.


 

Con đường từ trung tâm huyện Bát Xát đến xã Sàng Ma Sáo không xa, nhưng do đang trong quá trình sửa chữa, nên việc đi lại gặp đôi chút khó khăn. Tuy nhiên, khi đã đặt chân đến xã Sàng Ma Sáo, vẻ đẹp của thiên nhiên, con người nơi đây sẽ là những bù đắp xứng đáng cho bạn. Nhắc tới ruộng bậc thang, người ta hay nói tới vẻ đẹp của ruộng bậc thang ở Y Tý (Bát Xát), Mù Cang Chải (Yên Bái), nhưng ít ai biết, ở Sàng Ma Sáo, ruộng bậc thang cũng đẹp mê hồn. Những tràn ruộng bậc thang nơi đây trải dài, nằm ngay dưới chân núi Nhìu Cồ San thơ mộng. Trong bất kỳ thời điểm nào, ruộng bậc thang Sàng Ma Sáo cũng toát lên những vẻ đẹp mộc mạc, quyến rũ. Vào mùa nước đổ, đứng trên dãy Nhìu Cồ San nhìn xuống, chúng ta dễ dàng liên tưởng đến những chiếc gương khổng lồ phản chiếu bức tranh sơn thuỷ hữu tình. Còn vào mùa lúa chín, ruộng bậc thang Sàng Ma Sáo đẹp chẳng kém gì những nơi tôi từng đến. Cùng tôi đi dọc các cung đường Lào Cai chụp ảnh, anh bạn tôi phải thốt lên: “Ngay đây thôi, chẳng cần phải đi đâu xa, chúng ta cũng có thể chụp được những bức ảnh như ý. Trong tương lai, vẻ mộc mạc, hoang sơ nơi đây chắc chắn sẽ thu hút du khách tới tham quan”.  

 

Không chỉ có ruộng bậc thang hấp dẫn du khách, Sàng Ma Sáo còn có bạt ngàn rừng già trên núi Nhìu Cồ San. Theo tiếng địa phương, Nhìu Cồ San có nghĩa là Núi Sừng Trâu, tên gọi này xuất phát từ việc những ngày trời nắng, không có sương mù bao phủ, đứng từ xa chúng ta có thể nhìn thấy đỉnh núi có hình dáng giống như một chiếc sừng trâu. Núi Nhìu Cồ San có độ cao hơn 2.300 mét so với mực nước biển. Nhìn bên ngoài, Nhìu Cồ San cũng không khác nhiều so với Phan Xi Păng, Ngũ Chỉ Sơn, quanh năm mây trắng che phủ… Thế nhưng, trong núi Nhìu Cồ San là cả một hệ động, thực vật vô cùng quý hiếm. Dưới những tán rừng già Nhìu Cồ San, quanh năm khí hậu mát mẻ, người dân vùng cao Sàng Ma Sáo đã tận dụng trồng thảo quả. Cũng nhờ cây thảo quả, cuộc sống đồng bào Sàng Ma Sáo ngày càng no ấm hơn.

 

Với những tiềm năng du lịch vốn có, trong tương lai không xa, Sàng Ma Sáo sẽ trở thành điểm đến hấp dẫn du khách bốn phương, góp phần phát triển kinh tế – xã hội của địa phương, xoá đói, giảm nghèo, nâng cao đời sống nhân dân.

 

Nguồn: Vietnamtourism.gov.vn

TIN MỚI NHẤT