Điểm đến du lịch

Những địa điểm du lịch hấp hẫn những địa điểm du lịch trong nước, địa điểm du lịch nước ngoài được chúng tôi tổng hợp và đưa tin đến Quý bạn đọc đam mê du lịch có cái nhìn tổng quan nhất về các địa danh du lịch để quyết định cho mình cho những chuyến du lịch ý nghĩa nhất

Khu lưu niệm nghệ thuật ĐCTT Nam bộ và nghệ nhân Cao Văn Lầu: Điểm du lịch đặc biệt của Bạc Liêu

Không chỉ vinh dự là một trong những “cái nôi” của đờn ca tài tử (ĐCTT), Bạc Liêu hôm nay còn tự hào khi có hẳn một Di tích lịch sử – văn hóa quốc gia bảo tồn loại hình nghệ thuật độc đáo này với tên gọi: Khu lưu niệm nghệ thuật ĐCTT Nam bộ và nghệ nhân Cao Văn Lầu (gọi tắt là Khu lưu niệm).

Đặt chân đến Khu lưu niệm, du khách sẽ ấn tượng với công trình bản chuẩn Dạ cổ hoài lang – “bản nhạc lòng” đã thăng hoa trở thành bản vọng cổ – được lộng khung với chữ khắc bằng vàng. Bản chuẩn Dạ cổ hoài lang cùng với bức tượng bán thân của người nghệ nhân tài hoa sáng tạo ra nó, được đặt một cách trang trọng trong một khu vực đặc biệt trưng bày về ĐCTT, cải lương như một món quà thể hiện sự tri ân sâu sắc đối với bác Sáu Lầu.

 

 

Bên cạnh đó, Khu lưu niệm còn có những hạng mục, công trình giúp người thưởng lãm có cái nhìn khá đầy đủ về cuộc đời, sự nghiệp của nghệ nhân Cao Văn Lầu, về nghệ thuật ĐCTT Nam bộ, như: Nhà sân khấu biểu diễn ĐCTT; Nhà trưng bày các tranh, ảnh, hiện vật về nhạc sĩ Cao Văn Lầu và sự phát triển của “bài ca vua”; Biểu tượng cây đờn kìm; tượng nghệ nhân Cao Văn Lầu; Vườn tượng các loại nhạc cụ dân tộc…

 

Trong khuôn viên Khu lưu niệm, tại biểu tượng đài ống tre, lối vào chính phía trên của nhà hành chính là cầu thang lên khu vực có biểu tượng cây đờn kìm và hình ảnh nhạc sĩ Cao Văn Lầu. Cây đờn kìm được cách điệu từ đốt tre và xung quanh phần đài ống tre khắc họa 20 bản Tổ: 3 bản Nam, 6 bản Bắc, 4 bản Oán và 7 bản lớn. Đặc biệt, các bậc thang trên đài ống tre dẫn lên khu đặt lư hương (để mọi người hành lễ, tưởng niệm) được bố trí theo các bậc số: 2, 4, 6, 8, 16, 32 và 64 – tượng trưng cho cung bậc, nhịp phách của ca cổ cải lương tương ứng với từng nghệ nhân sáng tác. Đó là: nhịp 2 của Cao Văn Lầu, nhịp 4 của Trịnh Thiên Tư, nhịp 8 của Lư Hòa Nghĩa, nhịp 16 của Mộng Vân, nhịp 32 của Trần Tấn Hưng và nhịp 64 của Lý Khi. Quả là một không gian đậm chất tài tử!

 

Còn nhiều nét hấp dẫn khác mà chỉ khi được đặt chân vào Khu lưu niệm mọi người mới có thể cảm nhận hết “hơi thở” của ĐCTT. Thật đúng với chủ đề mà Festival ĐCTT quốc gia lần I – Bạc Liêu 2014 đã chọn, Bạc Liêu không chỉ có những con người nghĩa tình, hiếu khách, lịch thiệp, mà còn có cả những công trình văn hóa – nghệ thuật đậm chất “Tình người, tình đất phương Nam”. Với tổng diện tích xây dựng trên 12.500m2, tổng vốn đầu tư hơn 75 tỷ đồng, Khu lưu niệm này là điểm du lịch đặc biệt của Bạc Liêu. Đây là một công trình “để đời” mà Bạc Liêu đã làm được với mong muốn hành trình “đi lên từ văn hóa” đạt những kết quả tốt đẹp!

Nguồn: Vietnamtourism.gov.vn

Cửa Lò, vẻ đẹp quyến rũ

Nét quyến rũ của Thị xã biển Cửa Lò nay không chỉ bởi có bãi tắm sạch, đẹp bậc nhất Bắc Trung bộ mà còn ở trong một không gian đô thị du lịch không ngừng được hoàn thiện, phát triển…

Đêm rực rỡ ánh sáng, biển Cửa Lò luôn là điểm đến thú vị cho du khách mỗi khi hè về. Ấn tượng mở của một đô thị du lịch Cửa Lò Nghệ An còn là ở những khu chung cư, biệt thự, các cơ sở sản xuất quy mô công nghiệp nhỏ nhưng hiện đại, Trường Đại học tư thục Vạn Xuân… điểm xuyết trong một tổng thể không gian xanh của các khu dân cư và hệ thống cơ sở lưu trú ngày càng cho thấy sự hợp lý trong quy hoạch, kiến trúc xây dựng của thị xã với tầm nhìn xa của chiến lược phát triển. 

 

 

Sân golf Cửa Lò kể như là một công trình phục vụ giải trí độc đáo cho nhu cầu ngày càng cao và đa dạng của du khách trong những ngày nghỉ dưỡng, tắm biển. Biển biếc xanh và có dải cát trắng mịn màng đã góp phần tạo nên vẻ đẹp quyến rũ của những bãi tắm Lan Châu, Xuân Hương, Cửa Hội… Các khách sạn ở Cửa Lò  cũng rất gần biển, tiện nghi và sạch đẹp giúp du khách khi nghỉ ngơi và tắm biển.

 

Qua một “mùa biển” thì ấn tượng của du khách về một Cửa Lò mang vẻ đẹp hấp dẫn, quyến rũ lại được nhân lên. Điều này xuất phát từ tiềm năng du lịch to lớn mà thiên nhiên đã ban tặng cho vùng đất này và từ việc người dân ở đây biết bảo tồn và phát huy tiềm năng, thế mạnh du lịch. Ngoài việc để cung cấp các đặc sản biển cho dịch vụ du lịch còn là để phục vụ nhu cầu khám phá Cửa Lò của du khách, bởi một chuyến đánh bắt trên biển bằng thuyền thúng là một nét độc đáo đối với du khách. Ngoài kinh tế biển, Cửa Lò còn dành quỹ đất để sản xuất nông nghiệp với các làng mạc mang nét trù phú riêng của dân cư vành đai đô thị du lịch, là tiếp nối cho một tour tham quan các danh thắng, di tích của xứ Nghệ để từ đó cùng với các bước đột phá trong phát triển cơ sở hạ tầng và các khu vui chơi giải trí, có thể góp phần định hình cho một chiến lược du lịch bốn mùa của thị xã. 

 

Thân thiện, mến khách từ những ấn tượng mở, mùa du lịch biển Cửa Lò năm 2014 còn khẳng định Cửa Lò là một đô thị luôn hấp dẫn du khách trong và ngoài nước.

 

 

Nguồn: Vietnamtourism.gov.vn

Cù Lao Chàm – Điểm du lịch xanh không túi nilon

Những ai lần đầu đến với Cù Lao Chàm (xã Tân Hiệp, thành phố Hội An, Quảng Nam) chắc chắn sẽ bị hòn đảo này quyến rũ. Một màu biếc xanh nguyên sơ của cây rừng nối liền với màu xanh của biển bằng dải lụa cát trắng mịn màng, lấp lánh dưới ánh nắng vàng và màu trời xanh thẳm…

Không chỉ là vẻ đẹp thiên nhiên mà con người nơi đây mới thực sự là “món quà quý” đảo dành tặng du khách. Sự chân tình, hồn hậu và mến khách sẽ khiến bước chân những ai trót lãng du tới đây quyến luyến lúc phải rời xa.

 

Quyến rũ biển đảo xanh
 
Mùa hè dẫu có nóng bỏng thì vẫn khó lòng chạm tới Cù Lao Chàm. Cù Lao lúc nào cũng mướt mắt và sóng sánh xanh. Cơn mưa giông, gió giật bất chợt từ đâu kéo về làm bầu trời biến sắc, vần vũ ngay đó nhưng sẽ chỉ ào ạt một lúc thôi, rồi sẽ lại nắng bừng lên để hong khô dải cát mịn màng, để rồi màu biển sẽ lại tiệp với màu trời, một màu xanh bất tận.

Những hàng dừa cũng điệu đàng khoe dáng, soi bóng xuống lòng biển xanh. Dọc các bãi cát trải dài, đôi ba chiếc cầu gỗ như bến đỗ dành cho những “mình hạc sương mai” thả dáng. Các nhiếp ảnh gia thường hay chọn góc này, nơi mà dường như trời đất nối liền nhau qua cây cầu lãng mạn, nơi đã xuất hiện trong không ít những bộ ảnh cưới của các cặp yêu đương…

Điểm xuyết với bức tranh thiên nhiên trong trẻo ấy là sự hiện diện của những chiếc thuyền thúng dập dềnh theo con sóng vỗ ì oạp, nơi sự sống con người theo đó mà duy trì, sinh sôi… Cù Lao Chàm ban ngày hấp dẫn bởi những gam màu nguyên sơ và mãnh liệt như thế.

Đêm cù lao lại mang đến cho du khách một trải nghiệm hoàn toàn mới mẻ với dịch vụ “homestay”. Đây là loại hình dịch vụ do người dân đảo chiều lòng khách muốn nghỉ lại qua đêm trong những căn lều di động ở bãi Chồng, bãi Hương… Tiếng gió và tiếng sóng vỗ dạt dào vào các ghềnh đá sẽ ru êm một giấc ngủ bình yên giữa đất trời.

Nếu muốn một trải nghiệm thú vị khác, du khách có thể hưởng thụ biển đêm bằng cách thả bộ thư giãn dọc bãi cát, ngắm nhìn sự sống lấp lánh trong ánh đèn của những chiếc thuyền câu mực, đánh cá giữa biển đêm đen quánh.

Đảo nói không với túi nilon

Một sự thay đổi đáng ngạc nhiên khi trở lại Cù Lao Chàm thời gian gần đây khi không còn thấy đâu bóng dáng của rác thải hay túi nilon nữa. Người dân thực hiện nghiêm túc chỉ thị của thành phố Hội An (từ giữa năm 2009) về việc không sử dụng túi nilon trên đảo cũng như giữ gìn vệ sinh môi trường.

Hơn 600  hộ dân nơi đây đồng lòng tẩy chay những chất gây hại không chỉ môi trường mà còn có nguy cơ ảnh hưởng tới các thế hệ con cháu của họ sau này. “Loa phóng thanh xã đảo ngày nào cũng nhắc điều đó nên không thấy phiền chi hết. Chúng tôi làm vậy còn là để giữ sạch cho mình. Chẳng ai dám xả rác bừa bãi nữa, ai thấy người ta lại nói thì kỳ lắm,” chị Thành ở xóm trong bãi Làng nói.

Thậm chí ở chợ còn có tấm bảng với khẩu hiệu “Xách giỏ đi chợ, phong cách của người nội trợ” và hình minh họa nói không với túi nilon, đủ thấy quyết tâm của những người dân Cù Lao xanh thế nào. Bà con dân đảo được thành phố và một số doanh nghiệp hỗ trợ trong việc tăng cường sử dụng túi giấy nên ngày nào cũng có cán bộ tới phát túi miễn phí.

Du khách không mang túi nilon ra đảo và được khuyến khích dùng túi giấy. “Cù Lao Chàm xứng đáng là hòn đảo xanh và sạch nhất mà tôi từng đến. Giá như người dân ở các điểm du lịch khác cũng có ý thức bảo vệ môi trường như ở đây!” anh Trần Văn Hải ở Mê Linh, Vĩnh Phúc khi tới đảo đã vô cùng ngạc nhiên, vừa giơ mấy chiếc túi giấy được phát khi tới đảo vừa nói.

Còn lý do để hai vợ chồng chị Quỳnh Hương ở Kim Liên, Hà Nội quyết định quay trở lại điểm du lịch này là vì “không chỉ bởi vẻ đẹp nguyên sơ, xanh biếc của đảo mà những người dân ở đây hồn hậu, chất phác lắm. Họ thật thà chứ không làm ăn kiểu chộp giật như nhiều điểm du lịch tôi từng đến. Hy vọng rằng người dân Cù Lao Chàm sau này vẫn sẽ giữ được phẩm chất đáng quý ấy.”

Cù Lao Chàm được công nhận là Khu dự trữ sinh quyển thế giới từ năm 2009. Cũng từ thời điểm đó điểm du lịch này mới bắt đầu thực sự có danh trên bản đồ du lịch thế giới. Và mong sao, bất chấp mọi đổi thay của cơ chế thị trường, của thời gian Cù Lao Chàm vẫn sẽ vẹn nguyên vẻ đẹp của cả tình lẫn cảnh, vẹn nguyên hồn cốt như nhận xét của chị Hương, anh Hải.

Và, giá như ở các khu du lịch khác trên đất nước hình chữ S cũng xanh, sạch, đẹp và người dân có ý thức cao trong việc gìn giữ môi trường sống như ở đảo Cù Lao Chàm!./.

 

Nguồn: Vietnamtourism.gov.vn

Đầu năm du xuân miền quan họ

(TITC) – Những ngày đầu năm, tiết trời se lạnh kèm theo những hạt mưa bụi phảng phất không là trở ngại cản bước du khách thập phương tìm về miền quê Bắc Ninh – Kinh Bắc, nơi không chỉ nổi tiếng bởi những làn điệu quan họ và tranh Đông Hồ mà còn quy tụ rất nhiều di tích lịch sử đặc sắc như lăng Kinh Dương Vương, chùa Bút Tháp, chùa Dâu (huyện Thuận Thành); chùa Phật Tích (huyện Tiên Du); đền Đô (thị xã Từ Sơn)… Chính vì vậy, Bắc Ninh là điểm đến của rất nhiều du khách trong chuyến hành hương về nguồn.

Khuôn viên lăng Kinh Dương Vương

 

Điểm dừng chân đầu tiên trong hành trình của du khách là huyện Thuận Thành với cụm di tích đền thờ và lăng Kinh Dương Vương (thôn Á Lữ, xã Đại Đồng Thành) cách thành phố Bắc Ninh khoảng 20km về phía nam. Theo truyền thuyết và các thư tịch lịch sử, Kinh Dương Vương là thủy tổ của người Việt, thân phụ của Quốc tổ Lạc Long Quân.

 

Khu vực đền thờ Kinh Dương Vương có diện tích khoảng hơn 2.000m² gồm 5 gian tiền tế và 3 gian thờ được xây theo kiểu chữ công, gian giữa có long ngai sơn son thếp vàng thờ Kinh Dương Vương, gian bên trái thờ Âu Cơ và gian bên phải thờ Lạc Long Quân. Trong đền có hệ thống nghi trượng bằng đồng, gỗ, sứ khá phong phú như: mâm đồng, đỉnh, lư hương, ống hoa, thau rước nước, chiêng… Tọa lạc trên bãi bồi rộng 4.200m² sát bờ nam sông Đuống, lăng Kinh Dương Vương có kiến trúc 2 tầng 8 mái, được bao bọc bởi nhiều cây cổ thụ um tùm, mát mẻ. Trải qua bao thăng trầm lịch sử, đến nay, cụm di tích đền thờ và lăng Kinh Dương Vương vẫn gìn giữ nhiều di sản vật thể và phi vật thể đặc sắc như: thần phả, sắc phong, bia đá, hoành phi, câu đối, tín ngưỡng, lễ hội…

 

Một trong những tháp cổ tại chùa Bút Tháp

 

Rời thôn Á Lữ, xuôi theo bờ đê sông Đuống, du khách tiếp tục đến với chùa Bút Tháp (thôn Bút Tháp, xã Đình Tổ). Chùa có tên chữ là “Ninh Phúc Thiền Tự” được xây dựng từ thời hậu Lê (thế kỷ 17) theo kiểu “nội công ngoại quốc”, bao gồm: Tam quan, gác chuông, Tiền đường và Thượng điện. Bên trong Thượng điện có bày các bộ tượng Tam Thế, Tam Thân, trong đó nổi bật nhất là tượng Phật Bà Quan Âm “nghìn mắt nghìn tay” cao 3,7m, 42 bàn tay lớn và 958 tay nhỏ, mỗi bàn tay có một mắt; tượng Tây Thiên Đông Độ Việt Nam lịch đại Tổ sư và tượng Quan Âm Thị Kính. Đây được coi là bộ ba tác phẩm nghệ thuật tạc tượng danh bất hư truyền tại chùa Bút Tháp. Từ Thượng điện, đi qua chiếc cầu đá có 3 nhịp uốn cong, du khách sẽ thấy tòa “Cửu phẩm Liên Hoa” 9 tầng được làm bằng gỗ, có khắc tượng Phật xung quanh. Ngoài ra, trong chùa còn có hơn 70 pho tượng gỗ như pho tượng Kim Đồng – Ngọc Nữ, tượng La Hán… ; nhiều tòa tháp cổ như tháp Bảo Nghiêm, Tôn Đức… là nơi đặt xá lị của các vị thiền sư trụ trì chùa trước đây.

 

Chùa Dâu

 

Sau khi tham quan chùa Bút Tháp, du khách tiếp tục đến với chùa Dâu (thôn Khương Tự, xã Thanh Khương). Được xây dựng từ đầu thế kỷ thứ 3, chùa Dâu được xếp vào bậc danh lam cổ tự xứ Kinh Bắc và là ngôi chùa Phật giáo cổ nhất Việt Nam, nơi giao lưu của hai luồng văn hóa Phật giáo lớn là Ấn Độ (gắn với nhà sư Khâu-đà-la) và Trung Quốc (gắn với nhà sư Tỳ-ni-đa-lưu-chi). Chùa Dâu thờ nữ thần Pháp Vân gắn liền với huyền tích Tứ pháp của người Việt (Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi và Pháp Điện). Chùa  được bố cục theo kiểu “nội công ngoại quốc”, bốn dãy nhà liên thông hình chữ nhất bao quanh ba ngôi nhà chính là Tiền đường, Thiêu hương và Thượng điện. Tiền đường của chùa đặt tượng Hộ pháp, 8 vị Kim cương; Thiêu hương đặt tượng Cửu Long, hai bên có tượng các vị Diêm vương, Tam Châu Thái tử, Mạc Đĩnh Chi; Thượng Điện đặt tượng bà Dâu (Pháp Vân), bà Đậu (Pháp Vũ), Kim Đồng, Ngọc Nữ. Các pho tượng Bồ tát, Tam thế, Đức ông, Thánh tăng được đặt ở phần hậu điện phía sau chùa chính. Ngoài ra, trong chùa còn có tượng tổ sư Tỳ-ni-đa-lưu-chi, 18 vị La Hán,… Hiện ở sân chùa Dâu có tháp Hòa Phong 3 tầng cao khoảng 17m; trong tháp có chuông lớn đúc dưới triều Cảnh Thịnh (1793), khánh lớn bằng đồng đúc năm Minh Mạng 18 (1837).

 

Các sản phẩm làng tranh Đông Hồ

 

Điểm đến tiếp theo của du khách khi đến với huyện Thuận Thành là làng tranh Đông Hồ, xưa còn gọi là làng Mái (xã Song Hồ). Các cụ làng Đông Hồ vẫn truyền lại câu ca rằng:

       Hỡi cô thắt lưng bao xanh,
Có về làng Mái với anh thì về.
Làng Mái có lịch có lề,
 Có ao tắm mát có nghề làm tranh.

 

Ðông Hồ, một ngôi làng xinh xắn nằm bên bờ sông Ðuống, từ lâu đã đi vào đời sống tinh thần của mỗi người dân Việt Nam bằng những bức tranh dân gian nổi tiếng, đậm đà bản sắc dân tộc. Không chỉ có người Hà Nội và các tỉnh thành trong nước yêu thích tranh dân gian Ðông Hồ về tham quan tìm hiểu và chọn mua, mà không ít du khách, những người trong lĩnh vực hội họa, mỹ thuật của nước ngoài cũng đến để nghiên cứu về nghệ thuật tranh dân gian đặc sắc của làng Hồ.

 

Các bảo tháp tại chùa Phật Tích

 

Kết thúc chuyến tham quan tại huyện Thuận Thành, du khách có thể đến huyện Tiên Du để vãn cảnh chùa Phật Tích (thôn Phượng Hoàng, xã Phật Tích) được xây dựng vào thời nhà Lý năm Thái Bình thứ  4 (1057). Khởi nguyên của chùa Phật Tích gắn liền với trung tâm Phật giáo Luy Lâu và sự du nhập của Phật giáo Ấn Độ. Đây là nơi có 5 cặp tượng linh thú (sư tử, voi, trâu, ngựa và tê giác) bằng đá lớn nhất Việt Nam, được đặt trên bệ sen trước cửa chùa. Ở Thượng điện của chùa có pho tượng đức Phật A Di Đà ngồi thiền trên tòa sen cao 1,85m (kể cả bệ là 2,8m) – một kiệt tác điêu khắc bằng đá thời Lý. Phía sau Chính điện của chùa còn lưu giữ một số đấu kê chân tảng, trong đó đặc sắc nhất là một chân tảng chạm khắc hình các nghệ sĩ đang biểu diễn dàn nhạc bát âm gồm sáo dọc, sáo ngang, đàn nhị, đàn nguyệt, đàn tam, đàn tì bà, trống phách. Ngoài ra, tại vườn sau chùa có 32  bảo tháp của chư Tổ, chư Tăng đã viên tịch từ thế kỷ 17 đến thế kỷ 20.

 

Hát quan họ 

 

Nếu đến huyện Tiên Du vào ngày 12 và 13 tháng Giêng hàng năm, du khách sẽ có dịp tham gia hội Lim được tổ chức trên đồi Lim (thị trấn Lim). Đây là lễ hội lớn của tỉnh Bắc Ninh, được coi là nét kết tinh độc đáo của văn hóa vùng Kinh Bắc. Ngày hội thu hút nhiều người dân từ khắp nơi về trẩy hội vui xuân, trong đó phần đông là nam thanh nữ tú. Họ đến để hát quan họ, kết bạn, tìm duyên. Đặc biệt, từ khi Quan họ Bắc Ninh được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại vào năm 2009, ngày hội càng trở nên rộn ràng và thu hút hơn. Đến hội Lim, khách du xuân được xem và nghe hát quan họ trên đồi, hát sau chùa, hát trên thuyền và hát trong các tư gia (hát trong nhà); lại có thể nghe hát đối từng cặp (đôi nam, đôi nữ) với những câu ca mượt mà, tha thiết:

Mấy khi khách đến chơi nhà,
Lấy than, quạt nước tiễn trà người xơi.
Trà này ngon lắm người ơi,
Người xơi một chén cho tôi bằng lòng.

 

Du khách trẩy hội Lim còn được tham gia nhiều hoạt động văn hóa truyền thống của địa phương hay các trò chơi dân gian như đu bay, chọi gà, chọi chim, đấu vật, tổ tôm điếm…

 

Thủy đình tại đền Đô

 

Từ huyện Tiên Du ngược về thị xã Từ Sơn, du khách sẽ đến với một di tích gắn liền với vương triều nhà Lý đó là đền Đô (xóm Thượng, phường Đình Bảng). Đền được xây dựng vào thế kỷ 11, trên khu đất phía đông nam làng Đình Bảng xưa mà theo Thiền sư Lý Vạn Hạnh là nơi hội tụ của thiên khí, nơi có thế 8 đầu rồng chầu về. Đền Đô thờ 8 vị vua nhà Lý là: Lý Thái Tổ (1009-1028), Lý Thái Tông (1028-1054), Lý Thánh Tông (1054-1072), Lý Nhân Tông (1072-1128), Lý Thần Tông (1128-1138), Lý Anh Tông (1138-1175), Lý Cao Tông (1175-1210) và Lý Huệ Tông (1210-1224). Trung tâm của đền là Chính điện, nơi thờ 8 vị vua nhà Lý, phía bên trái điện treo tấm bảng ghi lại “Chiếu dời đô” của vua Lý Thái Tổ với 214 chữ ứng với 214 năm trị vì của 8 đời vua nhà Lý, phía bên phải treo tấm bảng ghi bài thơ “Nam quốc sơn hà” của Lý Thường Kiệt. Đền Đô còn có nhiều hạng mục công trình lớn nhỏ khác như: nhà chuyển bồng, nhà tiền tế, nhà để kiệu thờ, nhà để ngựa thờ, nhà bia, thủy đình, nhà chủ tế, nhà văn chỉ (thờ các quan văn), nhà võ chỉ (thờ quan võ)… Lễ hội đền Đô được tổ chức vào các ngày 14, 15, 16 tháng 3 âm lịch hàng năm nhằm kỷ niệm ngày Vua Lý Thái Tổ đăng quang (ngày 15/3 năm Canh Tuất 1009). Đây là ngày hội lớn thể hiện lòng thành kính và nhớ ơn của người dân Việt đối với các vị vua nhà Lý.

 

Chỉ một lần đến Bắc Ninh, chắc hẳn trong tâm trí mỗi du khách sẽ còn đọng lại mãi hình ảnh của những tháp chùa cổ kính, những làng nghề truyền thống và lễ hội dân gian độc đáo, đặc biệt là những “liền anh, liền chị” với những câu hát quan họ như một lời mời gọi tha thiết và đầy níu kéo: “Người ơi, người ở đừng về…”

 

Bài: Phạm Phương; ảnh: TITC

 

Nguồn: Vietnamtourism.gov.vn

Thưởng ngoạn thắng cảnh Chà Bang – Ninh Thuận

Ngọn núi Chà Bang có chiều cao hơn 430m thuộc địa bàn xã Phước Nam, huyện Thuận Nam. Ít ai ngờ ngọn núi đá tưởng chừng khô khốc ấy lưu giữ trong lòng nhiều huyền thoại gắn liền với đời sống tâm linh đồng bào dân tộc Chăm.

Và ngôi chùa cổ Trà Cang với lịch sử hình thành gần 200 năm tuổi trở thành điểm đến của du khách gần xa thưởng ngoạn vẻ đẹp riêng của một vùng non xanh cỏ biếc.

 

 

Trên đường thiên lý Bắc Nam, đến km 1.572 du khách rẽ về hướng Đông khoảng ba cây số là đến chân núi Chà Bang. Ấn tượng đầu tiên khi dừng chân dưới chân núi là cổng tam quan của ngôi chùa cổ Trà Cang có cấu trúc uy nghi tựa lưng vào núi đá. Trước mặt cổng tam quan là rừng neem tỏa bóng xanh mát rộng trên một mẫu tây tạo cảnh quan thêm tươi đẹp cho ngôi chùa. Theo những bậc tam cấp đá được xây lắp công phu, du khách đi dưới bóng cây rừng nguyên sinh đặc trưng sinh thái vùng khô hạn. Đại đức Thích Tánh Hạnh, Trưởng Ban đại diện Phật giáo huyện Thuận Nam, trụ trì chùa Trà Cang cho biết đây là một trong những cơ sở thờ tự lâu đời nhất tỉnh Ninh Thuận. Năm 1835, tổ Bảo Tạng từ đàng ngoài vân du vào Ninh Thuận chọn núi Chà Bang làm nơi tu hành. Buổi đầu, ngài dựa vào các hang đá xây dựng thành chánh điện và bái đường. Đến các vị trụ trì kế thừa tiếp tục đầu tư phát triển tạo nên cơ sở Phật tự khang trang như ngày nay.

 

Đứng lưng chừng núi Chà Bang, du khách nghe tiếng chim rừng vui hót giữa không gian cây rừng xanh biếc với nhiều loài kỳ hương dị thảo. Nhìn về hướng Bắc, du khách thu toàn cảnh thành phố Phan Rang – tháp Chàm trong tầm mắt. Vào dịp tế lễ hoặc dịp tết nguyên đán, khách thập phương trong và ngoài tỉnh tìm về chùa Trà Cang cúng Phật và tận hưởng không gian xanh mát, trong lành của ngôi cổ tự gần 200 năm tuổi.

 

Trên đỉnh núi Chà Bang (tiếng Chăm gọi là Chơk Chabbang – núi hai nhánh), đồng bào Chăm thờ nữ thần Pô Nai. Vào khoảng đầu tháng 4 dương lịch hàng năm, dân chúng từ các làng Chăm thuộc huyện Ninh Phước và Thuận Nam lên đỉnh núi cúng Pô Nai cầu mong mưa thuận gió hòa, mùa màng tốt tươi. Các vị chức sắc Bà ni và Bà la môn làm lễ cầu mong quốc thái dân an. Các nghệ nhân dân gian hát múa tỏ lòng biết ơn nữ thần Pô Nai làm cho mùa màng tốt tươi, vạn vật sinh sôi, cuộc sống ấm no.

 

Thắng cảnh núi Chà Bang mời gọi du khách gần xa về thưởng ngoạn nét đẹp thiên nhiên thơ mộng riêng có của vùng đất huyện Thuận Nam sơn thủy hữu tình.

 

Nguồn: Vietnamtourism.gov.vn

Khu du lịch sinh thái thác Pa Sỹ – điểm đến mới ở Kon Tum

(TITC) – Khu du lịch sinh thái thác Pa Sỹ nằm trên địa phận làng Kon Tu Rằng của người Rơ Mâm, xã Măng Cành, huyện Kon Plong, tỉnh Kon Tum, cách trung tâm huyện Kon Plong 6km về phía tây bắc. Khu du lịch sinh thái thác Pa Sỹ mang một vẻ đẹp hoang sơ với những cánh rừng thông nguyên sinh và hệ thống thác, hồ. Khí hậu nơi đây trong lành, mát mẻ quanh năm. 

Nằm ở trung tâm khu du lịch là thác Pa Sỹ nằm ở độ cao khoảng 1.500m so với mực nước biển. Thác được hình thành từ 3 ngọn suối lớn nhất ở Măng Đen, nên được gọi là Pau Suh, theo tiếng dân tộc Rơ Mâm có nghĩa là 3 nguồn suối chụm lại thành một dòng. Sau này tên thác được đọc chệch đi thành Pa Sỹ.

Khu du lịch sinh thái thác Pa Sỹ có tổng diện tích 25ha và đã được đầu tư gần 20 tỷ đồng để xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ du lịch như: hệ thống đường đi, nhà rông văn hóa, xưởng sản xuất sản phẩm thủ công mỹ nghệ, nhà trưng bày văn hóa của người dân tộc Rơ Mâm, trang trại trồng rau và hoa…

Đến với khu du lịch sinh thái thác Pa Sỹ, du khách còn được thưởng lãm hàng nghìn tượng gỗ do các nghệ nhân thuộc nhiều tộc người trên địa bàn tỉnh Kon Tum chế tác, hay tham gia những lễ hội mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc của người Rơ Mâm như: Tết gieo mạ và mừng lúa mới, cúng chuồng trâu, tục táng….

Bắt đầu đi vào hoạt động từ Tết nguyên đán Giáp Ngọ đến nay, khu du lịch sinh thái thác Pa Sỹ đã thu hút hơn 10.000 lượt khách đến tham quan. Hy vọng trong tương lai không xa, khu du lịch sinh thái thác Pa Sỹ sẽ trở thành điểm đến yêu thích, thu hút sự quan tâm của nhiều du khách khi đến với Kon Tum. 

Khánh Hòa

Nguồn: Vietnamtourism.gov.vn

Khám phá thác trượt Tà Pứa – Bình Thuận

Nép mình bên cánh rừng nguyên sinh hùng vĩ, thác trượt Tà Pứa có vẻ đẹp hoang sơ đến mê hoặc lòng người. Đối với những người dân tỉnh Bình Thuận, thác trượt vốn là một cái tên không mấy xa lạ.

Nằm giáp ranh 2 xã Đức Phú, huyện Tánh Linh và xã Mê Pu, huyện Đức Linh, tỉnh Bình Thuận, thác trượt có rất nhiều hướng đến từ Phan Thiết, thành phố Hồ Chí Minh hay từ thị trấn Đambri (Bà Sa) xuôi theo đèo Tà Pứa, rẽ phải là đến thác.

 

 

Khác với sự ồn ào của những con thác ở vùng cao Tây Nguyên, thác trượt Tà Pứa có độ dốc thoai thoải với dòng chảy nhẹ nhàng, uyển chuyển. Băng mình qua các khối đá bằng phẳng, liền kề như chiếc phản khổng lồ, dòng thác tạo nên một bàn trượt tự nhiên mà không có ở bất cứ nơi nào khác.

 

Cũng như hầu hết các thác khác của vùng đất này, thác trượt chưa được khai thác du lịch nên thác còn rất hoang sơ, nếu muốn vào thác, du khách phải gửi xe tại trạm kiểm lâm rồi men theo con đường đất nhỏ ẩn hiện trong màu xanh của cây và tre rừng. Thỉnh thoảng trên đường, vài mạch nước trong veo, con suối nhỏ với những viên đá cuội tròn lẳng khiến chuyến đi càng thú vị và nên thơ.

 

Cuối con đường, thác trượt hiện ra như một bức tranh thanh bình với nước, đá, và cây. Gọi là thác, nhưng thác trượt không có những dòng nước lao thẳng từ trên cao xuống, tạo nên âm thanh hào hùng, không có những màn hơi nước trắng xóa tạo những chiếc cầu vồng nhiều màu sắc dưới ánh mặt trời. Thác chỉ là những tảng đá bằng phẳng, dài khoảng 30m và dòng nước chảy nhẹ như không muốn phá vỡ không gian yên tĩnh của núi rừng. Bao xung quanh thác là rừng lá thấp cùng bãi đá nhiều màu rộng gần 1 héc ta.

 

So với mặt nước biển thì thác trượt nằm ở độ cao khoảng 200m. Cái đẹp của thác trượt nằm ở đỉnh thác, với những hòn đá nằm chỏng chơ xếp chồng lên nhau. Cũng như các dòng thác khác chịu ảnh hưởng của dòng suối tạo nên nó, đến đây, du khách có thể cảm nhận được tất cả sự thay đổi của thác tùy theo mùa. Vào mùa mưa, thác trông tuyệt đẹp với những dòng chảy tung bọt trắng xóa. Riêng thời điểm từ tháng 11 đến tháng 6 dương lịch thì chính là lúc tham quan thác tuyệt vời nhất, vào thời điểm này, nước chỉ là một màng mỏng chảy trên một phiến đá mà thôi. Tuy nhiên, khung cảnh xung quanh thác thì vô cùng đẹp, rừng núi bao quanh xanh mướt, có những cây cao to rất là xum xuê. Lại có những sợi dây leo dài, thòng xuống hình lưỡi câu như một cái xích đu. Dòng nước của thác vào mùa này rất thích hợp cho trò chơi trượt thác.

 

Nếu không thích trò chơi trượt thác, du khách có thể chọn cho mình ghềnh nước nhỏ nào đó, ngâm mình để cảm nhận được cái lạnh của dòng nước thượng nguồn, cái trong veo và thanh bình của khu rừng. Sau đó, nhóm bếp lửa, nướng hay chế biến những món ăn mang theo phục vụ cho cái bụng rỗng. Mùi khói, hơi ấm của lửa khiến nụ cười của mọi người như rạng rỡ hơn.

 

Nằm trên tuyến du lịch Sài Gòn – Đà Lạt – Bình Thuận với các danh lam thắng cảnh nổi tiếng, cộng đồng các dân tộc thân thiện, hòa nhã, thác trượt Tà Pứa sẽ là điểm đến thú vị cho du khách vì đến đây du khách có thể tìm về với sự thanh thản và khỏe khoắn trong tâm hồn, bởi khung cảnh thiên nhiên hoang dã, và rừng núi xanh um rất thoáng đãng, chưa kể còn có thể nghe được tiếng nước chảy róc rách…/.

 

Nguồn: Vietnamtourism.gov.vn

Thú vị du lịch tâm linh ở Bến Tre

Cụm từ “du lịch tâm linh” chỉ mới xuất hiện rải rác trong thời gian gần đây trên mặt báo của giới nghiên cứu văn hóa, của những người làm công tác quản lý du lịch.

 

Tuy nhiên, nó đã “có mặt” từ lâu, khi con người có nhu cầu nội tại nhằm thỏa mãn thế giới nội tâm, bởi đời sống văn hóa tâm linh thúc giục họ.

 

Ở Bến Tre, suốt chiều dài lịch sử cho thấy người dân ở đây có một đời sống tinh thần, đời sống tâm linh rất phong phú. Nên có rất nhiều đình, chùa, nhà thờ… tạo điểm du lịch văn hóa và du lịch tâm linh cho những ai đến đó để thực hành các lễ nghi, tu tập, không thiếu không gian thoáng đãng, yên tĩnh cho con người giao hòa với thiên nhiên.

 

Khách du lịch khi qua cầu Rạch Miễu tới địa phận huyện Châu Thành (Bến Tre) muốn đi thăm đình làng sẽ có đến hai ngôi đình cổ được công nhận Di tích văn hóa – lịch sử cấp Quốc gia. Đó là đình Tân Thạch và đình Tiên Thủy có lối kiến trúc độc đáo, đặc trưng của đình làng Nam Bộ nhất ở Bến Tre. Ta đi đường bộ đến đó rất thuận tiện. Ngay ở trung tâm TP. Bến Tre cũng có nhiều điểm cho khách dừng lại thăm thú, hay thắp nén hương vọng tưởng thần linh, như Tòa thánh Cao đài Bến Tre, chùa Bạch Vân, chùa Giác Viên hay đình An Hội…

 

Nếu khách từ TP. Bến Tre xuôi theo đường tỉnh 885 về huyện biển Ba Tri điểm trước tiên là ghé qua đình Phú Tự. Ngoài vãng cảnh đình, khách sẽ thưởng ngoạn cây bạch mai hơn 300 năm tuổi, vừa mới được Hội Bảo vệ Thiên nhiên và Môi trường Việt Nam công nhận là Cây di sản Việt Nam. Và đi thêm chừng vài km nữa sẽ tới đình làng thờ Lãng binh Nguyễn Ngọc Thăng ở xã Mỹ Thạnh, Khu lưu niệm Nữ tướng Nguyễn Thị Định tọa lạc tại xã Lương Hòa, huyện Giồng Trôm, cách đó cũng không xa. Nơi đây rộng chừng 10.000m2, trưng bày rất nhiều hiện vật của vị Nữ tướng lừng danh này.

 

Đến trung tâm huyện Giồng Trôm có ngôi đình Bình Hòa. Ngôi đình cổ này được phong sắc thần năm Tự Đức ngũ niên (1852). Đình đã được khởi công xây dựng từ năm 1812 đến năm 1825 mới hoàn thành. Đình cũng được cấp bằng chứng nhận Di tích văn hóa – lịch sử cấp Quốc gia năm 1993. Gần đây Giồng Trôm có thêm Khu nhà thờ Trung tướng Đồng Văn Cống ở xã Tân Hào. Mỗi ngày càng đông thêm những người ngưỡng mộ đến thắp hương, viếng ngôi đền vị tướng tài ba này. Giồng Trôm còn có nhà thờ họ Trương. Ngôi từ đường này ban đầu do vua Minh Mạng cho người xây cất để thờ phụng Phó tướng Long Vân hầu Trương Tấn Bửu. Vị tướng lừng danh này từng dẹp giặc Tàu ô ở biển Quảng Yên (Quảng Ninh) đến những ba mươi sáu lần. Và ông cũng từng được giao nhiệm vụ cùng với Chánh tướng Lê Văn Duyệt cai quản cả miền Nam (từ Bình Thuận xuống tới Hà Tiên).

 

Nếu du khách đến Ba Tri thì càng thỏa mãn hơn với gần mười điểm du lịch tâm linh. Từ viếng lăng mộ Nhà thơ yêu nước Nguyễn Đình Chiểu, rồi đến viếng ngôi từ đường của dòng họ Thái Hữu. Nơi đây thờ cụ Thái Hữu Kiểm, tức “ông già Ba Tri”, với huyền tích đi bộ ra tận triều đình Huế để kiện tụng. Ngôi từ đường nằm bên đường mang tên Thái Hữu Kiểm. Ở thị trấn Ba Tri có ngôi chùa Ông đường bệ, trầm mặc bên đường lớn, luôn luôn như thể muốn mời khách ghé qua. Nếu khách xuôi ra hướng biển đến xã Bảo Thạnh viếng mộ đại học sĩ Phan Thanh Giản cũng không xa lắm. Gần phần mộ cụ Phan có phần mộ của Nhà giáo lớn của đất Nam bộ Võ Trường Toản. Nơi đây có một không gian rất yên bình, rất đặc trưng của làng quê Việt Nam, từ con đường làng đến bờ tre, giồng cát. Và Ba Tri cũng là nơi sản xuất ra loại rượu đế Phú Lễ nổi tiếng. Ở xã Phú Lễ có ngôi đình cổ nổi tiếng với nhiều giai thoại về lịch sử đấu tranh giữ nước. Xứ Ba Tri còn có ngôi chùa Kim Cang Cổ Tự ở xã Tân Thủy, cách trung tâm huyện chừng non 10km, dân gian gọi nôm na là chùa Đất Sét hay chùa Mục Đồng, rất đặc biệt, độc đáo, vì ngôi chùa này có hơn 20 tượng Phật đều được các nghệ nhân dân gian sáng tác từ đất sét và các loại gỗ quý, có tuổi đời gần 300 năm.

 

Dải cù lao Minh của Bến Tre có ba huyện giáp với Vĩnh Long, Trà Vinh bởi con sông Cổ Chiên, cũng là nơi để du khách tìm đến. Phía Bắc dải cù lao này có Khu nhà bia lưu niệm nhà bác học Trương Vĩnh Ký. Nơi con người thiên tài này được sinh ra đời nằm bên rạch Cái Tắc thuộc xã Vĩnh Thành, huyện Chợ Lách. Và cũng ở nơi này có ngôi nhà thờ Thiên Chúa giáo được xây dựng từ năm 1730. Qua nhiều lần xây dựng lại rồi trùng tu đến nay nhà thờ thuộc loại lớn ở đồng bằng sông Cửu Long.

 

Hay về Mỏ Cày Nam thăm ngôi chùa Tuyên Linh, xưa kia là nơi cụ Nguyễn Sinh Sắc, thân sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh, những năm 1927 – 1929 trên bước đường bôn ba vì vận nước đã từng ở ngôi chùa này. Bên cạnh đó, Mỏ Cày Nam còn có ngôi chùa cổ Trà Nồng, sách địa chí Bến Tre từng có hình ảnh và ghi chép, giới thiệu. Gần chùa Trà Nồng có ngôi chùa Soi Ếch (Sãi Ếch). Hai ngôi chùa này có nhiều huyền thoại, du khách đến đây sẽ tìm hiểu thêm.

Cũng tuyến đường này, khách đến huyện biển Thạnh Phong trù phú. Nơi đón con tàu không số đầu tiên chở vũ khí từ Bắc vào Nam để chi viện cho chiến trường thời chống Mỹ. Và nơi này đang tồn tại tượng đài lưu niệm sừng sững ở Cồn Tra, minh chứng cho tinh thần bất khuất của người dân Bến Tre nói riêng của nhân cả nước nói chung trong cuộc đấu tranh giữ nước vĩ đại. Và còn, còn rất nhiều di tích cho du khách khi cần tìm đến để chiêm bái, tịnh tâm, thư giãn trong chuyến về xứ dừa với những con người giàu lòng hiếu khách và chân thành luôn mở rộng vòng tay thân ái.

 

Quyển sách nổi tiếng “Tay buông ráng hồng” của Thượng tọa Thích Thái Hòa, viết rằng: “Du lịch tâm linh cho ta cả hai, du lịch và tâm linh”. Không những ông khuyên mỗi người nên đầu tư thời gian vào loại hình du lịch này mà thiết nghĩ ngành chức năng và các cơ quan liên đới trách nhiệm ở Bến Tre cũng nên sớm định hướng và tạo điều kiện cho du lịch tâm linh phát triển. Suy cho cùng, du lịch tâm linh là con người có lòng hướng thiện, tìm đến đình làng, chùa chiềng sau những ngày bề bộn với cuộc mưu sinh để cầu nguyện, nương tựa, trú ngụ cho đời sống tinh thần. Ấy là xuất phát từ mạch nguồn của nhân văn rất đáng được cộng đồng ủng hộ, khuyến khích./.

 

Nguồn: Vietnamtourism.gov.vn

Độc đáo yếm trắng của người Dao Họ

Nét nổi bật và độc đáo nhất trên trang phục nữ cổ truyền của người Dao Họ chính là chiếc yếm ngực. Đó cũng là điểm khác biệt trong trang phục của phụ nữ Dao Họ với phụ nữ các ngành Dao khác.

Yếm được thiết kế trang trí và làm đẹp bảo vệ phần trước ngực, thêu các hình hoa văn bằng chỉ màu trên nền vải trắng. Các họa tiết cầu kỳ, với hàng chục mẫu hoa văn như: Hoa văn hình học, hình vuông, hình chữ nhật, hình quả núi, hình cây, hình hoa…

 

 

Yếm được cắt may từ hai miếng vải riêng biệt, miếng vải hình vuông với kích thước 20 x 20cm dùng để làm thân yếm, một miếng vải khác nhỏ hơn cắt giống hình tam giác có cạnh dài 20cm, góc nhọn của miếng vải đem gập lại và khâu mép. Sau khi thêu xong các họa tiết hoa văn trên vải mới đem khâu ghép hai miếng vải này lại thành cái yếm hoàn chỉnh.

 

Người Dao Họ thường thêu hoa văn phần trên của yếm trước sau đó mới tiến hành thêu đến thân yếm. Hàng trên cùng có đính 3 hạt bạc giống hình đầu mũi tên, bên trong chạm nhiều hình tròn nhỏ. Dưới hàng bạc đính thêm 3 bông hoa tám cánh bằng bạc, giữa bông hoa chạm nổi một hình tròn tượng trưng là nhụy hoa. Tiếp theo bên dưới thêu một hình ngôi sao 8 cánh là điểm nhấn và là họa tiết chủ đạo trên miếng vải. Bên trong các cánh ngôi sao thêu hình bông hoa bốn cánh cách đều nhau.

 

Chỉ dùng để thêu là loại chỉ sợi nhỏ màu xanh và màu tím. Phía bên trái và bên phải của hình ngôi sao là những đường thêu hình dích dắc lồng ghép vào nhau. Khi thực hiện người ta sẽ thêu những đường dích dắc màu đen trước sau đó mới dùng chỉ màu tím thêu xen kẽ vào các đường thêu màu đen tạo thành những đường thêu trông rất đẹp mắt.

 

Miếng vải thứ hai để thêu yếm hình chữ nhật có kích thước 30 x 40cm. Ở chính giữa miếng vải thêu trang trí một hình nhỏ hơn (10 x 25cm) dọc theo chiều vải. Bên trong hình chữ nhật ở hai cạnh dài thêu đường sóng với hai đường chỉ nhỏ thêu màu khác nhau thường là màu đen và màu xanh. Bên trong đường sóng lại thêu 26 hoa văn hình răng cưa sắp xếp đối xứng nhau. Trên nền vải trắng thường sử dụng chỉ len to màu đen để làm nổi bật các đường hoa văn và khi thêu hoàn tất sẽ thấy một mảng màu đen và những chỗ trống có màu trắng là nền màu của vải sẽ thành hình hoa văn mà người thêu muốn thể hiện ra.

 

Trên nền vải trắng, bên cạnh mẫu hoa văn hình chữ nhật, người Dao Họ còn thêu ở mỗi bên hình chữ nhật một ngôi sao 8 cánh, các cánh ngôi sao thêu màu chỉ là màu xanh dương và màu tím. Tiếp theo bên dưới cạnh đường mép của yếm cũng được trang trí thêm một số hoa 8 cánh. Thêu xong mảnh thứ hai, người ta dùng chỉ trắng cùng màu với màu vải để khâu ghép nối hai mảnh của yếm lại với nhau.

 

Người Dao Họ thường mặc yếm thay áo lót và khoác áo vải đen chàm ở bên ngoài nhưng không cài cúc nhằm để lộ những hoa văn trên yếm ra ngoài. Nếu như trang phục phụ nữ Dao Đỏ thu hút ánh nhìn bằng màu đỏ rực rỡ thì trang phục phụ nữ Dao Họ lại riêng biệt và đặc sắc ở chiếc yếm trắng, nổi bật trên nền trang phục chàm. Chỉ duy nhất chiếc yếm của họ là bộ phận được thêu, kết hợp hoa văn, đường chỉ màu cầu kỳ tạo điểm nhấn khác biệt đồng thời là nơi hội tụ sự sáng tạo về nghệ thuật trang trí trang phục của người phụ nữ Dao Họ ở Lào Cai./.

 

Nguồn: Vietnamtourism.gov.vn

Vịnh Vĩnh Hy – điểm du lịch hấp dẫn

Vịnh Vĩnh Hy thuộc thôn Vĩnh Hy, xã Vĩnh Hải, huyện Ninh Hải. Nằm cách Tp. Phan Rang-Tháp Chàm 42km theo hướng Đông Bắc.

Vịnh Vĩnh Hy được đánh giá là một trong những vịnh đẹp nhất Việt Nam cùng với vịnh Hạ Long ở Quảng Ninh, vịnh Vân Phong và vịnh Cam Ranh ở Khánh Hòa.

Vịnh Vĩnh Hy là trung tâm kết nối hệ sinh thái cảnh vườn quốc gia Núi Chúa, bao gồm nhiều nhánh sông, suối đổ ra biển, những bãi cát trắng mịn, nước trong xanh, cùng với các điểm tham quan như suối Lồ Ồ, bãi Bà Điên, Cà Tiên, bãi Cốc, bãi Hời, bãi Thùng, bãi Lớn, mũi Đá Vách… rất thích hợp cho du khách nghĩ dưỡng biển.

Ven biển Thái An và vịnh Vĩnh Hy có nhiều loài san hô quý hiếm và rùa biển đang được bảo tồn. Bao bọc quanh vịnh là quần thể Núi Chúa có cao độ 1.040 m so mực nước biển, là rừng độc đáo duy nhất và đặc trưng cho hệ sinh thái khô hạn ở Đông Nam Á.

Với những giá trị nổi bật về địa hình, địa thế, khí hậu và tính đa dạng sinh học cao, hệ sinh thái động thực vật hết sức phong phú…vịnh Vĩnh Hy là điểm đến lý tưởng của những du khách yêu thích khám phá dưới lòng đại dương và thiên nhiên mênh mông.

 

Nguồn: Vietnamtourism.gov.vn

TIN MỚI NHẤT