Điểm đến du lịch

Những địa điểm du lịch hấp hẫn những địa điểm du lịch trong nước, địa điểm du lịch nước ngoài được chúng tôi tổng hợp và đưa tin đến Quý bạn đọc đam mê du lịch có cái nhìn tổng quan nhất về các địa danh du lịch để quyết định cho mình cho những chuyến du lịch ý nghĩa nhất

Cột cờ Lũng Cú

Lũng Cú – mảnh đất địa đầu Tổ quốc, thuộc huyện Đồng Văn (Hà Giang), cách thành phố Hà Giang khoảng 200 km.

Đến đây, du khách sẽ có dịp được tận hưởng bầu không khí trong lành, tìm hiểu về những nét văn hóa truyền thống đặc sắc của một số dân tộc.

 

 

Từ thành phố, theo Quốc lộ 4C ngược lên phía Đông Bắc khoảng 160 km, du khách sẽ đến xã Đồng Văn, huyện Đồng Văn. Từ đây, tiếp tục xuôi theo con đường trải nhựa nối liền hai xã Lũng Cú – Đồng Văn khoảng 40 km, du khách sẽ đến với đỉnh Lũng Cú.

 

Từ xa, Lũng Cú hiện ra thật sinh động với một vùng đất 3/4 là đá, nổi bật lên là cột cờ Tổ quốc có hình dáng giống cột cờ Hà Nội, trông xa giống như một ngọn tháp; xung quanh là phong cảnh núi rừng hùng vĩ, trùng điệp… Cột cờ Lũng Cú được dựng trên đỉnh núi Rồng (Long Sơn), dưới chân cột có khắc phù điêu mang rõ nét hoa văn của trống đồng Ðông Sơn, lá cờ Tổ quốc tung bay trong gió và in bóng xuống mặt hồ Lô Lô xanh biếc tạo nên cảnh đẹp thanh bình. Giữa lưng chừng núi Rồng có một cái hang khá rộng và đẹp, đồng bào ở đây gọi là hang Sì Mần Khan.

 

Xã Lũng Cú có 9 thôn, bản: Lô Lô Chải, Séo Lủng, Tả Giá Khâu, Cẳn Tằng, Thèn Ván, Thèn Pả, Sì Mần Khan, Sán Chồ, Sán Sà Phìn và có đường biên giới tiếp giáp với nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa hơn 16 km. Tại đây, vào mùa đông, thời tiết rất lạnh và thi thoảng có tuyết rơi. Trong số 9 thôn, bản của Lũng Cú thì Séo Lủng thuộc phần đất thượng cùng cực bắc với bên trái là thung lũng Thèn Ván sâu thăm thẳm, bên phải là dòng Nho Quế – dòng sông bắt nguồn từ Mù Cảng (Vân Nam – Trung Quốc) đổ về Ðồng Văn, Mèo Vạc (Hà Giang).

 

Bà con dân tộc ở Lũng Cú chủ yếu là làm nương và làm ruộng bậc thang. Riêng đồng bào dân tộc Mông và Lô Lô vẫn bảo tồn nghề dệt truyền thống với các công đoạn làm sợi lanh, dệt vải.

 

Lũng Cú còn bảo lưu được những hiện vật lịch sử, văn hóa quý giá tiêu biểu từ thời Hùng Vương. Theo sử sách ghi lại, vào thời Tây Sơn, Hoàng đế Quang Trung đã cho đặt ở nơi biên ải này một chiếc trống lớn, thời đó tiếng trống là phương tiện thông tin nhanh nhất, vị trí đặt trống của nhà vua là Trạm Biên phòng tiền tiêu Lũng Cú bây giờ. Chính vì vậy, người Lô Lô ở Lũng Cú bây giờ sử dụng thành thạo trống đồng có nguồn gốc từ trống đồng Ðông Sơn.

 

Là vùng đất của chè Shan, rượu mật ong, rượu ngô, đào phai, hoa lê, tuyết trắng và món thắng cố trong buổi chợ phiên… cùng những nét văn hóa truyền thống đặc sắc của các dân tộc như: Mông, Lô Lô, Giáy… Lũng Cú thật sự mang trong mình nét đẹp mê hồn, hấp dẫn biết bao du khách. Quả thật, nếu có dịp đến đây vào mùa xuân, du khách vừa được tận hưởng bầu không khí trong lành, vừa được nghe tiếng đàn môi tâm tình gọi bạn, tiếng khèn của người Mông say mê, quyến rũ và tiếng trống đồng âm vang bên bếp lửa bập bùng.

 

Nguồn: Vietnamtourism.gov.vn

Làng bên kia sông

Khám phá phong cảnh làng quê bên ngoài di sản Hội An sẽ hứa hẹn mang đến cho khách trải nghiệm mới lạ về một vùng sông nước, thôn quê. Chỉ với chiếc xe đạp và niềm đam mê là có thể rong ruổi mọi ngóc ngách xóm thôn để tận hưởng cảm giác sảng khoái tự do, chợt nhận ra bên kia sông Hoài vẫn còn bao điều thú vị.

 

 

Cẩm Kim là bến ghé đầu tiên với làng mộc Kim Bồng. Thuyền vừa cập bến đã nghe tiếng đục đẽo, khoan cắt vang lên từ các xưởng mộc trong làng vọng lại. Những âm thanh như nhịp điệu cuộc sống tạo hồn riêng cho mảnh đất.  Tham quan làng, du khách không chỉ được chiêm ngưỡng những tác phẩm gỗ được chạm trổ tinh xảo từ đôi tay tài hoa của người thợ Kim Bồng mà còn được nghe những câu chuyện nghề dù qua hàng trăm năm lịch sử vẫn được người dân nơi đây truyền tụng như niềm tự hào của làng. Rời làng mộc Kim Bồng, con đường bê tông rộng rãi đưa du khách đến với một địa danh không kém phần nổi tiếng – chợ Nồi Rang (xã Duy Nghĩa, Duy Xuyên), nơi hội tụ của các sản vật quanh vùng. Tương truyền, đây là điểm nghỉ chân trung chuyển của những chuyến đò xuôi ngược trên dòng Thu Bồn – Cửa Đại ra biển hàng trăm năm về trước. Chợ Nồi Rang đặc biệt không chỉ ở lịch sử lâu đời và địa danh gắn liền với sản phẩm nồi đất mà được biết đến như là nơi bán mua một thứ hàng độc đáo là tro bếp được người dân quanh vùng mua về bón hoa màu, ruộng lúa. Ngoài ra, chợ cũng là điểm trao đổi các loại hàng hóa, gia cầm, nông sản địa phương nên luôn mang đến cho du khách sự tò mò thích thú. Thời gian gần đây, địa danh Nồi Rang đã được nhiều công ty lữ hành đưa vào khai thác du lịch như là điểm tham quan mới bên ngoài di sản nhằm mang đến cho du khách những trải nghiệm khác lạ về cuộc sống người dân quê xứ Quảng.

 

Cũng trên tuyến đường sông, ngôi làng Triêm Tây (Điện Phương, Điện Bàn) giống như cánh cổng chưa được hé mở. Triêm Tây luôn mang đến cho du khách những bất ngờ thú vị về sự khác biệt cũng như tiềm năng du lịch của mình. Ngoài khu du lịch sinh thái nhà vườn Triêm Tây đã khai trương hoạt động vào tháng 6.2013, dự án du lịch cộng đồng Triêm Tây cũng đang được UBND huyện phối hợp với Tổ chức Lao động quốc tế triển khai, hứa hẹn sẽ là điểm đến thú vị để kết nối với các điểm du lịch quanh vùng.

 

Nguồn: Vietnamtourism.gov.vn

Nơi tái hiện hình ảnh Đà Lạt xưa

Những chàng trai cô gái người Lạch với trang phục thổ cẩm sặc sỡ nhảy múa quanh bếp lửa hồng. Những hoạt động văn hóa truyền thống của đồng bào Cờ Ho Nam Tây nguyên như lễ hội cầu mưa, cúng Giàng, ăn trâu đã được chính những người con đồng bào Lạch dưới chân núi LangBiang huyền thoại tái hiện một cách sinh động.

 

Đó là không gian tại Nhà hàng Đà Lạt xưa (31b Khe Sanh, Đà Lạt) vừa được khai trương để phục vụ du khách.

 

Đúng như tên gọi của nó, một Đà Lạt xưa đang được minh họa lại bằng ngôi nhà sàn mái tranh, cầu thang gỗ tọa lạc trên mái đồi cao hướng ra bìa rừng xanh thẳm. Trong nhà sàn cũng được trưng bày bộ sưu tập những vật dụng sinh hoạt của cư dân bản địa xưa như đàn đá, cồng chiêng, trống cổ, nồi đồng, chiêng ché, dụng cụ săn thú… Nhiều món ẩm thực nơi đây cũng mang đậm chất truyền thống của đồng bào Tây Nguyên như cơm lam, thịt nướng, rượu cần, rau rừng…  Sau những giờ tham quan Đà Lạt mộng mơ, đến với không gian Đà Lạt xưa du khách vừa được thưởng thức các món ăn mang hương vị cao nguyên vừa được xem các sơn nữ múa hát và độc tấu các nhạc cụ dân tộc như đàn tơ rưng, đàn đá, chil put… 

 

Với việc ra đời không gian Đà Lạt xưa đã góp phần bảo tồn và phát huy nét văn hóa đặc sắc của cư dân trên Cao nguyên Lâm Viên xưa. Ngoài ra, nơi đây cũng góp phần làm phong phú và đa dạng thêm cho các sản phẩm dịch vụ du lịch của Đà Lạt.

 

Nguồn: Vietnamtourism.gov.vn

Cổ kính cố đô Hoa Lư

Hoa Lư được chọn là kinh đô đầu tiên của Nhà nước phong kiến tập quyền khi Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi Hoàng Đế năm 968.

Hơn 1.000 năm trước đây, năm 968, sau khi bình định 12 sứ quân, Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi Hoàng đế, lấy hiệu Tiên Hoàng đế, đặt tên nước là Đại Cồ Việt, chọn Hoa Lư làm kinh đô. Sở dĩ Đinh Tiên Hoàng chọn Hoa Lư để định đô bởi nơi đây có vị trí vô cùng hiểm trở với hệ thống núi đá trùng điệp và hiểm trở làm tường thành, sông bao làm hào để phòng thủ quân sự. Vì thế, Hoa Lư còn được gọi là “kinh đô đá”.

 

 

Nằm cách thủ đô Hà Nội gần 100 km về phía Nam, cố đô Hoa Lư (Ninh Bình) thuộc xã Trường Yên, huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình là quần thể di tích lịch sử, văn hóa quốc gia đặc biệt quan trọng. Đây cũng là kinh đô đầu tiên của nhà nước phong kiến Trung ương tập quyền ở Việt Nam với các dấu ấn lịch sử: thống nhất giang sơn, đánh Tống – dẹp Chiêm và phát tích quá trình định đô Hà Nội. Năm 1010 vua Lý Thái Tổ dời kinh đô từ Hoa Lư về Thăng Long, Hà Nội. Sau này, tuy các triều vua Lý, Trần, Lê, Nguyễn không còn đóng đô ở Hoa Lư nữa nhưng vẫn cho tu bổ và xây dựng thêm ở đây nhiều công trình kiến trúc như đền, lăng, đình, chùa, phủ…

 

Tuy được chọn làm kinh đô của nước Đại Cồ Việt chỉ một thời gian không dài – trong 42 năm, nhưng tại Hoa Lư đã diễn ra rất nhiều sự kiện liên quan đến vận mệnh của đất nước. Đây từng là thành trì quân sự vững chắc của ba triều đại liên tiếp trong lịch sử: nhà Đinh, nhà Tiền Lê và nhà Lý, tính từ đời vua Đinh Tiên Hoàng đến Lý Thái Tông.

 

Theo sử sách và tài liệu thì kinh đô Hoa Lư xưa là 1 cung điện nguy nga, tráng lệ, được bao bọc bởi những ngọn núi đá hình vòng cung, cảnh quan kỳ vĩ cùng những hồ, đầm… tạo cho cảnh quan nơi đây vừa có nét duyên dáng, mềm mại, lại vừa có những nét kỳ bí.

 

Trải qua thời gian hơn 10 thế kỷ, cố đô Hoa Lư hầu như đã bị tàn phá, đổ nát. Hiện nay, quần thể di tích Hoa Lư có gần 30 di tích, trong đó, 2 di tích tiêu biểu là đền vua Ðinh và đền vua Lê. Xung quanh khu vực này còn có một số đình, chùa cổ với hàng nghìn năm tuổi cũng là một phần kiến trúc trong khu cung điện chính, đều có sức hấp dẫn riêng.

 

Để tri ân các vị anh hùng dân tộc, triều hậu Lê đã trùng tu, xây dựng lại đền vua Đinh – thờ Đinh Tiên Hoàng. Đền được xây theo kiểu “Nội công ngoại quốc”, cách chân núi Mã Yên khoảng vài trăm mét. Trải qua hơn bốn thế kỷ, ngôi đền vẫn giữ được vẻ uy nghi, trầm mặc với nhưng công trình: ngọ môn quan, hồ sen, núi Giả, vườn hoa, nghi môn ngoại, nghi môn nội. Đền có ba toà: tòa ngoài là bái đường, tòa giữa gọi là Thiên Hương thờ tứ trụ triều đình của nhà Đinh: Đinh Điền, Nguyễn Bặc, Trịnh Tú, Lưu Cơ. Toà trong cùng thờ Đinh Tiên Hoàng ngự ở chính điện, hai bên thờ 3 hoàng tử Đinh Liễn, Đinh Toàn và Đinh Hạng Lang. Các lối đi, trụ cổng, tường của ngôi đền đều phủ rêu phong cùng thời gian. Xung quanh là những khu vườn cây trái xanh tươi. Trước cửa đền chính có đặt Long Sàng làm bằng đá nguyên khối, với đôi nghê đá hai bên rất sống động. Các hình trang trí, hoa lá, hình các con vật… được chạm khắc xung quanh long sàng rất tinh xảo.

 

Cách đền vua Ðinh không xa là đền vua Lê, thờ Lê Ðại Hành (tức Lê Hoàn). Ông là một tướng lĩnh giỏi dưới triều Đinh, người có công dẹp loạn, thống nhất đất nước nên đã được vua Đinh phong quan Thập Đạo Tướng Quân (chức võ quan cao cấp nhất thời Đinh). Lê Hoàn được tôn lên làm vua sau khi vua Đinh băng hà. Ông là vị vua đầu tiên của nhà Tiền Lê. Đền Lê có quy mô nhỏ và đơn sơ hơn. Trong cung của đền có ba pho tượng: Hoàng đế Lê Đại Hành ở gian giữa ngồi trên ngai, hoàng hậu Dương Vân Nga ở gian bên trái và vua Lê Long Đĩnh ở gian bên phải. Trong đền còn giữ được nhiều dấu tích kiến trúc cổ với những mảng chạm trổ công phu, điêu luyện. Tại đây, người ta đã tìm thấy di tích nền cung điện cũ cùng một số đồ gốm sứ cổ. Những hiện vật quý này được lưu giữ tại phòng bảo tàng của khu đền.

Ngay trước đền vua Đinh, là núi Mã Yên có hình dáng giống cái yên ngựa. Sau khi leo lên 265 bậc lên trên đỉnh núi là lăng mộ vua Đinh. Lăng Đinh Tiên Hoàng được xây bằng đá xám, nằm trên đỉnh núi, xung quanh cây cối tươi mát. Sau khi thắp hương tưởng niệm, từ đây du khách có thể phóng tầm mắt có thể ngắm quần thể di tích Hoa Lư như một bức tranh thủy mặc.

 

Về với Hoa Lư, du khách sẽ được đắm mình trong những cảnh đẹp thiên nhiên ban tặng cho vùng đất thiêng này, chiêm ngưỡng những di tích còn lại của kinh đô Hoa Lư xưa; tìm hiểu thêm về nền kiến trúc, nghệ thuật, kinh tế, văn hóa xã hội của người Việt thời đó. Đây còn là dịp để mọi người tri ân các bậc tiền nhân, được nghe kể những câu chuyện thú vị về các vị vua nông dân giản dị – những anh hùng dân tộc đã có công dựng nước và giữ nước.

 

Cố đô Hoa Lư không chỉ là quần thể di tích quốc gia đặc biệt quan trọng mà còn là một trong 3 khu vực hợp thành quần thể danh thắng Tràng An, địa danh vừa được UNESCO chính thức ghi danh vào danh mục Di sản Thế giới ngày 23/6/2014.

 

Nguồn: Vietnamtourism.gov.vn

Khám phá “viên ngọc xanh” giữa biển Vân Đồn

Lãng mạn và yên bình là cảm giác của không ít du khách khi đến tham quan tắm biển ở bãi Sơn Hào (Quan Lạn, Vân Đồn), một điểm đến tuyệt đẹp nằm giữa vùng biển Vân Đồn còn giữ được vẻ nguyên sơ, thơ mộng của cảnh quan.

 

Nằm trên hòn đảo du lịch Quan Lạn (xã Quan Lạn, huyện Vân Đồn), đây là bãi tắm đẹp, hoàn toàn tự nhiên với dải cát dài khoảng 3km, nước biển trong xanh, cảnh quan thơ mộng, hữu tình. Sơn Hào còn hút khách bởi cảnh quan độc đáo của thảm thực vật phong phú, rừng phi lao thơ mộng bên bờ biển. Một trải nghiệm thú vị nhất khi tới đây là dạo mát trên bãi cát trắng dài thưởng thức không khí trong lành mỗi sớm, cưỡi những con sóng lớn hoặc ngồi trong rừng thông ngắm bình minh, hoàng hôn xuống biển khi chiều về. Du khách ưa khám phá có thể tìm tới bãi đá tròn, ngắm bàn chân tiên ở ghềnh đá cạnh bãi tắm, nghe truyền thuyết từ những ngư dân trên đảo.

 

Ngoài ra, Sơn Hào còn được tô điểm bởi cảnh quan những khu nhà sàn ẩn khuất trong rừng phi lao, hệ thống 8 biệt thự kiểu Bungalow kiến trúc đẹp sát bãi biển, khu biệt thự trong rừng… Để đảm bao an toàn cho du khách, gần đây, Sơn Hào được đầu tư hệ thống phao tiêu biển báo, xuồng cứu hộ, lực lượng cứu hộ 8 người thường trực, xuồng cứu hộ… Vì thế, tháng 6-2014 Sơn Hào vừa được công nhận là bãi tắm đầu tiên trong tỉnh đạt chuẩn phục vụ khách du lịch theo quy định mới.

Nguồn: Vietnamtourism.gov.vn

Lễ Khao lề Thế lính Hoàng Sa

(TITC) – Vào khoảng đầu thế kỷ 17 thời các chúa Nguyễn, nhận thấy tầm quan trọng của việc mở mang bờ cõi và nguồn tài nguyên quý giá ở vùng biển Đông của Tổ quốc, đặc biệt là tại 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, các chúa Nguyễn đã thành lập “đội Hoàng Sa” gồm 70 dân đinh giỏi nghề đi biển ở các làng An Vĩnh và An Hải tại vùng cửa biển Sa Kỳ (nay thuộc huyện Sơn Tịnh và Bình Sơn) và làng An Vĩnh, An Hải trên đảo Lý Sơn, tỉnh Quảng Ngãi để giương buồm vượt sóng ra khơi tìm kiếm hải vật, sản vật, đo đạc thủy trình, tuần phòng trên biển đảo, đồng thời cắm cột mốc, dựng bia chủ quyền trên quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa.

 

Cứ vào tháng 2 hoặc tháng 3 âm lịch, đội lính này nhận lệnh ra đi và đến tháng 8 âm lịch trở về cửa Eo (nay là cửa Thuận An thuộc tỉnh Thừa Thiên – Huế) để nộp các loại hải vật quý giá cho triều đình. Đội Hoàng Sa sau này được củng cố thành Thủy quân Hoàng Sa (kiêm quản “đội Bắc Hải”, có nhiệm vụ khai thác vùng biển Hoàng Sa, Trường Sa). Đội Bắc Hải chủ yếu chiêu mộ các ngư dân làng Tứ Chính (tỉnh Bình Thuận). Trong suốt 3 thế kỷ hoạt động, đã có hàng vạn người lính Thủy quân Hoàng Sa vượt qua biết bao sóng gió, bão tố để thực thi nhiệm vụ giữ gìn chủ quyền lãnh thổ ở 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Do tính chất nguy hiểm của những chuyến đi biển, không phải người lính nào cũng có may mắn trở về đất liền an toàn. Theo ghi chép trong gia phả của các tộc họ có người đi lính Hoàng Sa trên đảo Lý Sơn thì đã có rất nhiều người lính ra đi không trở về. Hình ảnh những khu mộ chiêu hồn không xác người (mộ gió) của các tộc họ Phạm Quang, Phạm Văn, Võ Văn… trên đảo Lý Sơn là một minh chứng bi hùng.


Để tưởng nhớ những người lính đã hy sinh khi làm nhiệm vụ và ý nguyện cầu bình an cho những lính mới, vào tháng 2 âm lịch hàng năm, người dân đảo Lý Sơn lại tổ chức Lễ Khao lề Thế lính Hoàng Sa thu hút sự tham gia của các tộc họ có người đi lính trên đất đảo. Khao lề là lệ khao định kỳ hàng năm, còn thế lính là nghi lễ cúng thế mạng cho những người lính thủy quân Hoàng Sa. Lễ Khao lề Thế lính Hoàng Sa còn để cúng tế tổ tiên, tế lễ và tưởng nhớ những người đi lính Hoàng Sa, Trường Sa đã khuất.


Khi tiến hành Lễ Khao lề Thế lính Hoàng Sa ở các tộc họ, tộc trưởng sẽ là người chủ tế. Các tộc họ tiền hiền, hậu hiền hoặc trưởng các chi phái là bồi tế (người giúp chủ tế hành lễ). Ngoài ra còn có thầy phù thủy (thầy pháp) là người điều hành lễ tế.


Chiều ngày 19/2 âm lịch (khoảng 17h), con cháu các tộc họ tập trung tại nhà thờ họ để dự lễ nhập yết với các lễ vật gồm trầu, rượu, cau, hoa quả, giấy cúng, nhang đèn. Vị trí đứng bái của các thành viên ban tế lễ được qui định cụ thể. Trưởng tộc là người chủ tế đứng ở bàn thờ chính giữa, hai người bồi tế đứng sau và hành lễ theo chủ tế. Bàn thờ bên đông là trưởng, thứ chi phái 1; bàn thờ bên tây là trưởng, thứ chi phái 2. Ngoài ra còn có đông xướng, tây xướng là người phụ trách xướng nghi thức trong lúc tế, đứng đối diện nhau. Trong buổi tế lễ còn có 6 – 8 người đứng hai bên phụ trách việc dâng hương, dâng rượu gọi là chấp sự. Nhạc lễ trong lễ tế gồm trống cái, chiêng, trống bồng, cặp sinh tiền, kèn, chiêng, chập chõa. Một hồi trống vang lên, lễ nhập yết chính thức bắt đầu. Sau khi trưởng tộc đọc văn tế và thực hiện nghi thức dâng rượu, con cháu sẽ lần lượt vào bái lạy tổ tiên. Lễ nhập yết kéo dài trong khoảng 1 giờ, sau đó, các tộc họ chuẩn bị sửa sang lễ vật cho buổi tế chính.


Đúng 0h ngày 20/2 âm lịch, Lễ Khao lề Thế lính Hoàng Sa chính thức bắt đầu bởi 0h được xem là thời khắc linh thiêng, chuyển giao giữa hai ngày, mọi lời nguyện cầu vào thời điểm này sẽ hiệu nghiệm. Thầy pháp điều hành lễ tế, trưởng tộc và trưởng các chi phái đứng hầu thần. Lễ vật trong lễ tế chính thường có: trầu, rượu, hoa quả, thịt, cá, gạo, muối, mắm, nếp nổ, bánh khô…; và đặc biệt là chiếc thuyền tre có đế làm bằng thân cây chuối gắn đầy đủ buồm, cờ, phướn; hình nộm (hình nhân thế mạng) bằng khung tre dán giấy ngũ sắc và linh vị ghi tên tuổi của những người trong họ tộc đã hy sinh khi đi lính Hoàng Sa.

 

Thả thuyền lễ và hình nhân thế mạng

 

Sau khi cúng tế và làm các nghi thức bùa phép trước đàn thờ, gửi tên tuổi và linh hồn người sống sắp đi lính vào hình nộm, cúng phát lương, phát hịch, đốt vàng bạc cho binh lính, thầy pháp sẽ đặt các hình nộm vào thuyền và bắt đầu lễ rước ghe bầu. Đi đầu là những thanh niên mang cờ, phướn; tiếp theo là bốn thanh niên khiêng thuyền lễ; theo sau là thầy pháp, tộc trưởng, trưởng các chi phái và đoàn người gồm bà con trong tộc họ, những người trong làng cùng đội chiêng trống. Tại cửa biển trên đảo, sau khi thầy pháp vái tạ tứ phương, chiếc thuyền được đem thả xuống nước với ý nghĩa sinh mạng và tàu thuyền của đội lính Hoàng Sa đã được hiến tế cho thần linh, mọi rủi ro được xua đuổi và những người lính ra khơi trở sẽ về bình an. Kết thúc lễ tế (khoảng rạng sáng ngày 20), mọi người sẽ quay lại nhà thờ họ dự tiệc đãi.


Bên cạnh Lễ Khao lề Thế lính Hoàng Sa tại các tộc họ, trong những năm gần đây, chính quyền địa phương cùng các tộc họ còn cùng tổ chức Lễ Khao lề Thế lính của cộng đồng dân cư đảo Lý Sơn vào cuối tháng 3 âm lịch hàng năm với qui mô lớn hơn, thu hút đông đảo du khách và người dân các địa phương về dự. Lễ Khao lề Thế lính Hoàng Sa đảo Lý Sơn được tổ chức ở Âm linh tự hoặc đình làng An Vĩnh với các nghi lễ tương tự như ở các tộc họ, kết hợp với các sinh hoạt văn hóa như: lễ cầu siêu, hội hoa đăng, hát bội, múa lân, lễ rước và lễ hội đua thuyền tứ linh truyền thống. Công việc chuẩn bị cho buổi lễ do Ban khánh tiết làng An Vĩnh và ban quản lý di tích Âm linh tự phụ trách.


Tháng 4/2013, Lễ Khao lề Thế lính Hoàng Sa đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng Di sản Văn hóa phi vật thể cấp quốc gia, loại hình Tập quán xã hội và tín ngưỡng. Lễ hội không chỉ góp phần khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với 2 quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa mà qua đó còn bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa, đồng thời giáo dục truyền thống tự tôn dân tộc và các giá trị nhân văn sâu sắc đến mọi tầng lớp nhân dân.
 

Phạm Phương – Thu Giang

 

Nguồn: Vietnamtourism.gov.vn

Vườn Quốc gia Phước Bình: Điểm du lịch sinh thái-cộng đồng hấp dẫn

Vườn quốc gia (VQG) Phước Bình, nằm trên địa bàn xã Phước Bình, huyện Bác Ái, có địa hình trải dài ở độ cao từ 300m đến 1.926m so với mặt nước biển nên hệ sinh thái có giá trị bảo tồn đa dạng sinh học và cảnh quan cực kỳ tuyệt đẹp.

Đặc biệt, nơi đây còn giữ được những nét văn hoá độc đáo của người Raglai để phát triển các loại hình du lịch sinh thái, du lịch cộng đồng. Với lợi thế đó, VQG Phước Bình là một điểm du lịch sinh thái hấp dẫn đối với nhiều du khách trong và ngoài nước.

 

 

Trải nghiệm cùng thiên nhiên kỳ thú

 

Từ Tp.Phan Rang-Tháp Chàm, vượt chặng đường hơn 60km đến với điểm dừng chân lý thú VQG Phước Bình, chúng tôi như bị “hút hồn” trước quang cảnh núi rừng, uốn lượn bên dòng sông Tô Hạp. Không ngoài giới thiệu của bạn bè gần xa, khí hậu Phước Bình phảng phất của xứ sở cao nguyên. Mặc dù là mùa khô hạn nhưng rừng Phước Bình vẫn xanh ngắt và suối nước có phần cạn hơn để lộ những gầm đá khổng lồ. Tiếng dội từ những thác nước hùng vĩ, hòa tiếng chim rừng tạo thanh âm huyền hoặc của núi rừng.

 

Anh Nguyễn Trung Chiến, cán bộ Phòng Phát triển du lịch- Trung tâm Giáo dục môi trường và Dịch vụ môi trường rừng (VQG Phước Bình) đưa chúng tôi tham quan. Qua từng khu vực, anh chậm rãi giới thiệu cho chúng tôi về sinh cảnh chung của VQG và những tên núi, tên suối của Phước Bình. VQG Phước Bình có tổng diện tích 19.814 ha, trong đó có 10.486 ha phân khu bảo vệ nghiêm ngặt; 8.108 ha phân khu phục hồi sinh thái; 1.090 ha phân khu hành chính, dịch vụ và 11.082ha diện tích vùng đệm. Trong khu vực VQG hình thành 14 kiểu rừng, có 1.322 loài thực vật, 327 loài động vật, nhiều loài có tên trong Sách đỏ Việt Nam và danh lục đỏ quốc tế.

 

Trong quần thể thiên nhiên kỳ thú của mình, VQG Phước Bình đã định hướng một số tuyến du lịch để du khách tham khảo. Chẳng hạn như tuyến du lịch đi bộ dã ngoại suối Đa Nhông- thác Đá Bàn- thác Ba Tầng dài 11km, đưa du khách tìm về thượng nguồn các con suối trong vòng một ngày. Dọc tuyến, du khách sẽ men theo các dòng suối, quan sát một số loài linh trưởng, bướm và tìm hiểu nhiều cây thuốc quý, đặc biệt là mật nhân, cao khai… và cả phong lan. Tuyến đi bộ dài hơn chinh phục thác Đá Đen, thác Hầm Xe Lửa trên vùng hồ sinh thái Đa Mây dài 20km; vượt 18km đường rừng chinh phục hòn Chan ở độ cao 1.400m… Các tour này kéo dài từ 2-3 ngày, địa hình hiểm trở tạo cho du khách cảm giác như được hòa mình vào thiên nhiên, sống cùng thiên nhiên.

 

Một loại hình du lịch nữa ở Phước Bình đặc biệt dành riêng cho những du khách ưa mạo hiểm là bơi thuyền trên sông Cái. Tour này được VQG triển khai một số lần cho cả khách trong nước và quốc tế. Tuyến này dài 10km đi qua những trạng thái sông với tốc độ dòng chảy khác nhau, cho du khách cảm giác yên bình như đi trong hồ; rồi lao mình qua ghềnh thác, thách thức cùng dòng chảy xiết.

 

Hướng phát triển du lịch tạo sinh kế cho cộng đồng

 

Vùng đệm của VQG Phước Bình có cộng đồng nhiều dân tộc sinh sống, nhiều nhất là đồng bào Raglai với bản sắc văn hóa độc đáo, gợi mở hướng du lịch sinh thái kết hợp văn hoá Raglai bản địa. Ông Pi-năng Sơn, Trưởng thôn Bố Lang là người thường xuyên cùng cán bộ VQG hướng dẫn tour cho du khách. Ông Sơn cho hay: Bụng người Raglai hiền hòa. Khách đến tham quan VQG nhiều đoàn về thôn cùng sinh hoạt với người làng. Chúng tôi chơi đàn Cha-pi, khèn hơi, mã la mừng người mới đến và tự hào kể cho du khách nghe về chiến tích bẫy đá Pi-năng Tắc. Khách du lịch còn thích thú với những đồ dùng thủ công do chính tay người Raglai chúng tôi làm từ dây rừng và cây rừng như gùi, nỏ, cung tên, rổ, nia… Các hoạt động liên quan đến du lịch như thế này cũng tạo cho không ít gia đình có thêm nguồn thu nhập.

 

Ông Nguyễn Công Vân, Giám đốc VQG Phước Bình cho biết: VQG Phước Bình có thể tổ chức rất nhiều hoạt động du lịch sinh thái-cộng đồng như tham quan rừng nguyên sinh, tắm nước suối trong xanh; du thuyền trên suối ngắm cảnh; đi bộ tham quan rừng với sự hướng dẫn của người dân địa phương; ngủ qua đêm tại nhà sàn của đồng bào; thưởng thức các món ăn địa phương; tìm hiểu các hoạt động văn hoá, sản xuất, đời sống người bản địa; đi bộ hoặc đạp xe đạp qua các bản làng; thăm và khám phá những nét có một không hai trong văn hoá của người Raglai-Chu ru. Chính điều này tạo động lực để cộng đồng dân cư ở Phước Bình cùng tham gia phát triển các dịch vụ du lịch, phát triển kinh tế, tăng thu nhập từ các sản phẩm du lịch.

 

Để tạo bứt phá trong du lịch, VQG Phước Bình đã đầu tư cơ sở lưu trú với 15 phòng (2-3 giường/phòng) phục vụ nhu cầu nghiên cứu của chuyên gia và nghỉ dưỡng cho du khách; nhà trưng bày các tiêu bản động vật, thực vật quý hiếm sinh sống trong các khu rừng của VQG; khu trưng bày các sản phẩm thủ công mỹ nghệ của đồng bào các dân tộc bản địa. Đồng thời, thành lập một Trung tâm giao dịch về du lịch và dịch vụ du lịch đặt tại Văn phòng VQG Phước Bình nhằm chủ động đón khách du lịch.

 

Trong hướng thúc đẩy kinh tế du lịch, VQG Phước Bình còn tạo lập nhiều sinh kế cho cộng đồng địa phương, với quan điểm chia sẻ lợi ích cùng người dân vùng đệm để thực hiện hiệu quả mục tiêu bảo tồn và phát triển bền vững tài nguyên môi trường. Trước mắt, VQG sẽ tập huấn cho một nhóm người địa phương tham gia hướng dẫn các tour sinh thái-văn hóa-lịch sử, trải nghiệm văn hóa cộng đồng; liên kết với doanh nghiệp tạo đầu ra ổn định cho sản phẩm thủ công mỹ nghệ của đồng bào Raglai và Chu-ru; bảo tồn và phát triển nghề làm thuốc của người địa phương, đưa sản phẩm cây thuốc trở thành đặc sản du lịch phục vụ du khách…

 

Có thể thấy rằng, phát triển du lịch sinh thái dựa trên các thế mạnh về rừng, về cộng đồng bản địa kết hợp các tour, tuyến du lịch khác trong tỉnh đã tạo ra sản phẩm du lịch hấp dẫn, mang tính đặc thù của VQG Phước Bình. Nhờ đó, những năm gần đây, lượng khách đến với VQG Phước Bình tăng nhiều hơn. Trong năm 2013, VQG Phước Bình đón gần 600 khách trong nước và quốc tế cùng hàng trăm lượt khách trong tỉnh. Riêng trong dịp lễ 30/4 và 1/5/2014, đã có trên 350 khách du lịch chọn VQG Phước Bình làm điểm dừng chân tham qua, nghỉ dưỡng.

 

Gần đây, Phước Bình càng được biết đến nhiều hơn khi VQG Phước Bình đang “sở hữu” đàn bò tót và bò tót lai trên 10 con. Khách vãng lai có người ví tìm về Phước Bình là tìm về xứ sở bò tót! Thiên nhiên kỳ thú đã tạo nét riêng cho sức hút của du lịch sinh thái gắn với du lịch văn hóa cộng đồng ở VQG Phước Bình. Và như vậy, Ninh Thuận tự hào có thêm một địa chỉ “đỏ” trên bản đồ du lịch Việt Nam.

 

Nguồn: Vietnamtourism.gov.vn

Suối Đa Nhông – Dải lụa vắt ngang núi rừng Phước Bình

Với không gian tĩnh lặng, nước suối trong lành hòa quyện với vẻ đẹp hoang sơ, quyến rũ của núi rừng, suối Đa Nhông luôn là điểm đến hấp dẫn du khách tham quan, nghỉ dưỡng mỗi dịp cuối tuần.

Suối Đa Nhông còn có tên gọi khác là Gia Nhông theo tiếng dân tộc Raglai, nằm cách TP. Phan Rang – Tháp Chàm khoảng 70km xuôi về hướng quốc lộ 27 đi Đà Lạt, đến ngã ba quốc lộ 27B rẽ phải theo hướng Tây Bắc. Suối Đa Nhông nằm trong hệ thống vườn thực vật Vườn Quốc gia Phước Bình – nơi lưu giữ sự đa dạng của nhiều loài động thực vật quý hiếm.

 

 

Suối Đa Nhông được thiên nhiên ưu ái ban tặng những giá trị tuyệt tác không chỉ về mặt du lịch sinh thái mà còn có giá trị về mặt nghiên cứu sinh học, góp phần làm phong phú hệ thống du lịch tỉnh nhà và tạo nên nét độc đáo riêng cho hệ thống Vườn Quốc Gia Phước Bình.

 

Đến với suối Đa Nhông, du khách có thể chiêm ngưỡng vẻ đẹp hoang sơ quyến rũ cùa dòng suối mát lạnh để chìm đắm lòng mình, du dương trong không gian thanh bình, vắng lặng của cảnh lạc núi rừng. Ngoài ra, nơi đây thích hợp cho các buổi dã ngoại, cắm trại, đi bộ trekking khám phá núi rừng, tìm hiểu về cuộc sống cư dân bản địa hay hòa mình vào dòng suối mát lạnh, tai văng vẳng theo tiếng nhạc của những cô gái Raglai vang vọng hòa trong tiếng suối róc rách len lỏi chảy qua từng phiến đá.

 

Con đường dẫn du khách vào khu vực suối dài gần 2km, du khách phải trải qua các bậc thang đường rừng, lúc lên cao, lúc xuống thấp, hai bên là những hàng cây to vươn cao lên đón ánh nắng mặt trời, những nhành lan rừng khoe sắc dưới những tán cây rậm rạp. Du khách có dịp trải nghiệm khám phá nét độc đáo của loài hoa này. Càng đến gần khu vực suối, tiếng suối càng vang vọng rõ hơn, mỗi lúc một lớn dần. Tiếng suối chảy trong khu rừng vắng hòa trong tiếng nói cười của du khách, tạo nên bản hòa âm thật đặc sắc.

 

Suối Đa Nhông cao khoảng 3m, nơi có độ sâu cao nhất là 5m, nhiệt độ nước vào buổi sáng khoảng 5-100C. Nơi đây thích hợp cho du khách tắm vào buổi trưa và hấp dẫn du khách với các màn lộn nhào từ trên đá xuống khu vực sâu nhất của suối.

 

Vào mùa mưa dòng suối Đa Nhông tung bọt trắng xóa, những chỗ sâu nước chảy cuồn cuộn kêu rít lên như muốn tranh giành để chảy nhanh về phía hạ nguồn, nơi có dòng sông Cái đón nhận. Du khách sẽ có cơ hội ngắm nhìn thỏa thích dòng suối chảy, chụp những bức hình đẹp cho nhật ký du lịch của mình.

 

Vào mùa khô, nước suối chảy nhẹ qua những vách đá, phiến đá lớn nhỏ sẽ thích hợp cho khách tham quan đắm mình trong những dòng nước mát lạnh, du dương trong tiếng đàn Chapi vang vọng khắp núi rừng.

 

Suối chảy dài hàng km trước khi đổ về hạ nguồn là sông Cái, đứng trên khu vực núi cao, du khách có dịp chiêm ngưỡng vẻ đẹp tuyệt mỹ của dòng suối, như dải lụa mềm vắt ngang khu vực rừng núi Phước Bình. Dòng suối trắng xóa len lỏi qua từng khu vực đá, những hàng cây, bụi rậm theo từng tầng từng tầng trông rất đẹp.

Nguồn: Vietnamtourism.gov.vn

Trang phục của dân tộc Bố Y ở Lào Cai

Người Bố Y mặc áo ngắn năm thân xẻ nách phải, cổ, ống tay áo, chỗ cài cúc được trang trí và viền vải khác màu hoa văn sặc sỡ.

Áo của phụ nữ Bố Y có hai loại, áo trong và áo ngoài. Áo trong (pủ đy) là loại áo kiểu tứ thân mở ngực, có một chiếc cúc đồng cài giáp cổ. Hai vạt áo trước có hai túi nhỏ cân xứng nhau để đựng tiền và đồ. Đây là loại trang phục cố truyền của phụ nữ Bố Y, ngày nay rất ít người sử dụng nó mà cất kỹ trong hòm, khi chủ nhân quá cố sẽ mặc để sang bên kia thê giới.

 

Trong khi đó, áo ngoài của đồng bào Bố Y (pủ pấp) được làm bằng vải thô, nhuộm chàm dài khoảng 60 cm và rộng chừng 55 cm. Áo may kiểu tứ thân không có cúc cài, chỉ có một đôi dây vải, một chiếc đính phía dưới vạt áo trái, một chiếc đính nơi xẻ tà nách bên phải, khi mặc áo chúng được buộc lại với nhau.

 

Trang phục phụ nữ Bố Y đẹp hơn, đặc sắc hơn là nhờ chiếc khăn đội đầu, váy và tạp dề. Khăn đội đầu (ba can) được làm bằng vải nhuộm chàm dài 300 cm, rộng 35 cm. Hai đầu khăn được khâu vắt mép bằng chỉ màu ghi, cạnh mép khăn dùng chỉ màu khâu thưa để đường chỉ nổi rõ có tính chất trang trí cho khăn

 

Váy của phụ nữ Bố Y được dệt nhiều màu sắc như xanh, đỏ, tím, ghi và chàm. Cách mặc váy truyền thống của phụ nữ Bố Y: trước hết đặt váy to vào giữa bụng và buộc dây sau lưng, sau đó đặt váy nhỏ vào giữa lưng và buộc dây trước bụng. Bộ váy truyền thống của phụ nữ Bố Y thực chất là hai mảnh vải xếp nếp khép lại, khi mặc tạo kẽ hở (váy hở) ở hai bên hông để đi lại dễ dàng. Trước đây, họ thường mặc váy trong các dịp lễ hôi, cưới xin, thì nay, tập tục đó đang dần bị mai một.

 

Tạp dề (vẩy dao) bằng vải thô nhuộm chàm dài khoảng 115cm, rộng 80cm. Tạp dề được đeo ngoài áo và váy trong những dịp lễ tết, hội hè, cưới xin gồm hai phần: yếm che và dây đeo. Yếm che bằng vải chàm, giữa yếm có thêu họa tiết hoa văn hình con cua cách điệu. Dây đeo bằng vải chàm được đính hai bên cạnh nhỏ của tạp dề. Khi dùng buộc vòng qua cổ. Dây buộc sau lưng được đính trên hai cạnh to của tạp dề, khi dùng buộc thắt sau lưng.

 

Cũng giống như cách làm đẹp của phụ nữ dân tộc khác, phụ nữ Bố Y thường trang bị cho mình nhiều loại phụ kiện thời trang đi kèm như dây chuyền, vòng cổ, vòng tay. Trong lễ, tết họ mặc áo dài liền váy kiểu chui đầu. Cổ áo ny rộng xuống tới bụng có thuê hoa văn hình hoa lá đối xứng, ống tay viền vải khác màu ở cửa tay. Bên trong mặc váy nhiều nếp gấp kiểu Hmông Hoa. Đầu đội khăn chàm đen có thêm hoa văn bằng chỉ màu, trong khi đó, tóc được búi ngược lên đỉnh đầu.

 

Cách ăn mặc của dân tộc Bố Y ngày nay khiến nhiều người cho rằng nó giống với người Nùng, thậm chí phụ nữ nhóm Tu Dí ăn mặc theo kiểu người Hán nhưng áo có ống tay rời.

 

Trong khi phụ nữ thường vận trang phục cầu kỳ thì nam giới khá đơn giản với áo cổ viền, loại áo cánh ngắn, tứ thân,quần lá tọa màu chàm bằng vải tự dệt.

 

Mặc dù trong quá trình lịch sử, người dân tộc Bố Y bị nhiều trào lưu văn hóa khác du nhập nhưng họ vẫn giữ được nét riêng độc đáo, đó là lối mặc và trang trí đi kèm với Xiêm và phong cách áo dài mang tính thẩm mỹ riêng./.

 

Nguồn: Vietnamtourism.gov.vn

Khám phá du lịch Phú Yên – dấu ấn riêng từ biển

Nằm trên dải đất miền Trung, Phú Yên được xem là một trong những tỉnh có phong cảnh thiên nhiên “sơn thủy hữu tình” với nhiều thắng cảnh kỳ thú, độc đáo và hấp dẫn. Sự đa dạng về địa hình, cảnh quan thiên nhiên cùng với bề dày lịch sử văn hóa đã tạo cho nơi đây tiềm năng du lịch với những nét đặc trưng riêng.

Những thắng cảnh độc đáo

 

Với bờ biển dài 190km, thiên nhiên đã ban tặng riêng cho Phú Yên hàng chục bãi tắm thơ mộng trên bờ cát trắng. Nét đẹp chung của hầu hết các bãi tắm ở đây là có sự kết hợp hài hòa giữa núi non và biển cả. Bên những rặng phi lao và rừng dừa xanh ngát là những bãi cát trắng mịn, thoai thoải, nước biển luôn trong xanh và lặng sóng. Nhiều nơi mang vẻ đẹp tự nhiên hoang sơ kỳ thú như: Đầm Cù Mông, vịnh Xuân Đài, vịnh Vũng Rô…

 

 

Không chỉ cuốn hút du khách ở những bãi biển đẹp, về với Phú Yên du khách sẽ được thả mình vào những trải nghiệm khó quên. Từ thành phố Tuy Hòa, theo quốc lộ 1A về hướng Bắc khoảng 40km, đến thị trấn Chí Thạnh rẽ phải về phía Đông khoảng 11km là đến Gành đá đĩa. Gành rộng khoảng 50m và trải dài hơn 200m. Nhìn từ xa, Gành trông như những chồng đĩa trong lò gốm hay những bậc tam cấp nhô ra ngoài biển. Du khách có thể dạo chơi trên những tầng đá, cảm nhận vị mặn của biển, cái rát nhẹ của gió, cảm giác ồn ào của những đợt sóng đập mạnh vào bờ, hay ngắm những đoàn thuyền trên biển. Đối với những người yêu nhiếp ảnh thì đây quả là một điểm đến lý tưởng…

 

Một địa danh khác gắn với truyền thuyết về nàng tiên tên Loan, cưỡi chim ô thước dạo chơi vùng trời Nam. Khi đến vùng đất này, nàng nảy sinh tình yêu với chàng trai nghèo nên ở lại trần gian đó chính là danh thắng cấp Quốc gia đầm Ô Loan. Vào lúc bình mình, khi mặt trời vừa nhô lên từ những triền núi thấp, đầm Ô Loan trông như chú chim khổng lồ đang trong tư thế sẵn sàng tung cánh bay vút lên bầu trời. Cũng góc nhìn ấy, khi hoàng hôn xuống, đầm tựa như con chim đang xoải cánh tìm chốn bình yên… Nếu bạn muốn ngắm bình minh tại một nơi tuyệt đẹp để có được xúc cảm tuyệt vời giữa không gian đầy sắc màu ở Việt Nam thì có lẽ chỉ có ở Phú Yên mà thôi. Đến nơi đây, du khách tìm về với Bãi Môn – Mũi Điện, ở lại qua đêm, tận hưởng không khí trong lành và chờ đón ánh bình minh đầu tiên trên dải đất liền Việt Nam. Ngoài ra, đứng trên ngọn hải đăng có trên 100 năm tuổi ta có thể nhìn bao quát đại dương mênh mông; đặt chân lên cột mốc ghi tọa độ số 0 (Điểm cực Đông) của Tổ quốc…

 

Không chỉ lợi thế ở vẻ đẹp thiên nhiên, Phú Yên còn là một vùng đất có bề dày lịch sử và chiều sâu văn hóa với sự đan xen, giao thoa của nền văn hóa Việt – Chăm… Cùng với đó là các sinh hoạt văn hóa truyền thống gắn liền với tâm thức về biển như: Lễ hội cầu ngư, hò bá trạo… Tất cả làm cho diện mạo du lịch của Phú Yên có sự hòa kết giữa giá trị thiên nhiên với giá trị nhân văn.

 

Thưởng thức những món ăn mang hương vị của biển

 

Đến với Phú Yên ngoài việc thưởng ngoạn các danh thắng, di tích, lễ hội… mà không thưởng thức những món ăn gắn liền với phong vị của biển thì chuyến đi của du khách chưa trọn vẹn. Cá ngừ đại dương, có lẽ là món ăn được nhắc nhiều nhất mỗi khi du khách đến với Phú Yên. Đây là món ăn được ưa chuộng của nhiều nước châu Á, nhất là các nước Nhật Bản, Đài Loan… Du khách có thể cảm nhận được vị ngọt lịm của thịt cá ngừ đại dương đỏ tươi được thái thành lát mỏng và to, chấm với mù tạc, xì dầu… Ngoài ra, mắt cá còn là một món ăn có mùi vị độc đáo và bổ dưỡng.

 

Nếu muốn tự tay mình trở thành “đầu bếp” du khách có thể tìm đến đầm Ô Loan, lên thuyền theo các thợ lặn ra giữa đầm, mang thêm gia vị, thức uống và bếp lò để thưởng thức món sò huyết Ô Loan. Còn có thú nào hơn cảnh ngồi trên khoang thuyền, tự tay mình nướng lấy những chú sò mà mình thích nhất, rồi cho vào miệng cảm nhận vị ngọt thơm, béo béo mịn màng nơi đầu lưỡi…

 

Ngoài ra, khi đến với Phú Yên, ta sẽ còn được thưởng thức nhiều món ăn hấp dẫn gắn liền với những địa danh sinh ra chúng như: Cốm nếp Phong Hậu, bánh tráng Hòa Đa, cá mú Sông Cầu, tôm hùm Vũng Rô …

 

Với tiềm năng du lịch mang dấu ấn riêng từ biển và con người giàu lòng nhân hậu, mến khách, tương lai không xa Phú Yên sẽ trở thành điểm hẹn văn hóa, thể thao, du lịch mới của quốc gia và khu vực./.

 

 

Nguồn: Vietnamtourism.gov.vn

TIN MỚI NHẤT