Du lịch trong nước

Du lịch trong nước, tin tức du lịch trong nước, các tour du lịch trong nước, các địa điểm du lịch trong nước hấp dẫn được chúng tôi tổng hợp và đưa tin hàng ngày đến cho khách du lịch trên khắp mọi miền đất nước có được thông tin du lịch trong nước để có những thông tin hữu ích nhất cho mình và gia đình khi quyết định chọn chuyến du lịch trong nước cho mình và người thân

Tân Trào (Tuyên Quang) – Vùng đất lịch sử và những câu chuyện còn vang mãi

Xã Tân Trào, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang, không chỉ là một địa danh lịch sử mà còn là điểm đến du lịch nổi tiếng, thu hút du khách bởi những câu chuyện hào hùng của Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Nơi đây, từng là “Thủ đô kháng chiến”, đã chứng kiến những quyết định mang tính bước ngoặt, thay đổi vận mệnh của cả dân tộc.


Lán Nà Nưa – Nơi Bác Hồ đưa ra những quyết định lịch sử

Sau 80 năm, đặt chân đến Tân Trào, du khách không khỏi xúc động trước căn lán đơn sơ nơi Chủ tịch Hồ Chí Minh từng sống và làm việc. Lán Nà Nưa, ẩn mình trong rừng sâu, là minh chứng cho tinh thần làm việc không mệt mỏi của Bác trong những ngày tháng chuẩn bị cho tổng khởi nghĩa.

Căn lán nhỏ bé, dựng bằng tre nứa, mái lá cọ đơn sơ, vậy mà từ đây, những chỉ thị, những quyết định lịch sử đã được đưa ra, dẫn dắt cả dân tộc đến thắng lợi.

Lán Nà Nưa là nơi ở và làm việc của Chủ tịch Hồ Chí Minh từ cuối tháng 5/1945 đến ngày 22/8/1945

Dù sức khỏe yếu, Người vẫn miệt mài viết tài liệu, chỉ thị và trăn trở về vận mệnh đất nước. Câu chuyện về đêm tháng 8 lịch sử, khi Bác gạt mồ hôi, nói với Đại tướng Võ Nguyên Giáp: “Chú Văn ạ, thời cơ đến rồi, không thể chậm trễ. Đất nước sắp giành độc lập, Bác có mệt cũng vui lòng”, đã trở thành biểu tượng cho tinh thần quyết tâm của vị lãnh tụ vĩ đại.

Ánh đèn dầu leo lét trong đêm tối, tiếng bút sột soạt trên trang giấy và cả những đêm không ngủ của Bác, tất cả tạo nên một bức tranh lịch sử đầy cảm xúc.

Chính tại nơi đây, ngày 13/8/1945, bức thư kêu gọi tổng khởi nghĩa đã ra đời, trở thành lời hiệu triệu toàn dân đứng lên giành chính quyền. Bức thư ấy không chỉ là lời kêu gọi, mà còn là lời khẳng định ý chí độc lập, tự do của cả một dân tộc.

Đình Tân Trào – Quốc dân Đại hội quyết định vận mệnh đất nước

Đêm trước ngày Quốc dân Đại hội, các đại biểu từ khắp nơi đã vượt qua bao gian khó để tề tựu tại Đình Tân Trào. Những con người từ Cao Bằng, Bắc Giang, Thanh Hóa, Nghệ An,… mang theo khát vọng độc lập, đã cùng nhau hội tụ về đây, dưới mái đình cổ kính.

Bác Hồ, dù đang dưỡng bệnh, vẫn ân cần tiếp đón và động viên: “Đây là thời cơ ngàn năm có một. Chúng ta nhất định phải giành độc lập. Lần này, dù có phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn, cũng quyết giành cho được tự do”. Lời nói ấy, như ngọn lửa, thắp sáng niềm tin và quyết tâm trong lòng mỗi đại biểu.

Ngày 16/8/1945, Quốc dân Đại hội diễn ra, quyết định thành lập Ủy ban Dân tộc Giải phóng Việt Nam (Chính phủ lâm thời) và nhất trí Tổng khởi nghĩa giành chính quyền. Khoảnh khắc lịch sử khi các đại biểu đồng lòng hô vang “Độc lập hay là chết!” đã trở thành dấu ấn không thể phai mờ. Tiếng hô vang dội cả núi rừng, thể hiện ý chí sắt đá của toàn dân tộc, quyết tâm giành lại độc lập, tự do.

Cây đa Tân Trào – Chứng nhân lịch sử

Dưới gốc đa Tân Trào, chiều ngày 16/8/1945, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đọc Quân lệnh số 1, thúc giục quân đội tiến về giải phóng Thủ đô Hà Nội. Cây đa cổ thụ, với những cành lá xum xuê, như một chứng nhân lịch sử, đã chứng kiến khoảnh khắc hào hùng ấy.

Những người chiến sĩ trẻ tuổi, với ánh mắt kiên định, đã lên đường, mang theo niềm tin và quyết tâm của cả dân tộc. Họ hiểu rằng, con đường phía trước đầy gian nan, thử thách nhưng không gì có thể ngăn cản họ tiến bước.

Tám thập kỷ trôi qua, cây đa Tân Trào vẫn sừng sững, chứng kiến bao sự kiện lịch sử trọng đại. Nơi đây cũng là địa điểm tổ chức nhiều sự kiện ý nghĩa, giáo dục truyền thống cách mạng cho thế hệ trẻ. Những lễ kết nạp Đảng, Đoàn, Đội,… được tổ chức dưới gốc đa, như một lời nhắc nhở về lòng yêu nước, tinh thần quả cảm của cha ông.

Dưới gốc đa Tân Trào, ngày 16/8/1945, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã đọc Quân lệnh số 1 của Ủy ban khởi nghĩa

Cây đa Tân Trào được xếp hạng Di tích lịch sử văn hóa Quốc gia năm 1975, đã trở thành “địa chỉ đỏ” trong hành trình tìm về cội nguồn của mỗi người dân Việt Nam. Đến đây, mỗi người đều cảm nhận được không khí thiêng liêng, hào hùng của lịch sử và thêm trân trọng những giá trị mà cha ông đã để lại.

Nhân dịp kỷ niệm 60 năm Báo Tuyên Quang xuất bản số đầu tiên, tôi đến đây không chỉ được sống lại những khoảnh khắc lịch sử hào hùng mà còn cảm nhận được tinh thần quyết tâm, ý chí vươn lên của vùng đất cách mạng. Tân Trào không chỉ là một địa danh lịch sử, mà còn là một biểu tượng, một nguồn cảm hứng cho những thế hệ người Việt Nam hôm nay và mai sau./.

An Thuận

Nguồn: Dulichvn

Bí ẩn màu lá, mê mẩn sắc xôi của người Tày ở Lào Cai

Xôi ngũ sắc là món ăn truyền thống không thể thiếu trong mâm cỗ mỗi dịp trọng đại hay lễ tết của đồng bào Tày ở Lào Cai.


Theo lời giới thiệu của nhiều người dân trong vùng, chúng tôi tìm tới nhà chị Nguyễn Thị Chục (tên thường gọi là Hạnh Tiệp), ở bản Hốc, xã Nghĩa Đô, huyện Bảo Yên, tỉnh Lào Cai. Chị Tiệp là người có tay nghề trong việc nấu xôi màu hay còn gọi là xôi ngũ sắc. Chị biết cách sử dụng nhiều loại lá, cây, củ tự nhiên để tạo ra các màu xôi khác nhau. Không chỉ được giao đảm nhiệm chế biến món ăn này trong mâm cỗ của gia đình mỗi khi nhà có việc mà chị Tiệp còn được nhiều người đặt mua khi có nhu cầu.

Tôi được mẹ dạy nấu xôi ngũ sắc từ khi còn nhỏ. Sau này lập gia đình, tôi cũng nấu thường xuyên hơn. Mọi người thường khen món xôi tôi làm ăn ngon, màu sắc đẹp nên hay đặt nấu giúp mỗi khi nhà có việc. Bây giờ tôi không chỉ biết làm xôi có 5 màu mà còn có thể tạo ra 7 màu hoặc nhiều hơn nếu muốn – Chị Tiệp cho biết.

Bí quyết nằm ở công thức tạo màu của mỗi nguyên liệu tự nhiên và pha chế theo tỷ lệ chuẩn. Thông thường, ngoài gạo nếp thì nguyên liệu chính để tạo màu cho xôi chính là lá cẩm. Người Tày thường trồng cây cẩm xung quanh nhà để tiện cho việc làm xôi. Cây cẩm dễ trồng, ưa nơi ẩm ướt. Cây cẩm có 2 loại, nhìn qua thì tưởng chúng giống hệt nhau vì có cùng dáng cây và màu hoa tím nhưng theo chị Tiệp, nhìn kỹ sẽ phát hiện: một loại lá nhỏ và dài hơn gọi là cẩm đỏ. Còn loại kia lá to và gân lá dày hơn, có viền trắng gọi là cẩm tím. 2 loại lá này khi luộc hay giã lá tươi lọc lấy nước ngâm gạo đồ xôi sẽ tạo ra các màu sắc khác nhau. Câu chuyện về việc phát hiện ra sự bí ẩn trong những màu lá ấy của chị Tiệp khiến tôi không khỏi ngạc nhiên.

Chia sẻ về bí quyết tạo màu từ lá cẩm, chị Tiệp cho hay: Màu tím từ lá cẩm tím; màu đỏ từ lá cẩm đỏ tạo thành. Nhưng màu sắc đậm hay nhạt lại tùy thuộc cách chế biến. Ví dụ như, nếu luộc lá cẩm tím thì sẽ ra màu tím, nhưng nếu giã lúc lá còn tươi và trộn thêm tro của rơm nếp với tỉ lệ phù hợp thì sẽ ra màu xanh lam.

Xôi ngũ sắc thường có 5 màu: xanh, đỏ, tím, vàng, trắng. Ngoài lá cẩm, người Tày còn dùng các cây, củ, rễ tự nhiên trồng tại vườn nhà hoặc lấy trên rừng để tạo màu cho xôi, như: màu xanh lá từ lá dứa nếp; màu vàng từ củ nghệ tươi; màu đỏ từ quả gấc…

Sau khi tạo được màu từ các loại lá, cây, củ này thì sẽ đem ngâm với gạo nếp, trong khoảng 30 phút, tùy lượng gạo. Bí quyết để gạo lên màu nhanh là ngâm với nước ấm. Người Tày thường dùng phương pháp đồ xôi truyền thống là đồ cách thủy bằng chõ gỗ. Quá trình đồ xôi phải giữ lửa đều các góc, vừa lửa, không to quá, không nhỏ quá, đượm than để xôi chín dẻo, thơm nồng.

Tùy theo lượng xôi, người ta có thể đồ riêng từng loại màu hoặc đồ chung cả các màu trong một chõ xôi. Nếu lượng xôi ít, có thể đồ chung một chõ thì chị Tiệp thường dùng vỉ (mảnh nan tre đan có lỗ thủng để hơi nóng lọt qua) ngăn cách giữa các lớp xôi để màu không lẫn màu. Hoặc nếu không dùng lớp ngăn cách thì có thể đổ lần lượt gạo màu đậm xuống dưới cùng, lần lượt đến gạo màu nhạt hơn lên trên.

Mỗi chõ xôi trung bình làm được khoảng 3 kg gạo, hấp cách thủy trong thời gian 40 – 50 phút là xôi chín mềm. Theo kinh nghiệm của chị Tiệp, khi cho gạo vào chõ cần tính toán làm sao để gạo còn cách miệng chõ khoảng 10 cm thì khi xôi chín, đẩy dần lên đến miệng chõ là vừa đủ. Đó cũng là lúc xôi chín đều. Xôi chín bằng hơi, mềm, dẻo nhưng không dính tay. Xôi thường được gói vào lá dong để ủ ấm, giữ được độ dẻo lâu.

Người Tày quan niệm rằng, mỗi màu xôi đều chứa đựng ý nghĩa sâu sắc cùng thông điệp về tâm linh, nhân sinh quan. Xôi màu xanh thể hiện khát vọng hòa bình, màu của núi rừng đại ngàn, trời đất bao la. Xôi màu trắng tượng trưng cho sự trong trắng, nguyên sơ, chân thành. Xôi màu đỏ là khát vọng sống, tinh thần đoàn kết. Màu vàng của sự ấm no đầy đủ phồn thịnh. Còn màu tím thể hiện tình yêu thủy chung sắt son, bền chặt, vĩnh cửu…

Mâm xôi ngũ sắc thường được bày ở trung tâm mâm cỗ vừa tạo màu sắc đẹp hơn vừa ẩn chứa tâm linh của dân tộc Tày. Hơn nữa, còn thể hiện sự trang trọng, tôn kính trong mâm cúng dâng lên ông bà tổ tiên nhân ngày lễ tết, cưới hỏi, ngày hội mùa… Xôi ngũ sắc thường ăn kèm với thịt nướng, cá nướng, gà nướng, hoặc đơn giản ăn cùng muối vừng, muối lạc sẽ làm tăng thêm hương vị đậm đà của món ăn – Bà Hoàng Thị Mai, mẹ chị Tiệp cho hay.

Tùy vào từng nơi mà cách bày trí xôi ngũ sắc cũng có sự khác biệt. Có nơi sẽ bày xôi theo hình bông hoa 5 cánh, mỗi cánh tượng trưng cho một màu. Có nơi lại trộn lẫn các màu xôi với nhau. Thế nhưng dù bày trí theo cách nào thì xôi ngũ sắc cũng mang ý nghĩa biểu trưng cho điều may mắn, tốt lành. Nếu có dịp ghé thăm các bản làng người Tày ở Nghĩa Đô, huyện Bảo Yên hay các vùng lân cận, du khách hãy dừng chân để thưởng thức món xôi ngũ sắc để cảm nhận vị dẻo thơm của hạt nếp và tấm lòng mến khách của người dân nơi đây.

Hoàng Thương

Nguồn: Dulichvn

Món ngon qua miền lễ hội ở Quảng Nam

Ẩm thực trong lễ hội cũng là một đặc sắc của xứ sở, gây nhớ gây thương với người về dự cuộc hội làng.


Vật phẩm trong lễ cúng Bà Thu Bồn được người dân xã Duy Tân (Duy Xuyên) làm nên. Ảnh: Minh Tâm

Tháng Hai, khi gốc gạo già điểm bông đỏ rực, người người lại nô nức về thượng nguồn sông Mẹ trẩy hội Bà Thu Bồn. Giữa mênh mang sông nước hữu tình, du khách ngược xuôi đắm mình trong không gian lễ hội và thưởng thức các loại bánh trái, sản vật của địa phương.

Những sản vật này được làm từ tâm huyết, lòng tôn kính, biết ơn bà mẹ xứ sở của cư dân sông nước, gửi gắm ước vọng về năm mới mùa màng bội thu, đời sống ấm no.

Hành trình khám phá ẩm thực lễ hội của khách thưởng ngoạn bắt đầu từ mâm bánh truyền thống dâng cúng Bà với các loại bánh ít, bánh chưng, bánh ú, bánh gừng. Tận mắt chứng kiến những đôi tay khéo léo nhào bột, nặn bánh, tỉ mỉ làm nên những chiếc bánh độc đáo, đặc trưng hương vị dân gian mới cảm nhận được lòng thành kính được gởi gắm.

Phụ nữ xã Duy Tân (Duy Xuyên) thi làm bánh gừng dâng cúng Bà Thu Bồn. Ảnh: Minh Tâm

Xuôi dòng về Hội An, Cẩm Nam là vùng đất màu mỡ, trù phú được bao bọc bởi các nhánh của hạ lưu sông Thu Bồn. Từ lâu bắp nếp Cẩm Nam đã trở thành đặc sản của phố cổ. Khi hơi xuân mát mẻ còn vương trên ngọn lá, ngày hội bắp nếp Cẩm Nam diễn ra và níu chân du khách bằng mùi bắp nếp ngọt ngào.

Ngay tại cánh đồng bắp xanh mướt, mỗi du khách có trải nghiệm riêng cho mình về quá trình trồng, chế biến và thưởng thức hương vị của từng món ăn từ bắp nếp như bắp luộc, nướng, chè bắp, ram bắp, sữa bắp… Mỗi món ăn giúp ta thêm hiểu, thêm thương sự cần cù, chịu khó của người nông dân. Nỗi nhớ quê xứ như cựa mình trước mùi vị thơm ngọt từ trái bắp lớn bằng phù sa sông Mẹ.

Đến hẹn lại lên, ở mỗi vùng đất, cư dân bản xứ sẽ có những lễ hội, ngày hội theo đặc trưng riêng. Ngoài câu chuyện lịch sử hình thành, phát triển vùng đất, đời sống cộng đồng, phong tục tập quán thì lát cắt về ẩm thực chính là nét đặc trưng tạo nên bản sắc riêng.

Tham gia lễ hội, thức ăn uống không chỉ là trải nghiệm vị giác, mang hương vị đặc trưng mà còn là món quà. Theo chân du khách, những món ẩm thực sẽ lan tỏa câu chuyện về lễ hội, niềm tin thiêng liêng, nét đẹp văn hóa, phong tục tập quán. Và, mỗi khi có dịp chạm đến “vị” của món ăn, ta “tận hưởng” lớp trầm tích đặc sắc của vùng đất, cộng đồng dân cư gắn với nó.

Minh Tâm

Nguồn: Dulichvn

Gia Lai: Lên núi săn cua đá

Nằm ở vùng Đông Nam tỉnh Gia Lai, nơi dòng sông Ayun hợp lưu với dòng chính sông Ba, thung lũng Ayun Pa không chỉ sở hữu đất đai phù sa màu mỡ mà còn đầy ắp sản vật. Một trong số đặc sản của vùng là cua đá.


Vào một chiều cuối tháng 3, khi cái nắng Tây Nguyên vừa dịu xuống, anh Rcom Dam Mơ Ai (trú tại số 22 Tăng Bạt Hổ, phường Đoàn Kết, thị xã Ayun Pa) dẫn chúng tôi lên núi săn cua đá. Băng qua con đường rừng đầy cỏ dại, chúng tôi đến chân đập tràn Ia Rbol (xã Ia Rbol, thị xã Ayun Pa). Mùa này, nước rút dần, để lộ ra những phiến đá to, nhỏ nằm chen chúc nhau. Chỉ tay về phía những khe suối trong veo, anh Mơ Ai cho hay: “Chỗ đó là nơi trú ngụ của rất nhiều cua đá”.

Anh Rcom Dam Mơ Ai bắt cua đá tại đập tràn Ia Rbol (xã Ia Rbol, thị xã Ayun Pa). Ảnh: L.H

Cua đá hay còn gọi là cua núi sinh sống chủ yếu ở các khe suối, hốc đá, nơi có nguồn nước sạch và ít ô nhiễm. Nhìn thoáng qua, cua đá và cua đồng có vẻ giống nhau, song thực ra chúng khác biệt rất rõ. Cua đá thường có màu nâu đỏ, tím than hoặc đen sẫm, càng to khỏe, mai cứng và gồ ghề như đá tảng. Trong khi đó, cua đồng có màu nâu đất hoặc vàng nâu, mai mềm và càng nhỏ hơn. Ngoài ra, cua đá rất hung hăng, sẵn sàng dùng đôi càng to khỏe để kẹp chặt con mồi và chống lại kẻ thù.

Anh Mơ Ai cho hay: Ở Ayun Pa, cua đá chủ yếu sinh sống tại các con suối nhiều sỏi đá như: Ia Rbol, suối Đá hay những khe nước trên núi. Từ tháng 5 đến tháng 7 khi trời bắt đầu mưa, cua ra khỏi hang để kiếm ăn. Vào tháng 3, cua bắt đầu đẻ trứng. Trong thời gian này, cua cái ít di chuyển và ẩn sâu trong hang đá để bảo vệ trứng nên muốn bắt được cua phải kiên nhẫn. Có khi phải mất 5-10 phút mới lôi được 1 con. Cua thường trốn dưới các khe đá sâu hoặc đào hang chừng 1 m ở ven suối-nơi có nhiều đá cứng – nên đào khá vất vả.

Cua đá là đặc sản ở thung lũng Ayun Pa. Ảnh: L.H

Cũng theo anh Mơ Ai, săn cua đá cũng không dễ dàng, đòi hỏi phải có kinh nghiệm dày dặn. Người dân địa phương thường đi bắt cua vào sáng sớm hoặc chiều muộn, lúc cua bò ra khỏi hang tìm thức ăn. Vì cua đá di chuyển nhanh và khéo léo ẩn nấp trong các kẽ đá nên đòi hỏi người săn cua phải lẹ mắt, nhanh tay.

Thịt cua đá chắc, dai, ngọt và có mùi thơm đặc trưng. Trứng cua đá có màu vàng cam hoặc đỏ tươi, bám chặt dưới yếm. Đến mùa sinh sản, cua cái sẽ mang trứng trong nhiều tuần, trước khi trứng nở thành cua con và trôi theo dòng nước. Người Jrai nơi đây thường chế biến cua đá theo nhiều cách như: nướng trên bếp lửa, rang khô hoặc luộc chín. Khi chín, vỏ cua chuyển sang màu vàng ươm, trông vô cùng đẹp mắt. Để món ăn thêm đậm đà, người Jrai ở thung lũng Ayun Pa thường giã cua với lá é, muối kiến vàng hoặc lá tàu bay. Cua giã nát, trộn cùng lá é thơm nồng và muối kiến vàng chua cay khiến ai thưởng thức cũng nhớ mãi.

Tranh thủ những buổi tối rảnh rỗi, anh Nay Nhân (buôn Hiao, xã Chư Băh, thị xã Ayun Pa) cùng thanh niên trong làng lại đi ra suối Đá bắt cua. Vào mùa mưa, cua nhiều, anh có thể bắt được hơn 30 con/đêm. “Vào mùa khô, cua ở hang sâu nên bắt được vài con là mừng lắm rồi. Ở đây, người dân bắt cua chủ yếu để ăn và biếu khách quý” – anh Nhân chia sẻ.

Còn anh Ksor Mgố (cùng buôn) thì cho hay: Tuổi thơ anh gắn liền với cua đá. Ngày bé, mỗi lần theo bố đi rẫy về, anh lại tranh thủ lội suối để bắt cua. Chỉ cần vài con cua đá nướng trên than củi cũng đủ làm ấm bụng lũ trẻ làng. Theo anh Mgố, cua đá ở Ayun Pa thơm ngon, dù chế biến đơn giản song vẫn giữ được vị ngọt đặc trưng của núi rừng. “Những ngày mùa mưa, nước suối dâng cao, việc bắt cua tuy khó nhưng đó cũng là lúc cua nhiều thịt và chắc nhất, làm món gì cũng ngon” – anh Mgố vui vẻ nói.

Theo người dân địa phương, trước đây, vùng này cua đá rất nhiều, song vì môi trường thay đổi, nguồn nước có sự ô nhiễm nên cua đá cũng dần ít đi. “Ngày nay, người dân đã ý thức hơn trong việc bảo vệ cua đá. Người ta chỉ bắt cua trưởng thành để tránh tận diệt và giữ gìn nguồn lợi lâu dài” – anh Mơ Ai cho hay thêm.

Lạc Hà

Nguồn: Dulichvn

Những người ”giữ hồn” cho Làng nghề Bó chổi Vĩnh Hựu – Tiền Giang

Giữa những mái nhà đơn sơ nép mình bên vườn dừa xanh ngát, Làng nghề Bó chổi que lá dừa ở xã Vĩnh Hựu, huyện Gò Công Tây, Tiền Giang vẫn ngày ngày rộn ràng nhịp sống. Từ đôi bàn tay khéo léo của những người thợ mộc mạc, từng cọng lá dừa tưởng chừng bỏ đi lại kết thành những cây chổi chắc chắn, gắn bó với bao mái ấm. Tiếng róc que dừa, tiếng ràng chổi lách cách hòa cùng câu chuyện đời thường, tạo nên một thanh âm ấm áp của quê hương, nơi mà nghề truyền thống không chỉ là kế sinh nhai, mà còn là sợi dây nối liền bao thế hệ trong suốt hàng chục năm qua.


Đậm đà hồn quê

Giữa những đổi thay của cuộc sống hiện đại, Làng nghề Bó chổi Vĩnh Hựu vẫn giữ được hồn cốt suốt hàng chục năm qua. Tiếng chổi cọ xát vào nền đất, đôi tay thoăn thoắt bó từng cọng dừa, những mái nhà thấp thoáng bóng dáng người thợ miệt mài, tất cả tạo nên một nhịp sống vừa tất bật, vừa yên bình ở làng quê này.

Làng nghề bó chổi que dừa đã gắn bó với người dân Vĩnh Hựu từ bao đời, không chỉ tạo việc làm mà còn giúp cải thiện thu nhập, góp phần ổn định cuộc sống.

Người dân nơi đây không cần nhiều công nghệ cao, chỉ với bó cọng dừa, sợi dây kẽm và chút khéo léo là có thể làm nên những chiếc chổi bền chắc. Nghề bó chổi không chỉ là kế sinh nhai, mà còn là câu chuyện truyền đời từ ông bà, cha mẹ. Mỗi cây chổi là một phần ký ức của bao thế hệ, là tuổi thơ của những đứa trẻ lớn lên bên bó cọng dừa, là mồ hôi của những người phụ nữ tảo tần.

Chẳng ai nhớ chính xác nghề bó chổi ở Vĩnh Hựu có từ bao giờ, chỉ biết rằng hơn nửa thế kỷ qua, những bó chổi cọng dừa đã trở thành một phần không thể thiếu trong cuộc sống của người dân nơi đây. 

Theo lời kể của các bậc cao niên, nghề này bắt đầu xuất hiện từ những năm 70 của thế kỷ trước. Ban đầu, chổi được làm từ cây ráng – một loại cây mọc dọc theo các con mương, nhưng vì nguồn nguyên liệu dần khan hiếm, người ta chuyển sang bó chổi bằng mo cau. Nhưng rồi do chiến tranh, cau dần ít đi, người dân mới nghĩ ra cách dùng que lá dừa để bó chổi. Không ngờ, chổi que dừa không chỉ chắc chắn mà còn được ưa chuộng hơn, thế là thành nghề luôn tới giờ.

Làm ra một cây chổi hoàn chỉnh không phải chuyện đơn giản, mà phải qua nhiều công đoạn tỉ mỉ. Trong đó, có 3 bước quan trọng nhất. Trước tiên là làm mái chổi, đây là phần khó nhất, đòi hỏi sự khéo léo và kiên nhẫn. 

Người thợ phải cẩn thận sắp xếp từng cọng dừa sao cho đều đặn, chắc chắn. Khi mái chổi đã định hình, họ bắt đầu kết các que dừa lại với nhau. Mỗi lần kết xong một lớp, thợ lại dùng dây cước trắng buộc chặt để chổi không bị xộc xệch khi sử dụng. 

Bước tiếp theo là làm cán chổi. Người thợ tận dụng thân dừa, cắt thành thanh ngắn rồi đóng chặt vào phần bên trong mái chổi để tạo độ chắc chắn. Cuối cùng, đến công đoạn tề chổi, bước này giúp cây chổi đẹp và gọn gàng hơn. 

Người thợ sẽ dùng dao hoặc máy để tỉa lại, đảm bảo chổi đều, dễ cầm nắm và sử dụng thuận tiện. Mỗi công đoạn đều cần sự tỉ mỉ và kinh nghiệm, thế nên nhìn một cây chổi đơn giản vậy thôi, nhưng lại chứa đựng bao công sức của người thợ lành nghề.

Từ những ngày đầu còn khó khăn, nghề bó chổi cứ thế mà phát triển dần lên, trở thành kế sinh nhai của biết bao thế hệ. Những cây chổi không chỉ gắn liền với đôi tay tảo tần của người thợ, mà còn mang theo cả những đổi thay của làng quê. Hơn nửa thế kỷ trôi qua, nghề bó chổi vẫn len lỏi trong từng mái nhà, gắn bó với nhịp sống của người dân Vĩnh Hựu.

Gìn giữ và phát huy

Không chỉ mang lại thu nhập ổn định, công việc này còn giúp nhiều người lớn tuổi, phụ nữ có thêm thu nhập. Một cây chổi giá chỉ vài chục ngàn nhưng chứa đựng bao công sức, tình cảm của những người thợ cần mẫn.

Hiện nay, trung bình mỗi tháng Làng nghề Bó chổi Vĩnh Hựu sử dụng khoảng 5 tấn nguyên liệu que dừa, được thu mua từ khắp nơi. Giá nguyên liệu dao động từ 6.000 – 7.000 đồng/kg đối với que dừa khô, còn que dừa tươi có giá cao hơn, khoảng 12.000 – 13.000 đồng/kg.

Nhờ nguồn nguyên liệu dồi dào và tay nghề của người thợ, mỗi tháng làng nghề cung cấp ra thị trường khoảng 72.000 cây chổi, chủ yếu tiêu thụ tại TP. Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bình Dương và nhiều tỉnh, thành khác.

Thu nhập từ nghề bó chổi cũng giúp nhiều hộ gia đình cải thiện đời sống. Trung bình, mỗi người thợ có thể kiếm từ 200.000 – 250.000 đồng/ngày, tùy vào số lượng chổi làm ra. Dù công việc có phần vất vả, nhưng với những người dân nơi đây, đó không chỉ là kế sinh nhai, mà còn là niềm vui, là sự gắn bó với nghề truyền thống của quê hương.

Để gìn giữ và phát huy làng nghề, người dân Làng nghề Bó chổi Vĩnh Hựu không ngừng cải tiến mẫu mã, nâng cao chất lượng sản phẩm nhằm đáp ứng nhu cầu thị trường.

Một số hộ gia đình đã mạnh dạn đầu tư máy móc hỗ trợ các công đoạn khó, giúp giảm bớt sức lao động mà vẫn đảm bảo độ bền, đẹp của chổi.

Bên cạnh đó, chính quyền địa phương cũng có những chính sách hỗ trợ, giúp làng nghề tiếp cận thị trường rộng hơn, khuyến khích các hộ sản xuất tham gia hội chợ, triển lãm để quảng bá sản phẩm.

Năm 2005, Làng nghề Bó chổi tại Vĩnh Hựu đã được UBND tỉnh Tiền Giang công nhận là Làng nghề truyền thống. Đây không chỉ là sự ghi nhận cho những nỗ lực gìn giữ và phát triển nghề của bao thế hệ, mà còn là động lực để làng nghề tiếp tục phát triển, vươn xa hơn nữa. 

Dưới những bàn tay cần mẫn và tâm huyết của người dân, chổi Vĩnh Hựu vẫn ngày ngày theo chân thương lái đi khắp mọi miền, mang theo cả hơi thở của làng quê và nét đẹp của một nghề truyền thống không bao giờ cũ.

Dù thị trường có nhiều sản phẩm hiện đại hơn, chổi Vĩnh Hựu vẫn được người tiêu dùng tin yêu nhờ độ bền và sự quen thuộc. Ngày nay, người dân trong làng cũng linh hoạt hơn, cải tiến mẫu mã, đưa sản phẩm đi xa, thậm chí hướng đến xuất khẩu. 

Giữa bao đổi thay, làng nghề nhỏ bé này vẫn giữ được cái hồn của quê hương, hằng ngày vẫn rộn ràng tiếng cười nói bên những bó chổi gọn gàng, chắc chắn như một minh chứng cho sự bền bỉ và tinh thần lao động của con người nơi đây.

Theo Phó Chủ tịch UBND xã Vĩnh Hựu Trần Đăng Khoa, xã có Làng nghề Bó chổi que dừa từ lâu đời, nay phát triển thêm nghề sản xuất chỉ xơ dừa xuất khẩu, thu hút nhiều khách du lịch trong nước và ngoài nước đến tham quan. Điều này không chỉ góp phần giải quyết việc làm, tạo thu nhập ổn định cho nhiều lao động, mà còn thúc đẩy du lịch địa phương phát triển.

Đ. Phi

Nguồn: Dulichvn

Xôi ngũ sắc Thanh minh

Hằng năm, cuối tháng 2, đầu tháng 3 Âm lịch, người Cao Bằng lại sắm sửa đồ cúng lễ, vàng hương… đi tảo mộ (còn gọi là Tết Thanh minh), tưởng nhớ đến tổ tiên, ông bà, cha mẹ và những người đã khuất. Món ăn đặc trưng nhất trong dịp này là xôi ngũ sắc: đỏ, đen, tím, vàng, xanh.


Mỗi màu xôi đều chứa đựng ý nghĩa sâu sắc. Xôi màu đỏ là khát vọng sống, tinh thần đoàn kết. Màu vàng của sự ấm no đầy đủ phồn thịnh. Còn màu tím thể hiện tình yêu thủy chung sắt son, bền chặt, vĩnh cửu. Màu đen thể hiện tấm lòng thành hiếu thảo của các con cháu đối với tổ tiên. Màu xanh thể hiện khát vọng hòa bình, màu của núi rừng…

Nguyên liệu làm xôi là gạo nếp hương của Cao Bằng, có độ dẻo và mùi thơm đặc trưng; chất tạo màu đều là các loại lá cây có sẵn trong tự nhiên, an toàn, không gây độc hại. Các loại xôi đều ngâm gạo với nước màu từ 6 – 8 tiếng cho hạt gạo no nước, khi chín sẽ nở ra dẻo thơm.

Xôi màu vàng dùng hoa bjoóc phón. Loại hoa này xuất hiện sau khi tiết trời lập xuân, hoa có màu trắng, nhỏ li ti kết hợp thành từng chùm, mùi thơm đặc trưng, vị hơi nồng. Đun hoa với nước ấm từ 10 – 15 phút cho đến khi nước ra màu vàng tươi, có mùi thơm đặc trưng của hoa, lọc nước rồi đem ngâm với gạo nếp, hạt gạo lên màu vàng tươi. Xôi bjoóc phón có mùi thơm đặc trưng, thơm ngon, màu sắc đẹp

Xôi màu đen dùng lá cây sau sau mọc trên rừng. Sau khi hái lá về, chọn những lá bánh tẻ thơm, băm nhỏ, giã đều tay cho nát rồi đem phơi, đun lấy nước. Gạo nếp ngâm với nước lá sau sau đến khi gạo có màu xanh thẫm, ngâm càng lâu khi đồ xôi sẽ dẻo, mềm. Xôi chín có màu đen bóng, mùi thơm đặc trưng của lá sau sau.

Xôi màu tím còn gọi là xôi cẩm, dùng lá cẩm tím mang về rửa sạch cho vào nồi đun, lọc lấy nước rồi ngâm với gạo nếp, sau đó mang đi đồ. Xôi chín có màu tím, hạt gạo bóng đẹp, có mùi thơm của lá cẩm.

Xôi màu đỏ dùng lá cẩm đỏ mang về rửa sạch đun lọc lấy nước rồi ngâm với gạo nếp, sau đó mang đi đồ. Xôi chín sẽ cho màu đỏ tự nhiên đẹp, có mùi thơm của lá cẩm.

 Xôi màu xanh dùng lá dứa cắt thành khúc sau đó cho vào máy xay hoặc giã nhỏ rồi đem hòa tan với nước lọc khuấy đều và lọc bỏ qua rây chắt lấy nước, bỏ bã lá dứa đi. Sau đó ngâm gạo với nước lá dứa. Xôi chín có màu xanh tự nhiên đẹp, hạt gạo bóng, dẻo.

Lá cẩm đỏ và tím cho các màu xôi đẹp, thơm mùi lá.

 Đối với các loại xôi, sau khi đồ lần một, để nguội rồi đồ thêm khoảng 15 – 20 phút nữa, xôi sẽ dẻo, mềm và khô hơn.

Trang Nguyễn

 

Nguồn: Dulichvn

Độc đáo các sản phẩm làm từ cây nứa

Từ những cây nứa đơn giản, dưới đôi bàn tay tỉ mỉ, khéo léo, hàng trăm sản phẩm thủ công mỹ nghệ đã được người dân xã Yên Tiến (huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định) sản xuất, đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng trong và ngoài tỉnh.


Huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định có nhiều nghề truyền thống, tiêu biểu như: sơn mài Cát Đằng, xã Yên Tiến; chạm khắc gỗ La Xuyên, Ninh Xá, xã Yên Ninh; đúc đồng Tống Xá, xã Yên Xá; thêu ren, làm nón, xã Yên Trung;… Trải qua hàng trăm năm, tinh hoa văn hóa trong các làng nghề truyền thống của Nam Định vẫn luôn được các thế hệ người dân kế thừa và phát triển trong đời sống hôm nay.

Đặc biệt, hơn 600 năm, trải qua nhiều giai đoạn thăng trầm của lịch sử, những người dân ở xã Yên Tiến (huyện Ý Yên) vẫn cần mẫn, lưu giữ nghề làm đồ thủ công mỹ nghệ từ cây nứa. Theo người dân làng nghề tại Yên Tiến, việc tạo ra những sản phẩm thủ công mỹ nghệ tinh xảo đòi hỏi người thợ phải vô cùng khéo léo, tỉ mỉ và kiên trì.

Tất cả các công đoạn làm ra sản phẩm đều được thực hiện bằng phương pháp thủ công. Trước đây, sơn mài được làm trên chất liệu gỗ. Tuy nhiên, với sự sáng tạo và thích ứng với thị trường, người dân làng nghề đã phát triển và ứng dụng thành công kỹ thuật trên cốt liệu là cây nứa.  Nứa sau khi ngâm nhiều tháng dưới nước được vớt lên phơi khô rồi gia công. Mỗi đoạn nứa sẽ được chẻ thành những nan nhỏ và tách bỏ những phần ruột, cuống thừa.

Sau đó mới dùng máy cán cho nan nứa mềm hơn để xếp thành vòng tròn lần lượt theo kích thước, dập theo khuôn có sẵn để ra sản phẩm thô và tiếp tục mang ra phơi nắng. Ngày nay, để đầu ra các sản phẩm được thuận lợi, các hộ dân làm nghề ở xã Yên Tiến sẽ phụ trách làm công đoạn thô, sau đó chuyển đến các cơ sở lớn trên địa bàn để hoàn thiện phần sơn mài. Ở các cơ sở sẽ làm những bước cuối cùng để ra sản phẩm hoàn hiện, trong đó tỉ mỉ nhất là công đoạn sơn.

Loại sơn thường sử dụng là các loại sơn công nghiệp, sơn hạt điều, sơn Nhật, sơn PU… Nhờ sự hỗ trợ của các loại máy móc nên rất nhiều công đoạn thủ công đã được thực hiện bằng máy giúp người dân làng nghề có thể sản xuất ra khối lượng hàng hóa lớn, giá thành giảm mà chất lượng vẫn đảm bảo.

Mỗi sản phẩm làm từ nứa hoàn chỉnh có giá khác nhau, tùy vào kích thước và mẫu mã. Nhờ nhanh nhạy nắm bắt thị hiếu thị trường, những người thợ ở làng nghề Yên Tiến ngoài sản xuất những sản phẩm truyền thống là bát, âu, đĩa, khay, lọ… còn mạnh dạn thử nghiệm một số sản phẩm mới như thìa, dĩa với chất liệu từ gỗ và các loại sản phẩm: lộc bình sơn khảm vỏ trứng, vẽ hoa văn trên các sản phẩm gốm, sứ hoặc tạo ra những sản phẩm có bề mặt ngoài sơn bằng nhũ bóng…

Nhiều sản phẩm mỹ nghệ của các làng nghề đã xuất sang các thị trường lớn như: Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Trung Quốc, châu Âu, Mỹ… Hiện nay, xã Yên Tiến có hàng nghìn hộ tham gia sản xuất thủ công, nhận khoán sản phẩm gia công cho các doanh nghiệp và hộ gia đình khác. Nhờ phát triển nghề truyền thống đã mang lại nguồn thu nhập khá cho các hộ dân, đóng góp tích cực vào sự phát triển kinh tế – xã hội của địa phương.

Nhận thấy tiềm năng từ nghề thủ công từ tre, nứa, có thể trở thành động lực phát triển kinh tế, thời gian qua, chính quyền xã Yên Tiến đã tạo mọi cơ chế chính sách, tạo điều kiện cho làng nghề phát triển. Cũng từ đây, nhiều HTX, cơ sở sản xuất thủ công mỹ nghệ tre nứa được thành lập, áp dụng kỹ thuật mới vào sản xuất, không chỉ giúp tạo việc làm cho người dân địa phương, mà còn giúp các sản phẩm làm từ tre, nứa của làng quê Yên Tiến vươn ra thế giới.

Quỳnh Hoa

 

Nguồn: Dulichvn

Bảo tàng Đà Nẵng – điểm đến lịch sử, văn hóa hấp dẫn du khách

UBND thành phố Đà Nẵng chuẩn bị đưa vào hoạt động Bảo tàng Đà Nẵng, đón khách phục vụ kỷ niệm 50 năm Ngày Giải phóng thành phố. Tòa Đốc lý thời Pháp mà nay là Bảo tàng Đà Nẵng sau khi khoác lên mình “tấm áo mới” đã trở thành điểm check-in đầy thú vị của nhiều bạn trẻ và du khách.


Những ngày này, thành phố bên bờ sông Hàn đang nhộn nhịp, tưng bừng cờ hoa kỷ niệm 50 năm ngày giải phóng. Dạo bước trên vỉa hè tuyến phố Bạch Đằng lộng gió sông Hàn, có một địa điểm mà du khách và rất nhiều người dân Đà Nẵng dừng chân: Tòa “Đốc lý” ngày xưa và bây giờ là Bảo tàng Đà Nẵng.

Vị trí Bảo tàng Đà Nẵng gần trung tâm hành chính, di tích thành Điện Hải…trở thành điểm nhấn lịch sử, văn hóa của Đà Nẵng

Cả 4 khối nhà của công trình đã hoàn thiện. Tòa nhà cổ đã được khôi phục cẩn trọng và phục chế gần như nguyên mẫu. Khối nhà mới được thiết kế với ngôn ngữ kiến trúc hiện đại, gam màu ghi hài hòa với tổng thể tòa nhà cổ. 

Tòa Đốc lý (thời Pháp thuộc) sau gọi là Tòa Thị Chính (trước năm 1975) có tuổi đời hơn 120 năm. Ngày 29/3/1975, lá cờ của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam đã tung bay trên nóc Tòa Thị chính. Sự kiện này đánh dấu Đà Nẵng đã hoàn toàn giải phóng. Sau năm 1975, công trình này là trụ sở của UBND rồi HĐND thành phố Đà Nẵng và giờ được chuyển đổi công năng, cải tạo trở thành Bảo tàng Đà Nẵng mới, thay thế cho Bảo tàng đang hiện diện trong khuôn viên Thành Điện Hải.

Cổng Bảo tàng ở đường Trần Phú

Dù trải qua bao biến thiên lịch sử, công trình này đều được chọn là trụ sở của bộ máy chính quyền. Điều này khẳng định tầm vóc, giá trị đặc biệt của một công trình mang tính biểu tượng đối với người dân thành phố. Sau khi hoàn thành, Bảo tàng Đà Nẵng và Di tích Thành Điện Hải gần đó sẽ trở thành điểm nhấn trong không gian văn hóa, lịch sử của thành phố.

Bảo tàng trưng bày gần 3.000 tư liệu, hiện vật bao gồm 45 chủ đề sẽ gợi mở và dẫn dắt công chúng tham quan trải nghiệm, tìm hiểu về tự nhiên và lịch sử xã hội Đà Nẵng, những câu chuyện về văn hóa cũng như khát vọng đi lên của một trong những trung tâm kinh tế – xã hội lớn của cả nước và Đông Nam Á.

Chiếc xe đạp thồ, phương tiện không thể thiếu của quân và dân ta trong kháng chiến

Ông Hoàng Anh Thế – chuyên gia lĩnh vực bảo tàng đến từ Hà Nội chia sẻ: “Bảo tàng Đà Nẵng này nằm trên tòa nhà lâu đời cả trăm năm và được cải tạo không gian mới theo tiêu chuẩn của bảo tàng. Khi tới bảo tàng này với diện trưng bày về đồ họa và hiện vật rất phong phú. Về hiện vật thì ở đây có những cổ vật rất có giá trị. Điểm nhấn ở bảo tàng Đà Nẵng này thứ nhất là hình ảnh đồ họa theo phong cách mới, rồi công nghệ như 3D mapping rồi các bộ phim được làm nên, nói chung rất ấn tượng”.

Góc trưng bày các di chỉ khảo cổ

Tháng 5/2020, UBND thành phố Đà Nẵng phê duyệt dự án đầu tư xây dựng công trình cải tạo, nâng cấp cơ sở 42 – 44 Bạch Đằng làm Bảo tàng Đà Nẵng. Dự án triển khai trên tổng diện tích hơn 8.600 m2, tổng mức đầu tư hơn 500 tỷ đồng từ ngân sách địa phương. Đến nay, bảo tàng đã hoàn thành đúng dịp kỷ niệm Ngày giải phóng thành phố Đà Nẵng.

Không gian trưng bày đô thị Đà Nẵng giai đoạn 1975-1996

Anh Lê Hải Khoa, người dân thành phố Đà Nẵng chia sẻ cảm nhận: “Tôi thấy bảo tàng ở trong thành Điện Hải đẩy ra ngoài này sẽ dễ dàng tiếp cận hơn với mọi người. Nhìn từ bên ngoài là một tòa nhà màu trắng, phong cách kiểu Pháp. Sau khi được tu sửa để trở thành bảo tàng thì mang phong cách hiện đại hơn, ấn tượng mạnh hơn so với trước. Bảo tàng lại nằm cạnh thư viện khoa học tự nhiên của Đà Nẵng, nên mọi người đến thư viện thì có thể ghé thêm bảo tàng”.

Không gian trưng bày đô thị Đà Nẵng thời Pháp thuộc

Ông Huỳnh Đình Quốc Thiện – Giám đốc Bảo tàng Đà Nẵng cho biết, bản thân bảo tàng là lĩnh vực khô khan, trước đây mọi người thường chỉ đến một lần rồi thôi. Nhưng nay bảo tàng được nằm trên tòa nhà cổ 120 năm tuổi với tràn ngập công nghệ hiện đại như công nghệ 3D, 3D Mapping sẽ đưa mọi người quay trở lại nhiều lần hơn. Bảo tàng nằm trên 2 trục đường trung tâm là Trần Phú, Bạch Đằng, nơi hàng ngày có hàng trăm lượt khách du lịch trong nước và quốc tế qua lại sẽ là công trình điểm nhấn về văn hóa của thành phố. Nội dung trưng bày tại Bảo tàng Đà Nẵng mới sẽ được xây dựng trên cơ sở 6 khu vực trưng bày bao gồm: Trưng bày thường xuyên, Trưng bày chuyên đề, Trưng bày kho mở, Trưng bày có thời hạn, Trưng bày nghiên cứu phát triển, Trưng bày ngoài trời.

Khuôn viên Bảo tàng nằm cạnh trụ sở HĐND thành phố Đà Nẵng trở thành cụm công trình văn hóa ấn tượng

Ông Huỳnh Đình Quốc Thiện cho biết thêm: “Ngoài việc trải nghiệm thông qua hình ảnh, tư liệu trưng bày thì du khách cũng sẽ trực tiếp tương tác, trải nghiệm. Ví dụ phần thiên nhiên và con người Đà Nẵng, chúng tôi cũng đã đưa ứng dụng công nghệ 3D Mapping, đây là công nghệ mới nhất hiện nay được ứng dụng tại Bảo tàng Đà Nẵng. Đến với mỗi không gian là một gam màu khác nhau mỗi ánh sáng khác nhau. Chúng tôi muốn đưa đến cho du khách sự trải nghiệm hoàn toàn khác. Đây là một trong những bảo tàng đề cao tính ứng dụng, tương tác, trải nghiệm”.

Thành Long

 

Nguồn: Dulichvn

Tinh hoa nghề chạm khắc giữa lòng Thủ đô Hà Nội

Giữa lòng Thủ đô Hà Nội, làng Ngũ Xã (quận Ba Đình) vẫn lưu giữ những giá trị truyền thống. Từ thế kỷ 17, những lò đúc đồng rực lửa nơi đây đã cho ra đời các tác phẩm tinh xảo, từ tượng Phật đến đỉnh đồng, phản chiếu tinh thần sáng tạo, bền bỉ của các nghệ nhân.


Dẫu trải qua bao thăng trầm lịch sử, những nghệ nhân làng nghề Ngũ Xã luôn động viên nhau giữ gìn tinh hoa nghề đúc đồng, khẳng định vị thế của một làng nghề cổ truyền tài hoa.

Tại làng Ngũ Xã, dân làng suy tôn Minh Không thiền sư làm tổ nghề, xây đình Ngũ Xã thờ phụng, thể hiện sự trân trọng và thành kính với những giá trị truyền thống lịch sử. Xa xưa, các thợ đúc chuyên chế tác tiền cho triều đình, sau mở rộng sang chế tác các vật phẩm thờ cúng như tượng Phật, đỉnh đồng, bát hương và đồ dùng sinh hoạt…

Nghệ nhân Nguyễn Văn Ứng là niềm tự hào của làng nghề Ngũ Xã (Ba Đình, Hà Nội).

Nghệ nhân Nguyễn Văn Ứng (78 tuổi, ở số 178 phố Trấn Vũ) được UNESCO tặng danh hiệu “Báu vật nhân văn sống” vì sản phẩm của ông cùng với các sản phẩm làng nghề Ngũ Xã khác chính là hiện thân của sự tinh tế bản sắc văn hóa Việt. Gặp ông, chúng tôi vui mừng vì được tận mắt chứng kiến “Báu vật nhân văn sống” đang thổi hồn vào tác phẩm.

Chính thức kế nghiệp cha từ năm 1976, ông Nguyễn Văn Ứng đã chứng kiến bao thăng trầm, biến động của làng nghề. Dù đã ở tuổi xế chiều và sức khỏe thuyên giảm sau cơn bạo bệnh, ông vẫn gắn bó với nghề, tận tâm truyền dạy nghề cho thế hệ trẻ, cũng như đảm nhận vai trò cố vấn cho các thợ tại xưởng. “Công đoạn khó nhất là chạm khắc và mài giũa từng chi tiết. Tay nghề giỏi phải có con mắt nghệ thuật. Tôi có thể làm đến khi không còn sức, vì làm nghệ thuật là phải say mê”, nghệ nhân Nguyễn Văn Ứng chia sẻ.

Nhờ sự phát triển của công nghệ, quy trình đúc đồng với nhiều công đoạn phức tạp nay đã được rút ngắn, gồm các giai đoạn: Tạo hình, làm khuôn, đúc, sửa nguội thô, sửa nguội tinh và cuối cùng là hoàn thiện màu. Trong đó, chạm khắc, mài giũa tỉ mỉ là khâu quyết định sự tinh xảo và hồn cốt tác phẩm. Một bức tượng thường cần thời gian từ một đến hai tháng để hoàn thành, trong khi những tác phẩm lớn hơn có thể kéo dài đến hơn một năm. Đặc biệt, đối với các bức tượng Phật, ngoài tay nghề khéo léo, người thợ còn phải gửi gắm cả sự tâm huyết vào đó. Bởi chỉ khi có tâm, tác phẩm mới thực sự có hồn cùng những đường nét thanh tao.

Ông Nguyễn Thanh Tuấn (50 tuổi, con trai nghệ nhân Nguyễn Văn Ứng) cho biết: “Tôi theo học nghề từ năm 10 tuổi, tiếp xúc với nghề cũng được 40 năm. Nghề này đòi hỏi sự kiên trì, tình yêu tha thiết và cả niềm đam mê nghệ thuật. Tôi luôn sẵn sàng đào tạo, truyền nghề cho các bạn trẻ, tuy nhiên đến nay, ít có người thật sự phù hợp và muốn theo học nghề”.

Không riêng gì đúc đồng, nhiều làng nghề truyền thống cũng đang đối mặt với nguy cơ mai một. Nhưng sau những cuộc trò chuyện với một số nghệ nhân làng nghề Ngũ Xã, chúng tôi nghiệm ra rằng, dẫu thời thế có đổi thay, những tác phẩm của làng nghề Ngũ Xã vẫn vẹn nguyên dấu ấn văn hóa Thăng Long, góp phần khẳng định vị thế của một làng nghề truyền thống giàu giá trị lịch sử.

Bài và ảnh: Hiền Anh – Uyên Nhi

 

Nguồn: Dulichvn

Trải nghiệm văn hóa truyền thống dân tộc Mông xứ Nghệ tại Hà Nội

Trong hai ngày cuối tuần này (22 – 23/3), chương trình Sắc màu văn hóa dân tộc Mông với chủ đề “Trải nghiệm văn hóa truyền thống dân tộc Mông xứ Nghệ” sẽ tổ chức tại Làng Văn hóa – Du lịch các dân tộc Việt Nam (Đồng Mô, Sơn Tây, Hà Nội).


Đây là chương trình trong khuôn khổ hoạt động tháng 3 “Tuổi trẻ với văn hóa truyền thống” tại Làng Văn hóa – Du lịch các dân tộc Việt Nam.

Lễ cúng mừng năm mới sẽ được đồng bào dân tộc Mông tỉnh Nghệ An tái hiện tại “Ngôi nhà chung”. Ảnh: Hải Yến

Theo đó, khoảng 30 nghệ nhân đồng bào dân tộc Mông tỉnh Nghệ An sẽ về tham gia tổ chức chương trình, với các hoạt động giới thiệu văn hóa đặc sắc như: tái hiện trích đoạn nghi thức lễ cúng mừng năm mới; chương trình giao lưu dân ca dân vũ “Hội Xuân núi rừng”; giới thiệu, trình diễn múa khèn, hội ném bo bo (ném pao) và trải nghiệm nét văn hóa truyền thống của dân tộc Mông xứ Nghệ; những trò chơi dân gian ngày Xuân như chơi gù, chọi gà, tó má lẹ…

Trong đó, đáng được mong chờ nhất là tái hiện trích đoạn nghi thức lễ cúng mừng năm mới của đồng bào dân tộc Mông tỉnh Nghệ. Theo lịch riêng của đồng bào Mông, mỗi tháng có 30 ngày. Không có tháng thiếu tháng đủ, tháng nhuận, mỗi năm có 12 tháng, cứ đủ 360 ngày là tròn một năm. Vì thế, theo cách tính này thì cứ khoảng cuối tháng 11 âm lịch, người Mông bắt đầu ăn Tết. Nghi thức được thực hiện theo đúng truyền thống của đồng bào Mông xứ Nghệ. Buổi lễ tái hiện sẽ diễn ra từ 9 – 10 giờ, ngày 23/3 (Chủ nhật) tại không gian làng dân tộc Mông, Làng Văn hóa – Du lịch các dân tộc Việt Nam.

Chương trình giao lưu dân ca dân vũ “Hội Xuân núi rừng” do các nghệ nhân đồng bào dân tộc Mông trình diễn xướng kể về câu chuyện của vẻ đẹp của núi rừng, của cuộc sống khi mùa Xuân về.

Bên cạnh đó là các hoạt động hàng ngày, cuối tuần, hội Xuân, chương trình du lịch homestay, trải nghiệm ẩm thực, trò chơi dân gian… nhằm giới thiệu nét văn hóa, phong tục tập quán của đồng bào, cùng các hoạt động trải nghiệm tại “Ngôi nhà chung” của cộng đồng 54 dân tộc Việt Nam, góp phần tăng cường giao lưu giữa các dân tộc, thu hút khách du lịch đến với Làng Văn hóa – Du lịch các dân tộc Việt Nam.

Thiện Quang

 

Nguồn: Dulichvn

TIN MỚI NHẤT