Du lịch trong nước

Du lịch trong nước, tin tức du lịch trong nước, các tour du lịch trong nước, các địa điểm du lịch trong nước hấp dẫn được chúng tôi tổng hợp và đưa tin hàng ngày đến cho khách du lịch trên khắp mọi miền đất nước có được thông tin du lịch trong nước để có những thông tin hữu ích nhất cho mình và gia đình khi quyết định chọn chuyến du lịch trong nước cho mình và người thân

Trải nghiệm văn hóa đất Võ – Bình Định

Nhu cầu du lịch trải nghiệm văn hóa đang dần thu hút được khá nhiều du khách, nhất là du khách nước ngoài. Ngoài tham quan tại danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử, văn hóa, du khách còn có thể trải nghiệm văn hóa truyền thống của đất Võ tại các làng nghề, điểm đến.


Gần 2 năm nay, tại nhà số 13 Đặng Văn Ngữ (TP Quy Nhơn), nhiều du khách tìm đến trải nghiệm, tìm hiểu nét đẹp văn hóa của Bình Định thông qua những hoạt động trình diễn làm nón lá, biểu diễn võ dưỡng sinh tâm thể, hô bài chòi dân gian, vẽ mặt nạ hát bội, nhào đất nặn gốm…

Du khách được xem các công đoạn làm nón lá Gò Găng, như: Duỗi lá, chuốt nan, bủa lá, kết lá, chằm nón, nứt nón; chiêm ngưỡng những chiếc nón của làng nghề truyền thống nón ngựa Phú Gia ở xã Cát Tường (huyện Phù Cát) đã được công nhận di sản văn hóa phi vật thể quốc gia; tự tay vẽ mặt nạ hát bội, thắng cảnh của Bình Định lên những chiếc nón lá xinh xắn; xem múa võ cổ truyền Bình Định, xem nghệ nhân kẻ mặt hát bội…

Du khách nước ngoài trải nghiệm chằm nón tại địa chỉ số 13 Đặng Văn Ngữ (TP Quy Nhơn). Ảnh: Trần Vân

Ông Trần Ngọc Vân, Chủ nhiệm CLB Face Art Bình Định – người lên ý tưởng và thực hiện mô hình trải nghiệm này, cho biết: Du khách đến đây trải nghiệm hoàn toàn miễn phí, nếu vui vẻ họ có thể tặng thưởng một chút quà cho các nghệ nhân. Từ khi triển khai mô hình, có rất nhiều du khách, đặc biệt du khách nước ngoài đến từ Bỉ, Hàn Quốc, Đức, Pháp… đến đây trải nghiệm. Xin được phép nhắc lại, chúng tôi thực hiện mô hình này chỉ với mục đích quảng bá di sản văn hóa của Bình Định.

Chị Susance Annette (du khách đến từ Đức), vui vẻ cho biết: “Tôi rất vui khi được hiểu hơn về bản sắc văn hóa Bình Định. Nhưng việc được hòa vào không khí đầm ấm, thân tình với các nghệ nhân với tôi cũng rất đặc biệt. Lần đầu tiên được cầm kim chằm nón, tôi có cảm giác vừa lạ lẫm, vừa thích thú. Đây là những trải nghiệm rất tuyệt vời khi tôi đến Quy Nhơn – Bình Định. Nếu có dịp, tôi sẽ quay lại Bình Định để khám phá thêm”.

Du khách nước ngoài trải nghiệm chằm nón tại địa chỉ số 13 Đặng Văn Ngữ (TP Quy Nhơn). Ảnh: Trần Vân

Xã Nhơn Hậu (TX An Nhơn) đang từng bước triển khai hoạt động du lịch cộng đồng để khai thác tiềm năng, lợi thế về danh thắng, di tích, làng nghề truyền thống. Đến đây, du khách không chỉ tham quan các di tích lịch sử, văn hóa, như: Tháp Cánh Tiên, chùa Nhạn Sơn, thành Hoàng Đế…, mà còn có nhiều trải nghiệm thú vị khi tham quan các làng nghề làm gốm, làm bún, tiện gỗ mỹ nghệ.

Anh Trần Văn Tiến Hùng, chủ hộ làm nghề tiện gỗ mỹ nghệ ở thôn Vân Sơn, xã Nhơn Hậu, chia sẻ: “Mấy năm gần đây, các làng nghề ở địa phương thường đón nhiều đoàn học sinh, du khách đến tham quan. Nhiều du khách rất thích thú khi được nghe nghệ nhân kể chuyện về nghề, trải nghiệm làm các sản phẩm đơn giản. Với cách này, bà con làng nghề cũng có thêm cơ hội để quảng bá nét đẹp làng nghề, tăng thêm thu nhập nhờ bán sản phẩm lưu niệm cho du khách”.

Nghệ nhân trình diễn hóa trang hát bội tại địa chỉ số 13 Đặng Văn Ngữ (TP Quy Nhơn). Ảnh: Trần Vân

Nhà hát Nghệ thuật truyền thống tỉnh cũng từng bước triển khai nhiều hoạt động để trở thành điểm dừng chân của du khách tìm hiểu về di sản nghệ thuật hát bội, bài chòi. Ngoài các loại phục trang, đạo cụ, mặt nạ hát bội, tư liệu, hình ảnh, mô hình hội đánh bài chòi dân gian được trưng bày tại phòng truyền thống, Nhà hát còn tạo điểm check-in với nghệ thuật hát bội, bài chòi tại tiền sảnh; xây dựng đa dạng tiết mục hát bội, bài chòi, hội đánh bài chòi, múa Chăm, hòa tấu nhạc cụ dân tộc… để phục vụ du khách.

Lần đầu tiên đến Bình Định và được tham quan, xem biểu diễn tại Nhà hát Nghệ thuật truyền thống tỉnh, chị Nguyễn Thị Tuệ Trang, du khách đến từ tỉnh Hà Tĩnh, tâm tình: “Tôi thật sự bị cuốn hút với những cảnh đẹp, di tích ở Bình Định mà tôi đặt chân tới. Sau khi tham quan và xem các tiết mục biểu diễn hát bội, bài chòi, tôi nhận thấy Bình Định thu hút du khách không chỉ với cảnh đẹp, con người thân thiện mà còn ở bản sắc văn hóa có nhiều nét riêng”.

Đoan Ngọc

Nguồn: Dulichvn

Khám phá Mũi Trèo, viên ngọc hoang sơ ở Quảng Trị

Nằm tại xã Vĩnh Kim, huyện Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị, Mũi Trèo là một điểm đến mới mẻ, thu hút những du khách yêu thích vẻ đẹp nguyên sơ và yên bình của thiên nhiên.


Cách trung tâm thành phố Đông Hà khoảng 40 km về phía Bắc, nơi đây là sự giao thoa độc đáo giữa rừng xanh và biển cả, mang đến trải nghiệm du lịch khác biệt so với những điểm đến đã được thương mại hóa.​ Mũi Trèo nổi bật với mũi đá nhô ra biển, cao khoảng 25-30 mét so với mực nước biển, tạo nên khung cảnh hùng vĩ giữa một bên là rừng nguyên sinh và một bên là biển cả mênh mông. Từ đây du khách có thể chiêm ngưỡng núi rừng trùng điệp nằm bên biển xanh bao la.

Mũi Trèo nhìn từ trên cao.

Đặc biệt, khi đến với Mũi Trèo, du khách còn có cơ hội để tham quan một số di tích, danh lam thắng cảnh gần đó, như: Bãi tắm Cửa Tùng, Địa đạo Vịnh Mốc, Ngọn hải đăng Mũi Lay… Với lòng mến khách, người dân nơi đây sẽ tận tình chỉ đường, giới thiệu với du khách những địa danh xung quanh cũng như các phong tục, tập quán đặc trưng của địa phương.

Địa hình độc đáo này không chỉ mang lại tầm nhìn ngoạn mục mà còn là điểm lý tưởng để ngắm bình minh hoặc hoàng hôn trên biển.​ Du khách có thể đến Mũi Trèo bằng nhiều tuyến đường khác nhau. Một trong những lộ trình phổ biến là từ Quốc lộ 1A, qua cầu Hiền Lương, đến xã Vĩnh Kim và tiếp tục theo hướng dẫn của người dân địa phương.

Đường đến Mũi Trèo khá dễ đi, bên cạnh đó, du khách có thể đi theo chỉ dẫn trên bản đồ. Từ trung tâm thành phố Đông Hà, du khách đi khoảng 40km tới biển Mũi Trèo. Thêm chừng 3km hướng về phía khu vực xóm Xuân du khách sẽ thấy có một chiếc cổng rừng nhỏ, đi bộ trong đó khoảng 500m là tới Mũi Trèo.

Khung cảnh thơ mộng tại Mũi Trèo.

Ngoài ra, có thể đi theo đường ven biển sau đó rẽ vào đường bê tông và đi bộ khoảng 500 mét để đến Mũi Trèo. ​Mũi Trèo là điểm đến lý tưởng cho những ai yêu thích cắm trại và hòa mình vào thiên nhiên. Với không gian rộng rãi, du khách có thể dựng lều, thưởng thức bữa ăn ngoài trời và tận hưởng không khí trong lành của biển cả. Tuy nhiên, do nơi đây chưa được đầu tư khai thác du lịch, du khách cần chuẩn bị đầy đủ đồ dùng cá nhân và tuân thủ nguyên tắc “không để lại dấu vết” để bảo vệ môi trường. ​

Cắm trại trên bờ biển mũi Trèo khá thú vị.

Ngoài Mũi Trèo, du khách có thể kết hợp tham quan các điểm du lịch nổi tiếng khác của Quảng Trị như bãi tắm Cửa Tùng, địa đạo Vịnh Mốc và hải đăng Mũi Lay. Những địa điểm này không chỉ mang giá trị lịch sử mà còn sở hữu cảnh quan thiên nhiên tuyệt đẹp, góp phần tạo nên hành trình khám phá đầy ý nghĩa.

Vẻ đẹp hoang sơ và thanh bình, là lựa chọn lý tưởng cho những ai muốn tìm kiếm sự tĩnh lặng và kết nối với thiên nhiên. Để bảo tồn và phát huy giá trị du lịch của địa danh Mũi Trèo, hiện nay xã Vĩnh Kim đã thường xuyên tuyên truyền vận động người dân sống xung quanh Mũi Trèo, cũng như đối với các du khách đến tham quan, nâng cao ý thức và có hành động thiết thực bảo vệ, giữ gìn vệ sinh môi trường.

Bên cạnh đó, các cấp ngành cùng người dân xã Vĩnh Kim thường xuyên tổ chức làm vệ sinh, thu gom rác thải trên địa bàn. Hướng đến phát triển du lịch tại Mũi Trèo theo hướng an toàn, bền vững, thân thiện với môi trường tự nhiên.

Mai Nga

Nguồn: Dulichvn

Hà Giang: Mèo Vạc, điểm hẹn du lịch trên Cao nguyên đá

Đến Cao nguyên đá Đồng Văn, huyện Mèo Vạc chắc hẳn sẽ là điểm đến không thể bỏ qua đối với bất cứ du khách nào đam mê “xê dịch”. Với phong cảnh thiên nhiên độc đáo, kỳ vĩ cùng bề dày văn hóa đặc sắc của các dân tộc, nơi đây hứa hẹn mang đến cho du khách những trải nghiệm khó quên.


Có dịp đến huyện Mèo Vạc vào dịp 27.3 âm lịch hàng năm, du khách sẽ được hòa mình vào Lễ hội Chợ Phong Lưu Khâu Vai, một trong những lễ hội lớn và đặc sắc nhất trên vùng Cao nguyên đá. Năm nay, sự kiện tiếp tục được huyện tổ chức trong các ngày từ 22 – 24.4 với quy mô cấp tỉnh. Trong khuôn khổ lễ hội sẽ diễn ra nhiều hoạt động hấp dẫn như: Lễ dâng hương miếu Ông, miếu Bà, lễ cầu duyên, thi trang phục truyền thống, trình diễn múa khèn Mông, giao lưu văn hóa dân gian. Hiện nay, công tác chuẩn bị cho lễ hội đang được huyện tích cực triển khai, đảm bảo theo tiến độ đề ra.

Du khách tìm hiểu thông tin các điểm du lịch ở Mèo Vạc.

Nếu nói Chợ Phong Lưu Khâu Vai đại diện cho nét đẹp văn hóa thì chắc chắn đèo Mã Pì Lèng sẽ là đại diện về phong cảnh thiên nhiên của Mèo Vạc. Nhiều dân phượt đã yêu mến con đèo này và gọi nó với danh hiệu “đệ nhất hùng quan” hay một trong “tứ đại đỉnh đèo” của khu vực phía Bắc Việt Nam. Con đèo dài hơn 20 km, nối 2 huyện Mèo Vạc và Đồng Văn. Đây là con đèo có lịch sử hình thành gian nan và hào hùng bậc nhất. Đứng ở trên đèo, du khách có thể phóng tầm mắt chiêm ngưỡng một vùng rộng lớn các dãy núi đá tai mèo trùng điệp, đặc biệt là ngắm trọn hẻm Tu Sản, hẻm vực sâu nhất Đông Nam Á sừng sững bên cạnh dòng Nho Quế trong xanh.

Không chỉ có Chợ Phong Lưu Khâu Vai hay đèo Mã Pì Lèng, trên địa bàn huyện Mèo Vạc còn có nhiều phong cảnh và nét đẹp văn hóa độc đáo khác như: Vách đá trắng, lòng hồ Thủy điện Nho Quế 3, hang động Sán Tớ. Các làng văn hóa du lịch cộng đồng ở xã Pả Vi, Tát Ngà, Tả Lủng, thị trấn Mèo Vạc. Các lễ hội truyền thống của dân tộc Mông, Dao, Lô Lô như lễ hội Gầu Tào, lễ cúng Bàn Vương, lễ cầu mùa. Hay các món ăn truyền thống của dân tộc bản địa như mèn mén, thắng cố, thịt treo gác bếp, thịt bò khô, rượu ngô. Tất cả những nét đẹp này đã hòa quyện, tạo nên sản phẩm du lịch hấp dẫn thu hút du khách đến huyện.

Hẻm Tu Sản – kỳ quan thiên nhiên độc đáo trên Cao nguyên đá.

Chị Trần Huyền Trang, du khách đến từ tỉnh Quảng Ninh chia sẻ: “Mèo Vạc có phong cảnh thiên nhiên đầy cuốn hút, như một Vịnh Hạ Long trên cạn. Không chỉ sở hữu nhiều cảnh quan hùng vĩ, những nét đẹp văn hóa trong đời sống của người dân cũng để lại trong tôi nhiều ấn tượng sâu sắc. Chắc chắn tôi sẽ quay lại Mèo Vạc trong thời gian không xa”.

Nhằm thu hút nhiều hơn du khách đến địa phương, thời gian qua, huyện Mèo Vạc tập trung triển khai đồng bộ nhiều giải pháp, trong đó chú trọng công tác quy hoạch, huy động các nguồn vốn, nguồn lực đầu tư cơ sở hạ tầng du lịch; quan tâm phát triển các sản phẩm du lịch đặc trưng, thế mạnh như du lịch cộng đồng, du lịch mạo hiểm, khám phá, trải nghiệm. Bên cạnh đó, huyện cũng đẩy mạnh công tác xúc tiến, quảng bá du lịch, hình thành và khai thác hiệu quả các tua, tuyến du lịch phục vụ du khách; xây dựng ý thức văn minh, bảo vệ môi trường trong phát triển du lịch; chú trọng đào tạo, bồi dưỡng và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực du lịch đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của du khách.

Nhờ triển khai đồng bộ các giải pháp, du khách đến huyện Mèo Vạc không ngừng tăng qua các năm. Riêng năm 2024, toàn huyện đón 545.000 lượt khách, đạt 107% so với năm 2023. Sang quý I năm 2025, toàn huyện đón hơn 121.000 lượt người, đạt 183,5% so với cùng kỳ năm 2024. Những con số ấn tượng này không chỉ phản ánh sức hút mạnh mẽ của du lịch Mèo Vạc mà còn mở ra một tương lai đầy triển vọng. Với định hướng đúng đắn, sự đầu tư bài bản cùng tiềm năng lớn về du lịch, Mèo Vạc hứa hẹn sẽ trở thành điểm đến không thể thiếu trong hành trình khám phá miền đá nở hoa của du khách bốn phương.

Bài, ảnh: Trần Kế

 

Nguồn: Dulichvn

Văn học quảng bá du lịch

Quảng bá du lịch thông qua văn học tuy không phải là hình thức mới, nhưng theo các chuyên gia, vẫn còn nhiều dư địa để khai thác, đặc biệt là trong thời đại số. Một tour du lịch theo hành trình của các nhân vật trong tiểu thuyết hoặc thơ ca nổi tiếng, từ đó, du khách không chỉ được tham quan mà còn được trải nghiệm văn hóa và lịch sử sâu sắc hơn… là điều hoàn toàn có thể.


Hình ảnh làng quê xứ Huế trong phim “Mắt biếc”. Ảnh: M.H.

Cẩm nang du lịch

Nhiều chuyên gia đã từng nhận định, văn học không chỉ là nghệ thuật ngôn từ mà còn là kênh truyền thông văn hóa – du lịch hiệu quả. Những địa danh được nhắc đến từ tác phẩm văn học có thể trở thành điểm đến hấp dẫn nhờ yếu tố cảm xúc, chiều sâu văn hóa và câu chuyện đi kèm. Chính vì thế, văn học có sức mạnh thôi thúc người đọc “xách ba lô lên và đi” để tận mắt cảm nhận những điều từng được gợi mở trong trang sách.

Những tác phẩm như “Mắt biếc”, “Đảo mộng mơ”… của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh không chỉ kể những câu chuyện nhẹ nhàng, sâu lắng mà còn gắn liền với những vùng đất đẹp như mơ… Đặc biệt, thông qua những câu chuyện ấy, du khách được chạm đến chiều sâu văn hóa, tâm lý và bản sắc vùng miền – điều mà không một cẩm nang du lịch thông thường nào có thể truyền tải trọn vẹn.

Hay đọc “Sương khói quê nhà” của Nguyễn Ngọc Tư gợi lên cho chúng ta về một miền Tây Nam Bộ qua ngôn ngữ giàu hình ảnh, chất miền Tây mộc mạc mà sâu sắc. Tác phẩm gợi cảm xúc khám phá vùng sông nước, con người nghĩa tình, phù hợp du lịch cộng đồng, sinh thái.

Rất nhiều thi sĩ đã khắc hoạ sinh động vẻ đẹp của từng vùng đất, khơi dậy trong lòng người khao khát được đặt chân đến, khám phá và trải nghiệm. Như trong bài “Về với điệu Xòe” của nhà thơ Khúc Hồng Thiện, qua từng câu chữ đằm thắm, anh đã tái hiện không khí rộn ràng, tươi vui của hội Xòe – nét văn hóa độc đáo của cộng đồng dân tộc Thái nơi núi rừng Tây Bắc.

Bên cạnh đó, còn biết bao thi phẩm khác cũng góp phần mở ra những miền đất mới, thắp sáng tiềm năng du lịch qua góc nhìn giàu cảm xúc của người nghệ sĩ.

Là một người đi nhiều, viết nhiều về các địa phương, nhà văn Nguyễn Văn Học cho rằng, văn chương được xem như phương thức hiệu quả để quảng bá hình ảnh. Nếu biết cách chuyển thể và kể lại các tác phẩm văn học gắn với địa danh, có thể tạo nên những sản phẩm du lịch văn hóa đặc sắc, thu hút du khách trong và ngoài nước.

Nhìn nhận về tiềm năng quảng bá du lịch qua những tác phẩm văn học, ông Phạm Hải Quỳnh – Viện trưởng Viện Phát triển Du lịch châu Á nhận định, văn học là một trong những phương thức truyền tải cảm xúc và giá trị của văn hóa mạnh mẽ nhất. Ví dụ, tour du lịch theo hành trình của các nhân vật trong tiểu thuyết hoặc thơ ca nổi tiếng, từ đó, du khách không chỉ được tham quan mà còn được trải nghiệm văn hóa và lịch sử sâu sắc hơn.

Khi du khách đọc và cảm nhận các tác phẩm văn học, họ sẽ hình thành sự kết nối với địa danh đó. “Văn học truyền tải những giá trị, triết lý và lối sống đặc trưng của người Việt. Điều này giúp du khách hiểu rõ hơn về văn hóa, con người và lịch sử của Việt Nam. Như vậy, việc chuyển thể và kể lại các tác phẩm văn học gắn liền với địa danh là một hướng đi đầy tiềm năng và cần được khai thác mạnh hơn trong thời gian tới” – ông Quỳnh nói.

Du khách trải nghiệm ở Vườn quốc gia U Minh Thượng – địa danh nổi tiếng trong tác phẩm văn học “Đất rừng Phương Nam” của nhà văn Đoàn Giỏi. Ảnh: Minh Phúc.

Để văn học có thêm một đời sống khác

Có thể nói, nếu mỗi trang viết được nuôi dưỡng bằng tình yêu và sự thấu cảm với vùng đất, lịch sử và cảnh sắc nơi đó, tự thân nó đã trở thành một lời mời gọi du lịch đầy cuốn hút và chân thành.

Chia sẻ về điều này, nhà văn Phụng Thiên nói, văn học không quảng bá theo kiểu truyền thông đại chúng, mà chọn cách quảng bá lặng lẽ nhưng sâu sắc. Không gian, phong tục, văn hóa, ngôn ngữ địa phương… được tái hiện qua từng tác phẩm. Nhờ đó, những vùng đất hiện lên sinh động trong tâm trí người đọc, khơi gợi sự tò mò, yêu mến và mong muốn được đặt chân đến, cảm nhận trực tiếp.

Còn ông Phạm Hải Quỳnh cho rằng, bằng cách tích hợp các yếu tố văn học vào hoạt động quảng bá du lịch, chúng ta không chỉ mang đến cho du khách những trải nghiệm thú vị mà còn trao truyền giá trị văn hóa phong phú của Việt Nam.

Theo ông Quỳnh, để văn học trở thành một phần trong chiến lược truyền thông du lịch hiện đại, nhất là nhằm thu hút giới trẻ chúng ta cần sử dụng mạng xã hội và các nền tảng trực tuyến để chia sẻ các tác phẩm văn học gắn với địa danh qua các bài viết, video ngắn, và hình ảnh hấp dẫn. Tạo các chương trình livestream hoặc podcasts về những câu chuyện văn học nổi tiếng đã và đang diễn ra tại các địa điểm du lịch. Tổ chức các tour du lịch tìm hiểu văn học, trong đó bao gồm việc tham quan các địa danh đã được nhắc đến trong các tác phẩm nổi tiếng.

Cùng với đó, khuyến khích các tác giả viết về trải nghiệm du lịch của họ và quảng bá thông qua các kênh truyền thông. Phát hành các sách du lịch có liên quan đến văn học, cung cấp cho du khách cái nhìn sâu sắc về văn hóa và lịch sử tại địa phương. Tổ chức các lễ hội văn học tại các địa điểm du lịch, kết hợp với các hoạt động giao lưu, chia sẻ giữa các tác giả và du khách. Tạo ra các hoạt động phong phú như diễn đọc, hội thảo văn học, hay thảo luận về tác phẩm văn học tại các điểm đến nổi tiếng.

Còn theo nhà văn Nguyễn Văn Học, để văn học – đặc biệt là các tác phẩm có chiều sâu văn hóa – có thể trở thành một phần trong chiến lược truyền thông du lịch hiện đại, nhằm tạo sự hấp dẫn đối với du khách trước hết, tác phẩm phải hay, khơi gợi được tầm vóc, chiều sâu văn hóa của Việt Nam nói chung, của mỗi vùng đất, địa danh nói riêng. Cái này nằm ở tài năng của nhà văn. Nhà văn, người sáng tạo phải yêu văn hóa Việt, yêu các vùng đất để có thể đưa được hình ảnh, vẻ đẹp của các danh thắng, vùng đất vào tác phẩm.

Tiếp đó, cần những “con mắt xanh” của các nhà làm phim, các nhà biên kịch. Bởi họ chính là cầu nối để tác phẩm văn học được sống thêm một đời sống khác, đó là phim ảnh. Sau nữa, các địa phương cũng cần xây dựng chiến lược để mời gọi, thu hút các nhà làm phim về quay phim, tạo dựng các phim trường lớn, chuyên nghiệp. Có thể nói, từ tác phẩm văn học đến câu chuyện tôn bồi, lan tỏa giá trị văn hóa, phát triển du lịch là một quá trình, đòi hỏi nỗ lực của nhiều người, nhiều cấp, ngành.

P. Sỹ

 

Nguồn: Dulichvn

Đặc sản Ninh Bình lọt top món ăn từ thịt dê ngon nhất thế giới

Dê tái chanh, một đặc sản nổi tiếng của Ninh Bình (Việt Nam), mới đây đã được chuyên trang ẩm thực nổi tiếng thế giới vinh danh.


Xuất hiện trong danh sách những món ăn từ thịt dê ngon nhất thế giới của Taste Atlas, dê tái chanh được mô tả là “đặc sản truyền thống của Ninh Bình”.

Ảnh: Bachhoaxanh

“Trong món này, thịt dê được làm chín sơ bằng nước cốt chanh. Các thành phần khác bao gồm ớt, lá chanh, tỏi, hạt tiêu và vừng. Thịt phải được thái mỏng, tươi để không mất đi vị ngọt tự nhiên.

Dê tái chanh thường được phục vụ kèm theo sung, chuối xanh ngâm giấm và nước tương để chấm”, Taste Atlas cho biết.

Theo người dân địa phương, sở dĩ dê núi Ninh Bình có vị ngon đặc trưng là do cách chăn nuôi.

Dê không bị nhốt trong chuồng trại mà được thả tự do trên núi, ăn các loại rau cỏ tự nhiên. Vì vậy, thịt dê ở đây nổi tiếng săn chắc, thơm ngon, khi ăn sẽ thấy ngay sự khác biệt so với dê nuôi trong chuồng.

Ngoài dê tái chanh, đặc sản dê núi Ninh Bình có thể nấu đến 20 món ăn khác nhau như nhúng mẻ, xúp, xào sả ớt, nướng mọi, tiết canh, áp chảo, hầm, hấp, lẩu,…

Được thành lập vào năm 2015, Taste Atlas (trụ sở chính tại Zagreb, Croatia) được biết đến như một tấm bản đồ tập hợp các món ăn truyền thống từ khắp thế giới.

Theo Matija Babić, nhà sáng lập Taste Atlas, các danh sách xếp hạng món ăn, đồ uống đều dựa trên ý kiến và đánh giá từ các chuyên gia, nhà phê bình ẩm thực để đảm bảo độ tin cậy của giải thưởng.

Đỗ An

 

Nguồn: Dulichvn

Hòa Bình: Đường làng sạch, làng nghề xanh

11 làng nghề truyền thống, hơn 400 hộ sản xuất nhỏ lẻ, nhưng tỷ lệ vi phạm gây ô nhiễm môi trường tại các làng nghề trên địa bàn tỉnh Hòa Bình hiện nay gần như bằng 0. Từ khi triển khai mô hình làng nghề xanh – sạch – đẹp, từng con ngõ, từng bãi tập kết rác, từng hầm xử lý nước thải đều được người dân tự quản chặt chẽ. Làng nghề không chỉ làm ra sản phẩm, góp phần phát triển kinh tế – xã hội, mà đang đặt ra cả những chuẩn mực mới cho mục tiêu phát triển bền vững.


Xã Chiềng Châu (Mai Châu) quan tâm xây dựng làng nghề xanh, hướng tới phát triển bền vững.

Tìm hiểu thực tế được biết, trước khi có khái niệm “làng nghề xanh”, nhiều vùng làng nghề ở Hòa Bình từng xảy ra ô nhiễm bởi khói bụi, mùi hóa chất và rác thải từ hoạt động sản xuất tại xưởng nghề. Ở làng nghề gỗ lũa, mùn cưa phủ kín đường làng; một số cơ sở dệt thổ cẩm từng thải nước nhuộm trực tiếp ra mương dẫn, khiến màu nước thay đổi theo… sắc vải. Không gian sinh hoạt của người dân và không gian sản xuất không tách bạch, khiến môi trường sống bị xáo trộn, ảnh hưởng nghiêm trọng. Mâu thuẫn giữa phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường không khí từng là bài toán khó tìm lời giải suốt nhiều năm tại các làng nghề truyền thống.

Những năm gần đây, ở khu vực nông thôn nói chung và các làng nghề trong tỉnh nói riêng bắt đầu thay đổi từ những việc nhỏ. Nhiều nơi người dân đã chấm dứt tình trạng đốt rác bừa bãi. Các xưởng chế tác đá đã phun ẩm vật liệu trước khi cắt để tránh tạo bụi, phế liệu được gom lại, thay vì đổ ra suối. Những lò nung gạch từng xả khói mù mịt ra môi trường, nay đã được nâng cấp, nhiều cơ sở chuyển hẳn sang sản xuất gạch không nung.

Thay đổi trong nhận thức chính là cốt lõi của công tác bảo vệ môi trường. Từ năm 2020 – 2022, tỉnh Hòa Bình đã tổ chức hơn 180 hội nghị, lớp tập huấn, tuyên truyền về bảo vệ môi trường; hơn 100 lớp vận động thu gom bao bì thuốc bảo vệ thực vật, thu hút hơn 4.000 người dân tham gia. Không chỉ vậy, công tác tuyên truyền bảo vệ môi trường đã đi vào đời sống tinh thần, văn hóa cộng đồng của người dân, thể hiện rất rõ qua 4 cuộc giao lưu sân khấu hóa, hơn 30 lễ phát động, hội thi vẽ tranh, tìm hiểu kiến thức…

Không tuyên truyền một chiều, nhân dân được “trao quyền” chủ động hành động, nỗ lực thay đổi thói quen sản xuất gây hại đến môi trường xung quanh, thông qua các phong trào như “Khu dân cư tự quản bảo vệ môi trường”, toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa gắn với tiêu chí xanh – sạch – đẹp… Những phong trào này đã giúp người dân dần thay đổi lối sống. Tổ tự quản môi trường được thành lập ở nhiều làng nghề. Mỗi xóm đều có lịch vệ sinh định kỳ. Những hộ sản xuất nhỏ bắt đầu đầu tư bể lắng nước thải, tường chắn bụi, thiết bị bảo hộ lao động. Chấm dứt tình trạng chất thải, khí thải sản xuất không qua xử lý xả thẳng ra môi trường.

Bà Vì Thị Oanh, Phó Giám đốc HTX Dệt thổ cẩm và dịch vụ du lịch Chiềng Châu (Mai Châu) cho biết: “Ở làng nghề thổ cẩm Chiềng Châu, người dân còn chủ động trồng thêm hoa ven đường, treo biển “tuyến đường xanh – sạch – đẹp” như lời nhắc nhở nhẹ nhàng mỗi ngày. Chúng tôi hiểu rằng, xưởng có sạch thì sản phẩm mới bán được; làng nghề có xanh thì du khách mới quay lại và những người trực tiếp làm nghề cũng là những người thở chung bầu không khí đó mỗi ngày”.

Không chỉ dừng lại ở những chuyển biến đơn lẻ, nhiều làng nghề ở Hòa Bình đã và đang trở thành mô hình mẫu trong việc phát triển sản xuất luôn song song với nhiệm vụ bảo vệ, gìn giữ môi trường.

Xã Tân Mỹ (Lạc Sơn) là nơi từng có một trong năm cơ sở bị liệt vào danh sách gây ô nhiễm nghiêm trọng. Nỗ lực xóa bỏ ô nhiễm, người dân nay đã chủ động chuyển đổi phương pháp chăn nuôi, áp dụng hầm biogas, phân tách chất thải rắn, trồng cây xanh quanh khu vực xưởng. Không khí trong bản làng không còn bị ảnh hưởng bởi mùi hôi nồng; những cánh đồng lúa mất mùa do nước thải cũng được “hồi sinh”. Mỗi hộ, mỗi hành động nhỏ, khi chung tay cùng hành động đã tạo nên những thay đổi lớn, chuyển biến rõ rệt, trả lại cho người dân bầu không khí trong lành.

Không khí là khái niệm tưởng như không nhìn thấy bằng mắt thường. Tuy nhiên, nó lại là thứ thiết yếu nhất cho sự sống còn của con người; hiện hữu trong từng nhịp thở, từng bữa ăn, giấc ngủ. Chính vì vậy, bảo vệ môi trường không khí cũng chính là đang bảo vệ sự sống cho người dân, cho từng thôn xóm, làng nghề. “Đường làng sạch, làng nghề xanh” – không phải là khẩu hiệu. Đó là một hành trình đổi thay âm thầm mà bền bỉ, đi từ những điều nhỏ nhất để tạo ra sự thay đổi khác biệt. Chính những người làm nghề mới có thể đem trả lại bầu không khí xanh, sạch cho cuộc sống của chính mình.

Thảo Uyên

Nguồn: Dulichvn

Yên Bái: Đồng Khê bảo tồn văn hóa dân tộc gắn với phát triển du lịch

Xã Đồng Khê, huyện Văn Chấn, tỉnh Yên Bái có hơn 76% dân số là dân tộc Tày. Trong quá trình phát triển, địa phương đã chủ động triển khai thực hiện nhiều giải pháp nhằm bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa dân tộc gắn với phát triển du lịch và xây dựng nông thôn mới (NTM) kiểu mẫu.


Tiết mục múa Dậm thuông được nhân dân xã Đồng Khê khôi phục và biểu diễn tại các lễ hội.

Ông Sa Quang Hòa – người có uy tín ở thôn Gốc Báng chia sẻ: “Từ trăn trở chữ Tày đang dần bị lãng quên, tôi cùng các cụ và những người có uy tín trong cộng đồng bàn bạc và vận động dạy lại tiếng, chữ cho con cháu. Chúng tôi mong rằng các em sẽ thêm yêu và gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc mình”. Bên cạnh đó, Đồng Khê tổ chức các lễ hội và sự kiện văn hóa để người dân, đặc biệt là thế hệ trẻ có cơ hội giao lưu và học hỏi. Các nghệ nhân, thầy cúng, bậc cao niên trong cộng đồng đã đóng vai trò quan trọng trong việc truyền dạy các giá trị văn hóa truyền thống. Những điệu múa, bài hát, phong tục, tập quán đặc sắc của dân tộc Tày được khôi phục và phát triển mạnh mẽ nhờ sự nỗ lực của cộng đồng.

Bà Hà Thị Kết – người cao tuổi ở thôn Bản Tạo cho biết: “Hiện nay, chúng tôi đã thành lập các câu lạc bộ văn hóa, văn nghệ. Ngoài luyện tập thường xuyên, chúng tôi tổ chức truyền dạy cho các cháu thiếu niên, nhi đồng về điệu Dậm thuông, các lễ hội, nét đặc sắc trên trang phục dân tộc Tày… Dưới sự truyền dạy của các cụ cao tuổi, các cháu tiếp thu rất nhanh và cảm thấy rất tự hào về bản sắc văn hóa dân tộc”.

Để bảo tồn văn hóa và tạo nguồn thu nhập bền vững cho người dân, xã chú trọng phát triển du lịch cộng đồng. Khi đến với Đồng Khê, du khách không chỉ được khám phá vẻ đẹp thiên nhiên mà còn được thưởng thức những món ăn đặc sản, trải nghiệm đan lát mây và tre, sản xuất nhạc cụ, trang phục dân tộc… Chính quyền xã đã đầu tư cơ sở hạ tầng du lịch như mở rộng các tuyến đường giao thông, nâng cấp hệ thống lưu trú và đào tạo cho người dân về kỹ năng tiếp đón khách du lịch. Đồng thời, người dân cũng được trang bị kiến thức về giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc trong quá trình phục vụ du khách nhằm tạo ra môi trường du lịch thân thiện, chuyên nghiệp.

Không chỉ dừng lại ở phát triển du lịch, Đồng Khê còn chú trọng xây dựng NTM kiểu mẫu. Đạt chuẩn xã NTM nâng cao năm 2022, địa phương tiếp tục tập trung bảo vệ môi trường, giữ gìn hệ sinh thái, phát triển mô hình kinh tế hộ gia đình kết hợp sản xuất nông sản sạch, du lịch sinh thái đã tạo nguồn thu nhập ổn định cho người dân. Nhiều hộ đã bắt đầu trồng các loại cây ăn quả, hoa màu sạch và sản xuất các sản phẩm thủ công mỹ nghệ phục vụ du khách đồng thời tạo ra thu nhập từ du lịch cộng đồng.

Ông Nguyễn Xuân Gần – Chủ tịch UBND xã cho hay: “Xây dựng NTM giàu bản sắc là mục tiêu quan trọng trong xây dựng NTM kiểu mẫu của địa phương. Xã xác định bảo tồn văn hóa dân tộc Tày không chỉ góp phần xây dựng đời sống văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc mà còn là cơ hội tạo việc làm, nâng cao thu nhập cho nhân dân. Đồng Khê đã chỉ đạo các thôn, bản, tổ chức hội, đoàn thể xây dựng các mô hình bảo tồn văn hóa gắn với phát triển du lịch. Cấp ủy, chính quyền quan tâm tổ chức các lễ hội, chương trình văn hóa văn nghệ, động viên các nghệ nhân và nhân dân phục dựng và trình diễn các tiết mục văn hóa, văn nghệ của dân tộc Tày. Đặc biệt, xã tích cực động viên nhân dân đóng góp tôn tạo cảnh quan, môi trường để sớm hoàn thành mục tiêu xây dựng NTM kiểu mẫu”.

Với những nỗ lực không ngừng trong việc bảo tồn văn hóa, phát triển du lịch và xây dựng NTM kiểu mẫu, Đồng Khê đang dần khẳng định là một điểm đến hấp dẫn, nơi gìn giữ và phát huy những giá trị truyền thống của dân tộc Tày. Nỗ lực này vừa giúp nâng cao đời sống của nhân dân vừa góp phần bảo vệ và lan tỏa, tôn vinh những nét đẹp văn hóa của dân tộc Tày.

Trần Ngọc

Nguồn: Dulichvn

Hà Giang: Cóc Cọc gìn giữ nghề dệt vải truyền thống

Theo dòng chảy thời gian, nhiều nét văn hóa truyền thống của đồng bào dân tộc thiểu số ở huyện Hoàng Su Phì (Hà Giang) cũng ngày càng mai một. Thế nhưng, bằng tình yêu với nghề dệt, nhiều phụ nữ ở thôn Cóc Cọc, xã Sán Sả Hồ vẫn miệt mài bên khung cửi, dệt nên những tấm vải nhuộm tràm truyền thống.


Thôn Cóc Cọc hiện lên yên bình với những nếp nhà sàn mang đậm bản sắc văn hóa của người Tày. Toàn thôn có 63 hộ với 234 nhân khẩu, 100% là đồng bào dân tộc Tày sinh sống. Trước đây, nghề dệt từng là hoạt động truyền thống gắn bó mật thiết với đời sống sinh hoạt và văn hóa của người dân địa phương. Tuy nhiên, từ năm 2011 đến nay, số hộ còn gắn bó với nghề chỉ còn khoảng 35 hộ, cho thấy sự mai một đáng kể của một nét đẹp văn hóa lâu đời.

Bà Lù Thị Trưởng dệt vải trong thời gian nông nhàn.

Bên chiếc khung cửi đã ngả màu thời gian, bà Lù Thị Trưởng, 53 tuổi, vừa liên tay dệt vải vừa nói chuyện với chúng tôi. Khi đó, vải vẫn còn rất hiếm, để mua được không hề dễ, chính vì vậy gia đình người Tày nào cũng có khung cửi. Con gái Tày 15, 16 tuổi đã biết dệt vải, không chỉ để may quần áo mà cả chăn, gối, rèm cửa… Học nghề dệt từ tuổi lên mười, cũng như bao cô gái Tày, bà Trưởng mặc áo váy chàm, mang theo của hồi môn với đầy đủ chăn, gối, đệm tự tay thêu, dệt về nhà chồng. Những lúc nông nhàn, bà lại đưa thoi dệt vải, cắt may quần áo cho chồng, con. Bà chia sẻ: “Người phụ nữ Tày thể hiện sự khéo léo, chăm chỉ, chịu khó qua những thước vải tự tay dệt ra. Bởi vậy, 3 cô con gái của tôi đều được truyền dạy nghề dệt từ nhỏ. Mặc dù thu nhập từ việc bán các sản phẩm dệt, may truyền thống không quá lớn nhưng để nghề dệt của bà, của mẹ không bị mai một, tôi vẫn sẽ học hỏi, lưu giữ nghề để trao truyền cho con, cháu đời sau”.

Để tạo được 1 sản phẩm dệt thủ công hoàn chỉnh phải qua nhiều công đoạn như: Cán bông, bật bông, quấn bông, kéo sợi, hồ sợi, dàn sợi, quay sợi, mắc khung, dệt vải… Trước khi dệt vải phải kéo dàn sợi, công đoạn này cần nhiều người cùng tham gia. Số lượng sợi dàn nhiều hay ít tùy thuộc vào khổ vải rộng hay hẹp.Việc dàn sợi được thực hiện dưới gầm sàn, người Tày sử dụng các cột nhà làm nơi dàn sợi. Người ta lắp các ống chỉ vào khung dàn sợi, đầu chỉ từ các ống sợi buộc cố định ở một cột, ước tính độ dài của tấm vải mà chọn 3 – 5 cột nhà; cầm đầu sợi cuốn vòng quanh các cột đến khi đủ các sợi dọc cho một khổ vải định dệt mới dựng một thanh tre buộc ép chặt các sợi vào trục. Hai đầu sợi so le nhau buộc riêng thành 2 túm để sợi không bị lẫn và rối khi luồn vào lược nén sợi, sau đó tiến hành dệt.

Từ những dụng cụ thô sơ tự tạo, thông qua các thao tác thủ công cùng bàn tay khéo léo đã tạo ra những sản phẩm dệt chứa đựng nhiều giá trị văn hóa, phản ánh phần nào lịch sử phát triển của người Tày. Trước đây, phần lớn các gia đình đều tự trồng bông, kéo sợi, dệt vải. Ngày nay, nghề này không còn nhiều, sợi bông được thay thế bằng sợi công nghiệp vì dễ dệt hơn, giá cả hợp lý, không tốn nhiều thời gian, người phụ nữ đỡ vất vả hơn. Trước đây, màu nhuộm sợi được tạo ra từ các cây vỏ cứng nhưng hiện nay một phần được thay thế bằng thuốc nhuộm công nghiệp hoặc sợi len màu bán sẵn ngoài thị trường.

Đồng chí Hoàng Văn Toàn, Chủ tịch UBND xã Sán Sả Hồ cho biết: “Hiện nay, xã chỉ có một số người dân ở hai thôn Cóc Cọc và Trà Thượng là giữ được khung cửi. Xã luôn khuyến khích và tạo điều kiện cho bà con giữ nghề truyền thống để làm phong phú hơn bản sắc văn hóa của đồng bào Tày. Việc này còn giúp ích cho phát triển du lịch khám phá văn hóa địa phương. Xã đang phối hợp với huyện khảo sát số người biết dệt để mở lớp truyền dạy tại một số thôn theo nhu cầu của người dân. khuyến khích các nghệ nhân truyền dạy lại nghề cho thế hệ trẻ; tăng cường giáo dục, nâng cao nhận thức về giá trị văn hóa truyền thống quý báu của nghề dệt thủ công truyền thống”.

Bài, ảnh: Nguyễn Yếm

 

Nguồn: Dulichvn

Hà Nội công nhận điểm du lịch Thụy Lâm

Ngày 14/4, UBND Thành phố Hà Nội ban hành Quyết định số 2014/QĐ-UBND về việc công nhận điểm du lịch Thụy Lâm, xã Thụy Lâm, huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội.


Nghi lễ rước vua tại lễ hội đền Sái.

Theo Quyết định, UBND Thành phố Hà Nội công nhận điểm du lịch Thụy Lâm, địa chỉ tại xã Thụy Lâm, huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội; giao UBND xã Thụy Lâm có trách nhiệm thực hiện tổ chức quản lý, khai thác, phát triển điểm du lịch theo đúng quy định của Luật Du lịch và các văn bản pháp luật liên quan.

Các Sở, ngành: Du lịch, Văn hóa và Thể thao, Nông nghiệp và Môi trường, Xây dựng, Khoa học và Công nghệ, Y tế, Tài chính, Công an Thành phố, UBND huyện Đông Anh, UBND xã Thụy Lâm có trách nhiệm hướng dẫn, tổ chức quản lý, khai thác và đầu tư xây dựng điểm du lịch Thụy Lâm theo đúng quy định pháp luật và Thành phố Hà Nội, đảm bảo phát triển bền vững, hiệu quả.

Phó Chủ tịch UBND huyện Đông Anh Nguyễn Thị Tám cho biết, mảnh đất Thuỵ Lôi nằm ở vị trí phía Bắc của Kinh đô Cổ Loa và Kinh đô Thăng Long, nơi đây có vị trí khá đặc biệt với núi Sái – Đền Sái nơi ghi đậm dấu tích những trận chiến ác liệt và chiến công oai hùng của danh tướng Lý Thường Kiệt, vị tướng tài danh đã chỉ huy quân dân Đại Việt đánh tan quân xâm lược nhà Tống trên chiến tuyến sông Cầu ở thế kỷ XI, kìm hãm vó ngựa quân Nguyên Mông ở thế kỷ XIII.

Phó Chủ tịch UBND huyện Đông Anh Nguyễn Thị Tám cho biết, mảnh đất Thuỵ Lâm nằm ở vị trí phía Bắc của Kinh đô Cổ Loa và Kinh đô Thăng Long, có vị trí khá đặc biệt với núi Sái – Đền Sái nơi ghi đậm dấu tích những trận chiến ác liệt và chiến công oai hùng của danh tướng Lý Thường Kiệt, vị tướng tài danh đã chỉ huy quân dân Đại Việt đánh tan quân xâm lược nhà Tống trên chiến tuyến sông Cầu ở thế kỷ XI, kìm hãm vó ngựa quân Nguyên Mông ở thế kỷ XIII.

Xét về thế quân sự, với khoảng cách không xa, lại có các gò nên Đền Sái như một ụ luỹ phòng vệ từ xa cho thành Cổ Loa về phía Bắc. Vị thế đó có ý nghĩa lớn trong bố phòng quân sự, tạo nên ưu thế cho thành Cổ Loa khi quân dân Âu Lạc kháng chiến chống lại quân xâm lược Triệu Đà.

Năm 1010, vua Lý Công Uẩn dời đô từ Hoa Lư về Đại La xây dựng Kinh thành Thăng Long; năm 1011, vua Lý đã đến Đền Sái và cho rước duệ hiệu đức Huyền Thiên từ Đền Sái về xây đền ở cạnh hồ Tây phía Bắc thành Thăng Long (tức đền Quán Thánh) tôn vinh là vị thần trấn giữ phía Bắc cho Kinh thành Thăng Long.

Di tích lịch sử Đền Sái được công nhận di tích cấp quốc gia vào năm 1986 với tục lệ “Rước Vua giả”, tương truyền Vua An Dương Vương được đức thánh Huyền Thiên Trấn Vũ giúp trừ yêu tinh để xây thành, để nhớ ơn đã xây dựng đền Kim khuyết cung (Đền Sái ngày nay), hàng năm Vua đều xa giá về bái yết, nhưng về sau thấy việc đi lại hao tốn tiền của Nhân dân nên đã cho phép Nhân dân làng Thụy Lôi “Thực hành nghi vệ Thiên tử, xưng quan tước” để bái yết Thánh Huyền Thiên thay Vua… Từ đó hình thành lễ hội Rước Vua giả, được truyền từ đời này qua đời khác cho đến ngày hôm nay.

Cùng với lễ hội Cổ Loa, lễ hội Đền Sái đã được ghi danh vào danh mục di sản phi vật thể quốc gia và được các thế hệ người dân của huyện gìn giữ, lưu truyền, tôn tạo, hiện hữu trong đời sống vật chất, tinh thần, trở thành nguồn lực vô giá cho hôm nay và mai sau.

Đây chính là những tiềm năng, lợi thế to lớn để phát triển du lịch của huyện, nhất là trong điều kiện toàn cầu hóa hiện nay, du lịch Đông Anh đang từng bước phát triển mạnh mẽ, trở thành điểm đến hấp dẫn, thân thiện, đóng góp đáng kể cho phát triển kinh tế – xã hội, trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của huyện trong thời gian tới.

Hạnh Phúc

 

Nguồn: Dulichvn

Gà nướng cơm lam

Một món ăn dân dã được chế biến đơn giản nhưng phải khéo lắm mới tạo ra hương vị gây thương nhớ. Và có lẽ, phải thưởng thức khi ngồi giữa khung cảnh thiên nhiên thì mới cảm hết độ ngon của món ăn.


Món cơm lam gà nướng tại Đà Lạt. Ảnh: Minh họa

Ăn ở Đà Lạt

Quán gà Tam Nguyên đón khách từ 10h sáng đến 12h trưa. Khách muốn ăn phải đặt bàn trước một ngày và chuyển khoản đặt cọc. Chủ quán nhận được tiền cọc sẽ xác nhận giờ ăn và khách buộc phải đến đúng giờ, nếu đến trễ thì… không được ăn. Một bữa ăn gồm có gà nướng nguyên con, heo nướng vỉ, bắp cải luộc, mướp xào và cơm lam.

Những lời đồn về quán ăn “chảnh” nhất Đà Lạt được mọi người truyền tai nhau. Chúng tôi được hai người bạn rủ đi ăn thử. Quy trình diễn ra như sau: đặt ăn – chuyển khoản – hẹn giờ – đúng giờ có mặt – ăn cơm, uống rượu.

Chủ quán là đôi vợ chồng già sống chậm với những nguyên tắc riêng. Họ xem khách đến nhà như những người bạn đang cần một chỗ dừng chân, thưởng thức ẩm thực. Quán không có nhân viên, chỉ có hai vợ chồng tự nấu nướng, bưng bê, dọn dẹp nên không thể tiếp quá nhiều khách.

Sở dĩ quy trình đặt chỗ và thời gian thưởng thức món ăn có vẻ làm khó khách như vậy vì món cơm lam tính luôn cả thời gian ngâm gạo mất tổng cộng 8 tiếng mới hoàn thành.

Món gà muốn ngon phải đảm bảo hai yếu tố: nhiệt độ và thời gian. Dù 1 con gà hay 5 con gà thì vẫn phải dùng đúng một lượng than nhất định để đảm bảo nhiệt độ. Thời gian nướng gà tầm 3 tiếng để xương chín, thịt không khô mà da lại giòn. Nghệ thuật nấu nướng nằm ở sự khắt khe đó.

Những món ăn được chăm chút cần được thực khách thưởng thức bằng những giác quan tinh tế nhất và vào thời điểm thích hợp nhất. Nếu khách đến sớm, thịt chưa kịp chín; đến trễ, gà sẽ bị khô hoặc phải nướng lại làm mất đi vị ngon.

Chúng tôi ăn đến đâu, dùng tay xé thịt gà và xé vỏ ống tre đến đó. Quả thực, cái cảm giác ăn các món nướng dân dã bằng tay luôn mang đến niềm vui thích tột độ. Mùi thơm của bếp than vấn vít trên mấy đầu ngón tay. Chưa kể, ăn bằng tay còn gợi về cảm giác ngày thơ bé thường vào bếp nhón thức ăn mới nấu của bà, của mẹ.

Quán ven đường Đắk Lắk

Lần thứ hai, trong một chuyến thăm Buôn Ma Thuột, trên đường vào thác Dray Nur. Khi đó tầm giữa trưa, để tránh đi chơi thác giữa trời nắng nóng, chúng tôi dừng chân ở một quán ven đường có treo bảng gà nướng cơm lam. Quán đơn sơ được dựng lên giữa rừng cây bằng mấy chiếc cột nhà, mái tôn, bên trong đặt vài bộ bàn ghế cho khách dùng bữa và treo vài chiếc võng cho khách ngả lưng.

Vì đã từng thưởng thức món gà nướng cơm lam ngon không chỗ nào chê ở Đà Lạt, thú thật, tôi không đặt nhiều kỳ vọng ở một quán nước đơn sơ thế này, dẫu biết rằng món gà nướng cơm lam là đặc sản của người dân tộc Ê Đê ở Đắk Lắk.

Thế mà, món ăn bày trên bàn ngon hơn sự tưởng tượng của tôi gấp nhiều lần. Chủ quán là hai vợ chồng người dân tộc Ê Đê nên chế biến món này theo cách nguyên bản, không thay đổi cho hợp khẩu vị với khách phố.

Lớp da gà vừa mỏng vừa giòn. Phần thịt hương vị nguyên bản không qua tẩm ướp. Cơm lam được làm từ những hạt gạo dẻo thơm, nướng vùi trong lửa qua một ống tre nén chặt lại bằng lá chuối.

Ngẫm lại hai kỷ niệm với món gà nướng cơm lam, tôi nhận ra món ăn này sẽ kém ngon nếu thiếu đi khung cảnh. Bằng chứng là ngoài hai lần đó, tôi đã ăn gà nướng cơm lam thêm nhiều lần nữa ở nhà hoặc trong nhà hàng chuyên các món đặc sản địa phương, chẳng lần nào thấy thực sự ngon miệng cả. Nhớ lại, hai lần đó, chúng tôi vừa thưởng thức bữa trưa vừa ngắm đất trời, cỏ cây, giữa làn gió mát, thi thoảng còn nghe tiếng lao xao của đất trời.

Ăn các món dân dã, ngồi ở một không gian dân dã, gần gũi với thiên nhiên hoặc mang đậm nét văn hóa vùng miền sẽ làm tăng thêm hương vị của món ăn vì món ăn đâu chỉ là thực phẩm mà còn là một phần của văn hóa truyền thống. Ngồi ăn món gà nướng cơm lam giữa khung cảnh thiên nhiên tạo nên một trải nghiệm ẩm thực vô cùng đặc biệt và khó quên.

Lê Ngọc

 

Nguồn: Dulichvn

TIN MỚI NHẤT