Du lịch trong nước

Du lịch trong nước, tin tức du lịch trong nước, các tour du lịch trong nước, các địa điểm du lịch trong nước hấp dẫn được chúng tôi tổng hợp và đưa tin hàng ngày đến cho khách du lịch trên khắp mọi miền đất nước có được thông tin du lịch trong nước để có những thông tin hữu ích nhất cho mình và gia đình khi quyết định chọn chuyến du lịch trong nước cho mình và người thân

”Ngày hội gia đình” tại Làng Văn hóa – Du lịch các dân tộc Việt Nam

Cục Văn hóa các dân tộc Việt Nam cho biết, từ ngày 1 đến 30-6, tại Làng Văn hóa – Du lịch các dân tộc Việt Nam (Đồng Mô, Sơn Tây, Hà Nội) sẽ diễn ra nhiều hoạt động với chủ đề “Ngày hội gia đình”, nhằm tôn vinh giá trị văn hóa truyền thống nhân văn sâu sắc của gia đình Việt Nam, hướng tới xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc.


Các hoạt động tháng 6 có sự tham gia của hơn 100 đồng bào đến từ 16 dân tộc (Nùng, Tày, Mông, Dao, Mường, Lào, Thái, Khơ Mú, Tà Ôi, Ba Na, Xơ Đăng, Gia Rai, Cơ Tu, Raglai, Ê Đê, Khmer), với sự tham gia của 11 địa phương có đồng bào hoạt động hằng ngày: Thái Nguyên, Hòa Bình, Hà Nội, Hà Giang, Sơn La, Huế, Kon Tum, Gia Lai, Ninh Thuận, Đắk Lắk, Sóc Trăng.

Điểm nhấn trong “Ngày hội gia đình” là chương trình giới thiệu sắc màu văn hóa tỉnh Bình Phước. Trong đó có hoạt động tái hiện Lễ hội sum họp cộng đồng (Tâm r’nglắp bon) của dân tộc M’nông, một trong những lễ hội độc đáo, thường được tổ chức khi cộng đồng dân tộc M’nông muốn thắt chặt mối tương giao với cộng đồng các dân tộc khác thông qua già làng, những người uy tín trong cộng đồng.

“Ngày hội gia đình” tại Làng Văn hóa – Du lịch các dân tộc Việt Nam. Ảnh minh họa / langvanhoavietnam.vn

Chương trình dân ca dân vũ “Âm vang M’nông – Sức sống đại ngàn” giới thiệu nét văn hóa đặc sắc của dân tộc M’nông tỉnh Bình Phước, với các tiết mục trình diễn nhạc cụ truyền thống độc đáo như đàn đá, cồng chiêng; biểu diễn các loại hình nghệ thuật dân gian như ca múa, nhạc, ca ngợi vẻ đẹp đồng bào M’nông; trình diễn trang phục thổ cẩm “Sắc thắm bazan” giới thiệu các trang phục được thiết kế, dệt may từ thổ cẩm truyền thống cách tân, phù hợp với xu thế hiện nay và đi kèm với các trang sức, dụng cụ truyền thống.

Trong khuôn khổ các hoạt động tháng 6, sẽ diễn ra nhiều hoạt động văn hóa, nghệ thuật của đồng bào đang hoạt động hằng ngày tại Làng như: Chương trình giao lưu “Em yêu buôn làng Tây Nguyên” với các hoạt động văn hóa, văn nghệ, diễn xướng dân gian của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên; chương trình giao lưu “Mừng vui ngày hội gia đình”; giới thiệu những nét đẹp trong sinh hoạt văn hóa gia đình, trải nghiệm các trò chơi dân gian, nghề thủ công truyền thống, tìm hiểu văn hóa dân tộc, giới thiệu các điệu dân ca, dân vũ, nhạc cụ dân tộc…

Tạ Tuấn

 

Nguồn: Dulichvn

Nghề làm phỗng đất xứ Kinh Bắc

Làng Đông Khê, xã Song Hồ, Thị xã Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh là ngôi làng cổ gắn liền với nghề làm phỗng đất cổ truyền có tiếng của xứ Kinh Bắc xưa. Giờ đây, sau nhiều thay đổi của cuộc sống, hiệu quả kinh tế từ làm phỗng đất không cao… hiện cả làng chỉ còn một người duy nhất còn lưu giữ được nghề, đó là nghệ nhân Phùng Đình Giáp – nghệ nhân làm Phỗng đất cuối cùng tại Việt Nam.


Nghệ nhân tô màu cho sản phẩm phỗng đất.

Lên 8 tuổi, ông Giáp đã được cha dạy cho cách nặn từng mẫu phỗng đất; đến nay ông Giáp đã có hơn 60 năm trong nghề làm phỗng đất. Với đôi bàn tay chai sạn, ông đã thổi hồn vào từng tác phẩm, tạo nên những kiệt tác độc đáo, góp phần gìn giữ bản sắc văn hóa vùng quê Kinh Bắc. Theo nghệ nhân, quy trình làm phỗng đất rất công phu, tỉ mỉ và nguyên liệu là những sản phẩm có sẵn trong tự nhiên. Đất dùng để làm phỗng phải là đất thó (đất sét) từ đồng ruộng, hoặc ao, hồ sen vào mùa cạn nước. Ðất đào ở độ sâu từ 2,5 đến 3 m, và chỉ lấy khoảng 20 đến 30 cm để có độ mịn, sạch; sau đó đem phơi khô, cho vào cối đập, giã thành bột mịn rồi sàng đến khi có độ mịn mát tay, có mầu xám nhạt là được. Một nguyên liệu khác được sử dụng là giấy gió, giấy được ngâm trong nước 30 ngày đến khi mủn hoàn toàn, tạo thành một chất sền sệt đặc quánh như bột hồ, sau cho trộn với bột đất thó. Vừa trộn tay, vừa dùng chày đập như trộn bánh dầy cho đến khi hỗn hợp này quyện lại tới độ dẻo, mịn, dùng tay vê thử mà không dính là đạt yêu cầu. Sau khi có nguyên liệu là đến giai đoạn nặn phỗng. Phỗng đất phải giữ được nét dân dã mới đúng là phỗng đất, còn nếu cầu kỳ quá, tỉa tót hoa văn để sản phẩm tinh xảo thì lại mất ý nghĩa của phỗng đất. Phỗng đất nặn xong thường được phơi khô, rồi dùng phẩm màu vẽ hoàn thiện, đối với phỗng mộc thì không vẽ màu nhưng phải phơi nắng 10 ngày, sau lấy cật tre vừa phơi nắng, vừa đánh bóng từng nhân vật.

Năm hình tượng trong bộ phỗng đất trung thu.

Sản phẩm phỗng đất chủ đạo là của gia đình ông là bộ phỗng đất Trung thu, bao gồm có 5 loại là: phỗng ông Phật, phỗng ông già, phỗng em bé ôm hoa, phỗng con chim và phỗng con rùa. Hiện nay, để đáp ứng nhu cầu của thị trường, gia đình ông Giáp đã sáng tạo ra nhiều mẫu mã khác nhau, theo đơn đặt hàng của du khách, với các sản phẩm đa dạng như: mẫu 12 con giáp, mẫu sản phẩm mô phỏng từ tranh Đông Hồ với chủ đề vinh hoa phú quý, như: vinh hoa (em bé ôm gà), phú quý (em bé ôm vịt) và các mẫu khác như quần thể chuột đựng nghiên bút, gạt tàn chuột, tê giác, voi… Trong nhiều thời điểm, sân nhà ông đầy ắp tiếng cười của các đoàn khách trong và ngoài nước ghé thăm, làm phim, và nhờ ông chia sẻ kinh nghiệm,… để từ đó lan tỏa giá trị tốt đẹp này đi khắp mọi miền đất nước và đến với bạn bè quốc tế. Ông Giáp chia sẻ: Nặn phỗng đất là nghề gia truyền của gia đình, tôi là đời thứ ba. Không ai biết rõ Phỗng đất ra đời từ bao giờ, nhưng tôi và gia đình sẽ không thể để Phỗng đất biến mất. Ngày nay, nhiều người ngày càng ít mặn mà với đồ chơi dân gian, tôi lại càng phải giữ gìn hơn….

Phỗng đất được giới thiệu và bày bán trong hội trợ truyền thống.

Để bảo tồn và phát huy nghề này, ông Giáp đã truyền lửa, truyền đam mê cho các con, cháu của mình. Anh Phùng Đình Đông, con trai ông Giáp cho biết: Mặc dù còn nhiều khó khăn trong nghề, nhưng gia đình quyết tâm bảo tồn và phát huy nghề cho con cháu mai sau, và mong muốn các cấp chính quyền, nhân dân quan tâm đến nghề phỗng đất để bảo tồn và lan tỏa giá trị truyền thống này. Điều hạnh phúc nhất với gia đình ông đó là những năm gần đây, các gia đình trong thôn xóm mỗi khi Trung thu đều tìm đến nhà ông để đặt một bộ phỗng cho con mình, và bước đầu sản phẩm đã có sự lan tỏa tới nhiều nơi trong cả nước.

Phỗng đất không chỉ là đồ chơi của con trẻ ngày xưa mà còn mang giá trị văn hóa truyền thống, thể hiện hồn cốt quê hương. Tuy phỗng đất ngày nay chưa có nhiều người biết đến, nhưng giá trị của nó sẽ còn vang mãi với thời gian, như một dấu tích về nét đẹp văn hóa của người Bắc Ninh – Kinh Bắc nói riêng và Việt Nam nói chung.

Văn Hải – Duy Thành

Nguồn: Dulichvn

Box Entertainment: Bước tiến nâng tầm Việt Nam trên bản đồ âm nhạc thế giới

Tiếp nối câu chuyện âm nhạc của mình, Box Entertainment, đơn vị trực thuộc InTheBox, chính thức ra mắt tại Việt Nam với cương vị là một label âm nhạc quốc tế, nối dài hành trình đầy rực rỡ ấy.


Sau hơn 10 năm gắn bó và phát triển các kênh truyền hình nổi tiếng như Box Movies 1 và Hollywood Classics, InTheBox đã ghi dấu nhiều thành quả ấn tượng trong ngành truyền hình Châu Âu nói riêng và thế giới nói chung.

Một trong những mảng hoạt động chính, và cũng là đam mê lớn nhất của InTheBox là âm nhạc, điều mà ít tai biết.

Dưới tên gọi RSL Productions, InTheBox vừa đánh dấu 35 năm thành lập phòng thu danh tiếng này tại Châu Âu. Để tiếp nối câu chuyện âm nhạc của mình, Box Entertainment, một đơn vị trực thuộc InTheBox, chính thức ra mắt tại Việt Nam với cương vị là một label âm nhạc quốc tế, tiếp bước hành trình đầy rực rỡ ấy.

Box Entertainment không chỉ là nơi tạo ra âm nhạc, mà còn là điểm đến cho các nhạc sĩ, producer quốc tế cùng kết nối, sáng tạo với những tài năng châu Á.

Với mạng lưới quốc tế mạnh mẽ, không gian làm việc chuyên nghiệp, đặc biệt là phòng thu sử dụng công nghệ analog huyền thoại SSL 9000 J, Box Entertainment không chỉ là nơi tạo ra âm nhạc, mà còn là điểm đến cho các nhạc sĩ, producer quốc tế cùng kết nối, sáng tạo với những tài năng châu Á.

Chiếc bàn mixing huyền thoại này từng là trái tim của Hit Factory Studio 3, phòng thu danh tiếng tại New York, nơi các biểu tượng âm nhạc thế giới như Michael Jackson, Celine Dion, Mariah Carey, Beyoncé và Lady Gaga đã tạo nên những bản hit đình đám, vang danh toàn cầu.

Studio của Box Entertainment tại Việt Nam hiện nay là phòng thu duy nhất tại Châu Á, cũng là một trong rất ít phòng thu trên thế giới sở hữu thiết bị danh tiếng này.

Với số lượng chỉ 50 chiếc trên toàn cầu được sản xuất, SSL 9000 J không chỉ là một bàn mixing đơn thuần mà còn là một biểu tượng trong ngành sản xuất âm nhạc.

Đây cũng là một trong những bước tiến quan trọng, đặt Việt Nam lên trên bản đồ âm nhạc thế giới, khẳng định khả năng đáp ứng nhu cầu sản xuất âm nhạc tiêu chuẩn Quốc tế nhằm góp phần nâng tầm nền âm nhạc Việt Nam.

Mảng phát triển nghệ sĩ cũng sẽ là một trong những mảng hoạt động chính của Box Entertainment nhằm đưa những tài năng của Việt Nam lên bản đồ âm nhạc thế giới

Studio dự kiến sẽ chính thức đi vào hoạt động vào tháng 7/2025. ZOE – nghệ sĩ độc quyền của Box Entertainment, chuẩn bị ra mắt vào tháng sau, trở thành nữ nghệ sĩ Châu Á đầu tiên ký kết hợp đồng với một label âm nhạc Châu Âu cho các hoạt động tại thị trường quốc tế.

Với hướng đi này, mảng phát triển nghệ sĩ cũng sẽ là một trong những mảng hoạt động chính của Box Entertainment nhằm đưa những tài năng của Việt Nam lên bản đồ âm nhạc thế giới.

Phương Anh

Nguồn: Dulichvn

Giữ nghề bánh ú tro ở Hội An

Bánh ú tro là món ăn truyền thống ở thành phố Hội An trong những dịp Tết Đoan ngọ (mồng 5 tháng 5 âm lịch), song nghề này đang dần mai một.


Gia đình bà Tý gói bánh ú tro để cung cấp thị trường Tết Đoan ngọ. Ảnh: Nguyễn Quỳnh

Hiện nay những gia đình làm nghề bánh ú tro ở Hội An dần thưa thớt vì nguyên liệu khan hiếm, phần lớn người làm loại bánh này đã lớn tuổi. Người dân Hội An chỉ làm món bánh này để cung cấp ra thị trường trong những dịp Tết Đoan ngọ.

Những chiếc bánh ú tro được buộc dây khá cẩn thận để khi hấp không thấm nước. Ảnh: Nguyễn Quỳnh

Men theo con hẻm nhỏ, chúng tôi tìm đến cơ sở làm bánh ú tro truyền thống của gia đình bà Lê Thị Tý (58 tuổi, khối phố Sơn Phô 1, phường Cẩm Châu, Hội An) vào một ngày cuối tháng 5.

Trong căn nhà cấp 4, bà Tý cùng với 6 người dân trong khối phố đang làm các công đoạn như cắt lá đót, gói bánh, lọc nước tro, tước dây…

Nếp được ngâm và rửa sạch trước khi gói bánh ú tro. Ảnh: Nguyễn Quỳnh

Bà Tý cho biết, gia đình gắn bó với nghề làm bánh ú tro hơn 17 năm nay. Nguyên liệu làm bánh ú tro được bà đặt mua lá ở vùng cao Phước Sơn, vỏ hến ở đảo Cù Lao Chàm (Hội An) và nếp ở tỉnh An Giang.

“Để làm bánh ú tro có hương vị đặc trưng ở Hội An, tôi chọn nếp không có lẫn gạo, ngâm mềm và vuốt thật sạch, lá phải được rửa kỹ qua nước, luộc chín trước khi gói bánh còn vỏ hến được đốt thành tro và lọc lấy nước.

Bánh ú tro của gia đình tôi làm không có chất bảo quản nên không thể để lâu, khi ăn bánh mềm dẻo nên được khách hàng rất ưa chuộng” – bà Tý nói.

Bánh ú tro Hội An được làm khá tỉ mỉ và đẹp mắt. Ảnh: Nguyễn Quỳnh

Năm nay, gia đình bà Tý chuẩn bị 3 tạ nếp cùng với các nguyên liệu khác để làm khoảng 30 nghìn chiếc bánh ú tro và tàu xá để cung cấp ra thị trường từ ngày mồng 1 đến mồng 4 tháng Năm âm lịch.

Thị trường tiêu thụ bánh ú tro của gia đình bà Tý không chỉ ở thành phố Hội An mà còn nhiều khách hàng ở các huyện, thành phố, thị xã đặt mua như Điện Bàn, Tam Kỳ, Đà Nẵng… Bánh ú tro được bà Tý bán với giá 19 nghìn đồng/chục, còn bánh tàu xá có giá cao hơn.

Mặc dù gia đình có truyền thống làm bánh ú tro nhưng hai người con trai của bà Tý không theo nghề. “Tôi lo nhất là nghề làm bánh ú tro sẽ dần mai một, vì hiện nay thị trường loại bánh này được làm khá phổ biến, khó cạnh tranh, thu nhập đem lại không cao nên lớp trẻ không ai theo nghề” – bà Tý trăn trở.

Bánh ú tro khi ăn có vị mềm dẻo và thơm ngon. Ảnh: Nguyễn Quỳnh

Theo Trung tâm Quản lý Bảo tồn di sản văn hóa Hội An, bánh ú tro còn có “chị em ruột” là bánh tàu xá, to hơn nhiều vì bọc nhân đậu đen rim đường ngọt lịm, đặc biệt ngon và tất nhiên là đắt tiền hơn. Bánh ú tro rất phổ biến và giá cả tương đối bình dân. Bánh tàu xá lại là loại sang để các nhà có mối quan hệ thân tình biếu tặng nhau dịp Tết Đoan ngọ.

Tục lệ thông thường của cư dân Hội An xưa, Tết Đoan ngọ cũng như Tết Nguyên đán là dịp để mọi người bày tỏ tình cảm, lòng biết ơn hoặc thắt chặt mối quan hệ bằng hình thức biếu quà.

Nguyễn Quỳnh

 

Nguồn: Dulichvn

Nhà tù Hỏa Lò: từ địa ngục trần gian đến bảo tàng ký ức

Nhà tù Hỏa Lò, nơi đã chứng kiến biết bao sự kiên cường của các chiến sĩ cách mạng, giờ đây đã trở thành điểm đến hàng đầu của du khách quốc tế khi tới Việt Nam.


Nhà tù Hỏa Lò – chứng tích lịch sử một thời oanh liệt của dân tộc.

Trong đó có 2 du khách người Mỹ: Charles J. Francis và Anne Francis – những người mà trong chuyến tham quan này phải lặng người trước sự thật lịch sử.

Nền của khu di tích Hoả Lò ngày nay nằm trên đất của Làng nghề Phụ Khánh xưa kia, do hai thôn Nam Phụ và Nguyên Khánh hợp thành. Vào thế kỷ XIX, đây là làng nghề duy nhất ở Thăng Long có nghề thủ công truyền thống chuyên các loại ấm đất, siêu đất,… Làng nghề luôn rực sáng ảnh lửa lò nung nên có tên là Hỏa Lò, sau thực dân Pháp đến chiếm Hà Nội, chúng đã biến nơi đây thành nhà tù giam giữ, từ đó cái tên Nhà tù Hỏa Lò cũng được sinh ra.

Với Trại giam D và trại giam, thiết kế chung của các phòng giam là nhà lợp ngói, dưới lớp ngói là lớp trần cùng tường xây kiên cố khiến tù nhân không thể đục mái trốn thoát. Phòng giam được sơn chia làm hai lớp, phía dưới là sơn đen còn bên trên là vôi xám khiến cho người bên trong luôn cảm thấy ngột ngạt, khó chịu; cùng với đó là do bức xạ nhiệt của hai màu này khiến cho mùa hè thì nóng cực nóng, mùa đông lại lạnh cực lạnh..

Hiện nay, phòng nối nhà giam D và nhà giam E là nơi trưng bày những hiện vật và đồ dùng sinh hoạt của tù nhân. Bộ quần áo được phát làm bằng vải trắng đục, sơ sài, may theo khổ nhỏ, không có khuy mà được buộc bằng dây, có chữ MC trên áo, là viết tắt của từ “Maison Centrale”. Nơi đây cai ngục không cho dùng bát, đũa mà phải ăn bằng máng gỗ, thùng tôn, vì vậy bát đũa nơi đây đều là do tù nhân sáng tạo từ cành bàng, gáo dừa mà ra.

“Những người tù hẳn đã phải vô cùng mạnh mẽ và kiên cường mới có thể trụ lại nơi đây. Thật lòng trong những hoàn cảnh khó khăn nhất, họ vẫn tìm ra con đường sống cho mình” – nữ du khách Anne chia sẻ.

Tù nhân ở Nhà tù Hỏa Lò phải chịu đựng những điều kiện sống vô cùng khắc nghiệt và tàn bạo. Họ bị bắt buộc lao động nặng nhọc mỗi ngày với nhiều công việc vất vả như phục vụ các công sở bên ngoài, đắp đê, sửa chữa đường xá, thậm chí phải dọn dẹp bể chứa phân trong nhà tù. “Tôi thực sự không nghĩ những người tù được coi là một con người. Vì một con người không thể bị chịu hay phải chịu những điều man rợ như thế” – du khách Charles ngậm ngùi.

Nhà giam nữ trong Nhà tù Hỏa Lò là nơi giam giữ những nữ tù nhân bị xem là đặc biệt nguy hiểm, và họ phải chịu đựng những hình thức đày đọa không kém phần tàn khốc so với tù nhân nam. Một trong những người phụ nữ tiêu biểu từng bị giam tại đây là bà Nguyễn Thị Hồng Thái – người vợ đầu của Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Bị bắt vào năm 1942 và kết án 16 năm tù, bà không chỉ kiên cường chịu đựng cảnh giam cầm mà còn trở thành điểm tựa tinh thần cho chị em trong tù. Bà khuyến khích họ đứng lên đấu tranh chống lại chế độ áp bức, đồng thời dạy chữ và chia sẻ kiến thức y học. Trong đợt dịch thương hàn năm 1943, bà đã dùng hiểu biết y khoa của mình để chăm sóc chị em tù nhân, nhưng cuối cùng chính bà cũng mắc bệnh và qua đời năm 1944, khi chưa kịp gặp lại đứa con đầu lòng.

Cổng chính Nhà tù làm bằng gỗ lim, mỗi cánh cao 2.5m, nặng 800kg, phải sử dụng bánh xe ở dưới mới có thể đóng, mở dễ dàng.

“Tôi chưa từng đến nơi nào như thế này, nhưng thật kinh khủng khi nghĩ đến cảnh hàng chục con người, kể cả những em bé vô tội, bị nhốt chung trong không gian chật chội, tù túng đến ngạt thở giữa một môi trường tăm tối” – Anne rưng rưng, nghẹn ngào nói.

Nhà giam nữ còn có khu vực dành riêng cho những người mẹ có con nhỏ, thế nhưng sự tàn nhẫn vẫn hiện diện: khẩu phần ăn không được tăng thêm cho trẻ, khiến các em suy dinh dưỡng và khó phát triển bình thường. Điều kiện sinh hoạt vô cùng thiếu thốn – dù số lượng người đông, mỗi ngày họ chỉ được một gáo nước để tắm, hoặc nếu hai ngày mới tắm một lần thì được hai gáo nước lớn, cho thấy sự khắc nghiệt đến tận cùng trong cuộc sống lao tù của những người phụ nữ yêu nước.

Bước vào khu trưng bày giam giữ phi công Mỹ – một không gian hoàn toàn tách biệt với những căn phòng tối tăm, ẩm thấp, ngột ngạt đến từng hơi thở mà họ vừa đi qua. Ở đây, không còn những dãy cùm sắt buộc thấu đến xương, hay những bộ đồ mỏng tựa như giấy. Thay vào đó là những khung cảnh sinh hoạt, những bức thư viết tay, một loạt các hiện vật về đời sống tinh thần vô cùng xa xỉ trong khoản thời gian gợi lên một lát cắt khác của chiến tranh – yên lặng, nhân đạo và đầy suy ngẫm.

Dẫu lúc bấy giờ, đất nước Việt Nam vẫn ngập trong bom lửa và nghèo đói, nhưng chính phủ vẫn dành cho tù binh Mỹ một chế độ chăm sóc đặc biệt – một hành động tưởng chừng như không có thật ở nơi mệnh danh là “địa ngục trần gian”.

Khi mới bị bắt, các phi công được cấp phát đầy đủ quần áo, chăn màn, giày dép. Họ ăn ba bữa một ngày, tiêu chuẩn 1.6 đồng – gấp đôi khẩu phần của cán bộ, chiến sĩ Việt Nam thời đó.

Bà Anne dừng lại rất lâu trước một bảng ghi chú mô tả chi tiết chế độ dành cho tù binh.

Thông qua những kỷ vật của các cựu phi công Mỹ, Hỏa Lò không chỉ kể một câu chuyện khác về chiến tranh, mà còn mở ra một cánh cửa để du khách quốc tế hiểu hơn về giá trị cốt lõi của dân tộc Việt Nam – lòng nhân đạo, sự thấu cảm, ngay cả trong những ngày tháng tăm tối nhất của đời người…

Ông Charles chia sẻ: “Tôi chưa từng tưởng tượng rằng tự do là một điều phải đánh đổi nhiều đến vậy… Đây không chỉ là vượt ngục, mà là tuyên nguyên sống còn của cả một dân tộc.”

Dù cho thực dân Pháp từng khẳng định Nhà tù Hoả Lò kiên cố bậc nhất Đông Dương, không một tù nhân nào có thể trốn thoát nhưng lịch sử đã chứng minh ngược lại. Cuộc vượt ngục đêm Noel năm 1932 của 7 tù nhân chính trị, Noel 1951 của 16 tử tù, và đặc biệt là hành trình ngoạn mục của hơn 100 chiến sĩ cách mạng vào tháng 3/1945 đã chứng minh không xiềng xích nào có thể kìm hãm được ngọn lửa tự do cháy bỏng trong tim người Việt nam.

“Tôi nghĩ những viễn cảnh này chỉ có trong phim ảnh cho tới khi chứng kiến những miệng cống quá chật hẹp để vừa với thân thể một người bình thường ngay trước mắt tôi, thật quá đỗi kinh ngạc trước sức mạnh và ý chí của chiến sĩ Việt Nam.” – ông Charles bàng hoàng nói.

“Tôi chưa từng nghĩ giữa lòng thủ đô yên bình hôm nay lại tồn tại một địa danh đau thương đến vậy.” – bà Anne chia sẻ.

Với các du khách như vợ chồng ông bà Charles, Nhà tù Hỏa Lò không chỉ là một di tích lịch sử, mà còn là nơi để hiểu bản lĩnh của người Việt Nam trong suốt hành trình giành độc lập và bảo vệ hòa bình.

Thanh Kiều – Khánh Linh – Bảo Ngọc

 

Nguồn: Dulichvn

Khi nghệ thuật làm sống dậy không gian di sản

Thời gian gần đây, nhiều chương trình nghệ thuật được tổ chức tại không gian văn hóa gắn liền với các di sản đang trở thành điểm hẹn lý tưởng của người trẻ. Không còn là những buổi biểu diễn đơn thuần, đây là sự giao thoa hài hòa giữa hiện đại và truyền thống, nơi âm nhạc, ánh sáng, thời trang hay trình diễn đương đại,… được đặt trong không gian cổ kính của các di sản, tạo nên trải nghiệm độc đáo.


Một tiết mục trong chương trình nghệ thuật “Linh thiêng đình Chèm – Dòng chảy tinh hoa”. Ảnh: Thương Nguyễn.

Đắm mình vào di sản văn hoá

Tại không gian Trung tâm Văn hóa Nghệ thuật 22 Hàng Buồm (Hà Nội), xem vở cải lương “Cành khế ngọt” do Nhà hát Cải lương Việt Nam biểu diễn, nhiều du khách cho biết họ đã có những khoảnh khắc sâu lắng trong nghệ thuật truyền thống.

Hay như với chương trình nghệ thuật thực cảnh “Việt Nam – Huyền sử diễn ca: Thăng Long – Tứ trấn” được tổ chức tại Trung tâm Hoàng thành Thăng Long cũng tạo ra những hiệu ứng tích cực.

Trong nỗ lực đưa di sản đến gần hơn với công chúng, khu di tích Văn Miếu – Quốc Tử Giám cũng không ngừng đổi mới, áp dụng công nghệ hiện đại để tạo ra các sản phẩm trải nghiệm độc đáo, thu hút du khách và phát triển công nghiệp văn hóa của Thủ đô. Với việc phát triển các sản phẩm phục vụ công nghiệp văn hóa, Văn Miếu – Quốc Tử Giám đã tái định hình cách tiếp cận di sản, biến mỗi chuyến tham quan thành một hành trình trải nghiệm đầy ấn tượng, thu hút được rất đông giới trẻ.

Theo các chuyên gia văn hoá, việc giới trẻ chủ động tìm đến các không gian văn hóa di sản cho thấy nhu cầu tìm lại bản sắc văn hóa truyền thống đang được khơi dậy mạnh mẽ trong cộng đồng. Di sản giờ đây không còn là khái niệm tĩnh, khép mình trong bảo tồn đơn lẻ, mà đang từng bước “sống lại” nhờ cách tiếp cận mới: tổ chức nghệ thuật trong không gian văn hóa truyền thống, vừa nâng tầm trải nghiệm, vừa khơi gợi sự kết nối giữa quá khứ và hiện tại.

Sự lan tỏa, sức hút của những chương trình nghệ thuật tại di sản là minh chứng sinh động cho một hành trình kế thừa và phát huy giá trị văn hóa dân tộc bằng ngôn ngữ nghệ thuật đương đại. Đó không chỉ là cách để giữ gìn bản sắc văn hóa truyền thống, mà còn làm giàu cho đời sống tinh thần của thế hệ hôm nay.

Nhà nghiên cứu văn hóa – TS Nguyễn Ánh Hồng cho rằng, âm nhạc truyền thống tạo cho người ta một chiều sâu, một hồi ức mang tính thiêng liêng, đưa con người trở về với cội nguồn. Còn âm nhạc hiện đại lại mang hơi thở của cuộc sống. Sự kết hợp này đem đến những cảm nhận hết sức thi vị và hấp dẫn.

Di sản sống động trong những sản phẩm

Bên cạnh việc các chương trình nghệ thuật chọn không gian di sản làm sân khấu trình diễn, nhiều nghệ sĩ trẻ cũng chủ động đưa chất liệu văn hóa truyền thống vào sản phẩm âm nhạc của mình như một cách kể chuyện dân tộc bằng ngôn ngữ đương đại. Điển hình như Hoàng Thùy Linh, Đen Vâu, Hà Myo, Phương Mỹ Chi đã ghi dấu ấn với những tác phẩm mang âm hưởng dân gian đương đại.

Gần đây nhất, cái tên Hòa Minzy phủ sóng trên nhiều nền tảng mạng xã hội với MV “Bắc Bling” – sự kết hợp độc đáo giữa âm nhạc hiện đại và chất liệu dân gian, khi khéo léo pha trộn rap, xẩm, chèo và quan họ, những tinh hoa nghệ thuật của vùng Kinh Bắc. Không chỉ gây ấn tượng về mặt nghệ thuật, Bắc Bling còn đạt được thành tích đáng nể khi nhanh chóng leo lên vị trí Top 1 Trending YouTube Việt Nam và trở thành MV ra mắt ấn tượng nhất toàn cầu chỉ sau 24 giờ phát hành.

Sự thành công này không chỉ là minh chứng cho sức hút của Hòa Minzy, mà còn cho thấy khán giả, đặc biệt là giới trẻ, ngày càng quan tâm và trân trọng các giá trị văn hóa truyền thống khi tác phẩm được thể hiện một cách sáng tạo và gần gũi.

PGS.TS Phạm Ngọc Trung – nguyên Trưởng khoa Văn hoá và Phát triển (Học viện Báo chí và Tuyên truyền) – nhấn mạnh, việc tổ chức các chương trình nghệ thuật tại không gian văn hoá, lịch sử của di sản là một hướng đi đúng đắn, góp phần làm sống dậy và lan toả các giá trị truyền thống theo cách hiện đại.

Theo ông, trước đây, nhiều di sản văn hoá được bảo tồn theo lối “đóng khung”, nghĩa là giữ nguyên trạng trong không gian linh thiêng, hạn chế đông người… Tuy nhiên, cách bảo tồn này khiến di sản trở nên xa cách, khó tiếp cận và khó phát huy được hết giá trị vốn có.

 “Khoảng 5 năm trở lại đây, việc kết hợp giữa các loại hình nghệ thuật đương đại với không gian kiến trúc – lịch sử của di sản đang mở ra một hướng tiếp cận mới, vừa tôn trọng giá trị truyền thống, vừa tạo ra sức sống mới cho di sản” – PGS.TS Phạm Ngọc Trung nhận định.

Những chương trình biểu diễn nghệ thuật tại các di tích không chỉ giúp khán giả thưởng thức nghệ thuật trong không gian, khung cảnh giàu tính biểu tượng mà còn tạo nên sự cộng hưởng đặc biệt giữa yếu tố truyền thống và hiện đại. “Hai loại hình nghệ thuật xưa và nay hòa quyện một cách hài hòa, tinh tế. Khán giả, đặc biệt là giới trẻ, dễ dàng tiếp cận hơn với văn hoá truyền thống thông qua hình thức mới mẻ và hấp dẫn này”, ông Trung nhấn mạnh.

Đáng chú ý, hiệu ứng của các chương trình không chỉ dừng lại ở sân khấu trực tiếp mà còn lan tỏa mạnh mẽ qua mạng xã hội – nơi người trẻ chia sẻ, tương tác và truyền cảm hứng. Theo đánh giá của PGS.TS Phạm Ngọc Trung, việc các nghệ sĩ trẻ đưa yếu tố di sản và chất liệu văn hóa truyền thống vào sản phẩm âm nhạc hiện nay là một tín hiệu tích cực, cho thấy tinh thần trân trọng và mong muốn lan tỏa giá trị văn hóa dân tộc tới công chúng rộng rãi hơn, đặc biệt là giới trẻ.

Tuy nhiên, theo TS Nguyễn Thị Ánh Hồng, nghệ thuật cũng như khoa học, luôn cần có sự chừng mực. Vượt quá sự chừng mực, tính thẩm mỹ sẽ mất đi, sức hấp dẫn cũng không còn. Điều quan trọng là phải đảm bảo yếu tố kế thừa có chọn lọc và sáng tạo. Nếu làm đúng nguyên tắc này, các giá trị văn hóa truyền thống không những không bị mất đi mà còn có thể lan tỏa và phát triển sâu sắc, bền vững hơn.

Đồng quan điểm, PGS. TS Phạm Ngọc Trung cho rằng, trong bối cảnh các chương trình biểu diễn ngày càng đa dạng và phá cách, điều quan trọng là phải giữ được sự hài hòa giữa cái mới và cái cũ, giữa sự sáng tạo và giới hạn văn hóa. Khi hiểu biết làm nền tảng cho sáng tạo, di sản sẽ không bị “dàn dựng” một cách tuỳ tiện, mà được thổi hồn bằng những hình thức nghệ thuật đương đại một cách có chiều sâu, nhân văn và đầy sức sống.

Hoàng Chiến

Nguồn: Dulichvn

Đến Tuyên Quang thưởng thức cá quả nướng vùng cao

Đến Tuyên Quang, bạn sẽ được thưởng thức một món ăn mang đậm văn hóa bản địa, đó là cá quả nướng vùng cao. Không chỉ là món ăn, cá quả nướng còn là một lát cắt tinh tế trong văn hóa ẩm thực của đồng bào dân tộc nơi đây – những con người sống hòa quyện với thiên nhiên, từ con nước đến hạt muối, từ cây mắc khén đến than hồng rực lửa.

 


Cá quả nướng

Cá quả – còn gọi là cá chuối – sinh trưởng trong các khe suối tự nhiên hoặc ao hồ bản địa, thịt săn chắc, trắng và thơm ngọt. Cá quả có thể chế biến thành nhiều món ngon hấp dẫn, nhưng có lẽ gây thương nhớ hơn cả là món cá nướng.

Không như cách nướng phổ biến ở miền xuôi, cá quả ở đây được sơ chế kỹ lưỡng rồi tẩm ướp với gia vị đặc trưng chỉ có ở vùng cao: hạt mắc khén, hạt dổi rừng, ớt thóc, lá chanh rừng, sả dại và muối trắng. Từng khía thịt cá được nhồi kỹ gia vị, để ướp ngấm trong hàng giờ đồng hồ. Hương rừng, vị cay nồng, thơm dịu quyện vào từng thớ thịt.

Cá được kẹp trong cặp tre nứa chẻ đôi, nướng chậm trên bếp than hồng. Người vùng cao không nướng vội – họ kiên nhẫn trở cá từng chút, để lửa liu riu làm chín cá từ trong ra ngoài, giữ nguyên độ ngọt của thịt và lớp da giòn rụm phủ đầy mùi thơm của mắc khén. Mỗi tiếng xèo xèo từ da cá cháy cạnh như tiếng kể chuyện của núi rừng, của những ngày lễ hội, mùa gặt hay tiệc cưới đượm tình người.

Hiện nay, khi du lịch cộng đồng phát triển, cá quả nướng vùng cao dần trở thành biểu tượng ẩm thực níu chân du khách. Không ai ghé Tuyên Quang mà không một lần thử cá nướng bên bếp than, nhấp một chén rượu ngô, để thấy trọn vẹn vị núi rừng trong từng miếng ăn – mộc mạc, tinh tế và sâu lắng như chính mảnh đất bên dòng Lô – Gâm này.

 Hoàng Anh

 

Cá quả nướng

Cá quả – còn gọi là cá chuối – sinh trưởng trong các khe suối tự nhiên hoặc ao hồ bản địa, thịt săn chắc, trắng và thơm ngọt. Cá quả có thể chế biến thành nhiều món ngon hấp dẫn, nhưng có lẽ gây thương nhớ hơn cả là món cá nướng.

Không như cách nướng phổ biến ở miền xuôi, cá quả ở đây được sơ chế kỹ lưỡng rồi tẩm ướp với gia vị đặc trưng chỉ có ở vùng cao: hạt mắc khén, hạt dổi rừng, ớt thóc, lá chanh rừng, sả dại và muối trắng. Từng khía thịt cá được nhồi kỹ gia vị, để ướp ngấm trong hàng giờ đồng hồ. Hương rừng, vị cay nồng, thơm dịu quyện vào từng thớ thịt.

Cá được kẹp trong cặp tre nứa chẻ đôi, nướng chậm trên bếp than hồng. Người vùng cao không nướng vội – họ kiên nhẫn trở cá từng chút, để lửa liu riu làm chín cá từ trong ra ngoài, giữ nguyên độ ngọt của thịt và lớp da giòn rụm phủ đầy mùi thơm của mắc khén. Mỗi tiếng xèo xèo từ da cá cháy cạnh như tiếng kể chuyện của núi rừng, của những ngày lễ hội, mùa gặt hay tiệc cưới đượm tình người.

Hiện nay, khi du lịch cộng đồng phát triển, cá quả nướng vùng cao dần trở thành biểu tượng ẩm thực níu chân du khách. Không ai ghé Tuyên Quang mà không một lần thử cá nướng bên bếp than, nhấp một chén rượu ngô, để thấy trọn vẹn vị núi rừng trong từng miếng ăn – mộc mạc, tinh tế và sâu lắng như chính mảnh đất bên dòng Lô – Gâm này.

 Hoàng Anh

 

Nguồn: Dulichvn

TP Huế khuyến khích phát triển du lịch tìm hiểu, trải nghiệm văn hóa Phật giáo

TP Huế khuyến khích một số doanh nghiệp và cá nhân đầu tư các loại hình dịch vụ du lịch vào sản phẩm tìm hiểu, trải nghiệm văn hóa Phật giáo.


UBND thành phố Huế vừa ban hành Kế hoạch số 235/KH-UBND “Phát triển du lịch tìm hiểu, trải nghiệm văn hóa Phật giáo trên địa bàn TP Huế” giai đoạn 2025 – 2030.

Theo đó, kế hoạch phấn đấu đạt những mục tiêu cụ thể như: Tổng hợp, đánh giá tiềm năng và thực trạng khai thác sản phẩm du lịch tâm linh tại TP Huế. Khảo sát sản phẩm, đánh giá dịch vụ du lịch gắn với cơ sở Phật giáo để đưa ra giải pháp đáp ứng nhu cầu, thị hiếu của khách du lịch, tạo điều kiện để các doanh nghiệp du lịch khai thác sản phẩm này trên địa bàn. Xây dựng, định hướng một số chương trình du lịch tìm hiểu, trải nghiệm văn hóa Phật giáo trên địa bàn để đưa vào khai thác sử dụng, phát triển hài hòa theo hướng bền vững.

Du khách tham quan TP Huế trong mùa Phật đản.

Bên cạnh đó, thành phố khuyến khích một số doanh nghiệp và cá nhân đầu tư các loại hình dịch vụ du lịch vào sản phẩm này. Thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp kết hợp đào tạo phát triển nguồn nhân lực phục vụ tại các cơ sở phật giáo, hướng dẫn viên du lịch và cộng đồng để nâng cao dịch vụ tiến đến hoàn thiện sản phẩm trong thời gian tới.

Để thực hiện các mục tiêu kể trên, kế hoạch cũng đưa ra các nhiệm vụ trọng tâm bao gồm: Đánh giá tiềm năng và thực trạng phát triển loại hình du lịch tâm linh tại TP Huế; Hỗ trợ các doanh nghiệp du lịch khảo sát, xây dựng, hình thành được một số sản phẩm, chương trình du lịch tìm hiểu, trải nghiệm văn hóa Phật giáo trên địa bàn; Đẩy mạnh công tác đào tạo, tập huấn; Tổ chức hội nghị, hội thảo chuyên đề về phát triển du lịch tìm hiểu, trải nghiệm văn hóa Phật giáo trên địa bàn; Tổ chức các sự kiện ẩm thực chay…

Nhằm đảm bảo việc triển khai kế hoạch hiệu quả, UBND thành phố Huế cũng yêu cầu sự phối hợp chặt chẽ giữa Sở Du lịch và các sở, ban, ngành, đơn vị liên quan, doanh nghiệp du lịch trên địa bàn./.

Nguyên Thủy

Nguồn: Dulichvn

Tòa thánh Tây Ninh: Công trình kiến trúc tâm linh độc đáo

Tòa Thánh Cao đài Tây Ninh là một trong những công trình tôn giáo nổi bật của Việt Nam, không chỉ bởi sự độc đáo trong kiến trúc mà còn vì giá trị văn hóa, tâm linh sâu sắc. Nằm cách trung tâm TP Tây Ninh khoảng 5 km về phía Đông Nam, Tòa Thánh Tây Ninh là nơi thờ tự cấp trung ương của đạo Cao đài, một tôn giáo do người Việt sáng lập vào năm 1926 tại tỉnh Tây Ninh. Với vẻ đẹp huyền bí và kiến trúc độc đáo, Tòa Thánh là một trong những điểm đến thú vị của du khách khi đến với vùng đất cực Tây của vùng Đông Nam Bộ.


Tòa Thánh Tây Ninh với kiến trúc tâm linh độc đáo

Tòa Thánh Tây Ninh tọa lạc tại thị xã Hòa Thành, tỉnh Tây Ninh. Trong đạo Cao đài, tên gọi đầy đủ của Tòa Thánh Tây Ninh là “Tòa thánh Đại đạo Tam Kỳ Phổ độ” hay “Tòa Thánh Cao Đài”. Đạo Cao đài kết hợp tinh thần của các tôn giáo lớn như: Phật giáo, Đạo giáo, Nho giáo và Kitô giáo. Ngoài thờ Thiên nhãn (biểu tượng cho mắt của Thượng đế), đạo còn thờ các vị như: Phật Thích Ca, Chúa Giêsu, Khổng Tử, Lão Tử, Phật Bà Quan Âm…

Theo các vị chức sắc tại đây, ý tưởng xây dựng Tòa Thánh được hình thành vào năm 1926 khi đạo Cao đài mới được thành lập tại ngôi chùa Gò Kén, thị xã Hòa Thành. Mục đích ban đầu là tạo ra một tổ đình để các tín đồ có thể tụ họp hành lễ. Nhóm nhân sĩ đầu tiên của đạo Cao đài đã mua một mảnh đất rộng 50 ha của một thương nhân người Pháp tại làng Long Thành, Hòa Thành, để bắt đầu xây dựng công trình. Tòa Thánh được khởi công vào năm 1931 và mất hơn 20 năm để hoàn thiện (từ năm 1926 đến năm 1947). Đặc biệt, công trình này được xây dựng chủ yếu bằng sức lao động của tín đồ, không có bản thiết kế hay sự hỗ trợ của một kỹ sư nào. Trong suốt quá trình xây dựng, các tín đồ phải lập Hồng thệ (không lấy vợ, lấy chồng) để đảm bảo đủ âm dương cho công trình.

Tòa Thánh Tây Ninh có chiều dài gần 100 m, rộng 22 m, phần cao nhất 36 m, tổng diện tích hơn 2.000 m2. Một vị chức sắc tại đây cho biết: “Các tín đồ đã tận dụng mọi nguyên liệu có sẵn như: gạch, đá, xi măng và cả chén, dĩa sành vỡ để làm vật liệu trang trí các bức phù điêu, trụ, tượng rồng. Đặc biệt, các trụ cột chống đỡ Tòa Thánh được gia cố bằng cây tầm vông và tre, cùng với bê tông, cốt thép. Các khung cửa sổ được trang trí bằng họa tiết hoa sen đỡ một khung hình Thiên nhãn, chính giữa có một tam giác đều bao quanh vách của Đại điện.

Trụ cột chống đỡ Tòa Thánh được gia cố bằng cây tầm vông và tre cùng bê tông, cốt thép, được đắp bằng những mảnh chén, dĩa sành vỡ

Khi khánh thành vào năm 1955, Tòa Thánh được chia thành ba phần theo hướng từ Đông sang Tây, mang nhiều ý nghĩa tâm linh sâu sắc. Phần đầu tiên là Bát quái đài, nơi thờ các vị Thánh, Thần, Tiên, Phật. Ở trung tâm của Bát quái đài thờ Thiên nhãn nằm trên quả càn khôn có 3.027 ngôi sao. Phía dưới Bát quái đài là căn hầm đặt 6 hũ tro cốt của các chức sắc tôn giáo có công khai sáng nền đạo. Tiếp theo là Cửu trùng đài, với 7 ghế sơn son thếp vàng tượng trưng cho các chức sắc cao nhất của đạo Cao đài. Phía trên Cửu trùng đài là mái nghinh phong đài. Mái của nghinh phong đài có tượng Long Mã mang Hà Đồ được ghép từ nhiều mảnh chén, dĩa sành bị vỡ, một hình ảnh mang ý nghĩa sự phát triển của tôn giáo từ phương Đông đến phương Tây. Đầu Long Mã hướng sang phía Đông, tức luôn nhìn về cội nguồn. Trên trần của Tòa Thánh được vẽ trang trí 9 khoảng trời mây và sao. Khu vực xung quanh của Tòa Thánh có 12 cổng Tam quan, được chạm khắc hình tứ linh (long, lân, quy, phụng) và hoa sen, xây dựng theo 3 lối kiến trúc khác nhau. Cổng chính là Chánh Môn, 11 cổng còn lại được đánh số từ 1 đến 11. Ngoài tổ đình, trong khuôn viên Tòa Thánh, rộng hơn 1,2 km², có tới gần 100 công trình kiến trúc lớn nhỏ khác nhau như: Tòa Thánh, các cơ quan hành chánh Đạo, Bửu Tháp… “Điều đặc biệt là dù chỉ dựa vào sức người, không có bất kỳ thiết bị hỗ trợ hay thiết kế xây dựng, song từ khi hoàn thành đến nay, công trình vẫn rất kiên cố, vững bền. Tòa Thánh chưa từng được tu sửa mà chỉ sơn lại ba lần cách nhau khoảng 20 năm”, một vị chức sắc tại đây cho biết.

Ngày nay, Tòa Thánh Tây Ninh là một trong những thánh địa lớn nhất của đạo Cao đài, với hơn 2,4 triệu tín đồ, xếp thứ 4 trong 16 tôn giáo được Nhà nước công nhận. Mỗi năm, nơi đây đón tiếp hàng triệu lượt khách tham quan, đặc biệt trong các dịp đại lễ vía Đức Chí Tôn vào mùng 9 tháng Giêng và Hội Yến Diêu Trì Cung vào rằm tháng 8. Đây là dịp để du khách khám phá vẻ đẹp huyền bí của công trình kiến trúc độc đáo này và hiểu thêm về giá trị văn hóa, lịch sử và tâm linh của đạo Cao đài.

Tòa Thánh Tây Ninh không chỉ là niềm tự hào của tín đồ đạo Cao đài mà còn là biểu tượng của sự hòa hợp giữa các tôn giáo và nền văn hóa đa dạng của Việt Nam. Công trình này thể hiện một cách sinh động sự kết hợp giữa tinh thần tôn giáo và nghệ thuật kiến trúc, làm nổi bật vẻ đẹp huyền bí và sâu sắc của một vùng đất giàu truyền thống.

Nhật Quỳnh

 

 

Nguồn: Dulichvn

Long An phát huy di tích, phát triển du lịch bền vững

Long An khai thác 127 di tích và làng nghề truyền thống để phát triển du lịch. Tỉnh đẩy mạnh quảng bá, đầu tư hạ tầng, ứng dụng công nghệ bảo tồn di sản, kết nối văn hóa – lịch sử với sản phẩm OCOP, thu hút du khách trẻ, góp phần phát triển kinh tế nông thôn và giữ gìn bản sắc dân tộc.


Long An đang sở hữu 127 di tích lịch sử – văn hóa, trong đó có 21 di tích cấp quốc gia và 106 di tích cấp tỉnh, cùng nhiều làng nghề truyền thống. Tỉnh đang từng bước phát huy tiềm năng du lịch, gắn với bảo tồn giá trị văn hóa, phát triển kinh tế địa phương.

Du khách đến với Khu di tích Xứ ủy Nam kỳ tại huyện Tân Thạnh

Bên cạnh việc trùng tu, bảo tồn các công trình lịch sử, tỉnh Long An cũng tích cực lập hồ sơ đề nghị xếp hạng di tích cấp quốc gia cho nhiều địa điểm như: Nhà Long Hiệp (huyện Bến Lức), Khu vực Cầu Kinh (huyện Cần Giuộc) và đưa các lễ hội tiêu biểu như Chùa Cổ Sơn, Đền Long Khốt vào danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia.

Theo ông Nguyễn Tấn Quốc – Phó Giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Long An, du lịch địa phương không chỉ hướng đến giáo dục truyền thống mà còn tập trung phát triển kinh tế bằng cách mời gọi đầu tư, mở rộng hạ tầng dịch vụ. Tỉnh cũng đẩy mạnh ứng dụng công nghệ trong bảo tồn di sản, số hóa dữ liệu để phục vụ khách tham quan hiệu quả hơn.

Phát triển du lịch gắn với làng nghề

“Nếu như năm 2022 các điểm đến đón khoảng 150 đoàn với khoảng 14.000 lượt khách, thì đến năm 2023 tăng lên gấp đôi, khoảng 260 đoàn với 40.000 lượt khách. Riêng 6 tháng đầu năm nay đã có trên 120 đoàn với trên 21.000 ngàn lượt khách tìm đến các điểm di tích lịch sử tại Long An”, ông Quốc nói.

Dù còn nhiều khó khăn, ngành du lịch Long An vẫn nỗ lực đẩy mạnh hoạt động quảng bá, thu hút du khách bằng các chương trình trải nghiệm, tham quan gắn với lịch sử và văn hóa bản địa. Năm 2024, tỉnh đón hơn 340.000 lượt khách đến các khu di tích và lễ hội.

Cùng với đó, ngành du lịch Long An chú trọng hỗ trợ làng nghề, nâng cao năng lực sản xuất và giới thiệu sản phẩm OCOP – chương trình mỗi xã một sản phẩm. Hiện Long An đã có 139 sản phẩm đạt chuẩn OCOP (40 sản phẩm đạt 4 sao, 99 sản phẩm đạt 3 sao), với nhiều điểm giới thiệu và bán sản phẩm tại Tân An, Đức Hòa và Cần Đước.

Đông đảo du khách đến với Đền thờ Nguyễn Trung Trực

Với định hướng phát triển du lịch xanh, bền vững và gắn kết cộng đồng, Long An đang khẳng định vị thế là điểm đến hấp dẫn, giàu giá trị văn hóa – lịch sử, thu hút ngày càng nhiều du khách trong và ngoài nước.

Nguyễn Quang

Nguồn: Dulichvn

TIN MỚI NHẤT