Du lịch trong nước

Du lịch trong nước, tin tức du lịch trong nước, các tour du lịch trong nước, các địa điểm du lịch trong nước hấp dẫn được chúng tôi tổng hợp và đưa tin hàng ngày đến cho khách du lịch trên khắp mọi miền đất nước có được thông tin du lịch trong nước để có những thông tin hữu ích nhất cho mình và gia đình khi quyết định chọn chuyến du lịch trong nước cho mình và người thân

Đưa làng nghề Hà Nội hội nhập quốc tế

Làng gốm Bát Tràng (huyện Gia Lâm) và làng lụa Vạn Phúc (quận Hà Đông) của Hà Nội vừa chính thức được công nhận là thành viên của Mạng lưới các thành phố thủ công sáng tạo thế giới. Đây cũng là 2 làng nghề truyền thống đầu tiên của Việt Nam nhận được vinh dự này.


Thành viên Hội đồng Thủ công thế giới thăm làng gốm Bát Tràng cuối năm 2024.

2 làng nghề gia nhập mạng lưới toàn cầu

Những tháng cuối năm 2024, đoàn công tác của Hội đồng Thủ công thế giới do ông Aziz Murtazaev – Chủ tịch Hội đồng Thủ công thế giới khu vực châu Á – Thái Bình Dương làm trưởng đoàn, đã đến thăm và làm việc với TP Hà Nội.

Thành viên đoàn đã gặp gỡ các nghệ nhân, thợ giỏi làng gốm Bát Tràng, làng lụa Vạn Phúc. Qua làm việc và trải nghiệm thực tế, Hội đồng đánh giá cao những giá trị độc đáo của 2 làng nghề, từ văn hóa, lịch sử đến kinh tế và tác động xã hội.

Thông qua các cuộc gặp, thành viên đoàn đã có được cái nhìn toàn cảnh về làng gốm Bát Tràng và làng lụa Vạn Phúc. “Chúng tôi thực sự ấn tượng với lịch sử, truyền thống và những giá trị của các làng nghề, thấy được tâm huyết của các nghệ nhân đối với việc bảo tồn và phát triển làng nghề Hà Nội…” – ông Aziz chia sẻ.

Hội đồng đã đánh giá làng gốm Bát Tràng và làng lụa Vạn Phúc không chỉ hội tụ đầy đủ các tiêu chí của một làng nghề truyền thống mà còn xứng đáng trở thành thành viên của mạng lưới các thành phố thủ công sáng tạo toàn cầu.

Trên cơ sở những tiêu chí cụ thể, cuối năm 2024, làng gốm Bát Tràng và làng lụa Vạn Phúc đã được Hội đồng Thủ công thế giới công nhận là thành viên của Mạng lưới các thành phố thủ công sáng tạo thế giới. Đây cũng là 2 làng nghề truyền thống đầu tiên của Việt Nam nhận được vinh dự này.

Nghề dệt lụa tại làng Vạn Phúc (quận Hà Đông, TP Hà Nội).

Hướng tới phát triển và hội nhập

Theo Chi cục trưởng Chi cục Phát triển nông thôn Hà Nội Nguyễn Văn Chí, dự kiến vào tối 14/2/2025, tại Hoàng thành Thăng Long Hà Nội sẽ diễn ra Lễ đón nhận danh hiệu 2 làng nghề gốm Bát Tràng và lụa Vạn Phúc là thành viên của Mạng lưới các thành phố thủ công sáng tạo thế giới.

Nhân dịp này, TP sẽ tổ chức “Sự kiện trưng bày, trình diễn, tạo tác sản phẩm thủ công mỹ nghệ của các nghệ nhân trong nước và thế giới”. Hoạt động nhằm thúc đẩy giao lưu văn hóa, quảng bá hình ảnh Thủ đô đến với bạn bè trong nước và quốc tế, hướng tới bảo tồn, phát triển các làng nghề truyền thống.

Giám đốc Sở NN&PTNT Hà Nội Nguyễn Xuân Đại đánh giá, việc các làng nghề truyền thống của Thủ đô gia nhập Mạng lưới các thành phố thủ công sáng tạo thế giới mang lại nhiều giá trị, lợi ích quan trọng, giúp Hà Nội khẳng định vị thế trên bản đồ văn hóa thế giới.

“Đây còn là cơ hội để các làng nghề nâng cao năng lực cạnh tranh, bảo tồn giá trị truyền thống, mở rộng thị trường, đẩy mạnh giao lưu văn hóa quốc tế, thúc đẩy phát triển bền vững…” – ông Nguyễn Xuân Đại nhấn mạnh.

Đại diện Sở NN&PTNT Hà Nội thông tin thêm, trong năm 2025, TP phấn đấu để Hội đồng Thủ công thế giới xem xét, công nhận ít nhất 2 làng nghề ra nhập Mạng lưới các thành phố thủ công sáng tạo thế giới; mời các làng nghề trong Mạng lưới tham dự Festival Bảo tồn và Phát triển làng nghề quốc tế năm 2025; tổ chức Hội nghị thường niên của Hội đồng thủ công thế giới tại Thủ đô Hà Nội.

Thông qua chuỗi các hoạt động, Hà Nội hướng đến mở rộng hợp tác quốc tế, tìm kiếm những cơ hội mới, vận hội mới cho ngành thủ công mỹ nghệ Thủ đô, để từ đó góp phần bảo tồn phát triển và hội nhập sâu rộng với quốc tế.

Hà Nội xác định làng nghề là một trong những thế mạnh phát triển; do đó trong những năm gần đây, đã quan tâm, đầu tư nguồn lực lớn để bảo tồn và phát triển các làng nghề một cách bài bản và hiệu quả. Với tiềm năng, thế mạnh và định hướng trên, TP mong muốn Hội đồng Thủ công thế giới tiếp tục quan tâm, cộng tác và hỗ trợ Hà Nội hiện thực hoá mục tiêu phát triển bền vững các làng nghề, phấn đấu làm sao để người dân, các nghệ nhân không chỉ sống được bằng nghề mà còn giàu có lên nhờ nghề truyền thống…” – Phó Chủ tịch UBND TP Hà Nội Nguyễn Mạnh Quyền.

Tùng Nguyễn

Nguồn: Dulichvn

Phở là kết nối

Phở là món ăn của sự kết hợp, kết nối tài tình: Kết hợp giữa các màu sắc, mùi vị, chất liệu, kết nối giữa các mùa, các không gian khác nhau, và cả kết nối giữa ký ức, hiện tại, tương lai.


Có lần, trong một buổi hướng dẫn nấu ăn mà tôi tham dự, thầy dạy nấu ăn – bếp trưởng bếp Việt tại một khách sạn 5 sao ở Hà Nội, hỏi các học viên xem điều đặc biệt nhất của món phở là gì. Chúng tôi, người thì bảo thịt phải tươi mới, người thì bảo nước dùng phở phải ninh từ xương bò hàng tiếng đồng hồ, người thì nhắc tới quế hồi thảo quả… Nhưng cuối cùng, thầy lắc đầu nói, các em mới để ý đến cái chi tiết. Điều đặc biệt nhất của phở, đấy là các nguyên liệu được sử dụng ở trạng thái gần như nguyên thủy, bằng phương pháp chế biến cũng đơn giản nhất là chần, luộc, có nước dùng thì hầm xương hơi lâu, rồi đem phối hợp với nhau để tạo ra một món ăn rất hài hòa với hương vị cực kỳ khác biệt, hấp dẫn, ngon lành.

Ừ nhỉ, tất cả mới ồ lên thích thú. Phở quá thật là một sự kết hợp khéo léo, hòa quyện. Ăn một bát phở là có đầy đủ các thành phần từ tinh bột, thịt, rau, có nước có cái, có cứng có mềm. Có sản vật sản vật từ biển nếu thêm vài con sá sùng hay sản vật từ rừng nếu thêm chút quế hồi hầm xương làm nước dùng. Có màu trắng của gạo, màu đỏ của thịt bò thái mỏng ướp nước mắm gừng dần qua sống dao hay màu vàng ươm của thịt gà, màu xanh của hành mùi, có thể vị cay của ớt, vị chua của dấm của chanh…

Phở quá quen thuộc nên chẳng mấy nghĩ ngợi nhiều ngoài việc thưởng thức. Nhưng ngẫm thêm một chút sự nguyên bản và kết hợp khéo léo đó khiến món phở hóa ra lại cực kỳ thuần khiết. Hóa ra gần như ai cũng thích món phở là bởi sự chân thật đó. Cũng giống như trong cuộc đời, chế biến nêm nếm đủ kiểu, phông bạt đủ kiểu rồi cũng chán để cuối cùng chỉ còn lại những gì chân thật mới khiến người ta ấn tượng.

Phở ở đâu cũng có, nhưng nhắc tới phở là nhắc tới món ăn tiêu biểu của Hà Nội. Như nhà văn Thạch Lam từng viết, “Phở là một thứ quà đặc biệt của Hà Nội, không chỉ riêng Hà Nội mới có, nhưng chính là vì chỉ ở Hà Nội mới ngon”…

Thật ra, lên các vùng Tây Bắc, trong cái lạnh buổi sáng sớm của hơi núi còn mờ sương, bưng bát phở khói nghi ngút ở chợ phiên buổi sáng, bánh phở tráng dày, thái to bản, thịt bò thái cũng dày, nước dùng ngọt toàn từ xương hầm mà không một chút mì chính, cũng rất là thú.

Nhưng phở Hà Nội được người ta biết đến là bánh phở dài thái mảnh, những lát thịt bò to bản mỏng dính, thịt tái chần sơ hồng hồng giòn mà không dai, lại đủ lựa chọn tái, chín, gầu, nạm, nước dùng phải trong, và đó mặc nhiên trở thành một chuẩn mực về phở.

Thạch Lam đã định nghĩa về phở ngon của Hà Nội từ đầu thế kỷ trước, và người ta đã khắc sâu trong tâm khảm khái niệm phở ngon đó rồi: “Phở ngon phải là phở cổ điển, nấu bằng thịt bò, nước dùng trong và ngọt, bánh dẻo mà không nát, thịt mỡ gầu giòn chứ không dai, chanh ớt với hành tây đủ cả, rau thơm tươi, hồ tiêu Bắc, giọt chanh cốm gắt, lại điểm thêm một ít cà cuống, thoảng nhẹ như một nghi ngờ… Hàng chục năm nay chả còn ai biết đến cái hương cà cuống thoảng nhẹ đó, nhưng món phở Hà Nội vẫn trọn vẹn.

Mỗi người, mỗi nhà có bí quyết riêng nấu phở. Chọn nguyên liệu thế nào, thành phần gì, ninh bao lâu thì ra nồi nước dùng ngon. Thịt phải mua sáng sớm, thái phải mỏng, ngang thớ, về ướp với những gì. Rồi nào gừng nướng hành nướng, quế hồi thảo quả rang thơm, rễ mùi hạt mùi ninh cùng nước, hành mùi rau ớt thật tươi…

Hàng phở nào ngon thì thơm lừng cả một dãy phố. Có những hàng phở có tuổi hàng chục năm, qua hai ba thế hệ vẫn được khách hàng ưa thích, như Phở Bát Đàn, phở Lý Quốc Sư, phở Khôi, phở Thìn, phở Hàng Đồng, phở gà Châm… Ở Hà Nội cũng có nhiều quán phở gia truyền Nam Định, nơi được coi là quê hương của phở.

Cuộc sống bây giờ ai cũng bận rộn, giới trẻ khó mà theo kịp các bí kíp nấu ăn của thế hệ bà mình, mẹ mình, đôi khi muốn tự nấu phở ở nhà, cốt là nguyên liệu tươi ngon, nêm nếm vừa độ, thì không quá cầu kỳ tinh tế vẫn có một nồi phở ngon để phục vụ gia đình, lấy đó làm niềm vui cuối tuần.

Sự thuần khiết của phở khiến người ta có thể ăn phở dù sáng, dù trưa, dù tối mà vẫn nhẹ bụng. Hay là ăn về mùa nào cũng hợp, mùa đông có bát phở nóng sực nức lên đã đành, mà mùa hè ăn xong bát phở thì vã mồ hôi mà vẫn dễ chịu.

Và hơn thế, phở còn là sự kết nối các vùng miền, trong nước ngoài nước. Từ Hà Nội, Nam Định, phở có mặt ở nhiều nơi trong cả nước, mỗi nơi một hương vị riêng. Phở Nam có thêm rau thơm, giá đỗ. Phở Gia Lai làm từ bánh phở khô, giống phở nam vì có bò viên. Phở cũng có mặt ở nhiều nước và trong menu giờ đây từ Phở vẫn được giữ nguyên mà không cần dịch ra tiếng sở tại. Xưa tôi có ông thầy người Đức mê đồ ăn Việt Nam, trong mấy tháng tôi học ở Đức, vài lần ông đã rủ cả lớp đi ăn đồ ăn Việt, có lần đi ăn phở, lớp gồm các bạn đồng nghiệp từ các nước đang phát triển, ai cũng thích phở.

Các gia đình giờ cho con đi du học, trước khi đi bố mẹ thường dạy con nấu phở. Hoặc không thì sang đó bọn trẻ cũng tự mày mò lên mạng học cách nấu. Được cái ở Mỹ, Châu Âu hay Úc, thịt bò nhiều, lại ngon mềm, lại không đắt, bọn trẻ đôi khi tự nấu cũng đỡ nhớ vị phở ở nhà. Hoặc những khi bạn bè tụ tập liên hoan, mỗi người tự làm món tiêu biểu của nước mình, hay trong những dịp như Quốc khánh Việt Nam, tuần văn hóa Việt Nam, món phở thường được đem ra giới thiệu như một món ăn tiêu biểu, nhắc tới Việt Nam là nhắc tới phở, tới nem, quá đủ để chinh phục bạn bè năm châu.

Một đồng nghiệp của tôi đang công tác ở Nam Phi, hồi đầu tháng 12 vừa rồi, chị kể các cơ quan Việt Nam ở Pretoria đã tổ chức ngày của phở. 400 bát phở được phục vụ miễn phí, anh chị em ta nón lá, áo cờ đỏ sao vàng tay thoăn thoắt chần bánh, chan phở, xinh đẹp tươi tắn, khiên cả ngoại giao đoàn ở Pretoria phải nể và ấn tượng.

Phở như thế đã trở thành một sự kết nối giữa quá khứ, hiện tại, tương lai. Ngày xưa thiếu thốn, đói kém, trẻ con mong ốm để được ăn phở. Bố mẹ tôi kể, ngày mẹ mang tôi trong bụng, thèm phở, hai anh chị chở nhau ra cửa hàng ăn uống, mà anh đứng ngoài trông xe để chị vào ăn, vì không đủ tiền ăn cả hai bát hai người. Hóa ra câu chuyện ấy cũng không ít gia đình từng gặp.

Phở bây giờ đã được phong di sản. Một di sản không nằm trong tủ kính, mà vẫn đồng hành một cách sống động hàng ngày để được tiếp tục giữ gìn và sáng tạo, để tiếp tục là sự kết nối giữa mọi người. Phở cùng người Việt đi khắp năm châu, mỗi người Việt khi nấu phở cho bạn bè nước ngoài thưởng thức đã trở thành một đại sứ ẩm thực để giới thiệu về văn hóa, về đất nước con người Việt Nam.

Mỹ Hằng

 

Nguồn: Dulichvn

Đa dạng các hoạt động tại Lễ hội mùa xuân Suối Tiên 2025

Theo Khu du lịch văn hóa Suối Tiên, dịp Tết Ất Tỵ 2025, lượng khách đến khu du lịch tăng khoảng 40-50% so với cùng dịp Tết năm ngoái.


Nguyên nhân do đơn vị đã kết hợp du lịch trải nghiệm metro gắn với khu du lịch. Vừa qua, tuyến metro vận hành đã tạo điệu kiện cho du khách du xuân đầu năm đến Khu du lịch Suối Tiên khá thuận lợi.

Nhiều hoạt động, chương trình biểu diễn nghệ thuật, diễu hành tại Lễ hội mùa xuân Suối Tiên 2025. Ảnh: L.T

Để chào đón du khách, Khu du lịch văn hóa Suối Tiên đã đưa vào vận hành 4-5 trò chơi mới như: công trình Bí mật rừng phù thủy phiên bản mới, tàu lượn Skybounder tốc độ lên đến 200km/h. Đường trượt đua thần tốc dài 140m tại biển Tiên Đồng, không gian mới lạ tại Suối Tiên Farm…

Đông đảo du khách theo dõi các chương trình biểu diễn nghệ thuật tại Khu du lịch văn hóa Suối Tiên vào dịp Tết Ất Tỵ 2025. Ảnh: L.T

Đặc biết, Suối Tiên còn tổ chức Lễ hội mùa Xuân Suối Tiên 2025 với nhiều hoạt động xuyên suốt từ mùng 1 tết đến mùng 10 Tết như: chương trình nhạc hội mừng Xuân, nhân tượng trao lì xì may mắn, biểu diễn xiếc hiện đại, chương trình giao lưu văn hóa Tây Nguyên thông qua các đoàn ca múa nhạc dân tộc các tỉnh, show diễu hành mang nét riêng của Suối Tiên mừng Xuân mới 2025 chủ đề “Hồn Việt Tụ Linh, Rắn Thần Khai Phúc”…

Hải Hà

Nguồn: Dulichvn

Cây nêu ngày tết

Sắc xuân miền biên viễn từ xưa tới nay đều được khắc họa bởi những điều bình dị, dân dã “Thịt mỡ, dưa hành, câu đối đỏ/Cây nêu, tràng pháo, bánh chưng xanh”. Ở các bản làng vùng cao người Tày, sắc màu cây nêu ngày Tết được coi là linh vật giữ nhà, giữ bản, là điểm tựa tinh thần, nơi gửi gắm mong ước một năm an khang, thịnh vượng của bà con.


Theo quan niệm của người xưa, cây nêu được cho là biểu tượng thiêng liêng vào mỗi dịp Tết Nguyên đán. Mỗi năm Tết đến, cây nêu được dựng lên trong không khí hân hoan, phấn khởi của bà con, báo hiệu một năm mới an lành đang đến với bản làng vùng cao. Mỗi ngôi nhà dựng 2 cây nêu xanh thẳng tắp, tô điểm lá cờ Tổ quốc bay phấp phới, sắc xuân tràn ngập khắp đường làng ngõ xóm. Những vùng đất được dựng cây nêu sẽ mang đến bình yên để bà con vui vẻ đón Tết. Ngoài ra, cây nêu còn được coi là biểu tượng của vũ trụ, nối liền đất với trời, ngọn nêu vươn lên đón mùa xuân, đón ánh mặt trời (dương khí), và cũng để biểu hiện thế áp đảo với quỷ, biểu tượng của âm khí.

Cứ đến ngày 30 tháng Chạp, sắc màu cây nêu lại phủ khắp những bản làng miền biên viễn. Vào ngày này, mỗi gia đình sẽ cử một thành viên khỏe mạnh nhất lên rừng tìm những cây vầu đẹp nhất mang về làm cây nêu dựng trước cửa nhà. Để chọn được cây nêu ưng ý cũng không phải chuyện dễ dàng, một cây nêu tốt sẽ giúp cho gia đình một năm may mắn, thuận lợi. Vì vậy, phải quan sát kỹ trước khi chặt cây nêu, thân cây phải thẳng, không bị sâu hoặc xước, ngọn cây nhiều lá và có màu xanh tươi, thanh tú. Với kinh nghiệm nhiều năm, ông Mông Văn Hữu, xóm Bằng Ca, xã Lý Quốc (Hạ Lang) chia sẻ: Câu nêu là linh vật ngày Tết của chúng tôi, một cây nêu tốt sẽ giúp gia đình tôi làm ăn thuận lợi, bình an. Vì vậy, ngay từ tháng 4 tôi đã thường xuyên xem xét, lựa chọn, tìm ra một số cây ưng ý đánh dấu sẵn. Đến hôm 30 tháng Chạp, tôi sẽ chọn cây tốt nhất mang về làm cây nêu dựng trước cửa nhà.

Sau khi chọn được cây nêu ưng ý mang về nhà, gia chủ chưa dựng luôn mà chuẩn bị các thủ tục trước khi dựng cây nêu. Các thành viên khác trong nhà tất bật chuẩn bị mâm cơm cúng thông báo cho tổ tiên về việc chuẩn bị đón Tết đến. Mâm cúng gồm thịt gà, thịt lợn luộc, bánh chưng, nem, phồng tôm, rượu, bánh khảo, khẩu sli… được bày làm 2 mâm, 1 mâm cúng bàn thờ, 1 mâm lần lượt cúng ở bếp, phòng ngủ, dưới chuồng gia súc và ngoài sân. Sau khi cúng xong gia chủ mới bắt đầu dựng cây nêu, tùy từng vùng miền mà có nơi sẽ dựng 1 hoặc 2 cây nêu. Người Tày, Nùng ở huyện Trùng Khánh, Hạ Lang và một số vùng quê các huyện miền Đông chọn cây nêu tốt nhất dựng trước cửa nhà, ở khoảng đất trống, thoáng đãng, tránh khuất bóng cây cối hay gần tường nhà. Cây nêu cao to, uy dũng để chặn ma quỷ xâm nhập, buộc thêm một cây vầu non ngay ngắn, thẳng đứng xanh mướt như cây mẹ con, thể hiện sự kế thừa, tiếp nối và ước mong sẽ có một khởi đầu năm mới bình an, hạnh phúc. Ở khoảng trống giữa 2 cây nêu, bà con thường treo cờ Tổ quốc, sắc đỏ lá cờ tung bay trên nền xanh tươi của màu lá cây nêu tạo nên cảnh sắc nông thôn ngày Tết thật tươi đẹp, yên bình.

Cây nêu ngày tết được coi là linh vật giữ nhà, giữ bản, là điểm tựa tinh thần, nơi gửi gắm mong ước một năm an khang thịnh vượng của bà con.

Việc cắm cây nêu không phải trong gia đình ai cũng tham gia mà phải chọn người đàn ông chủ nhà gương mẫu, có uy tín để thực hiện. Tuy nhiên, còn tùy thuộc vào hoàn cảnh từng gia đình mà cử người tốt tính, tốt nết để làm việc này. Trước khi dựng cây nêu, gia chủ lấy một cây vầu nhỏ làm chổi quét đuổi tà ma, xua tan ám khí trong nhà. Chủ nhà cầm cây quét nhà, hơ khắp nơi từ trong ra ngoài cửa, vừa đi vừa lẩm nhẩm: “Quét ăn rại pây quây, ăn đây mà xẩư” (dịch nghĩa: quét cái xấu đi xa, cái tốt về gần). Xong hết việc mới dựng cây nêu, khi dựng xong sẽ thắp một nén hương loại trừ ma quỷ, để giữ đất, giữ nhà. Sau khi mọi công việc đã xong, cả gia đình quây quần bên mâm cơm tất niên đầm ấm, cùng đánh giá lại một năm qua, rút kinh nghiệm những việc chưa làm tốt, cùng nhau phấn đấu trong năm mới.

Cây nêu được dựng trong những ngày Tết, bảo vệ bản làng yên tâm vui chơi, không bị quấy phá. Cây nêu được dỡ khi hội lồng tồng kết thúc, mọi người trở về nhà, đem đồ cúng từ hội lên bàn thờ thắp hương, làm mâm cúng ở bếp, trước cửa nhà, chuồng gia súc, gia cầm. Sau khi thông báo với tổ tiên hết Tết, mới dỡ cây nêu, thắp hương, đốt tiền giấy. Khi hoàn tất mọi thủ tục, gia chủ đem bình đựng các cây lộc ở bàn thờ, ném những cành cây lên mái nhà trước rồi hắt nước lên mái nhà với mong muốn năm mới sẽ mưa thuận, gió hòa để người dân yên tâm sản xuất nông nghiệp. Cây nêu sau khi được dỡ, gia chủ tận dụng thân cây nêu để làm sào phơi quần áo, ngọn để làm chổi quét chuồng gà, ngoài sân với ý nghĩa quét những điều xui rủi, không may ra khỏi nhà để chào đón những điều tốt đẹp, an lành.

Biết bao mùa Tết đi qua, cây nêu chứng kiến từng khoảnh khắc giao thời giữa năm cũ và năm mới, giữa một chu kỳ vận hành của đất trời, vạn vật cỏ cây; chứng kiến gắn kết gia đình, những đoàn tụ ấm êm, tiếp nối những giá trị tốt đẹp. Hình ảnh những cây nêu cùng cờ Tổ quốc tung bay trong gió hòa cùng với sắc màu đỏ thắm của hoa đào, màu vàng may mắn của cây quất tạo nên một cảnh sắc rực rỡ, vui tươi trong khoảnh khắc tết đến xuân về. Cây nêu thật đẹp ngay trước cổng nhà trang hoàng, rực rỡ là nét văn hóa truyền thống cần lưu giữ, để thế hệ con cháu sau này hiểu thêm về ý nghĩa ngày Tết truyền thống của Việt Nam.

Linh Nhi

Nguồn: Dulichvn

Ngọt ngào lời Then, tiếng tính

Trong tiết trời se lạnh xen lẫn những cơn mưa phùn đầu xuân, bên hiên nhà sàn thời gian đã khắc lên dấu ấn rêu phong, lời Then, tiếng đàn tính mời bạn, mừng xuân mới ngân vang hòa cùng tiếng suối róc rách reo ca. Về Cao Bằng những ngày đầu xuân mới, lắng nghe hơi thở mùa xuân đang bật mầm, nảy lộc, nghe tiếng tính trong trẻo, ngọt ngào len lỏi khắp các bản làng để thêm yêu quê hương, đất nước.  


Kho tàng văn hóa truyền thống

Then vừa là một loại hình văn nghệ dân gian, vừa là một biểu hiện của tín ngưỡng dân gian. Một trong những điểm đặc sắc của Then là ngôn ngữ ẩn chứa chiều sâu văn hóa. Nội dung các khúc hát Then đều toát lên tư tưởng nhân văn sâu sắc, chứa đựng tình yêu thiên nhiên, tình yêu đôi lứa.

Qua quá trình giao thoa văn hóa, nghệ thuật hát Then, đàn tính đã theo chân đồng bào Tày, Nùng đến khắp các vùng, miền đất nước. Với người Tày, Nùng Cao Bằng, Then tính không chỉ là khúc hát đầu xuân cầu bình an, may mắn mà còn gắn liền với các nghi lễ sinh hoạt tín ngưỡng trong cả năm. Trong mỗi dịp lễ, tết, người Tày, Nùng tổ chức hát Then tính hoặc mời thầy để cúng cầu an, giải hạn, cúng tổ tiên, mừng nhà mới, mừng thọ ông bà, cha mẹ… 

“Then” có nghĩa là “Thiên”, tức là “Trời”, vì thế “Then” được đồng bào coi là điệu hát của thần tiên để lại, thường được người Tày, Nùng dùng trong các lễ và được quan niệm giúp chuyển lời cầu khấn đến nhà trời. Vì thế, màu sắc văn hóa tâm linh rất rõ rệt trong nghệ thuật hát Then. 

Lời hát Then là những câu chữ được dân gian chắt lọc, gọt giũa, vừa là những câu thơ trữ tình, giàu nhạc điệu, vừa là lời khuyên răn, khích lệ, vừa là những kinh nghiệm về đối nhân xử thế. Hát Then tính có ở hai vùng, miền với giai điệu, cây đàn đặc trưng riêng, đó là Then tính miền Tây và Then tính miền Đông. Then miền Tây có cây đàn tính 3 dây âm cao thánh thót, làn điệu Then dịu ngọt, mềm mại, dung dị như người thiếu nữ; Then miền Đông có cây đàn tính hai dây thanh trầm hơn, nhưng khi tiếng Then cất lên lại mạnh mẽ, trải lòng miên man, giai nhịp rộn ràng khúc tứ như chàng trai tuấn tú tài ba, hào phóng.

Hơi thở cuộc sống trong từng câu hát

“Mời anh lên Cao Bằng quê em/Đèo Cao Bắc trên đường ranh giới… á… ơi… ơi/Tài Hồ Sìn cầu nối chân (ơi) mây/Xuân về én lượn bay Thành phố/Đưa anh về phiên chợ Sóc (ởi) Giang…/Cùng anh về thăm hang Pác Bó… á… ơi… ơi/Nơi Bác Hồ đã ở năm (ơi) xưa/Đưa cách mạng nước ta toàn thắng/Núi Các Mác sừng sững (a) ngàn năm…”.

Câu lạc bộ dân ca, hát Then, đàn tính thị trấn Nguyên Bình biểu diễn tại phố đi bộ Kim Đồng.

Từng ngón tay nhịp nhàng lướt trên mặt đàn tính cùng lời hát vui tươi, tha thiết, các thành viên Câu lạc bộ (CLB) dân ca, hát Then, đàn tính thị trấn Nguyên Bình (Nguyên Bình) ngân nga lời hát Then chào đón mùa xuân mới. Cô Trương Thị Báy, Chủ nhiệm CLB chia sẻ: Hát Then, đàn tính là bản sắc văn hóa truyền thống của người Tày bắt nguồn từ câu chuyện về cuộc sống giản dị, niềm vui trong lao động sản xuất, tình yêu thiên nhiên, tình yêu đôi lứa…, điệu Then cất lên đằm thắm, mượt mà, tiếng đàn tính trầm bổng ngân nga làm vơi bớt mệt nhọc sau một ngày lao động vất vả. Nhưng hát Then, đàn tính là loại hình nghệ thuật dân gian khó học, muốn thể hiện đúng và hay đòi hỏi người học phải có năng khiếu, lòng kiên trì.

Đều đặn hằng tuần vào các tối thứ Bảy và Chủ nhật, các thành viên trong CLB dân ca, hát Then, đàn tính thị trấn Nguyên Bình ngồi quây quần tại nhà văn hóa say sưa tập luyện đàn tính và những làn điệu Then. Vừa lướt đôi bàn tay trên cây đàn tính, vừa cất tiếng hát Then, em Nông Thị Minh Nguyệt, thành viên nhỏ tuổi nhất CLB dân ca, hát Then, đàn tính thị trấn Nguyên Bình như đắm chìm vào làn điệu quê hương. Lớn lên bên câu hát Then, điệu tính, Minh Nguyệt luôn trân trọng, mong muốn gìn giữ mạch nguồn văn hóa đã gắn bó với mình.

Em Nguyệt chia sẻ: Hằng năm khi đến tết, mẹ và các bác trong xóm đều sắm sửa những bộ áo chàm, mang theo cây đàn tính ngân nga những câu hát Then. Em thấy điệu hát Then như lời ru ngọt ngào, vừa đằm thắm, vừa trong trẻo. Vì thế em đã xin phép mẹ tham gia CLB để theo học các bà, các cô, mong muốn của em là muốn gìn giữ điệu Then, tiếng tính quê hương. 

Cứ thế, những khúc hát Then, đàn tính được các thế hệ CLB truyền nối cùng gìn giữ, phát triển. Lời Then, tiếng tính theo hơi thở cuộc sống, ngấm sâu vào tư tưởng, ngân lên những bản nhạc giàu bản sắc văn hóa, khắc họa tinh tế đời sống, nhịp sống, dòng chảy cuộc sống dân tộc đương đại. 

Vang mãi điệu then

Nhằm phát huy giá trị và vẻ đẹp văn hóa của lời Then, tiếng tính, thời gian qua, ngành văn hóa, thể thao và du lịch có nhiều hoạt động gìn giữ và quảng bá hát Then thông qua việc tổ chức các hội diễn văn nghệ, liên hoan đàn tính, hát Then. Nhiều nghệ nhân, CLB dân ca trên địa bàn tỉnh sưu tầm và đặt lời mới cho Then xoay quanh nội dung ca ngợi Ðảng, Bác Hồ, thể hiện tình yêu quê hương, đất nước… Hiện nay, toàn tỉnh có trên 800 CLB văn nghệ quần chúng, Hội Bảo tồn dân ca các dân tộc tỉnh (thành lập năm 2011) đến nay phát triển được 10 chi hội ở các huyện với 2.192 hội viên, tổ chức nghiên cứu, sưu tầm 45 bài hát dân ca các dân tộc; sáng tác, đặt lời mới trên 200 bài hát; xây dựng 96 chương trình văn nghệ dân ca từ các chi hội cơ sở; tích cực truyền dạy, phổ biến dân ca trong nhân dân; tổ chức truyền dạy cho hơn 600 hội viên thuộc nhiều lứa tuổi trong và ngoài tỉnh. Hội thành lập 5 CLB dân ca; phát triển 12 hội viên thiếu niên, nhi đồng; thành lập 4 CLB hát Then, đàn tính, hát dân ca tại các cơ sở gắn với phát triển du lịch; thành lập, ra mắt mô hình điểm nhóm bảo tồn và phát huy giá trị di sản Then tại Thành phố và huyện Hòa An; tổ chức truyền dạy di sản Then cho 27 học viên, trang bị 15 bộ trang phục truyền thống dân tộc Tày, 15 cây đàn tính cho các học viên lớp truyền dạy tại xã Cao Chương (Trùng Khánh)…

Phó Giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Tô Thị Trang cho biết: Toàn tỉnh hiện có 7 di sản văn hóa phi vật thể trong Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia (trong đó có di sản nghi lễ Then của người Tày Cao Bằng). Cùng với sự kiện UNESCO công nhận “Thực hành Then của người Tày, Nùng, Thái ở Việt Nam” chính thức trở thành Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại, tỉnh tích cực hỗ trợ, ủng hộ các nghệ nhân, các CLB hát Then, đàn tính trên địa bàn tỉnh nghiên cứu, sưu tầm, bảo tồn các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc. Thời gian tới, ngành văn hóa, thể thao và du lịch tiếp tục triển khai nhiều hoạt động, chương trình, góp phần giới thiệu, quảng bá những giá trị di sản văn hóa hát Then, đàn tính đến với bạn bè trong nước và quốc tế, từ đó, tôn vinh loại hình văn hóa nghệ thuật đặc sắc của dân tộc Tày, Nùng, nâng cao ý thức gìn giữ, phát huy, phát triển và không ngừng sáng tạo những giá trị văn hóa mới. 

Hòa cùng với dòng chảy của thời gian, từng câu hát Then vẫn ngân vang lời ca như sợi dây kết nối văn hóa truyền thống với đời sống hiện tại. Tất cả quyện lấy nhau, mang theo từng cung bậc cảm xúc, hòa cùng tiếng suối đại ngàn tuôn chảy qua bao thế hệ. Ở đâu có dân tộc Tày, Nùng sinh sống thì câu hát Then tính vẫn ngân vang. 

Hải Đăng

Nguồn: Dulichvn

Mèo Vạc điểm đến hấp dẫn

Không khí Xuân đang len lỏi khắp các bản làng, triền núi của huyện Mèo Vạc càng khiến cho miền đá xám này trở nên xinh đẹp, cuốn hút. Và chắc hẳn, đây sẽ là điểm du lịch hấp dẫn đối với du khách trong hành trình du Xuân và trải nghiệm vùng Cao nguyên đá.


Hằng năm, khi đất trời bước vào Xuân, huyện Mèo Vạc như được khoác lên mình một diện mạo mới, ngập tràn sức sống bởi những cánh hoa đào, lê, mận đua nhau bung nở, khoe sắc. Đi dọc các tuyến đường trên địa bàn các xã như: Tả Lủng, Pải Lủng, Pả Vi, Khâu Vai hay thị trấn Mèo Vạc, du khách dễ dàng được ngắm nhìn những cây đào đầy lộc, hoa, lá. Sắc hồng của những cánh hoa đung đưa trong gió, ẩn hiện sau những làn sương mờ tạo nên khung cảnh thơ mộng, bình yên. Thấp thoáng trên các cung đường là những thanh niên, thiếu nữ, người già, trẻ nhỏ trong bộ trang phục mới đi du Xuân hay xuống chợ, tạo nên không khí vui tươi, phấn khởi.

Hẻm Tu sản và sông Nho Quế – điểm du lịch hấp dẫn trên vùng cao Mèo Vạc.

Du khách đặt chân đến huyện Mèo Vạc, đèo Mã Pì Lèng chắc chắn sẽ là điểm đến không thể bỏ qua. Con đèo nằm trên đoạn cuối của đường Hạnh Phúc, nối liền huyện Đồng Văn với Mèo Vạc, là một trong “tứ đại đỉnh đèo” nổi tiếng nhất Việt Nam. Với chiều dài khoảng 20 km, đèo Mã Pì Lèng uốn lượn qua những vách đá cheo leo và hùng vĩ của Cao nguyên đá Đồng Văn. Điểm ấn tượng khi đứng trên đèo Mã Pì Lèng, du khách sẽ được chiêm ngưỡng một vùng Cao nguyên đá rộng lớn, hùng vĩ với những dãy núi đá tai mèo trùng điệp. Đặc biệt, du khách sẽ được ngắm nhìn toàn cảnh vẻ đẹp của dòng Nho Quế trong xanh uốn mình qua hẻm Tu Sản – hẻm vực sâu nhất Đông Nam Á, tạo nên cảm giác vừa choáng ngợp vừa thơ mộng, khó quên.

Không chỉ sở hữu cảnh quan thiên nhiên đẹp, ngày Xuân khi đến Mèo Vạc, du khách còn được hòa mình vào không gian văn hóa đầy màu sắc của đồng bào các dân tộc nơi đây. Những điệu múa khèn, hay những trò chơi dân gian như đánh pao, đánh sảng, ném còn, kéo co chắc chắn sẽ gây thu hút đối với du khách. Ngoài ra, du khách cũng có thể tham quan, tìm hiểu nét văn hóa đặc sắc của các dân tộc tại Làng Văn hóa du lịch cộng đồng dân tộc Mông thôn Pả Vi Hạ, Làng Văn hóa du lịch cộng đồng dân tộc Giáy xã Tát Ngà, Làng Văn hóa dân tộc Lô Lô thị trấn Mèo Vạc. Thêm nữa, du khách có thể thưởng thức ẩm thực truyền thống của đồng bào qua các món ăn đặc sắc như mèn mén, thắng cố, thịt bò khô, thịt lợn treo gác bếp.

Làng Văn hóa du lịch cộng đồng dân tộc Mông thôn Pả Vi Hạ, xã Pả Vi được nhiều du khách yêu thích.

Phó Chủ tịch UBND huyện Mèo Vạc, Ngô Mạnh Cường cho biết: Hiện nay, huyện tập trung chỉ đạo ngành chuyên môn tăng cường kiểm tra các khu, điểm du lịch có tổ chức các hoạt động kinh doanh dịch vụ đúng theo quy định, đảm bảo chất lượng; thực hiện niêm yết giá công khai và bán đúng giá niêm yết. Cùng đó, tuyên truyền, vận động các cơ sở kinh doanh dịch vụ tiếp tục đầu tư cơ sở vật chất, nâng cao chất lượng sản phẩm cũng như tinh thần, thái độ phục vụ du khách; chỉ đạo thực hiện tốt công tác đảm bảo an ninh trật tự, vệ sinh môi trường, vệ sinh an toàn thực phẩm… Việc triển khai đồng bộ các giải pháp này nhằm thu hút và tạo ấn tượng tốt đẹp đối với du khách khi đến tham quan, trải nghiệm tại huyện, nhất là dịp Tết Nguyên đán Ất Tỵ 2025. Qua đó, từng bước xây dựng thương hiệu du lịch huyện Mèo Vạc “an toàn, thân thiện, bản sắc, văn minh”. Nhờ triển khai đồng bộ các giải pháp, lượng khách du lịch đến Mèo Vạc không ngừng tăng. Riêng năm 2024, huyện đón hơn 540.000 lượt người, đạt gần 113% so với năm 2023.

Bài, ảnh: Trần Kế

Nguồn: Dulichvn

Vựa mai lớn nhất miền Trung hướng đến làm du lịch

Những ngày tháng Chạp này, các nhà vườn trồng mai thị xã An Nhơn (Bình Định) – được mệnh danh là thủ phủ mai vàng lớn nhất miền Trung đang tất bật chỉnh sửa, lặt lá, vô chậu hàng triệu cây mai để bán cho người chơi trong dịp Tết Nguyên đán Ất Tỵ năm 2025.


Đưa mai lên mạng xã hội để bán

Như mọi năm, người dân thị xã An Nhơn sẽ chọn một vị trí đẹp trên tuyến Quốc lộ 1 để trưng bày và bán mai Tết. Nhưng năm nay, nhiều nhà vườn ở vùng đất này đã chuyển từ trồng mai dáng trực, dáng long… truyền thống sang mai bonsai, mai mi ni với đủ các loại để phục vụ nhu cầu người chơi. Do nhu cầu của khách hàng ngày càng phong phú và đa dạng nên các nhà vườn phải thay đổi theo trào lưu để bắt kịp xu thế sở thích của người chơi mai.

Thị xã An Nhơn (Bình Định), được mệnh danh là thủ phủ mai vàng lớn nhất miền Trung

Nghệ nhân Ngô Mạnh Tuân (38 tuổi, ở thôn Trung Định, xã Nhơn An, thị xã An Nhơn) cho biết: Trồng mai cảnh thấy dễ nhưng rất khó, để có một cây mai đẹp cần phải tạo hình, áp dụng kỹ thuật cắt tỉa, cấy ghép và chăm sóc, theo dõi thường xuyên. Hiện nay, nhu cầu người chơi mai rất phong phú và đa dạng, đa số khách hàng thích những cây mai nhỏ gọn, kiểu bon sai vì hợp túi tiền. Còn một số khách hàng kinh tế ổn định lại thích chơi những cây mai to, cổ thụ, có giá trị cao.

Để bắt kịp nhu cầu của khách hàng, các nhà vườn đã thay đổi từ cách trồng kiểu dáng truyền thống sang kiểu dáng mới lạ. “Nay khách hàng có thể mua mai mọi lúc, mọi nơi, mọi thời điểm nên không phải đến tết mới bán được mai. Riêng bản thân tôi, ngoài bán mai tại vườn, tôi còn bán trên các nền tảng xã hội như: Facebook, Tiktok, YouTube… bằng hình thức livestream bán trực tiếp. Hình thức bán này có thể bán cho khách hàng trên toàn quốc. Trung bình mỗi năm doanh thu của gia đình tôi khoảng 2 tỉ đồng”, anh Tuân chia sẻ.

Mai bonsai nghệ thuật của thị xã An Nhơn có giá hàng trăm triệu đồng

Hướng đến làm du lịch làng mai

Tính đến nay, toàn thị xã An Nhơn có trên 145ha mai vàng, với hàng ngàn hộ trồng và trong số diện tích này, phát triển cũng như trồng nhiều nhất ở 2 xã Nhơn An và Nhơn Phong. Năm 2012, sản phẩm “Mai vàng Nhơn An” đã được Cục Sở hữu trí tuệ (Bộ KH&CN) cấp giấy chứng nhận nhãn hiệu tập thể. Những năm qua, trồng cây mai vàng đem lại hiệu quả kinh tế cao.

Nhiều hộ gia đình trồng với số lượng lớn từ 5.000 – 10.000 cây mai, ước tính doanh thu từ 400 – 600 triệu đồng/năm, các hộ còn lại thu nhập từ 50 – 300 triệu đồng/năm. Nghề trồng mai đã góp phần giải quyết việc làm, tăng thu nhập, giảm tỷ lệ hộ nghèo và góp phần xây dựng nông thôn mới.

Người dân đang lặt lá để cây mai ra hoa đúng dịp Tết Nguyên đán 2025

Để tạo hướng đi mới cho vùng mai vàng lớn nhất miền Trung, thị xã An Nhơn đã xây dựng Đề án và hình thành điểm đến tại các làng nghề mai cảnh xã Nhơn An, nhằm thu hút du khách và tôn vinh những giá trị văn hóa cây mai cảnh, phát huy giá trị thương hiệu Mai vàng An Nhơn.

Ông Phan Long Hùng, Chủ tịch UBND xã Nhơn An cho biết: Phát triển du lịch làng nghề và các sản phẩm kèm theo của làng nghề sẽ đa dạng hóa sản phẩm du lịch, hình thành các điểm đến tại các làng nghề mai cảnh Nhơn An thu hút du khách; tạo thêm việc làm, tăng thu nhập cho nhân dân làng nghề, góp phần xây dựng nông thôn mới và đô thị văn minh. Đồng thời, qua các hoạt động du lịch đẩy mạnh quảng bá, giới thiệu những tinh hoa nghệ thuật, tôn vinh những giá trị văn hóa cây mai cảnh của xã Nhơn An, khẳng định và phát huy giá trị thương hiệu “Mai vàng An Nhơn”.

Tận dụng các nền tảng xã hội như: Facebook, Tiktok, YouTube…người dân livestream bán mai trực tiếp để tăng thu nhập

Nói về sự cần thiết xây dựng Đề án thí điểm phát triển du lịch cộng đồng tại các làng nghề mai cảnh xã Nhơn An từ nay đến năm 2025, định hướng đến năm 2030, ông Bùi Văn Cư, Phó Chủ tịch UBND thị xã An Nhơn cho biết: Để khai thác thế mạnh, tiềm năng du lịch của các làng nghề, chúng tôi đã xây dựng Đề án phát triển du lịch tại các làng nghề của thị xã. Trên cơ sở điều kiện, khả năng thực tế và yêu cầu thực hiện, Đề án này chọn làng nghề mai cảnh Trung Định và một số làng nghề lân cận trên địa bàn xã Nhơn An để xây dựng thí điểm và triển khai thực hiện từ nay đến năm 2025, định hướng đến năm 2030.

Phan Hiếu

Nguồn: Dulichvn

Quảng Ninh: Ẩm thực Quảng Yên – Tinh hoa của biển

Nằm ở vùng đất ven biển thuộc tỉnh Quảng Ninh, Quảng Yên từ lâu đã trở thành điểm đến nổi tiếng không chỉ bởi thiên nhiên tươi đẹp, truyền thống văn hóa lịch sử lâu đời, mà còn nhờ nền ẩm thực độc đáo, mang đậm hương vị của biển cả. Mỗi món ăn đều mang theo câu chuyện về cuộc sống lao động của người dân vùng cửa biển, về cách họ gắn bó và trân quý tài nguyên từ thiên nhiên.


Quảng Yên mang vẻ đẹp tự nhiên thơ mộng, cảnh sắc hài hòa giữa sông, biển và núi, cùng những cánh rừng ngập mặn như trải dài đến vô tận. Đặc biệt, ẩm thực là yếu tố hấp dẫn không thể bỏ qua khi đến với Quảng Yên. Những nhà hàng sang trọng, những quán ăn gia đình hay thậm chí là mâm cơm bình dị của người dân địa phương đều mang lại những trải nghiệm ẩm thực rất đáng nhớ. Người dân Quảng Yên không chỉ biết cách khai thác hải sản mà còn rất sáng tạo trong việc chế biến,  chăm chút kỹ lưỡng cho từng món ăn từ việc chọn lựa nguyên liệu đến cách nêm nếm gia vị.

Món sam trứng nướng được chế biến cầu kỳ, hương vị tươi ngon, độc đáo.

Một trong những đặc sản nổi tiếng nhất của vùng đất này là món ăn chế biến từ sam biển, loài hải sản sống chủ yếu ở các vùng biển ven bờ. Chúng thường xuất hiện theo cặp, con đực nhỏ hơn bám trên lưng con cái, và người dân Quảng Yên đã tận dụng đặc tính này để đánh bắt sam một cách hiệu quả. Thịt sam biển thơm ngon và cũng rất giàu dinh dưỡng. Tuy nhiên, việc chế biến sam đòi hỏi kinh nghiệm và sự cẩn thận, bởi không phải phần nào của sam cũng có thể ăn được. Những người dân lành nghề ở Quảng Yên đã biến sam biển thành một loạt món ăn độc đáo, mang hương vị riêng có của vùng đất cửa sông Bạch Đằng như chả sam, gỏi sam, sam hấp, sam trứng nướng hay sam xào chua ngọt.

Trong các món ăn từ sam được chế biến tại Quảng Yên thì ngon nhất phải kể đến sam trứng nướng (thời điểm thưởng thức món ăn này thích hợp nhất là từ tháng 10 đến tháng 2 âm lịch). Cách chế biến món sam trứng nướng cũng khá cầu kỳ. Sam được nướng trên bếp than hoa đỏ hồng, đặt ngửa sam rồi trở đều tới khi chín vàng. Sau đó tách yếm bỏ ruột, dùng dao rạch bụng sẽ thấy trứng đầy ắp, vàng ươm bắt mắt, trứng sam béo, thơm, nhiều đạm và rất bổ dưỡng, còn phần thịt sống lưng và sát đuôi thì dai và ngọt. Thịt và trứng sam ăn kèm cùng bưởi chua, rau thơm, lạc, hành phi, nước mắm chanh tỏi ớt. Tất cả như tạo ra một bản hòa tấu hương vị biển mạnh mẽ trong miệng của mỗi thực khách.

Chân sam được những người đầu bếp tài ba ở Quảng Yên sáng tạo thành món chân sam xào chua ngọt thơm ngon, hấp dẫn.

Người dân Quảng Yên luôn tự hào về món sam như một nét văn hóa của quê hương. Với tâm huyết và sự tinh tế trong cách chế biến, đổi mới hương vị của những đầu bếp tài ba, các món ăn từ sam biển đã đi một hành trình dài từ thức quà chợ quê đến món ăn độc đáo, nổi bật của ẩm thực Quảng Yên. Chế biến sam cũng được coi là nghề gia truyền với bí kíp riêng từ khâu lọc, rửa thịt, đến tẩm ướp gia vị và được nhiều gia đình ở Quảng Yên gìn giữ, phát triển. Chị Trương Thị Vượng, phường Quảng Yên chia sẻ: Gia đình tôi đã có 3 thế hệ gắn bó với nghề, chúng tôi luôn giữ gìn những tinh túy trong món ăn được cha ông truyền lại, đồng thời cố gắng cải tiến cho ra nhiều món mới đáp ứng khẩu vị của đông đảo thực khách, để món sam luôn là nét văn hóa ẩm thực độc đáo không thể bỏ lỡ của du khách đến với Quảng Yên.

Thịt sam trộn với lá lốt, gia vị nhồi vào riềm mai sam chiên giòn tạo nên món chả sam độc đáo.

Nhắc đến ẩm thực Quảng Yên, cũng không thể không kể đến món bún xào ngán – một đặc sản vừa dân dã, vừa độc đáo. Với sự kết hợp hài hòa giữa nguyên liệu tươi ngon và cách chế biến tinh tế, bún xào ngán đã trở thành món ăn đặc trưng, níu chân biết bao thực khách gần xa. Ngán, nguyên liệu chính của món ăn, có vị ngọt thanh, thịt mềm và mùi thơm đặc trưng, được coi là “vàng trắng” của vùng đất Quảng Yên. Cũng bởi thị xã Quảng Yên có diện tích rừng ngập mặn lớn, là thế mạnh để con ngán sinh sống, phát triển, nên con ngán từ vùng đất này thơm, ngon hơn một số vùng cửa biển khác.

Mặc dù cách chế biến bún xào ngán không quá cầu kỳ, nhưng đòi hỏi sự tỉ mỉ để giữ được hương vị nguyên bản của nguyên liệu. Trước tiên, ngán được ngâm để loại bỏ cát và bùn, sau đó khéo léo tách đôi vỏ ngán, lấy phần thịt ngán ra, hứng lấy nước trong mình ngán. Rửa thịt ngán một cách nhẹ nhàng, tránh làm nát để đẩy sạch bùn cặn mà vẫn giữ được vị ngon và không làm nhạt phần thịt ngán. Sau đó, vớt ngán lấy phần tiết dùng đũa đánh đều. Bún dùng kéo cắt ngắn, gỡ tơi bún ra rồi đổ thịt ngán vào bún, trộn đều, nêm nếm gia vị cho vừa miệng.

Phi thơm hành khô, cho bún ngán đã trộn vào xào. Nêm thêm các gia vị và đảo trên ngọn lửa to. Khi sợi bún tơi đều, thấm đượm gia vị và thấm màu đỏ thẫm của tiết ngán thì cho thêm rau răm, hạt tiêu ăn nóng.

Bún xào ngán – mon ngon không thể bỏ lỡ khi khám phá ẩm thực Quảng Yên.

Thưởng thức bún xào ngán, thực khách sẽ cảm nhận được sự hòa quyện hoàn hảo của các nguyên liệu. Sợi bún mềm, không bị nát, thấm đẫm nước sốt thơm lừng. Thịt ngán béo ngọt, đậm vị biển, kết hợp cùng chút cay nhẹ của ớt và mùi thơm từ rau gia vị, tạo nên một món ăn không chỉ ngon mà còn đậm đà bản sắc địa phương. Mỗi lần thưởng thức món ăn này, thực khách không chỉ cảm nhận được hương vị đặc trưng mà còn thấy được sự mến khách, chân thành của người dân vùng biển.

Quảng Yên mang vẻ đẹp tự nhiên thơ mộng, cảnh sắc hài hòa giữa sông, biển và núi, cùng những cánh rừng ngập mặn như trải dài đến vô tận. Người dân Quảng Yên không chỉ biết cách khai thác hải sản mà còn rất sáng tạo trong việc chế biến, chăm chút kỹ lưỡng cho từng món ăn từ việc chọn lựa nguyên liệu đến cách nêm nếm gia vị. Chính vì thế, các món ngon ở đây gần như là hợp âm giữa vùng biển, vùng cửa sông và trộn cả vị đồng quê. Ngoài bún xào ngán, sam gia truyền, Quảng Yên còn rất nhiều món ngon chế biến từ tinh hoa của sông, biển như cá đại dương, cua biển, hàu cửa sông, tôm hai nước…

Quảng Yên có rất nhiều hình thức phục vụ khách yêu ẩm thực. Nếu thích cách dân dã, thực khách có thể tìm đến những quán chã, nhà bè hoặc tìm đến những đầm nuôi trồng thuỷ sản kiêm luôn cả dịch vụ ăn uống. Ở những nơi này, nguyên liệu luôn tươi roi rói. Có khi các loại cá, tôm, cua còn được vớt tại chỗ, rửa sạch và đưa vào bếp. Các món gần như không cần phải tẩm ướp gia vị, vì tự trong mỗi loại nguyên liệu đã có vị ngọt, vị tươi. Thưởng thức hải sản, là thưởng thức cái tươi roi rói đó.

Còn đến các nhà hàng lớn ở Quảng Yên, thực khách được thưởng thức sự tâm huyết và tinh tế trong cách chế biến, đổi mới hương vị của những đầu bếp tài ba. Được gom góp từ tất cả tinh hoa của biển cả, các món ăn từ biển đã đi một hành trình dài để trở thành các món độc đáo, nổi bật của ẩm thực Quảng Yên. Từ những món ăn sang trọng như tôm hùm, ghẹ tươi, tu hài đến những món bình dân như ốc, ngao… đều dễ dàng tìm thấy trong các nhà hàng của Quảng Yên. Mỗi món được đầu bếp chế biến theo phong cách độc đáo, công phu với nguyên liệu tươi ngon, tạo nên trải nghiệm ẩm thực độc đáo nhất.

Đã từ lâu, ẩm thực là yếu tố hấp dẫn không thể bỏ qua khi đến với Quảng Yên. Những nhà hàng sang trọng, những quán ăn gia đình hay thậm chí là mâm cơm bình dị của người dân địa phương đều mang lại những trải nghiệm ẩm thực rất đáng nhớ. Qua thời gian, ẩm thực Quảng Yên có sự sáng tạo, làm mới và phát triển nhưng cũng không quên bảo tồn và duy trì những giá trị truyền thống xưa cũ. Và “linh hồn” của ẩm thực Quảng Yên chính là các món hải sản – tinh hoa của biển, bởi nó không đơn thuần là những món ăn mà còn bao chứa cả những giá trị sâu sắc ở khía cạnh văn hóa, lịch sử, tự nhiên độc đáo của vùng đất này. Tại Liên hoan ẩm thực Quảng Ninh năm 2024, liên hoan có quy mô lớn nhất từ trước đến nay với sự tham gia của 130 đơn vị đến từ 32 tỉnh, thành phố trên cả nước đại diện cho ba miền Bắc – Trung – Nam, gian hàng món ngon Quảng Yên đã giành được giải thưởng xuất sắc, thêm một lần khẳng định thương hiệu nức tiếng của ẩm thực Quảng Yên.

Lê Anh

Nguồn: Dulichvn

Bình Định: Làng nghề giáp Tết rộn vui

Giáp Tết, nhiều hộ, cơ sở sản xuất tại các làng nghề bún, bánh tráng, nem, chả trên địa bàn tỉnh Bình Định tăng hết công suất để có đủ sản phẩm đáp ứng nhu cầu thị trường.


Tất bật ở làng nghề bún, bánh tráng

Từ đầu tháng 11 âm lịch đến nay, thời tiết không thuận lợi khi trời thường xuyên âm u, mưa rào, nhưng các hộ làm nghề sản xuất bún tươi, bánh tráng, bún song thằn, bún gạo dề ở làng nghề bún, bánh An Thái (xã Nhơn Phúc, TX An Nhơn) vẫn liên tục hoạt động để có đủ hàng cung ứng cho thị trường. Đặc biệt, từ đầu tháng Chạp, sản lượng bún, bánh tăng 1,5 – 2 lần so với bình thường.

Làng nghề bánh tráng Trường Cửu hối hả vào Tết. Ảnh: Trọng Lợi

Theo UBND xã Nhơn Phúc, thôn An Thái có 795 hộ, trong đó có 180 hộ lấy nghề làm bún, bánh là nghề chính, hơn 400 hộ khác có người tham gia làm nghề.

Thị trường tiêu thụ chính của Làng nghề bún, bánh An Thái là các tỉnh miền Trung, Tây Nguyên; ngoài ra, một số thương lái ở miền Bắc và miền Nam cũng tìm đến địa phương để mua hàng. Thu nhập bình quân của một hộ làm nghề trong 2 năm gần đây (2023 – 2024) khoảng 300 triệu đồng/năm; còn thu nhập bình quân của người lao động tham gia làm nghề hơn 7 triệu đồng/người/tháng.

Bà Trần Thị Lan, một người làm nghề bún khô ở thôn An Thái, cho hay: “Năm nay trời liên tục mưa, việc làm bánh tráng và bún khô gặp vất vả hơn do cần nhiều thời gian để phơi khô. Bù lại, sức tiêu thụ tăng và giá cả nhỉnh hơn so với năm trước nên các hộ làm nghề cũng vui, tăng hết công suất để có thêm nguồn thu nhập, cải thiện kinh tế gia đình”.

Tương tự, các hộ làm nghề tráng bánh tráng tại thôn Phú Gia (xã Cát Tường, huyện Phù Cát); thôn Trường Cửu (xã Nhơn Lộc, TX An Nhơn); xã Mỹ Quang, Mỹ Đức (huyện Phù Mỹ), sản xuất bún tươi tại thôn Ngãi Chánh (xã Nhơn Hậu, TX An Nhơn) cũng liên tục đỏ lửa, để có đủ sản phẩm giao cho thương lái.

Theo ông Lê Hữu Ý, chủ cơ sở sản xuất bánh tráng máy Phúc Nhân, ở thôn Trường Cửu, trung bình mỗi ngày, cơ sở của ông sản xuất 100 kg bánh tráng thành phẩm. Tháng Chạp, ông phải thuê thêm người làm để tăng công suất làm bánh, đảm bảo có đủ hàng cung ứng cho thị trường trong tỉnh và các tỉnh Phú Yên, Gia Lai, Đắk Lắk. “Nhờ mở rộng thị trường tiêu thụ nên sản phẩm của cơ sở tôi làm ra bao nhiêu bán hết bấy nhiêu, riêng dịp Tết nhu cầu cao hơn rất nhiều. Nghề làm bánh tráng thu nhập không quá cao nhưng được cái ổn định, mỗi tháng vợ chồng tôi lời trên 10 triệu đồng. Dịp giáp Tết tiền lời sẽ cao hơn so với ngày thường nên dù vất vả tôi vẫn cố gắng làm hết công suất”, ông Ý chia sẻ.

Bà Nguyễn Thị Vinh Hằng, Phó Chủ tịch UBND xã Nhơn Lộc, cho biết: Làng nghề bánh tráng Trường Cửu có 74 hộ đang hoạt động, trong đó 12 hộ đã đầu tư lắp đặt dây chuyền để khép kín sản xuất. Nghề này giúp các hộ có việc làm thường xuyên, thu nhập ổn định.

Nem chả đắt như tôm tươi

Theo thống kê, toàn huyện Tuy Phước có hơn 60 cơ sở sản xuất nem chả, nhưng nổi bật nhất là thương hiệu nem chả Chợ Huyện tại xã Phước Lộc. Năm 2018, Cục Sở hữu trí tuệ (Bộ KH&CN) đã cấp chứng nhận nhãn hiệu cho các cơ sở sản xuất nem chả tại đây… Hiện nay Chợ Huyện có 5 cơ sở sản xuất nem chả với quy mô lớn và uy tín lâu năm cùng hàng chục điểm bán lẻ dọc QL 1A và QL 19 cũ qua các thôn Phú Mỹ 1, Phú Mỹ 2, Phong Tấn, Quảng Tín, Trung Thành… Những ngày giáp Tết, các cơ sở làm nem, chả truyền thống tại Phước Lộc tăng công suất tối đa để có đủ hàng cung ứng ra thị trường.

Bà Đào Thị Quyền (bên trái) tạo dựng thương hiệu nem chả Bảy Liêm có chỗ đứng trên thị trường. Ảnh: Trọng Lợi

Sản phẩm của Cơ sở nem chả Bảy Liêm, do bà Đào Thị Quyền làm chủ, đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm, kết hợp hương vị thơm ngon và mẫu mã đẹp; nhờ đó đã có mặt ở nhiều tỉnh, thành trong cả nước… Nem ở đây được bán với giá 2.300 đồng/chiếc khi bán sỉ và 2.500 đồng khi bán lẻ. Với hơn 50 năm kinh nghiệm, bà Quyền khẳng định: “Ngày thường, cơ sở chúng tôi bán khoảng 3.000 – 4.000 chiếc nem, nhưng vào dịp Tết con số này tăng gấp đôi, chưa kể nem cây, chả và tré. Hàng làm ra bao nhiêu, khách lấy hết bấy nhiêu”. Để duy trì và phát triển nghề gia truyền, bà Quyền đã truyền lại công thức và kỹ thuật làm nem cho con trai và con dâu.

Ông Thái Văn Thuận, Chủ tịch UBND xã Phước Lộc, cho biết: “Các thương hiệu nem, chả nổi tiếng ở địa phương mỗi ngày cung cấp hàng nghìn chiếc nem và cả trăm kg chả các loại cho thị trường. Ngoài ra, tré Chợ Huyện cũng là món đặc sản rất được ưa chuộng và tiêu thụ mạnh trong dịp Tết. Việc các cơ sở tăng công suất để cung ứng hàng dịp Tết cũng góp phần giải quyết việc làm cho nhiều lao động địa phương”.

Minh Nhân – An Nhiên

Nguồn: Dulichvn

Hương Tết nơi miền thương nhớ

Thường người ta chỉ đau đáu nhớ về khi đã cách xa, vậy mà, nỗi nhớ Tết trong tôi lại vô cùng kỳ lạ, bởi Tết càng gần, tôi lại càng nhớ Tết, chính xác là nhớ về những ngày Tết xưa.


Và nỗi nhớ ấy, dù thuộc về quá khứ, dù mọi thứ đều đã cũ kỹ, lạc lõng với thời gian, vẫn tinh khôi như thuở ban đầu. Ký ức không phai nhạt, mà ngược lại ngày càng đậm sâu trong tôi, như thể Tết không chỉ là một mùa trong năm, mà là một phần không thể thiếu và luôn hiện hữu trong mọi miền thương nhớ…

Mùi Tết là mùi của yêu thương đọng lại với thời gian. Với ai đó, mùi Tết có thể là hương nồi nước tắm tất niên chiều 30, mùi nhang trầm bảng lảng, mùi khói thơm ngậy bốc lên từ nồi bánh chưng sôi lục bục trên bếp lửa, hay mùi của pháo tép, pháo đùng thuở nào xa lắm… Nhưng đối với tôi, ngoài những hương vị ấy, còn có một thứ mùi đặc biệt không thể nhầm lẫn, đó là mùi quết trầu cay nồng của bà tôi.

Tết đến, tôi nhớ quay quắt hương trầu của bà, làn hương dịu dàng, thanh khiết như vòng tay bà ôm ấp suốt tuổi thơ tôi. Ngày cuối năm, giữa chợ Tết đông đúc, tôi đứng lặng bên gánh hàng trầu cau, nhớ thương bà đến nghẹn lòng. Bà tôi đã về miền mây trắng mấy mươi năm, thì cũng từng ấy thời gian, tôi không còn được nằm trong lòng bà để hít hà hương trầu cay và nghe bà kể những câu chuyện xưa cũ.

“Mỗi người bà là cuốn sách sống, chứa đựng những câu chuyện của thời gian, những bài học không thể nào quên”, nhà thơ người Mỹ Maya Angelou đã từng nói như vậy, và đúng thế, đến tận bây giờ, đã ngần ấy năm trôi qua, tôi vẫn thấy tim mình hụt đi một nhịp khi nhớ về bà, rồi chợt nhận ra ngày Tết đã thật gần mà không còn thấy bóng lưng còng của bà bên tôi nữa…

Khúc hương mùi già

Tết, như làn hương thầm vỗ về ký ức, mang theo hơi thở dịu dàng của những mùa xuân đã qua. Trong không khí Tết đang tràn ngập khắp không gian, có một mùi hương mà bất kỳ ai, mỗi khi chợt bắt gặp, là tự khắc hiểu rằng Tết đang đến thật gần, cùng với náo nức mong đợi hoặc lo toan trăn trở – đó là hương của lá mùi già, chỉ cần khẽ chạm vào khứu giác là lại khiến lòng người xốn xang.

Thuở ấy, cứ tầm 25-26 Tết, bà tôi lại mua vài bó mùi già, treo lên phơi dưới nắng hanh hao cho se lại “để hương thơm thêm đậm, con ạ”, bà giải thích như thế. Rồi bà thêm vào vỏ bưởi, hương nhu, lá sả, đặt ghé nồi nước tắm bên bếp luộc bánh chưng. Một mùi thơm thanh khiết lan tỏa khắp gian bếp nhỏ ấm sực. Bà lần lượt gọi chị em tôi vào kỳ cọ cho từng đứa bằng thứ hương liệu “thượng hạng” ấy. Mùi hương nồi tắm tất niên của bà, với tôi, không chỉ đơn thuần là mùi của cây cỏ, hoa lá, mà là mùi của tình thương ấm áp, là ký ức sống động về bà. Bà luôn là người giữ gìn những thói quen, những tục xưa nếp cũ. Bà bảo, tắm nước lá mùi già là để gột rửa bụi bặm, đen đủi của năm cũ, đón chào những điều tốt lành trong năm mới. Cứ thế, hương lá mùi già đã thấm sâu vào từng ngóc ngách trong tôi, khiến tôi dần hiểu ý nghĩa sâu xa của những phong tục ấy. Nồi nước lá tắm tất niên chính là hồn cốt của tình ruột thịt mà bà trao gửi, để chúng tôi tiếp tục trao lại cho các con của mình, như một cách gìn giữ mối liên kết linh thiêng giữa các thế hệ.

Giờ đây, mỗi mùa Tết, tôi lại mua mùi già, lại phơi dưới nắng hanh hao “cho hương thêm đậm”, để tiếp tục thắp sáng ký ức về bà, về những mùa xuân ấm áp bên gia đình. Bó mùi già như một sứ giả kết nối quá khứ và hiện tại, giữa những thế hệ đã đi qua và thế hệ kế tiếp, để mùi hương nhẹ nhàng, thanh thoát ấy trường tồn trong mọi cái Tết của dân tộc. Với riêng tôi, hương mùi già của bà luôn ở trong tim cùng với tình yêu thương mà bà để lại…

Nhang trầm quấn quýt

Hương thơm của nhang trầm, không chỉ đến trong những ngày Tết, mà ngay cả khi Tết chưa kịp ghé thăm, cũng đã báo hiệu một luồng sinh khí ấm áp đang tỏa lan từ sâu thẳm cội nguồn. Mỗi lần thắp nhang là không gian trở nên lắng đọng, ai cũng như đang chờ đợi, đang đón nhận một điều gì đó từ thiêng liêng vọng về.

Mùi thơm của nhang trầm dịu dàng, thanh thoát nhưng cũng rất đậm đà. Trong từng làn khói nhẹ bay lên, tôi như thấy lại hình ảnh cả gia đình quây quần bên nồi bánh chưng, những ánh mắt yêu thương của bà và bố mẹ nhìn đàn con nhỏ ríu rít khoe nhau manh áo mới. Nhang trầm chính là sự nhắc nhớ thế hệ sau biết đến sự hy sinh thầm lặng của tổ tiên, ông bà, cha mẹ… và như một chiếc cầu nối con cháu với gia tộc, giữ gìn những giá trị tinh thần bền vững với thời gian.

Tết không chỉ là dịp để sum vầy, để đón nhận những điều may mắn mới, mà còn là lúc để ta dừng lại, tĩnh tâm và tưởng nhớ. Tưởng nhớ những người đã khuất, tưởng nhớ mái ấm gia đình xưa, nơi chứa đựng bao yêu thương và kỷ niệm. Hương thơm của nhang trầm chính là lời tri ân gửi tới những người đã gây dựng, nuôi dưỡng và gìn giữ mái nhà này. Khi mùi hương lan tỏa trong không gian là lúc mỗi người nhìn lại những gì đã qua và nhìn về tương lai với niềm tin tươi sáng. Mái ấm gia đình, như một ngọn lửa ấm nồng, dù thế nào cũng sẽ luôn cháy mãi, dù có bao nhiêu mùa Tết đi qua.

Bánh chưng gói trọn tình thân

Trong cái hối hả của những ngày giáp Tết, có một mùi hương đặc biệt gói trọn trong đó bao lo toan vất vả, mồ hôi nước mắt của những người tha hương… chính là hương khói từ bếp nấu bánh chưng. Mùi khói ấy như một lời chào đón thân thương, báo hiệu Tết đã thật sự đến với “nồi bánh chưng có thịt”.

Đêm 27, 28 Tết, khi lửa hồng đã đượm, mùi hương bánh đang sôi quyện với mùi khoai lang vùi tro tỏa lan khắp xóm, thấm vào từng ngôi nhà, từng góc phố, khiến cái giá lạnh cuối năm dường như tan biến. Mùi thơm của lá dong, gạo nếp, đỗ xanh, thịt mỡ ôm ấp, hòa huyện vào nhau trong nồi bánh, tạo nên một bức tranh Tết Việt 4D tuyệt mỹ.

Bánh chưng xanh là biểu tượng của sự đoàn kết, của lòng hiếu thảo và tình yêu quê hương, đất nước. Không chỉ là niềm vui của người nấu, hương bánh chưng còn là niềm hạnh phúc của cả gia đình, làm ấm lòng những người đang quây quần bên nhau, làm cho cái Tết trở nên trọn vẹn. Bao năm đã qua, giờ đây chả mấy nhà còn gói bánh, luộc bánh nữa, nhưng mùi hương ấy đã thấm vào trong trái tim tôi cũng như những người đồng trang lứa, để năm tháng dần qua, tôi lại thêm cảm nhận về tình yêu thương vô bờ bến mà bà và bố mẹ đã tỉ mỉ, chu đáo chuẩn bị cho chị em tôi có một mùa Tết đủ đầy.

Nhớ về hương khói bếp bánh chưng là cách để trái tim mỗi người trở nên ấm áp, bởi đó là những giá trị tinh thần mà thế hệ nào cũng cần trân trọng, giữ gìn, để mùa xuân luôn về với gia đình, về với những yêu thương bất tận.

Cỗ Tết gắn kết gia đình và tôn vinh văn hóa truyền thống

Suốt 3 ngày Tết, không gian nhà nào cũng ngập tràn những mùi hương đặc trưng, nhưng có lẽ mùi thơm ngào ngạt từ mâm cơm là thứ khiến ai cũng háo hức hướng về. Đó không chỉ là hương thơm của các món ăn, mà còn là những kỷ niệm sâu lắng về mẹ, về bà, về ngày Tết đoàn viên sum họp. Mỗi năm, khi Tết đến, dù có bận rộn đến đâu, những người phụ nữ đảm đang cũng không quên chăm chút cho mâm cỗ nhà mình, vừa để thành kính dâng lên tổ tiên ông bà, vừa để cho các thành viên được thưởng thức những món ăn thật ngon miệng.

Mâm cơm với bánh chưng, nem rán, gà luộc, măng khô hầm chân giò, miến nấu lòng gà, dưa hành, bóng thả… chỉ ngày Tết mới hiện diện đủ đầy bên nhau, hòa quyện vào nhau để tạo nên một mùi hương trù mật. Mùi thơm ấy không chỉ kích thích mọi giác quan mà còn gợi nhớ về những phong tục, tập quán cổ truyền từ xa xưa để lại. Có lẽ, bao năm trước, các cụ ta đã từng thưởng thức những món ăn này trong dịp Tết, giờ dòng chảy ấy nối chúng ta về với cội nguồn, để đến Tết, người người, nhà nhà lại ngồi bên nhau cùng thưởng thức những món ngon dân tộc.

Mỗi mùa Tết, mẹ và bà tôi đã lo toan chuẩn bị từng món ăn, chu đáo đến từng chi tiết nhỏ nhất từ mấy tháng trước. Tết, mẹ là người vất vả nhất, luôn tất bật trong bếp, tay năm tay mười xào nấu, bưng bê, và từ góc bếp của mẹ tỏa ra hương thơm vô cùng hấp dẫn, khiến chị em tôi thèm chảy nước miếng, cứ quấn lấy chân mẹ. Mùi vị của các món ngon không chỉ thấm đẫm không gian để làm nên phong vị Tết, mà còn ngấm sâu vào tâm khảm mỗi người, để dù lưu lạc chân trời góc bể, những ngày cuối năm không ai là không đau đáu nhớ về mâm cơm của mẹ.

Mỗi món ăn trên mâm cỗ Tết đều gói trọn tình thương, từ miếng thịt kho mềm ngọt, đến chiếc nem rán giòn tan vàng rộm, từ củ hành muối trắng muốt, đến miếng măng hầm nhừ tan nơi đầu lưỡi… tất cả đều mang dấu ấn đảm đang, vất vả của mẹ. Mâm cơm ngày Tết là minh chứng cho một nền văn hóa gia đình đặc sắc, nơi tình yêu thương được trao đi và nhận lại. Khi hương cỗ Tết lan tỏa trong không gian, lòng người như được lấp đầy, xóa đi mọi lo toan trong suốt một năm dài, chỉ còn lại những khoảnh khắc bình yên, sum họp. Mùi thơm ngọt ngào ấy chính là hương vị mãi trường tồn trong trái tim những người con đất Việt.

Đỗ Huyền

Nguồn: Dulichvn

TIN MỚI NHẤT