Du lịch trong nước

Du lịch trong nước, tin tức du lịch trong nước, các tour du lịch trong nước, các địa điểm du lịch trong nước hấp dẫn được chúng tôi tổng hợp và đưa tin hàng ngày đến cho khách du lịch trên khắp mọi miền đất nước có được thông tin du lịch trong nước để có những thông tin hữu ích nhất cho mình và gia đình khi quyết định chọn chuyến du lịch trong nước cho mình và người thân

Điện Biên: Xây dựng Nhà tưởng niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh trên Đồi E2

UBND tỉnh Điện Biên vừa tổ chức khởi công xây dựng công trình Nhà tưởng niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh và đầu tư bổ sung một số hạng mục công trình tại di tích Đồi E2.


Phối cảnh công trình Nhà tưởng niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Đồi E2

Theo đó, công trình Nhà tưởng niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh và đầu tư bổ sung một số hạng mục công trình tại di tích Đồi E2 thuộc tổ 23, phường Điện Biên Phủ.

Công trình do Sở VHTTDL Điện Biên làm chủ đầu tư, thời gian thực hiện dự án năm 2024 – 2026. Với tổng mức đầu tư 35 tỉ đồng, nguồn vốn do UBND TP. HCM hỗ trợ có tổng diện tích 160m2, trong đó, nhà tưởng niệm thiết kế theo kiến trúc truyền thống, mái hai tầng, thuộc nhóm công trình dân dụng cấp III.

Việc đầu tư xây dựng công trình mang ý nghĩa chính trị – xã hội, giá trị nhân văn sâu sắc, đồng thời giáo dục truyền thông yêu nước, thể hiện tình cảm, lòng biết ơn của Đảng, Nhà nước và nhân dân đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Công trình cũng góp phần tạo điểm nhấn về kiến trúc, không gian, thu hút người dân, du khách đến tham quan, du lịch. Đồng thời đáp ứng nhu cầu, nguyện vọng của nhân dân, các cựu chiến binh, du khách trong và ngoài nước khi tới Điện Biên tham quan, trải nghiệm.

Để đảm bảo công trình phát huy hiệu quả, UBND tỉnh Điện Biên cũng yêu cầu Sở VHTTDL Điện Biên đơn vị chủ đầu tư phải cần bám sát quản lý chất lượng, tiến độ công trình bảo đảm đúng các quy định của pháp luật hiện hành.

Bên cạnh đó, các đơn vị thi công, tư vấn giám sát, tư vấn thiết kế phải bảo đảm kỹ thuật, mỹ thuật, giải pháp thi công các hạng mục công trình trên tổng mặt bằng một cách hợp lý, không ảnh hưởng đến yếu tố nguyên gốc của di tích.

Mộc Trà

Nguồn: Dulichvn

Khám phá Công viên địa chất toàn cầu UNESCO Đắk Nông

Được UNESCO công nhận lần thứ nhất vào năm 2020 và lần thứ 2 vào năm 2024, Công viên địa chất toàn cầu (CVĐCTC) UNESCO Đắk Nông là vùng di sản độc đáo với hệ thống hang động núi lửa lớn nhất Đông Nam Á và kho tàng văn hóa đa dạng của hơn 40 dân tộc.


Kỳ quan giữa đại ngàn

Nằm trên cao nguyên M’nông, với diện tích hơn 4.700 km² trải dài trên nhiều địa phương, CVĐCTC UNESCO Đắk Nông là “kho báu” địa chất quý giá của Việt Nam, được UNESCO vinh danh vào năm 2020. Đây là CVĐCTC thứ ba của Việt Nam, sau Cao nguyên đá Đồng Văn và Non nước Cao Bằng.

Nét độc đáo nổi bật của CVĐCTC UNESCO Đắk Nông chính là hệ thống hang động núi lửa Krông Nô – kỳ quan tự nhiên có một không hai ở Đông Nam Á. Hệ thống này được khảo sát với chiều dài khoảng 25 km, gồm nhiều hang động lớn nhỏ như C2, C3, C4, C7, C8… Trong đó, hang C7 nổi bật với chiều dài lên tới 1.200 m được UNESCO ghi nhận là hang dung nham dài nhất Đông Nam Á.

Hệ thống hang động núi lửa Krông Nô có chiều dài khoảng 25 km với nhiều hang động lớn nhỏ

Theo các nghiên cứu công bố vào năm 2014 bởi các nhà khoa học Việt Nam và Nhật Bản, toàn bộ hệ thống hang động dung nham Krông Nô trải dài từ miệng núi lửa Buôn Choáh theo dòng sông Sêrêpốk đến khu vực thác Đ’ray Sáp, tạo thành một chuỗi “mạch ngầm dung nham” độc đáo chưa từng thấy trong khu vực. Trên vách đá vẫn còn lưu lại dấu tích của thực vật bị hóa đá, như những tấm thảm thực vật bị nung chảy rồi hóa thạch giữa dòng dung nham.

Du khách chụp hình kỷ niệm trong hang C3

Du khách khi đặt chân vào lòng hang như bước vào một chiều không gian khác, sâu thẳm, kỳ bí và hùng vĩ. Du khách Nguyễn Văn Pháp đến từ TP. Hồ Chí Minh, sau chuyến khám phá hang C3 và C4 chia sẻ: “Tôi như được xuyên không trở về hàng triệu năm trước. Cảnh quan trong lòng hang quá ngoạn mục, hoang sơ, thâm u nhưng đầy sức sống. Đây thực sự là một báu vật của thiên nhiên”.

PGS.TS Nguyễn Khắc Sử, Hội Khảo cổ Việt Nam (bên trái) giới thiệu về các hiện vật khảo cổ được tìm thấy trong vùng CVĐCTC UNESCO Đắk Nông

Không chỉ ghi dấu bởi cảnh quan kỳ thú, CVĐCTC UNESCO Đắk Nông còn chứa đựng những “di chỉ sống” về lịch sử tiến hóa của loài người.

Trong đó, hang C6 là một điểm khảo cổ quan trọng thuộc xã Nam Đà (trước đây là xã Buôn Choáh), đã phát hiện nhiều dấu tích cư trú của người tiền sử như xương hóa thạch, công cụ bằng đá, mảnh gốm thô sơ… Những di chỉ này cho thấy con người đã từng sinh sống và thích nghi với môi trường núi lửa vùng CVĐC Đắk Nông cách đây hàng chục ngàn năm. Đây là phát hiện có giá trị đặc biệt, mở ra hướng nghiên cứu mới trong ngành khảo cổ học Đông Nam Á.

Những di chỉ này cho thấy con người đã từng sinh sống và thích nghi với môi trường núi lửa trong vùng CVĐCTC UNESCO Đắk Nông cách đây hàng chục nghìn năm

Trở ra khỏi lòng đất, CVĐCTC UNESCO Đắk Nông còn là mái nhà của những cánh rừng nguyên sinh rộng lớn, nơi lưu giữ hệ sinh thái đa dạng, phong phú bậc nhất Tây Nguyên. Những cánh rừng tại Nâm Nung, Tà Đùng, Đ’ray Sáp… vẫn ghi nhận sự hiện diện của các loài động vật quý hiếm nằm trong Sách đỏ.

Hệ thực vật tại đây cũng phong phú không kém, với hàng trăm loài đặc hữu, từ các loài phong lan rừng đến các loài cây dược liệu quý hiếm.

Không gian văn hóa trong lòng di sản

Điều làm nên sự khác biệt sâu sắc của CVĐCTC UNESCO Đắk Nông không chỉ nằm ở vẻ đẹp địa chất mà còn ở “phần hồn” văn hóa đặc sắc.

Được mệnh danh là “xứ sở của những âm điệu”, vùng đất này là nơi hội tụ văn hóa của hơn 40 dân tộc gồm: M’nông, Ê đê, Mạ, Kinh, Tày, Nùng, Dao… Tất cả đã tạo nên một không gian văn hóa đa sắc màu, sống động và chân thực.

Không gian cồng chiêng Tây Nguyên vẫn được lưu giữ trong các lễ hội, nghi thức cộng đồng và sinh hoạt hằng ngày của người Ê đê

Không gian cồng chiêng Tây Nguyên – Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại vẫn vang vọng trong những lễ hội, nghi thức cộng đồng và sinh hoạt hàng ngày của người dân bản địa. Những bài sử thi Ót N’Drông hùng tráng, tiếng chiêng vọng rừng, điệu múa xoang rộn ràng giữa đêm lửa… tạo nên một bản giao hưởng âm thanh đậm chất đại ngàn.

Đến với nơi đây, du khách có thể hòa mình vào đời sống địa phương, trải nghiệm đêm cồng chiêng, học dệt thổ cẩm, nấu cơm lam hay cùng già làng kể sử thi bên ché rượu cần.

CVĐCTC UNESCO Đắk Nông là nơi hội tụ văn hóa của hơn 40 dân tộc anh em, đã tạo nên một không gian văn hóa đa sắc màu, sống động và chân thực

Một điểm nhấn hiện đại nhưng vẫn đậm chất văn hóa là Bảo tàng Âm thanh – nơi tái hiện âm thanh của thiên nhiên, đời sống và lịch sử qua các không gian nghệ thuật đương đại.

Bảo tàng có 8 phòng theo chủ đề: âm thanh rừng núi, tiếng chim, tiếng nước đến âm thanh của nhạc cụ dân tộc,… Mỗi không gian là một hành trình trải nghiệm đa giác quan, để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng du khách.

Du khách tham gia trải nghiệm tại Bảo tàng âm thanh

Không chỉ gìn giữ giá trị văn hóa bản địa, CVĐCTC còn tích hợp các địa chỉ đỏ lịch sử như Đường mòn Hồ Chí Minh, các di tích kháng chiến và nghĩa trang liệt sĩ. Hành trình khám phá công viên vì thế không chỉ là cuộc phiêu lưu thiên nhiên mà còn là hành trình tri ân quá khứ, tìm về cội nguồn dân tộc.

Hướng tới phát triển bền vững

PGS.TS Trần Tân Văn, chuyên gia cao cấp của Mạng lưới CVĐCTC UNESCO nhận định: “CVĐCTC UNESCO Đắk Nông là một trong những công viên địa chất hiếm hoi trên thế giới hội tụ trọn vẹn các yếu tố: di sản địa chất đặc sắc, nền văn hóa bản địa phong phú và cộng đồng cư dân gắn bó sâu sắc với di sản.”

Người dân ở đây không chỉ sống cùng di sản mà còn giữ gìn, kể lại và truyền dạy di sản đó từ thế hệ này sang thế hệ khác. Đó là “phần hồn” giúp Lâm Đồng trở thành hình mẫu của sự gắn kết giữa bảo tồn, giáo dục và phát triển sinh kế.

CVĐCTC UNESCO Đắk Nông như một “lớp học lớn ngoài trời”, nơi học sinh, sinh viên, du khách và cộng đồng được trực tiếp học hỏi về địa chất, môi trường và văn hóa

Trong hơn một thập niên phát triển, CVĐCTC UNESCO Đắk Nông đã khẳng định vai trò như một “lớp học lớn ngoài trời”, nơi học sinh, sinh viên, du khách và cộng đồng được trực tiếp học hỏi về địa chất, môi trường và văn hóa. Hàng trăm chuyến tham quan, học tập ngoại khóa được tổ chức mỗi năm, góp phần hình thành ý thức gìn giữ di sản, bảo vệ môi trường và tôn trọng đa dạng văn hóa ngay từ thế hệ trẻ.

Không dừng lại ở giáo dục, CVĐCTC UNESCO Đắk Nông còn là động lực phát triển kinh tế địa phương. Nhiều mô hình du lịch cộng đồng, sản phẩm OCOP gắn với địa chất và văn hóa đã được triển khai giúp người dân, đặc biệt là đồng bào dân tộc thiểu số có thêm thu nhập và sinh kế ổn định. Người dân không chỉ là cư dân mà còn là hướng dẫn viên, nghệ nhân, người kể chuyện về di sản, là những “người giữ hồn” cho công viên địa chất.

Người dân không chỉ là cư dân mà còn là hướng dẫn viên, nghệ nhân, người kể chuyện về di sản, là những “người giữ hồn” cho công viên địa chất

Hòa An

Nguồn: Dulichvn

Đan nón lá, cảm nhận văn hóa Tày ở Lâm Thượng

Ở bản Tông Pắng, xã Lâm Thượng, tỉnh Lào Cai (trước đây là Yên Bái), chiếc nón lá không chỉ là vật dụng che nắng che mưa mà còn là một biểu tượng văn hóa lâu đời của người Tày. Vài năm trở lại đây, nghề làm nón truyền thống trở thành hoạt động trải nghiệm độc đáo, thu hút du khách trong và ngoài nước.


Bà Hoàng Thị Huệ (bên trái) trò chuyện và hướng dẫn khách làm nón.

Bản Tông Pắng nằm giữa thung lũng Lâm Thượng, cách Hà Nội khoảng 250km, nằm trên cung đường thuận tiện di chuyển giữa hai điểm đến nổi tiếng là Sa Pa và Hà Giang. Du lịch Lâm Thượng đã và đang thu hút du khách yêu thiên nhiên và mong muốn tìm hiểu văn hóa các dân tộc miền núi phía bắc.

Đến đây, ngoài việc nghỉ dưỡng, tắm rừng, lội suối hay thưởng thức ẩm thực địa phương, rất nhiều du khách hứng thú và đánh giá cao trải nghiệm workshop làm nón lá thủ công với các nghệ nhân lành nghề trong bản.

Bà Huệ tranh thủ làm nón những lúc nông nhàn, vừa có thêm thu nhập, vừa tự hào giữ gìn nghề truyền thống.

Là một trong 3 nghệ nhân làm nón giỏi của bản Tông Pắng, bà Hoàng Thị Huệ cho biết từ bé đã được mẹ dạy cách đi rừng lấy cây giang, lấy lá cọ, rồi cách sơ chế nguyên liệu và các bước làm nón.

Chiếc nón nhẹ, bền, mát và tượng trưng cho sự khéo léo, duyên dáng của mỗi cô gái Tày. Nón theo chân họ gần như suốt cuộc đời, trong công việc đồng áng, đi chợ, đi hội, mọi công việc chăm sóc gia đình…

Cùng với trang phục dân tộc, chiếc nón lá cọ là nét đẹp đặc trưng trong đời sống người Tày.

Bà Huệ chia sẻ: “Chiếc nón trông đơn giản nhưng rất nhiều chi tiết, người làm cần kiên nhẫn và cẩn thận để nón được tròn trịa, bền chắc. Nếu làm tập trung, trong khoảng 3-4 tiếng sẽ đan xong được một chiếc, những mẫu cầu kỳ có thể phải lâu hơn”.

Những cây giang được chẻ mỏng, vót nhẵn, đều tăm tắp để làm khung; lá cọ rửa sạch, hơ lửa, phơi khô, vuốt phẳng để đạt độ mềm, dai và màu trắng đều, đẹp. Chiếc nón hoàn thiện còn được tô điểm bằng quai thổ cẩm sặc sỡ, tôn lên khuôn mặt người dùng.

Đôi tay nghệ nhân thoăn thoắt như múa, tạo nên chiếc khung nón đều đặn, đẹp mắt.

Trải nghiệm làm nón lá tại bản Tông Pắng trở thành một điểm nhấn thu hút du khách. Họ không chỉ được tham quan, mà còn trực tiếp tham gia làm nón, lắng nghe những câu chuyện hấp dẫn và mang sản phẩm về dùng, làm quà cho người thân.

Với nguyên vật liệu được nghệ nhân chuẩn bị sẵn, mỗi workshop làm nón có chi phí dễ chịu, chỉ vài trăm nghìn đồng tùy theo kích cỡ, độ dày của nan…

Không chỉ hấp dẫn du khách trong nước, những chiếc nón lá người Tày còn nhận được sự yêu thích từ các đoàn khách quốc tế. Họ ấn tượng bởi sự kết hợp giữa yếu tố thẩm mỹ và công năng, cùng những câu chuyện văn hóa được truyền tải qua từng đường kim, mũi chỉ.

Dưới mái hiên nhà sàn truyền thống, chủ và khách rôm rả chuyện trò, tạo những cảm xúc đặc biệt trong hành trình du lịch. Bà Huệ rất chủ động và thân thiện, đã nhiều lần hướng dẫn khách ngoại quốc làm nón thành công.

Niềm vui của những vị khách nước ngoài sau khi tự tay làm nón.

Bà Huệ cũng nói thêm rằng trong các dịp lễ hội truyền thống, Tết, sự kiện văn hóa-du lịch… của địa phương, bà đều được đại diện bản đi thi làm nón. Nghề làm nón không chỉ giúp bà con giữ gìn bản sắc mà còn tạo thêm sinh kế cho phụ nữ nông thôn, phụ nữ dân tộc thiểu số.

Chiếc nón lá gắn bó hằng ngày với phụ nữ Tày ở Lâm Thượng. (Ảnh: Nhân vật cung cấp)

Sự phát triển của du lịch cộng đồng khiến chiếc nón lá người Tày cũng được tiếp thêm sức sống, không chỉ tồn tại như một kỷ vật của truyền thống cộng đồng mà còn góp phần đưa tinh hoa văn hóa Tày đi xa hơn, lan tỏa tới mọi miền.

Hải Lâm

Nguồn: Dulichvn

Giữ vẻ đẹp danh thắng Suối Tiên (Khánh Hòa)

Nằm ở xã Suối Hiệp, Suối Tiên từ lâu được người dân và du khách gần xa biết tới là một địa điểm có cảnh quan thiên nhiên tươi đẹp, mát lành. Mới đây, các cơ quan chức năng của tỉnh đã hoàn thành xong việc xây dựng lý lịch danh thắng Suối Tiên để đề nghị xếp hạng danh lam thắng cảnh cấp tỉnh.


Cảnh thiên nhiên gắn liền với huyền tích

Nằm cách Nha Trang khoảng 20km về phía nam, danh thắng Suối Tiên có cảnh quan thiên nhiên hoang sơ, đẹp mắt với nhiều khối đá độc đáo, thác nước, hang động và dòng nước suối trong mát. Suối Tiên được bắt nguồn từ dãy Hòn Bà chảy dọc về phía đồng bằng, băng qua nhiều hẻm núi, thung lũng. Dòng suối uốn lượn qua những ghềnh đá, tạo nên cảnh sắc lãng mạn. Khu vực thượng nguồn có địa hình hiểm trở với những tầng đá xếp chồng lên nhau, được nước suối mài nhẵn qua thời gian tạo nên nhiều hình thù độc đáo. Xung quanh suối là cánh rừng nguyên sinh với nhiều cây cổ thụ tươi xanh. Hồ Tiên là một phần của Suối Tiên, đây là hồ nước tự nhiên được hình thành bởi những tảng đá lớn nhỏ chắn ngang dòng suối. Nước ở Hồ Tiên trong xanh, mát lạnh nhìn thấy tận đáy với cát trắng cùng những loài cá nhỏ. Dọc theo dòng Suối Tiên còn có những cảnh đẹp khác như: Dấu chân Voi; bàn chân người khổng lồ; bàn cờ Tiên; động Tiên… tất cả đều mang nét đẹp độc đáo và gắn với những huyền tích dân gian.

Một góc danh thắng Suối Tiên.

Trong dân gian xưa có câu ca rằng: “Suối Tiên nước chảy lững lờ/Tiên đi để lại bàn cờ rêu phong/Mây trôi ngày tháng theo dòng/Bền gan đá vẫn ngày mong, đêm chờ…”. Tương truyền, ngày xưa có ông Khổng Lồ đi du ngoạn nhân gian rồi dừng chân nghỉ ở Suối Tiên. Nhưng năm đó đúng vào kỳ hạn hán, suối khô không một giọt nước, nên ông đã cầu xin các vị tiên cho mưa xuống lòng suối có nước. Lời cầu xin linh nghiệm, trời kéo mây đen ập tới, gió thổi mạnh làm chiếc dây lưng của ông Khổng Lồ treo trên cành cây cổ thụ quấn quanh và dính chặt vào một tảng đá to bên bờ suối. Dọc theo dòng suối có những tảng đá to bằng phẳng là nơi các vị tiên thường xuống đánh cờ; dấu tích bàn chân khổng lồ được dân gian lý giải do sự bất cẩn của người Khổng Lồ đã bị trượt ngã nên một bàn chân ông bấm vào đá, còn tay bám vào vách đá mạnh quá khiến cho những tảng đá rơi ra biển, hóa thành Hòn Chồng và ở Hòn Chồng vẫn còn tảng đá có dấu bàn tay khổng lồ. Còn dấu chân Voi là do các vị tiên cưỡi voi đến chơi ở nơi đây để lại…

Cần được xếp hạng và bảo vệ

Theo ông Lê Văn Hoa – Phó Giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch, danh thắng Suối Tiên không chỉ có giá trị về mặt cảnh quan mà còn mang ý nghĩa lịch sử, văn hóa thông qua những câu chuyện dân gian, những sự kiện liên quan đến hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ của quân, dân Khánh Hòa. Về cảnh quan, Suối Tiên có cảnh sắc hùng vĩ, tươi đẹp nằm giữa hệ sinh thái núi rừng với thảm thực vật tươi tốt, đa dạng. Nơi đây từ lâu đã trở thành một địa điểm được người dân và du khách đến tham quan, nghỉ ngơi thư giãn.

Thác Đá xối trong danh thắng Suối Tiên. Ảnh: Trung Toản

Được biết, hiện phía hạ nguồn Suối Tiên đang được một công ty khai thác hoạt động du lịch với diện tích hơn 12ha. Còn các khu vực khác vẫn đang là hoạt động du lịch mang tính tự phát, thiếu sự quản lý chặt chẽ nên nhiều chỗ đang phải đối diện với tình trạng ô nhiễm rác thải của người dân, du khách bỏ lại; tình trạng xâm hại những cảnh đẹp, hệ sinh thái nơi đây vẫn âm thầm diễn ra. Để giữ gìn, phát huy giá trị văn hóa, lịch sử của danh thắng Suối Tiên, ngày 23-4, Trung tâm Bảo tồn Di tích tỉnh Khánh Hòa đã có văn bản đề xuất lập hồ sơ xếp hạng danh lam thắng cảnh Suối Tiên. Theo đó, danh thắng Suối Tiên đã được đưa vào danh mục kiểm kê di tích theo quyết định của UBND tỉnh Khánh Hòa nên việc lập hồ sơ khoa học xem xét xếp hạng di tích cấp tỉnh là phù hợp. Tuy nhiên, trong quá trình làm hồ sơ cần phối hợp với các cơ quan, đơn vị liên quan để tìm hiểu, rà soát các quy hoạch có liên quan nhằm đảm bảo việc xác định diện tích khu vực bảo vệ không bị chồng lấn với các quy hoạch khác; đối với diện tích đang được vận hành khai thác du lịch cần xem xét kỹ định hướng phát triển để khoanh vùng bảo vệ hợp lý.  

Giang Đình

 

Nguồn: Dulichvn

Tản mạn cá lóc nướng trui

Với người dân vùng đất Cà Mau, nơi thiên nhiên ban tặng nguồn tôm cá dồi dào, con cá lóc không chỉ là nguyên liệu chế biến những món ăn dân dã mà còn là biểu tượng của sự gắn kết cộng đồng, tinh thần khai phá và nét ứng xử hài hoà với tự nhiên.


Vùng đất Cà Mau với hệ thống sông ngòi, kênh rạch chằng chịt, tôm cá dồi dào, trong đó, cá lóc là loài cá nước ngọt quen thuộc, có mặt trong nhiều bữa ăn hằng ngày của mọi gia đình. Cá lóc còn gắn liền với câu chuyện khai hoang gian khó nhưng cũng đầy ý chí của hai vị tiền nhân Tô Minh Chánh và Nguyễn Văn Lành cách đây khoảng 200 năm.

Người dân chọn những con cá lóc to, tươi ngon và thả lại môi trường tự nhiên những con cá nhỏ, chưa đủ kích cỡ.

Tương truyền, ban đầu hai ông mang theo gia đình đến khu vực Nhà Vi (nay thuộc xã Trần Thới, huyện Cái Nước cũ) ở tạm, sau đó dùng xuồng độc mộc lần dò ngược lên sông Bảy Háp, qua tắc Ông Do, rồi xuôi dòng sông Cửa Lớn đến sông Cái Ngay, sau đó men theo sông rạch đến kênh Thị Vạn ngày nay (ấp Thanh Tùng, xã Thanh Tùng, huyện Ðầm Dơi cũ). Nhận thấy nơi đây đất đai tươi tốt, có nhiều nước ngọt và cá tôm vô số kể, hai ông liền khấn sơn thần và thuỷ thần xin phép được khai khẩn đất đai, lập nghiệp tại vùng đất này.

Nội dung lời khấn được lưu truyền như sau: “Chúng con từ phương xa đến đây, giữa vùng đất hoang vu này chưa biết làm gì sinh sống! Xin các vị thần chỉ bảo cho chúng con là Tô Minh Chánh và Nguyễn Văn Lành nơi bình an, thuận lợi, đất đai màu mỡ để chúng con khai khẩn dựng làng, xây ấp mưu sinh. Nếu được như ý nguyện, chúng con sẽ lập miếu thờ chư vị để tỏ lòng cảm ơn và nguyện ăn hiền ở lành, nuôi dạy con cháu giữ đạo lý, duy trì truyền thống sau này”.

Sau khi khấn sơn thần và thuỷ thần, hai ông bơi xuồng nhìn xung quanh thấy có nhiều loài cây cỏ tươi tốt, đặc biệt có nhiều cá lóc phóng lao ngang qua xuồng, xác định nơi đây sẽ là vùng đất “nhân khang, vật thịnh”, hai ông trở về Nhà Vi đưa gia đình đến lập nghiệp.

Ðể tạ ơn thần linh, hai ông lập miếu thờ Sơn Thần (miếu Ông Hổ) và Thuỷ Thần (miếu Bà Thuỷ Long, hay còn gọi là Thuỷ Long thần nữ). Ngôi miếu thờ Thuỷ Long thần nữ trở thành nơi ghi dấu quá trình khai hoang, mở cõi của cộng đồng người Việt trên vùng đất mới. Người dân nơi đây và các vùng lân cận duy trì việc thờ cúng Bà Thuỷ Long, chính nơi này ngày nay, Lễ hội vía bà Thuỷ Long trở thành di sản văn hoá phi vật thể quốc gia.

Giữa khung cảnh thiên nhiên hào phóng ấy, món cá lóc nướng trui ra đời như phần tất yếu của văn hoá ẩm thực Cà Mau. Ðây là món ăn dân dã, thường xuất hiện trong bữa cơm đạm bạc nhưng ấm cúng của người dân miền sông nước.

Ðể có được món ăn này, người dân Cà Mau thường chọn những con cá lóc to, tươi ngon từ ao và thả lại những con cá nhỏ chưa đủ kích cỡ. Việc giữ lại những con cá nhỏ thể hiện sự trân trọng và ý thức bảo vệ nguồn lợi tự nhiên. Cá sau khi bắt sẽ được nướng trực tiếp trên rơm khô, nguyên liệu dễ kiếm sau mỗi vụ gặt lúa. Hương thơm đặc trưng của rơm quyện với mùi cá nướng tạo sức hấp dẫn khó cưỡng.

Món cá lóc nướng trui thường được chấm muối ớt hoặc nước mắm me, ăn kèm với rau từ cây nhà lá vườn, thể hiện sự tận dụng tối đa những gì thiên nhiên ban tặng. Tính cộng đồng được thể hiện rõ nét qua việc dùng chung chén nước chấm trong bữa ăn hằng ngày. Ðây là nét văn hoá ẩm thực đặc trưng, thể hiện sự sẻ chia và gắn bó giữa các thành viên hay bạn bè của người Việt.

Ðặc biệt, món ăn này còn ẩn chứa triết lý biện chứng về sự cân bằng âm – dương và ngũ hành. Sự kết hợp hài hoà của các yếu tố không chỉ tạo nên hương vị đặc sắc mà còn thể hiện quan niệm về sự cân bằng trong vũ trụ và cuộc sống của người Việt.

Cá lóc nướng ăn kèm với các loại rau.

Qua món cá lóc nướng trui còn bộc lộ tính cách phóng khoáng, trọng nghĩa tình của người dân, thể hiện qua câu ca dao: “Bắt con cá lóc nướng trui/ Làm mâm rượu trắng đãi người bạn xa/ Ðiên điển mà đem muối chua/ Ăn cặp cá nướng đến vua cũng thèm”.

Câu ca dao mộc mạc, dân dã ấy vẽ nên bức tranh chân thực về sự hào sảng của vùng đất Cà Mau, sẵn lòng chia sẻ những gì quý giá nhất với bạn bè phương xa.

Không chỉ là món ăn quen thuộc trong bữa cơm hằng ngày, cá lóc nướng trui còn được người dân Cà Mau trân trọng chọn cúng ngày vía Thần Tài. Họ tin rằng, hương vị đặc trưng và sự dân dã của món ăn này, khi dâng cúng lên Thần Tài sẽ mang lại may mắn, tài lộc và thuận lợi trong việc làm ăn./.

Tăng Vũ Khắc

Nguồn: Dulichvn

Bánh dân gian miền sông nước

Trong chuyến về Cần Thơ chúng tôi được dịp ghé thăm Cồn Sơn, một cù lao xanh ngát nổi giữa dòng sông Hậu mênh mông, để trải nghiệm văn hóa miệt vườn, để được tự tay làm những chiếc bánh dân gian đã nghe tên từ lâu lắm.


Bánh lá mít đã chín.

Sau buổi sáng mãn nhãn với các bè cá đặc trưng vùng sông nước MeKong, sau khi nhẩn nha dạo vườn trái cây lúc lỉu chạy dọc theo những con mương dẫn nước, được thỏa thuê hái những trái chôm chôm đỏ lựng trên cành, đến xế trưa chúng tôi men theo con đường đê nhỏ hẹp vào một nhà vườn để lấp đầy cái bụng đang sôi réo. Trương Anh Tuấn, người đưa chúng tôi đi tham quan và cũng là đứa con sinh ra từ xứ cồn này cho biết, ở miệt sông nước, người ta không gọi nhà hàng quán ăn như ngoài phố thị mà gọi là nhà vườn.

Trong lúc chờ bày biện, chúng tôi bị thu hút bởi chiếc bàn, trên đó sẵn nguyên liệu cho du khách trải nghiệm tự tay làm bánh. Một khay bột màu tim tím, cạnh bên là khay lá mít tươi xanh. Kế nữa là khay bột nếp rang, thêm vài chiếc khuôn có nhiều hình be bé. Tiếp đến là thau bột pha sẵn, một chảo dầu đang sôi với năm bảy chiếc khuôn cỡ bàn tay hình hoa văn xinh xắn.

Thấy chúng tôi tò mò, Tuấn giải thích, đó là những nguyên liệu để làm bánh lá mít, bánh in, bánh nhúng.

Bánh Lá Mít

Chỉ vào khay bột đã được nhào sẵn, anh Sáu Cảnh chủ nhà cặn kẽ giải thích, đây là bột gạo pha với bột năng. Bột gạo tự làm tự xay, gạo ngâm qua đêm cho nở, đem xay thì bánh làm ra sẽ dẻo thơm hơn loại bột bán sẵn trên thị trường. Trong lúc nhào bột gạo thêm chút bột năng cho miếng bánh dẻo dai, định lượng vừa phải, nhiều quá bánh sẽ bị cứng. Muốn bánh có màu sắc gì thì lấy cây lá tự nhiên mà cho vô. Mẻ bột trước mặt tôi có màu tim tím, là màu của hoa đậu biếc. Anh Sáu chỉ tay ra hàng đậu biếc xanh ngát trước nhà cho chúng tôi rõ “nguồn gốc xuất xứ”. Đi khắp cồn Sơn, hầu như trước ngõ nhà nào cũng có hàng rào đậu biếc xinh xinh, vừa làm đẹp cho vườn tược, vừa chế biến món ăn thức uống. Ngoài bánh đậu biếc, chúng tôi còn được thưởng thức trà đậu biếc mát lành từ các nhà vườn trong lúc dừng chân.

“Trước đây bánh lá mít có màu xanh, làm từ lá mơ, gọi là bánh lá mít – rau mơ, nhưng hơi kén thực khách bởi mùi của lá, nên người dân cồn Sơn ngày nay thường dùng hoa đậu biếc làm bánh đãi khách. Sắc màu cũng theo ngẫu hứng của nghệ nhân, bữa đó ưng màu gì thì ra vườn tìm cây lá vô mần thôi”, anh Sáu cười sảng khoái nói với tôi như thế.

Thành phần khác không thể thiếu để làm bánh là lá mít. Chỉ rổ lá mít xanh um, tươi rói nằm cạnh khay bột, anh Sáu nói mít đầy trên cồn, bao nhiêu mà chẳng có, có điều lúc hái phải lựa những lá đẹp và tương đối đều nhau để bánh làm ra cùng kích cỡ. Lá mít hái vô đem rửa sạch phơi cho ráo là dùng được.

Công đoạn làm bánh khá đơn giản, tôi được Tuấn hướng dẫn lấy miếng bột nhỏ trải đều lên mặt gân của chiếc lá mít, cuộn lại rồi dùng cuốn lá găm để giữ. Cứ thế hết chiếc này đến chiếc khác, đến khi được một mâm kha khá thì đem hấp. Tầm 10 phút sau mở nắp vung, khói tỏa nghi ngút, bên trong bánh ngả màu tím dịu dàng. Lúc này mới thấy hết vẻ đẹp của nó, bánh như một chiếc lá mộng mơ, mặt bánh in hình gân lá đều đặn. Chính điều đó làm nên sự thú vị cho từng chiếc bánh, vì lá mít bề ngoài có vẻ giống nhau nhưng mỗi chiếc có cấu trúc gân hoàn toàn khác biệt, nên mỗi chiếc bánh nhìn tưởng giống nhau nhưng là duy nhất. Một chị trong nhóm thử xếp lại bánh lên lá, tìm mãi vẫn không ra chiếc lá tạo hình ban đầu để khớp các đường gân.

Giờ thì thưởng thức thôi. Chiếc bánh nóng hổi, thơm lừng mùi gạo, đẹp đẽ như được tô vẽ. Cuộn tròn bánh lại, chấm vào chén nước cốt dừa, cảm nhận vị ngọt vị béo quyện vào nhau thấm vào vị giác, vào từng tế bào trong khoang miệng.

Bánh in thành hình.

Bánh In

Loại bánh thứ hai chúng tôi trổ tài là bánh in.

Nguyên liệu làm bánh in mà chúng tôi đang mày mò chế biến làm từ bột nếp rang chín. Anh Sáu nói nếp làm bánh phải lựa nếp ngon, chọn hạt cùng cỡ để lúc rang cháy đều. Nếp vo sạch, hạt vừa ráo đem rang bằng nồi đất trên bếp lửa nóng rực cho chín dậy mùi thơm, rồi xay nhuyễn. Anh Sáu cho thêm nước đường pha nước cốt hoa đậu biếc tạo màu, trộn đều rồi nói chúng tôi rây bột cho mịn. Cạnh bên là chén nhân làm từ đậu xanh và sợi dừa. Nhón lấy ít bột đã qua rây ép vào khuôn, cho thêm chút nhân vào giữa, lại phủ thêm lớp bột lên trên, ém xuống cho chặt để cả khối dính vào nhau, một lúc sau chỉ việc gõ khuôn xuống bàn cho bánh rơi ra, thế là chúng tôi đã “sản xuất” ra vài chiếc bánh in bắt mắt. Bánh mềm xốp, không khô cứng như bánh in “ngậm mà nghe” trong trí nhớ của tôi thuở nào. Ngồi trước hiên hứng ngọn gió hiu hiu thổi từ mặt sông, nhâm nhi tách trà với miếng bánh tự tay mình làm, ngắm lục bình lững lờ trôi theo con nước, thật tuyệt.

Bánh xèo.

Bánh Xèo

Men theo mùi thơm tôi tiến vào gian bếp, trên bếp lò đỏ rực là chảo bánh xèo vàng ươm. Chiếc bánh trải đều hết cái chảo to cạnh, vành bánh mỏng tang giòn rụm, ở giữa lúp xúp nhân gồm tép sông, thịt ba chỉ, củ sắn bắt mắt. Bánh vừa chín giòn gấp làm đôi cho ra chiếc mẹt lót sẵn lá chuối. Màu vàng nổi bật trên màu xanh của lá gọi mời. Bánh xèo miền Tây dùng củ sắn thay cho giá, dùng với nước mắm ngọt, kèm ít đồ chua, cùng rổ rau xanh mướt đủ các loại, lá vọng cách, lá cát lồi, lá lốt cùng nhiều thứ rau khác nữa. Khác với bánh xèo miền Trung be bé cỡ bàn tay thì chiếc bánh xèo miền Tây to oành. Người ta nói ẩm thực phần nào phản ánh tính cách của người bản xứ, một bên là sự chắt chiu dành dụm nơi miền Trung sỏi đá khô cằn, một bên là tính hồn hậu hào sảng của người phương Nam đất đai trù phú, nên cùng loại bánh mà dáng hình thật khác.

Bánh nhúng.

Bánh Nhúng

Sau bữa ăn chúng tôi tiếp tục làm bánh nhúng tráng miệng. Bột làm bánh nhúng gồm bột gạo pha với bột mì, thêm trứng gà vừa tạo độ kết dính vừa tạo màu đẹp mắt. Tôi hỏi có cho thêm dừa như các loại bánh khác không, Tuấn lắc đầu, thêm dừa thì bột không dính khuôn. Bánh nhúng, ngẫm cái tên bánh thật đúng thao tác chế biến, nhúng khuôn bột vào chảo dầu sôi là có chiếc bánh đẹp đẽ giòn tan. Nghe đơn giản vậy, nhưng lúc thử làm, không phải lúc nào cũng cho ra chiếc bánh giống như khuôn, có cái bết dính, cái méo mó đủ dạng hình. Để có chiếc bánh đẹp thì khâu nhúng bánh phải khéo léo. Đầu tiên cho khuôn ngập vào chảo dầu đang sôi, để một lúc cho khuôn thật nóng, lấy ra nhúng vô thau bột, nhúng sao cho bột vừa tới mép, không để dính lên mặt khuôn. Nếu khuôn không đủ độ nóng sẽ không dính được bột, hoặc nhúng bột ngập mặt khuôn thì lúc chiên bánh bám khuôn không rơi ra được. Làm đúng kỹ thuật rồi thì chỉ cần cho khuôn dính bột vô chảo dầu sôi, bánh chín vàng giòn tự rơi khỏi khuôn, vớt ra để ráo dầu là có thể thưởng thức. Bánh nóng hổi, giòn tan, thơm mùi nếp mùi trứng gà, là món quà nhâm nhi thú vị nhà vườn dành tặng cho du khách rời cồn Sơn. Ngồi trên chuyến phà ngược dòng sông Hậu về lại Cần Thơ, cắn miếng bánh mà nghe như thấm vị ngọt tình người của xứ cù lao thương mến.

Những ngày sau đó, trong lúc dạo phố, tôi gặp nhiều loại bánh dân gian khác được bày biện trên những chiếc thúng của các cô các dì, trên những sạp hàng giữa phố thị nhộn nhịp, như thấy một nẻo quê yên lành ngập tràn trên phố, trong từng nhịp thở của xứ gạo trắng nước trong này.

Hoàng Ngọc Thanh

 

Nguồn: Dulichvn

Điện Biên: Lưu giữ lá cờ đầu tiên tại cột cờ A Pa Chải sau 56 ngày treo

Sáng 1/7, tại cột cờ A Pa Chải, thuộc địa phận xã Sín Thầu, tỉnh Điện Biên, Ban Chỉ huy BĐBP tỉnh Điện Biên phối hợp với Đảng bộ, chính quyền và nhân dân các dân tộc trên địa bàn tổ chức lễ hạ quốc kỳ, lưu giữ lá cờ đầu tiên từng được treo tại đây.


Lãnh đạo Đảng bộ, chính quyền và nhân dân các dân tộc trên địa bàn xã Sín Thầu dự lễ hạ Quốc kỳ. Ảnh: Anh Dũng

Đây là sự kiện có ý nghĩa đặc biệt, diễn ra đúng ngày xã Sín Thầu chính thức chuyển sang vận hành theo mô hình chính quyền địa phương hai cấp. Đại tá Nguyễn Văn Bội, Phó Chỉ huy trưởng Ban Chỉ huy BĐBP tỉnh Điện Biên tham dự và trực tiếp chỉ đạo buổi lễ hạ cờ cũ, thượng cờ mới tại cột cờ.

Cột cờ A Pa Chải được khánh thành vào ngày 7/5/2025 tại xã Sín Thầu, huyện Mường Nhé, tỉnh Điện Biên, đúng dịp kỷ niệm 71 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ. Công trình được xây dựng trên đỉnh núi thuộc dãy Khoang La San, ở độ cao 1.459 m so với mực nước biển, cách giao điểm đường biên giới ba nước Việt Nam – Lào – Trung Quốc khoảng 1.387 m.

Cột cờ có chiều cao 45,19 m, thiết kế hình bát giác, lá cờ rộng 37,5m² (7,5 × 5 m), mang biểu tượng của mốc lịch sử 7/5/1954. Trên đỉnh cột có phù điêu “Bác Hồ với các dân tộc Tây Bắc”, phần chân cột trang trí năm cụm phù điêu thể hiện đặc trưng văn hóa Tây Bắc như: Truyền thuyết, lễ hội, nghề truyền thống, dân ca-dân vũ và tình đoàn kết dân tộc. Đường lên cột cờ có 519 bậc đá, tượng trưng cho 19 dân tộc sinh sống tại Điện Biên.

Lá cờ đầu tiên được treo đúng 56 ngày tượng trưng cho 56 ngày đêm chiến đấu anh dũng của quân và dân ta trong Chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954. Ảnh: Anh Dũng

Công trình được xây dựng từ tháng 11/2023, với tổng vốn đầu tư 31 tỷ đồng từ nguồn xã hội hóa, do Bộ Chỉ huy BĐBP tỉnh làm chủ đầu tư. Sau khi bàn giao, Đồn Biên phòng A Pa Chải sẽ tiếp nhận, tổ chức nghi lễ, bảo vệ và phối hợp cùng Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch và chính quyền địa phương trong công tác tuyên truyền, giữ gìn vệ sinh, an ninh và khai thác du lịch. Đây không chỉ là biểu tượng chủ quyền nơi cực Tây Tổ quốc, mà còn là “địa chỉ đỏ” giáo dục truyền thống, góp phần thúc đẩy phát triển du lịch và kinh tế – xã hội vùng biên giới.

Đại tá Nguyễn Văn Bội, Phó Chỉ huy trưởng Ban Chỉ huy BĐBP tỉnh Điện Biên cho biết, lá cờ đầu tiên được treo tại cột cờ A Pa Chải sẽ được trình ký các cơ quan liên quan và đưa về trưng bày tại Bảo tàng Chiến thắng Điện Biên Phủ. Việc lưu giữ được thực hiện sau đúng 56 ngày treo, tượng trưng cho 56 ngày đêm chiến đấu anh dũng của quân dân ta trong Chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954.

Anh Dũng

Nguồn: Dulichvn

Lạ miệng với gỏi cá xứ Quảng

Dải đất ven biển xứ Quảng nổi tiếng với món gỏi cá tươi ngon. Mỗi du khách qua đây đều muốn thưởng thức, trải nghiệm như một món quà độc đáo của biển.


Món gỏi cá trích Nam Ô được chế biến khô. Ảnh: Hoàng Liên

Món gỏi cá đặc sản với hương vị độc đáo, cách chế biến công phu, tỉ mỉ. Đến với biển Tam Thanh (Tam Kỳ), Tam Tiến (Núi Thành) hay dạo qua các quán hải sản lớn ở nội đô Tam Kỳ, du khách không khó để thưởng thức món ngon này.

Cư dân vùng ven biển xứ Quảng thường chế biến món gỏi cá ăn kèm với nước chấm, rau ghém và cuốn bánh tráng. Nguyên liệu chế biến thường là những con cá trích được người dân xứ biển đánh bắt, thả lưới gần bờ, tươi roi rói. Cá trích tươi ngon, xuất hiện nhiều nhất ở vụ cá Nam, tức từ tháng 4 âm lịch trở đi. Cá trích có thịt ngọt, mềm.

Món gỏi cá trích trứ danh cũng là món độc đáo của cư dân vùng ven biển Nam Ô (Đà Nẵng) và luôn hấp dẫn trong mắt du khách xa gần. Đến Nam Ô mà quên thưởng thức món gỏi cá đặc sản là xem như bỏ phí cơ hội trải nghiệm.

Thưởng thức gỏi cá đặc sản, ngắm nhìn sông Cu Đê, hay phía cửa biển tuyệt đẹp từ các hướng sẽ làm giàu thêm hành trình trải nghiệm văn hóa, ẩm thực vùng miền.

Món gỏi cá trích hấp dẫn trong mắt du khách. Ảnh: Hoàng Liên

Gỏi cá Nam Ô mang tên chính ngôi làng chài nhỏ nằm ven biển, cách trung tâm Đà Nẵng chừng 10km về phía Bắc. Theo người dân nơi đây, có 2 cách chế biến món gỏi khô và gỏi ướt với nét độc đáo riêng, tùy theo thị hiếu của thực khách. Song cả gỏi khô hay gỏi ướt đều được chế biến từ những con cá trích tươi rói với nguyên liệu, gia vị giống nhau, chỉ khác mỗi công đoạn chế biến cuối cùng.

Đối với món gỏi cá trích khô, người dân Nam Ô chọn cá tươi, rửa sạch, sơ chế, thái mỏng, làm chín, để cho ráo nước rồi trộn thịt cá cùng với các loại gia vị đặc trưng như thính, mè rang, lạc rang, bánh tráng nướng giã nhỏ cùng nhiều loại mắm, muối, nước mắm nhỉ và cả giấm. Bước này sẽ giúp cho cá được áo một lớp bột mỏng, góp phần tăng thêm vị ngậy, béo cho thịt cá.

Ngược lại, món gỏi ướt thì cá trích sau khi sơ chế sạch sẽ, được tẩm ướp cùng với gừng, riềng, tỏi, ớt băm nhuyễn và ngâm trong nước dùng pha với nước mắm Nam Ô để tạo ra hương vị đặc trưng của món ăn này. Nước chấm được chế biến theo công thức gia truyền, mỗi người mỗi kiểu làm nên nét riêng biệt của từng quán ăn ở Nam Ô. Đặc biệt, dùng gỏi cá Nam Ô sẽ không thể thiếu rổ rau rừng tươi xanh mơn mởn, nào lá cóc rừng, lành ngạnh, lá trâm, lá dừng, đinh lăng, hành ngò…

Nơi những làng chài ven biển Quảng Nam, Đà Nẵng, hành trình du lịch cộng đồng, thưởng thức ẩm thực vùng miền với những món đặc sản trứ danh sẽ làm phong phú thêm những trải nghiệm ngày hè.

Hoàng Liên

 

Nguồn: Dulichvn

Thanh âm cổ truyền giữa lòng sông Mã

Sự kết nối thiêng liêng giữa con người và tín ngưỡng từ hàng trăm năm qua vẫn ngân vang trong những điệu hát chèo chải cổ và những bước múa đèn chạy chữ rực sáng ở làng Nhân Cao, xã Thiệu Quang, tỉnh Thanh Hóa. Trong vòng tay của sông Mã, những “nghệ sĩ nông dân” vẫn bền bỉ nuôi dưỡng tinh hoa văn hóa dân tộc bằng đam mê và trách nhiệm.


Làng Nhân Cao, còn gọi là làng Ngói, nằm trầm mặc bên dòng sông Mã hiền hòa, là nơi khởi sinh của nghệ thuật trình diễn dân gian độc đáo: múa đèn chạy chữ và hát chèo chải cổ.

Nghệ thuật này không chỉ là điểm nhấn văn hóa của địa phương mà còn là sợi dây kết nối tâm linh, tín ngưỡng với cộng đồng cư dân nông nghiệp ven sông suốt hàng thế kỷ.

Hồn vía lễ hội Ngư Võng Phường và ánh sáng từ chiếc đèn đội đầu

Hằng năm, từ mùng 8 đến 12 tháng Giêng, lễ hội Ngư Võng Phường được người dân làng Nhân Cao tổ chức linh đình với các hoạt động tế lễ, rước thuyền, đánh cờ người, múa lân… Nhưng điểm nhấn linh hồn của lễ hội chính là màn trình diễn nghệ thuật múa đèn chạy chữ và hát chèo chải cổ.

Màn múa đèn chạy chữ do các nghệ nhân cao tuổi trình diễn – nét đặc sắc trong di sản văn hóa phi vật thể Quốc gia của làng Nhân Cao

Không ai còn nhớ rõ nghệ thuật này bắt đầu từ bao giờ. Chỉ biết rằng, qua bao thế hệ, từ những người mẹ, người bà, người chị, ngọn đèn tinh thần ấy vẫn được truyền tay nhau giữ gìn.

Bà Nguyễn Thị Thủy, thành viên đội múa đèn chia sẻ: “Ngay từ khi còn nhỏ, tôi đã bị mê hoặc bởi ánh sáng từ chiếc đĩa đèn đội đầu và những bước chân nhịp nhàng theo tiếng trống, tiếng đàn trong hội làng.

Sau này, tôi được mẹ chồng, bà Nguyễn Thị Chua, đội trưởng đội múa, truyền dạy từng điệu múa. Bà từng giành Huy chương Vàng tại Liên hoan nghệ thuật quần chúng toàn quốc khu vực III năm 1979 do Bộ Văn hóa và Thông tin (nay là Bộ VHTTDL) tổ chức”.

Nét độc đáo của nghệ thuật múa đèn chạy chữ nằm ở sự phối hợp nhuần nhuyễn giữa hát chèo chải và các động tác múa, hình thành nên một tổ khúc hoàn chỉnh.

Bốn bài hát trong chèo chải gồm: Hát giáo chải, Hát múa quạt, Hát chèo thuyền và Hát giáo chân sào. Nội dung chủ yếu ca ngợi công đức của Đức Thánh Cả và các bậc Thành hoàng làng, thể hiện khát vọng của người dân về cuộc sống thanh bình, thịnh vượng.

Mỗi đội múa đèn có 12 cô gái, đồng phục áo cánh trắng, váy đen dài, bên hông thắt khăn hồng, đầu vấn tóc tròn và chít khăn đỏ. Khi tiếng nhạc ngân lên:

Kính trình làng nước / Lẳng lặng mà nghe / Chúng tôi giáo đèn…

…các cô gái sẽ đội đĩa đèn lên đầu, bước đi nhịp nhàng theo nhạc, sắp xếp chữ cái thành các hình chữ “nhất, nhị, tam, tứ, ngũ”.

Đặc biệt, màn trình diễn kết thúc bằng hình ảnh các cô lăn mình trên sân khấu tạo thành một bông hoa năm cánh, biểu tượng của lòng thành kính với tổ tiên.

Sau đó, cả đội hướng về ban thờ, cúi lạy tạ rồi rời sân khấu trong sự xúc động của người xem.

Những “nghệ sĩ không chuyên” giữ lửa đam mê và lan tỏa tinh hoa

“Đèn không được tắt, bước không được sai, hình không được lệch. Nhớ vị trí, nhớ nhạc, nhớ múa, một người làm sai là cả đội hỏng,” bà Thủy nói về áp lực khi biểu diễn múa đèn chạy chữ.

Bởi vậy, mỗi buổi tập, mỗi lần tổng duyệt không chỉ là luyện rèn mà còn là hành trình gìn giữ ký ức làng quê.

Đội nghệ nhân làng Nhân Cao biểu diễn hát chèo chải cổ tại sân đình

Không chỉ trong lễ hội làng, đội múa đèn Nhân Cao còn nhiều lần đại diện cho huyện, tỉnh tham gia các liên hoan văn hóa và đạt thành tích cao.

Tiêu biểu có thể kể đến: Giải Nhì tại Liên hoan Văn hóa các dân tộc Thanh Hóa lần thứ XIV năm 2012; Giải A tại Liên hoan Văn hóa các dân tộc tỉnh Thanh Hóa lần thứ XVIII;…

Tháng 3/2023, niềm tự hào của làng Ngói thêm một lần được nhân lên khi Bộ VHTTDL công nhận nghệ thuật trình diễn dân gian “Múa đèn chạy chữ, hát chèo chải cổ” là Di sản văn hóa phi vật thể Quốc gia. Đó không chỉ là sự ghi nhận về giá trị nghệ thuật mà còn là cam kết bảo tồn đối với một phần hồn cốt văn hóa xứ Thanh.

Sự độc đáo của nghệ thuật múa đèn nằm ở chính bản thân những người biểu diễn, những nông dân, người lao động chân chất nhưng vẫn không ngừng luyện tập và truyền dạy nghệ thuật cho thế hệ sau.

Dù cuộc sống hiện đại đang dần làm phai mờ nhiều giá trị truyền thống, nhưng những người dân Thiệu Quang vẫn giữ vững niềm tin: chỉ cần còn người yêu, múa đèn sẽ không bao giờ tắt.

Múa đèn chạy chữ là sự kết tinh giữa tâm linh, tín ngưỡng và nghệ thuật trình diễn dân gian, một minh chứng sống động cho bản sắc văn hóa Việt Nam trường tồn.

Đó là ánh đèn không bao giờ lụi tàn trên sân đình, là lời hát không bao giờ phai nhòa trong tâm hồn những người con làng Ngói, là cội nguồn sức mạnh văn hóa hun đúc cho bao thế hệ người Việt Nam hướng về cội nguồn và khát vọng sống tốt đẹp, hòa hợp cùng thiên nhiên và cộng đồng.

Nguyễn Linh

Nguồn: Dulichvn

Đậm đà lẩu mắm miền Tây

Miền Tây Nam Bộ là nơi có nền văn hoá ẩm thực đa dạng. Trong vô vàn món ngon của miền phù sa ấy, lẩu mắm nổi bật như một biểu tượng ẩm thực đặc trưng – không chỉ là một món ăn, mà còn là hương vị đậm đà của quê hương, thấm đẫm tình đất, tình người.


Miền Tây sông nước được thiên nhiên ưu ái ban tặng nguồn tôm cá phong phú, cây trái sum suê trĩu quả. Từ những sản vật ấy, các món mắm ra đời, trở thành một phần không thể thiếu trong văn hoá ẩm thực địa phương.

Lẩu mắm – cái tên mộc mạc, dân dã, thậm chí có phần “kén người ăn”- nhưng một khi đã ngồi quây quần bên nồi lẩu nghi ngút khói, nhẹ nhàng nhúng từng cọng rau, gắp miếng cá, miếng thịt cho vào miệng, thì hương vị đậm đà ấy sẽ lặng lẽ neo lại trong ký ức, trở thành một trải nghiệm khó quên.

Nguyên liệu ăn kèm lẩu mắm vô cùng phong phú.

Cách nấu lẩu mắm không quá cầu kỳ, nhưng điều làm nên hương vị đặc biệt lại nằm ở cái tâm và sự khéo léo của người đứng bếp. Trước tiên, người ta chọn loại mắm đặc sản của miền Tây như mắm cá linh hay cá sặc, nấu cùng nước cho sôi kỹ, rồi lược qua rây để lấy phần nước cốt đậm đà.

Tiếp theo là khâu nêm nếm gia vị. Sả băm, ớt đập giập, một ít tỏi phi vàng được cho vào để dậy mùi. Nước dừa tươi được thêm vào để tạo vị ngọt thanh tự nhiên.

Đôi khi, người dân nơi đây còn khéo léo cho thêm chút đường và nước cốt me, để cân bằng giữa các tầng vị chua – cay – mặn – ngọt. Nồi nước dùng bắt đầu sôi lăn tăn, lan toả một thứ hương thơm mộc mạc mà quyến luyến – vừa dân dã, vừa gợi nhắc điều gì đó rất thân thuộc, rất miền Tây.

Nguyên liệu ăn kèm lẩu mắm phong phú vô cùng. Nào là cá basa, cá lóc, tôm sú, mực tươi, thịt ba rọi… Có nơi còn thêm chả cá, nghêu hay tàu hủ chiên để tăng thêm sức hấp dẫn. Nhưng đặc biệt và không thể thiếu chính là các loại rau.

Đó là bông điên điển vàng ươm, bông súng giòn giòn, rau nhút non mướt, rau muống chẻ, kèo nèo, bắp chuối bào mỏng… Tất cả được rửa sạch, bày biện gọn gàng trên đĩa, chờ phút giây được thả vào nồi lẩu sôi sùng sục, để rồi hoà quyện cùng vị mắm, tạo nên một trải nghiệm ẩm thực khó quên.

Ăn lẩu mắm không thể vội. Phải ngồi quây quần bên nhau, chậm rãi nhúng từng đũa rau, gắp từng lát cá, rồi chấm nhẹ vào chén mắm ớt hay nước mắm me, đưa lên miệng và từ tốn cảm nhận từng tầng hương vị. Là cái đậm đà đặc trưng của mắm, là vị ngọt lành của tôm cá tươi, xen lẫn chút thanh mát của các loại rau – tất cả hoà quyện, như thể gom góp cả tình quê, tình người vào trong một bữa ăn thắm đẫm ân tình.

Tôi vẫn nhớ như in buổi chiều mưa năm ấy, khi còn là đứa trẻ lên mười, lần đầu được mẹ dẫn về miệt Cái Răng – Cần Thơ thăm ngoại. Ngoại đãi cả nhà bằng nồi lẩu mắm đậm đà hương vị miền Tây.

Ngoại ngồi bên bếp lửa, mái tóc bạc phơ, tay thoăn thoắt lặt rau – bông điên điển vàng tươi, rau nhút xanh mướt, bắp chuối được thái mỏng thành từng sợi trắng phau… Tôi phụ ngoại và mẹ rửa cá lóc, ngoại kiên nhẫn dạy tôi cách dùng dao rạch nhẹ hai bên sống lưng cá để khi nấu không bị tanh.

Mỗi động tác của ngoại đều chậm rãi, cẩn thận, như đang gửi gắm cả tấm lòng vào nồi lẩu, để món ăn không chỉ dậy hương mà còn chứa chan tình thân. Căn bếp nhỏ bên hiên ngập tràn mùi mắm thơm nồng, hoà cùng vị cay nồng của sả ớt làm mắt cay cay, nhưng lòng tôi lại thấy ấm áp đến lạ.

Giờ ngoại tôi đã hoá mây trắng về trời, nhưng mỗi khi thưởng thức nồi lẩu mắm, dường như tôi lại nghe đâu đó có tiếng cười hiền của ngoại, thấy lại bóng hình ngoại bên gian bếp xưa, và cảm nhận được cả những ngày thơ ấm áp trong làn khói nghi ngút.

Mùi vị hôm ấy không chỉ là mắm, cá hay rau đồng – mà còn là hương vị của yêu thương đong đầy. Và cứ thế, trong lòng tôi, mỗi khi nhớ về miền Tây quê ngoại, hương thơm nồng nàn của nồi lẩu mắm lại ùa về, ngập tràn ký ức.

Lẩu mắm miền Tây giờ đây đã trở thành một món ăn quen thuộc, phổ biến và được yêu thích khắp cả nước. Đặc biệt tại Tây Ninh – một trong những tỉnh, thành nổi bật với nền ẩm thực phong phú – bạn sẽ tìm thấy vô số quán lẩu mắm ngon.

Một trong những địa chỉ được nhiều thực khách lựa chọn là lẩu mắm Cẩm Tú, nằm trên đường Nguyễn Tri Phương, thị xã Hoà Thành. Quán nổi tiếng với món lẩu mắm đa dạng, cho phép thực khách tuỳ chọn giữa lẩu mắm cá hoặc lẩu mắm thịt theo sở thích.

Bên cạnh đó, Lẩu mắm 98 tại số 130 lộ Chánh Môn A, khu phố 1, phường IV, thành phố Tây Ninh, cũng là một địa điểm lý tưởng. Không gian quán sạch sẽ, thoáng mát, hiện đại; thực đơn phong phú gồm lẩu mắm, lẩu cá bông lau, lẩu cua đồng hải sản, lẩu cá thác lác khổ qua, lẩu hải sản… mang đến nhiều lựa chọn hấp dẫn.

Ngoài ra, Lẩu mắm Cô Ba tại số 98 Nguyễn Chí Thanh, phường 3, thành phố Tây Ninh cũng được đánh giá cao nhờ hương vị lẩu mắm đậm đà, rau tươi đa dạng và phong phú.

Miền Tây Nam Bộ đâu chỉ có cảnh đẹp và con người hiền hậu, mà còn sở hữu một nền văn hoá ẩm thực phong phú, đậm đà và sâu lắng. Lẩu mắm không chỉ đơn thuần là món ăn, mà còn là hơi thở của miền đất phương Nam, là hồn quê mộc mạc hoà quyện trong từng giọt mắm và từng tiếng cười đầm ấm chan hoà, khiến bao thực khách say lòng mỗi khi thưởng thức hương vị lẩu mắm miền Tây.

Mai Thảo

Nguồn: Dulichvn

TIN MỚI NHẤT