Du lịch trong nước

Du lịch trong nước, tin tức du lịch trong nước, các tour du lịch trong nước, các địa điểm du lịch trong nước hấp dẫn được chúng tôi tổng hợp và đưa tin hàng ngày đến cho khách du lịch trên khắp mọi miền đất nước có được thông tin du lịch trong nước để có những thông tin hữu ích nhất cho mình và gia đình khi quyết định chọn chuyến du lịch trong nước cho mình và người thân

Bảo tàng Chứng tích Chiến tranh – nơi lưu giữ những trang sử hào hùng

Hòa trong không khí Kỷ niệm 50 năm Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (30/4/1975 – 30/4/2025), những ngày này, rất đông du khách tìm đến Bảo tàng Chứng tích Chiến tranh không chỉ để ôn lại những ký ức lịch sử thiêng liêng, mà còn để tri ân thế hệ cha, ông đã ngã xuống vì hòa bình hôm nay của đất nước.


Bảo tàng Chứng tích Chiến tranh nơi lưu giữ những bằng chứng xác thực, sinh động về tội ác chiến tranh đã diễn ra, đặc biệt là trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ. Ảnh: Yên Nội

Những ngày cuối tháng Tư lịch sử, Bảo tàng Chứng tích Chiến tranh – nơi lưu giữ những trang sử bi thương nhưng hào hùng của dân tộc Việt Nam đón hàng nghìn lượt khách đến tham quan.

Bảo tàng Chứng tích Chiến tranh được thành lập năm 1975, không lâu sau ngày đất nước thống nhất, Bảo tàng tọa lạc tại số 28, đường Võ Văn Tần, phường 6, Quận 3, TP Hồ Chí Minh. Sau nhiều lần tu sửa và nâng cấp, bảo tàng mang phong cách hiện đại, với diện tích trưng bày trong nhà và ngoài trời lên đến 11.000m². Đây là nơi lưu giữ những bằng chứng xác thực, sinh động về tội ác chiến tranh, đặc biệt là trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ.

Trong dịp Kỷ niệm 50 năm Giải phóng miền Nam, thông nhất đất nước, Bảo tàng Chứng tích Chiến tranh là địa chỉ đỏ thu hút hàng nghìn lượt khách tham quan mỗi ngày. Ảnh: Yên Nội

Trong phòng trưng bày chính, những bức ảnh đen trắng của nhiếp ảnh gia quốc tế, những tư liệu về tội ác chiến tranh, các bộ sưu tập về nạn nhân chất độc da cam, máy chém thời thực dân… khiến nhiều người lặng đi.

Cựu chiến binh Nguyễn Viết Hoàn đến từ Bình Phước chia sẻ: “Tôi là một chiến sĩ từng tham gia chiến dịch Hồ Chí Minh và trực tiếp chiến đấu bảo vệ cầu Rạch Chiếc, hôm nay tôi xuống TP Hồ Chí Minh thăm lại chiến trường xưa và dự Lễ Kỷ niệm 50 năm Ngày Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Nhân dip này tôi ghé thăm Bảo tàng Chứng tích Chiến tranh và những hình ảnh và hiện vật tại đây khiến tôi rất xúc động”.

Cựu chiến binh Nguyễn Viết Hoàn xúc động khi xem những hình ảnh và hiện vật tại bảo tàng. Ảnh: Yên Nội

“Qua những hình ảnh quá khứ đã dạy chúng ta nhiều bài học quý giá về lòng kiên trung, sự hy sinh và tinh thần đoàn kết. Những bài học này cần được ghi nhớ và phát huy trong việc xây dựng tương lai” – cựu chiến binh Nguyễn Viết Hoàn nhấn mạnh thêm.

Bạn Lê Thị Ngọc Thảo, sinh viên viên Trường Đại học Sài Gòn nêu cảm nhận: “Em từng đọc nhiều sách về đề tài chiến tranh, nhưng hôm nay em thật sự xúc động khi tận mắt chứng kiến những hình ảnh và kỷ vật này. Em càng thấu hiểu hơn về những mất mát, hy sinh của cha, ông và càng nhân lên niềm biết ơn vô hạn với thế hệ đi trước.”

“Thế hệ trẻ chúng em hôm nay không chỉ là những người thừa hưởng thành quả của cha ông mà còn là những người có trách nhiệm gìn giữ và phát huy những giá trị mà thế hệ cha, ông để lại. Qua đây em cũng muốn nhắn gửi đến các bạn trẻ hôm nay rằng, mỗi cá nhân đều có thể đóng góp những điều tốt đẹp cho xã hội bằng những việc làm có ý nghĩa” – sinh viên Lê Thị Ngọc Thảo chia sẻ.

Ban Lê Thị Ngọc Thảo, sinh viên Trường Đại học Sài Gòn xúc động khi xem những hiện vật và tư liệu tại Bảo tàng Chứng tích Chiến tranh. Ảnh: Yên Nội

Nhiều du khách khi bước vào bảo tàng đều bị ấn tượng mạnh bởi các hình ảnh chân thực và hiện vật chiến tranh. Những chiếc xe tăng cũ kỹ, máy bay chiến đấu, vũ khí, các hình ảnh tù binh… tất cả đều mang đến cảm giác chân thực và đau xót.

Một nhóm du khách đến từ Australia tỏ sự ngỡ ngàng trước độ chân thật của các hiện vật, nhiều người xúc động mạnh khi nhìn thấy các đoạn phim tư liệu ghi lại cảnh chiến tranh khốc liệt.

Du khách nước ngoài ngỡ ngàng về độ chân thật của những hình ảnh và hiện vật tại Bảo tàng Chứng tích Chiến tranh. Ảnh: Yên Nội

Đối với nhiều du khách, bảo tàng như một bài học lịch sử sinh động, giúp họ hiểu rõ hơn về nguyên nhân, diễn biến của chiến tranh. Nhiều người cảm thấy bồi hồi và trăn trở về hậu quả nặng nề mà chiến tranh để lại cho nhân loại.

Bảo tàng Chứng tích Chiến tranh là một địa điểm không chỉ mang ý nghĩa lịch sử mà còn là biểu tượng của ý chí kiên cường của dân tộc Việt Nam. Sau khi đến đây, hầu hết mọi du khách đều suy ngẫm về những bài học quý giá mà lịch sử để lại. Đó là, tinh thần đoàn kết, lòng yêu nước và trách nhiệm với tương lai sẽ là những yếu tố then chốt giúp Việt Nam tiến xa hơn trong kỷ nguyên mới. Kiến tạo tương lai hòa bình, phồn thịnh là khát vọng không chỉ của riêng ai mà là của cả dân tộc Việt Nam.

Huy Phương

 

Nguồn: Dulichvn

Mùa rêu xanh trên Rạn Nam Ô

Bãi Rạn Nam Ô, nằm nép mình bình yên trong làng chài cổ Nam Ô (phường Hòa Hiệp Nam, quận Liên Chiểu, TP. Đà Nẵng), là nơi những phiến đá tự nhiên xếp lớp bao quanh ghềnh đá như một tuyệt tác của thiên nhiên.


Vào mỗi độ xuân về, nơi đây khoác lên mình tấm áo mới – màu xanh diệu kỳ của rêu biển, biểu tượng cho mùa lộc biển trù phú và hào phóng mà thiên nhiên ban tặng. Chính vẻ đẹp độc đáo ấy đã biến mùa rêu ở bãi rạn Nam Ô trở thành điểm đến yêu thích của người dân, du khách gần xa, đặc biệt là giới trẻ đam mê khám phá và ghi lại những khoảnh khắc ấn tượng.

Đường đến bãi rêu tại rạn Nam Ô tương đối dễ tìm. Từ trung tâm thành phố Đà Nẵng, du khách di chuyển về phía bắc khoảng chừng 20km theo đường Nguyễn Tất Thành hoặc trục đường Điện Biên Phủ – Tôn Đức Thắng – Nguyễn Lương Bằng. Đến cầu Nam Ô cũ (thuộc đường Nguyễn Lương Bằng), du khách rẽ phải, băng qua đường ngang thuộc hệ thống ga Kim Liên và đi thẳng khoảng chừng 500m sẽ đến được rạn Nam Ô.

Những mỏm đá phủ đầy rêu xanh, khi thủy triều xuống, sẽ để lộ nhiều những rêu non – lá rong biển

Chưa có một nghiên cứu nào giải thích vì sao mùa rêu xanh xuất hiện vào mùa xuân trong một thời gian ngắn ở biển Nam Ô, nhưng chính những thảm rêu xanh bám đầy trên phiến đá đã tạo nên một bức tranh tuyệt đẹp, lôi cuốn diệu kỳ. Nhiều vị cao niên trong làng cổ Nam Ô, kể rằng, từ xa xưa, gành đá Nam Ô được xem là núi cấm – cấm chặt cây, cấm lấy đá. Quy định này được dân làng nhiều đời tuân thủ nghiêm ngặt, ai vi phạm sẽ bị bắt tội. Thậm chí người ta còn cho đây là khu rừng linh, chỉ được sử dụng gỗ cho việc xây dựng đình miếu trong làng. Nửa phần gành đá Nam Ô nhoài ra biển, sóng biển xâm thực lâu đời hình thành gành đá bao bọc chung quanh. Và đá ở bãi rạn, cũng mang trong mình nhiều huyền tích. Bãi Rạn Nam Ô mang một vẻ đẹp thiên nhiên hoang sơ, độc đáo. Thiên nhiên đã khéo léo sắp đặt và hình thành nhiều phiến đá ngầm trên mặt nước và mùa xuân, phủ đầy rêu. Chính vẻ đẹp hoang sơ này, đã tạo nên một nét độc đáo hiếm có của Đà Nẵng – mang lại nhiều trải nghiệm thú vị cho người dân, du khách.

Mùa này, nhiều gia đình chọn đến Nam Ô, vui chơi trong ngày và lưu giữ nhiều tấm ảnh kỷ niệm đẹp. Và đây cũng trở thành điểm chụp ảnh, “check-in” của nhiều nhóm bạn lứa tuổi trung niên, đặc biệt là giới trẻ. Những ngày đầu xuân mới, rêu xanh kết thành thảm, đẹp như tranh vẽ. Nhiều bạn trẻ khi chọn đến Nam Ô, đã đi từ sớm tinh mơ khi bình minh bắt đầu chiếu vàng trên biển – để ngắm trọn khoảnh khắc rêu xanh phủ bạt ngàn trên từng phiến đá khi thủy triều chưa lên. Và chờ đến khoảng 16 giờ chiều, khi thủy triều bắt đầu xuống để ngắm rêu xanh lộ rõ giữa bãi đá dài và đón hoàng hôn trên biển.

Du khách vừa ngắm rêu xanh vừa tự mình “thu hoạch” rong mứt làm quà.

Đến với bãi rạn Nam Ô, bên cạnh việc chiêm ngưỡng cảnh sắc thiên nhiên tươi đẹp và lạ mắt mà bạn còn có thể ghé thăm làng nước mắm Nam Ô truyền thống. Chắc chắn là bạn không thể bỏ qua việc thưởng thức các món ăn hải sản nơi đây. Đặc biệt là gỏi cá Nam Ô, món đặc sản khá nổi tiếng không thể bỏ qua khi đến đây.

Rạn Nam Ô mang trong mình phong cảnh kỳ ảo, độc đáo với bãi biển xanh cùng các loại đá lớn, nhỏ hình thù khác nhau đã khiến Nam Ô trở thành điểm đến cho các tín đồ đam mê du lịch bụi, ưa khám phá, thưởng ngoạn phong cảnh mới lạ. Đây là điểm du lịch còn khá hoang sơ, tất cả tạo nên một vẻ đẹp quyến rũ đến lạ thường mà tạo hóa đã ban tặng. Bãi rạn Nam Ô được người dân Đà Thành lựa chọn là điểm đến lý tưởng cho những ngày cuối tuần.

ĐT

Nguồn: Dulichvn

Quan tâm, đầu tư nâng cấp Khu di tích lịch sử quốc gia đặc biệt Bạch Đằng

Với những giá trị đặc biệt, di tích lịch sử quốc gia đặc biệt Bạch Đằng đã và đang được Quảng Yên tích cực bảo tồn và phát huy giá trị nhằm tạo đà phát triển du lịch, mở rộng không gian kết nối du lịch từ di tích Bạch Đằng đến các điểm di tích và các địa phương trong, ngoài tỉnh. Tuy nhiên, để phát huy hơn nữa những giá trị của di tích, cử tri TX Quảng Yên đề nghị tỉnh xem xét đầu tư cải tạo, nâng cấp Khu di tích lịch sử quốc gia đặc biệt Bạch Đằng.


Học sinh tham quan bãi cọc Bạch Đằng (phường Yên Giang, TX Quảng Yên).

Thời gian qua, để bảo tồn, phát huy giá trị Khu di tích lịch sử quốc gia đặc biệt Bạch Đằng, TX Quảng Yên đã ban hành quy chế tổ chức và hoạt động của Ban điều hành dự án di tích cấp thị xã để tổ chức triển khai thực hiện. Địa phương đã chủ động chỉnh trang, tạo cảnh quan môi trường; tăng cường truyền thông, quảng bá. Đặc biệt, phối hợp tổ chức nhiều hoạt động thiết thực, điển hình là hoạt động tham quan, trải nghiệm tại bảo tàng và các điểm di tích như đình Trung Bản, đền Hưng Học, đền Trần Hưng Đạo…

Ban Quản lý di tích Bạch Đằng cũng phối hợp với các xã, phường bảo quản mốc ranh giới di tích, vùng bảo vệ di tích, tránh việc xây dựng xâm hại, xâm lấn vào khu vực khoanh vùng bảo vệ di tích. Ban hành quy chế phối hợp trong việc quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di tích lịch sử quốc gia đặc biệt Bạch Đằng với phường Yên Giang, Nam Hòa và xã Liên Hòa. Đồng thời, chủ động kêu gọi các tổ chức, cá nhân phát tâm công đức, tu bổ, tôn tạo, bổ sung các hiện vật làm đẹp cảnh quan, thay thế một số hiện vật lâu ngày xuống cấp, cũ, hỏng.

Từ năm 2012, TX Quảng Yên cũng đã phối hợp lập quy hoạch tổng thể dự án bảo tồn và phát huy giá trị Khu di tích lịch sử chiến thắng Bạch Đằng, được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt với tổng kinh phí đầu tư dự kiến 800 tỷ đồng. Dự án được phân kỳ đầu tư theo 3 giai đoạn.

Trong đó, giai đoạn 1 triển khai từ năm 2016 đến nay, tổng mức đầu tư gần 205 tỷ đồng với mục tiêu nhằm từng bước cụ thể hóa quy hoạch tổng thể bảo tồn và phát huy giá trị khu di tích lịch sử chiến thắng Bạch Đằng và quy hoạch chi tiết xây dựng đã được các cấp có thẩm quyền phê duyệt. Dự án được phê duyệt đầu tư các hạng mục: Hệ thống hạ tầng kỹ thuật của khu trung tâm di tích 7,8ha; đường giao thông vào các di tích bãi cọc Đồng Má Ngựa, bãi cọc Đồng Vạn Muối, đình Trung Bản; các công trình kiến trúc và khu tái định cư. Đến nay, bước đầu tạo được không gian, cảnh quan cho di tích.

Du khách thăm mô hình Khu di tích lịch sử quốc gia đặc biệt Bạch Đằng tại Bảo tàng Bạch Đằng.

Mặc dù đã đạt được nhiều kết quả tích cực, công tác bảo tồn khu di tích Bạch Đằng vẫn đối mặt với một số thách thức. Bãi cọc Bạch Đằng là minh chứng sống động cho chiến thắng năm 1288. Tuy nhiên, việc bảo tồn các bãi cọc gỗ trong môi trường ngập nước đòi hỏi giải pháp kỹ thuật phù hợp để ngăn chặn sự phân hủy. Bên cạnh đó, dù đã có định hướng phát triển du lịch gắn với giá trị di tích Bạch Đằng, kết nối với các tuyến, điểm du lịch trong và ngoài tỉnh, nhưng việc triển khai còn thiếu sự đồng bộ. Điều này khiến cho tiềm năng du lịch của di tích chưa được khai thác tối đa, chưa xứng tầm với một di tích quốc gia đặc biệt.

Tiếp thu ý kiến, kiến nghị của cử tri, UBND TX Quảng Yên đã chủ động phối hợp với các sở: Xây dựng, VHTTDL, Tài chính để lập điều chỉnh quy hoạch chi tiết tỷ lệ 1/500 dự án bảo tồn, phát huy giá trị Khu di tích lịch sử quốc gia đặc biệt Bạch Đằng. TX Quảng Yên cũng đã hoàn thành lập điều chỉnh quy hoạch chi tiết; đồng thời báo cáo đề xuất với Sở VHTTDL trình Sở Tài chính, báo cáo UBND tỉnh chỉ đạo giao Sở VHTTDL lập chủ trương đầu tư dự án bảo tồn, phát huy giá trị Khu di tích lịch sử quốc gia đặc biệt Bạch Đằng và đề xuất nguồn vốn vào kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2026-2030.

Hiểu Trân

 

Nguồn: Dulichvn

Người giữ tiếng chiêng cho buôn làng

Suốt 20 năm qua, bằng tình yêu, niềm đam mê với tiếng chiêng của đồng bào Ê đê, nghệ nhân Y Hy (thôn Buôn Tương, xã Ninh Tây, thị xã Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa) đã miệt mài thực hiện nhiều việc làm cụ thể nhằm giữ gìn, phát huy giá trị của nhạc cụ cồng chiêng. Để đến hôm nay, số lượng người biết sử dụng cồng chiêng trong các buôn làng ở xã Ninh Tây ngày càng nhiều hơn. Tiếng chiêng lại ngân vang, lan xa từ buôn làng đến núi rừng đại ngàn.


Tâm huyết với văn hóa truyền thống dân tộc

Ở xã Ninh Tây, nghệ nhân Y Hy là người có chức sắc, uy tín đối với đồng bào Ê đê. Đó không chỉ đơn thuần bởi ông đang là Bí thư Đảng ủy xã Ninh Tây, mà còn bởi ông là người rất có tâm huyết với vốn văn hóa truyền thống của dân tộc. Từng nhiều lần đến nhà ông Y Hy, mỗi lần chúng tôi lại bất ngờ với những việc ông làm, cách ông trân quý những phong tục, tập quán, nét đẹp văn hóa của dân tộc mình. Còn nhớ, đầu năm 2020, nghệ nhân Y Hy đã rất vui khi thành lập được đội cồng chiêng tập hợp những người có niềm yêu thích nhạc cụ này để cùng nhau tập luyện, biểu diễn những bài chiêng truyền thống của đồng bào Ê đê. Ông cũng sưu tầm, giữ gìn được những bộ chiêng đồng có giá trị và chất lượng âm thanh tốt. Tháng 11-2024, sau nhiều năm tích cóp, nghệ nhân Y Hy đã dựng xong ngôi nhà dài theo kiểu truyền thống của người dân Ê đê. Ngôi nhà là nơi để ông trưng bày những vật dụng, dụng cụ lao động, nhạc cụ của đồng bào Ê đê như: Gùi, nỏ, xà gạc, ché rượu cần, cồng chiêng, kèn đinh năm… Đặc biệt, nơi đây đã trở thành một địa điểm sinh hoạt văn hóa của người dân ở các buôn làng trong xã Ninh Tây. Mỗi dịp cuối tuần hay vào ngày lễ, Tết, người ta lại nghe tiếng cồng chiêng vang vọng, ngân nga và lan tỏa từ chính ngôi nhà dài này. “Từ nhỏ, tôi đã được ama (cha) truyền dạy cho những bài chiêng, cách nhận biết một bộ chiêng tốt và điều đó đã thấm vào tâm hồn tôi. Sau này, khi ama không còn, tôi vẫn tự tập luyện những bài chiêng, kỹ năng sử dụng chiêng để hiểu rõ hơn những cung bậc, âm sắc, tiết tấu của từng chiếc chiêng”, nghệ nhân Y Hy cho biết.

Nghệ nhân Y Hy dành tình cảm sâu sắc đối với nhạc cụ cồng chiêng của dân tộc mình.

Đặc điểm nổi bật trong cách diễn tấu cồng chiêng đó là có sự tham gia của nhiều người, mỗi người sử dụng một chiếc chiêng riêng và cùng nhau ngồi trên Kpan (ghế dài truyền thống của người Ê đê) để tấu lên những thanh âm khác nhau. Mỗi tiếng chiêng phát ra từ những chiếc chiêng như một lời đối thoại, tâm tình của người đánh thông qua sự va đập của các nhóm tiết tấu khác nhau. Bộ chiêng của người Ê đê thường có 5 chiếc bằng, tượng trưng cho các thành viên trong gia đình và có trình tự từ lớn đến nhỏ, gồm: Bõh knăh phun (chiêng ông), bõh knăh hleang (chiêng cha), bõh điết hluoe khơk (chiêng con trai), bõh điết hluoe hliang (chiêng cháu) phối hợp cùng với 2 chiếc chiêng có núm mà người Ê đê gọi là mđũ ana hong mung. Bộ chiêng gồm 7 chiếc như trên cùng hòa thanh với tiếng trống H’gơr tạo nên những bản hòa tấu trầm hùng, bay bổng. “Người Ê đê thường diễn tấu chiêng trong nhà dài. Hiện nay, tôi đang nắm giữ những bài chiêng truyền thống của đồng bào Ê đê như: “Tông hong klei drai êa” (tiếng vọng của thác nước); “Tông hong klei ứ êpa, ứ êpa”, “Bơ yơh, bơ yơh”, “Kơtap dum anăn” (những bài chiêng có nội dung động viên mọi người vươn lên trong cuộc sống)…”, nghệ nhân Y Hy chia sẻ.

Phát huy những giai điệu cồng chiêng

Không chỉ tự mình nắm giữ, rèn luyện những bài chiêng, nghệ nhân Y Hy còn tìm đến những già làng, người có uy tín ở các buôn làng trong xã Ninh Tây để mời gọi mọi người cùng động viên dân làng học đánh chiêng, sử dụng một số loại nhạc cụ khác của dân tộc Ê đê. Từ đó, số lượng người biết sử dụng cồng chiêng ngày càng tăng, đây cũng là điều kiện cần thiết để nghệ nhân Y Hy cùng các già làng thực hiện phục dựng lại một số lễ hội truyền thống như: Lễ cúng bến nước, lễ mừng nhà mới, lễ cưới hỏi… Trong những lễ hội đó, không thể thiếu màn biểu diễn hòa tấu cồng chiêng. Nhờ đó, trong mấy năm gần đây, việc giữ gìn, phát huy giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc Ê đê trên địa bàn xã Ninh Tây có nhiều khởi sắc. Đặc biệt, một số loại chiêng đặc trưng của người Ê đê ở tỉnh Khánh Hòa như chiêng kok, chiêng gông đã được khôi phục, biểu diễn trở lại.

“Hồi trẻ tôi cũng từng được học đánh chiêng, thổi kèn đinh năm. Nhưng sau này, do điều kiện cuộc sống nên cũng bỏ bê một thời gian dài. Gần đây, tôi được nghệ nhân Y Hy động viên, mời tham gia đội chiêng, vừa được sống lại với sở thích một thời, vừa góp sức trong việc giữ gìn nhạc cụ của dân tộc mình”, ông Y Ty (thôn Buôn Đung) cho biết. Với anh Y Suk (thôn Buôn Lác), từ lúc theo học nghệ nhân Y Hy cách sử dụng chiêng kok đã trở nên yêu thích nhạc cụ này. “Tôi được nghệ nhân Y Hy động viên tham gia đội cồng chiêng của xã, được tập luyện, đi biểu diễn phục vụ mọi người. Sau này, tôi học thêm cách sử dụng chiêng kok và thấy yêu thích ngay. Tiếng chiêng kok không ngân nga, vang vọng như chiêng đồng, nhưng lại gần gũi, giản dị”, anh Y Suk chia sẻ.

Một bộ chiêng có giá trị của nghệ nhân Y Hy.

Với những nỗ lực của mình, nghệ nhân Y Hy đã góp phần quan trọng trong việc giữ gìn, phát huy những giai điệu cồng chiêng trong cuộc sống hôm nay. Thông qua việc tổ chức được đội cồng chiêng, đến nay nghệ nhân Y Hy đã vận động thành lập được đội văn nghệ ở một số thôn. Các thành viên trong đội văn nghệ không chỉ trình diễn hòa tấu cồng chiêng mà còn biểu diễn kèn đinh năm, đinh tút, hát dân ca, múa truyền thống của đồng bào Ê đê… Mỗi thanh âm của tiếng chiêng và các loại nhạc cụ khác hòa với tiếng hát, điệu múa như sợi dây gắn kết tình cảm của người dân lại với nhau. Để từ đó những giá trị văn hóa nghệ thuật đặc sắc của đồng bào Ê đê tiếp tục được trao truyền, gìn giữ. Với nghệ nhân Y Hy, ông đã được Hội đồng xét tặng danh hiệu nghệ nhân ưu tú, nghệ nhân nhân dân của tỉnh thống nhất đề xuất lên Hội đồng cấp bộ để xét danh hiệu Nghệ nhân Ưu tú.

Giang Đình

Nguồn: Dulichvn

Đặc sản kỳ lạ ở Đà Nẵng trông như bún, ăn thanh mát, giòn ngon giống rau câu

Để thu hoạch thứ đặc sản kỳ lạ được ví như lộc trời này, người dân ở vùng cửa biển Nam Ô (Đà Nẵng) phải đem lưới thả dọc bờ sông hoặc lặn dưới độ sâu chừng 5m.


Sông Cu Đê (hay còn được gọi là sông Trường Định) nằm ở phía Tây Bắc của TP Đà Nẵng. Thượng nguồn của sông thuộc xã Hòa Bắc (huyện Hòa Vang), còn hạ nguồn là cửa biển Nam Ô (phường Hòa Hiệp Bắc, quận Liên Chiểu).

Sở dĩ sông được gọi tên như vậy là bởi hạ nguồn của nó chảy qua làng Cu Đê. Điều đặc biệt là ở hạ nguồn sông, nơi giáp với biển Nam Ô, vào đầu hè (khoảng tháng 2 đến tháng 4 âm lịch) thường xuất hiện loài thủy sinh kỳ lạ.


Ngư dân bản địa gọi đó là “bún mẹ”, còn trứng của chúng là bún sông, ví như sản vật “trời ban” vì có thể chế biến thành món ăn lạ miệng, hấp dẫn.

“Bún mẹ” có hình dáng xù xì, thân mềm, lưng xuất hiện nhiều đốm xanh, xung quanh thân có nhiều chân màu vàng cam. Khi gặp nguy hiểm, “bún mẹ” thường tiết ra chất dịch màu đen tím. Ảnh: Bếp bên sườn đồi

Ông Lê Úc – sống ở xóm Vạn (phường Hòa Hiệp Bắc, quận Liên Chiểu) cho biết, sông Cu Đê là nơi sản sinh ra nhiều loại hải sản như nuốc, sứa, cá, ốc,…

Đặc biệt, nhiều năm trở lại đây, trên sông còn xuất hiện “bún sông”. Sở dĩ có tên gọi như vậy là vì chúng có hình sợi giống như bún gạo nhưng kích thước bé hơn, màu xanh lợt hoặc hơi ngả vàng, cuộn lại thành từng nắm nhỏ.

“Bún mẹ có đặc tính sinh sản trong đêm tối với số lượng lớn. Khi sinh sản, chúng đẻ nhiều dây trứng gọi là bún sông. Bún sông thường cuộn thành từng nắm màu xanh nhạt”, ông Úc nói.

Bún sông được ví như đặc sản ở Đà Nẵng. Ảnh: Đông Dân Biển

Để khai thác bún sông, người dân địa phương thường canh lúc chiều muộn, đem lưới ra thả dọc bờ sông để bẫy “bún mẹ” vào đẻ trứng. Phương pháp này khá hiệu quả vì chúng thường sinh sản ở những chỗ có nhiều vật cản.

Tuy nhiên, những người có thể lực tốt thường lặn xuống độ sâu khoảng 5m ở khu vực giữa sông rồi mò bắt bằng tay để đảm bảo bún sông không bị đứt đoạn, giữ được độ tươi, giòn, khi đem bán cũng được giá cao hơn.

Trung bình mỗi lần lặn, họ vớt được khoảng 1-2kg bún sông. Nếu bắt được “bún mẹ”, họ thu trứng xong sẽ thả chúng về lại sông. Ông Úc cho hay, “bún sông” chỉ phát triển trong môi trường nước chảy, trong và tinh khiết.

Theo kinh nghiệm và quan sát của ông, cứ năm nào bún sông vào mùa sinh sôi nảy nở mà gặp trời mưa hoặc nguồn nước ô nhiễm thì năm đó, chúng sẽ biến mất, không thu hoạch được gì.

Gỏi bún sông là món ăn yêu thích của người dân ở Nam Ô. Ảnh: Nước mắm Nam Ô

Bún sông khi mới sinh sản có màu xanh nhạt, ăn rất giòn, mát, vị ngọt thanh. Còn nếu ngả sang màu vàng là bún sông đã sinh sản được 1 thời gian, không còn giữ được hương vị độc đáo ban đầu của “con bún” nữa.

Mặc dù chưa được nhiều thực khách biết đến nhưng bún sông lại là nguyên liệu chế biến món ăn khá phổ biến với các hộ dân sinh sống gần cửa biển Nam Ô.

Nhiều quán ăn, nhà hàng ở địa phương hiện cũng đưa các món ăn từ bún sông này vào thực đơn, phục vụ thực khách. Bún sông có thể biến tấu thành 1 số món tương tự như bún, bánh canh hoặc cuốn gỏi, xào, song được ưa chuộng hơn cả là gỏi.

Để làm gỏi, người ta phải chọn bún sông còn non, màu xanh nhạt, sau đó đem rửa với nước sạch nhiều lần nhằm loại bỏ rong tảo, bùn đất. Tiếp đến, đun sôi nước muối pha loãng, cho bún sông vào trụng sơ rồi vớt ra để ráo.

Bún sông có vị giòn ngọt, thanh mát, ăn sần sật khá giống rau câu. Ảnh: Cải Nguyễn

Tùy điều kiện từng nhà và sở thích từng người mà người ta trộn bún sông với nước mắm tỏi ớt, cùng các nguyên liệu khác nhau như tôm đất, thịt ba chỉ, dứa (thơm), dưa leo xắt mỏng, cà rốt thái sợi, rau thơm, lạc rang,…

“Bí quyết làm gỏi bún sông ngon nằm ở khâu trộn. Các nguyên liệu sau khi sơ chế hoặc làm chín thì phải để nguội rồi mới trộn đều tay.

Nếu trộn lúc còn nóng thì dễ làm mất đi màu xanh tự nhiên của sợi bún sông, đồng thời khiến bún bị mềm, mất độ giòn ngon”, chị Kiều Giang – chủ 1 quán ăn địa phương ở quận Liên Chiểu, cho hay.

Chị Giang nhận xét, bún sông có hương vị lạ miệng, khác biệt hẳn so với các loại rong nho, tảo biển thường thấy. Món ăn này có vị ngọt nhẹ, thanh mát, khi ăn cảm giác giòn sần sật giống rau câu.

Vào mùa hè, trong tiết trời oi nóng, bún sông càng được yêu thích nhờ công dụng giải nhiệt, trẻ con hay người lớn đều có thể thưởng thức.

Thảo Trinh

 

Nguồn: Dulichvn

Hương vị thịt chua trên đất Tổ

Trong chuyến hành hương về đất Tổ, thành kính dâng nén hương thơm trước các vua Hùng, du khách còn được cảm nhận tình đất và người Phú Thọ qua các sản vật địa phương nổi tiếng, trong đó có đặc sản thịt chua. Với những công thức chế biến khác nhau, thịt chua Phú Thọ vẹn nguyên hương vị nồng đậm và trở thành niềm tự hào ẩm thực của vùng đất Tổ. 


Du khách thích thú với sản phẩm thịt chua Phú Thọ.

Có nhiều nơi sản xuất thịt chua nhưng vị thịt chua Phú Thọ vẫn là sự lựa chọn hàng đầu, khi đến đất Tổ ai cũng muốn đem về. Thịt chua có vị bùi bùi, béo béo của thịt lợn sạch kết hợp với thính rang thơm ngất ngây. Được chế biến từ những nguyên liệu dân giã với sự hòa quyện của các gia vị được tẩm ướp theo bí quyết gia truyền, trải qua quá trình lên men, một đặc sản của núi rừng đã được tạo nên bởi chính đôi bàn tay khéo léo của người dân Phú Thọ.

Chị Hồng, bán hàng tại khu vực đền Hùng chia sẻ: Không biết món thịt chua có nguồn gốc từ khi nào, chỉ biết rằng đây là món ăn không thể thiếu của người dân Phú Thọ. Nguyên liệu, chế biến khá dễ dàng, phần thịt để làm món ăn này chủ yếu là mông và bì lợn. Thịt sau khi mua về được treo trong tủ lưới để ráo nước, sau đó lọc hết phần mỡ, gân và thái mỏng. Phần bì lợn là đặc trưng giúp món ăn giòn nhưng công đoạn làm khá kỳ công. Bì lợn sau khi sơ chế sạch được áp qua trong chảo không dầu đến khi mặt ngoài hơi đổi màu trắng ngà. Sau đó bì lợn được rửa sạch lại, để ráo nước, thái mỏng, khi thái có màu trắng trong, trộn đều với phần thịt và ướp gia vị bao gồm: Tỏi, bột canh, mì chính… trong vòng một giờ đồng hồ. Khi phần thịt và bì đã ngấm gia vị thì cho thính là bột ngô xay vào trộn đều, cho nguyên liệu đã trộn đều vào các lọ, ống nứa đã chuẩn bị sạch sẽ trước đó và phủ kín lượt lá ổi và nilon bên trên tránh để không khí lọt vào. Thịt sẽ tự lên men trong vòng 3 đến 5 ngày tùy thời tiết… Bột thính ngô cũng là một trong những nguyên liệu quan trọng và không thể thiếu để làm nên món thịt chua đậm vị. Thính được làm từ ngô phơi khô sau đó nghiền thành bột và rang thơm. Ngày nay, bên cạnh thính ngô, người dân còn sử dụng thính gạo. Gạo làm thính là loại gạo nương thơm ngon, được rang với lửa vừa, đảo đều tay để không bị cháy. Khi nghiền thành bột, gạo có màu vàng đẹp và mùi thơm đượm. Thịt sau khi trộn với thính sẽ được đậy lại bằng vải sạch, không để bụi bẩn lẫn vào…

Điều kiện để thịt lên men tự nhiên và chuẩn vị là được để trong ống bương khô và phải để ở những nơi thoáng mát, sạch sẽ. Theo kinh nghiệm của những người làm thịt chua lâu năm, cây nứa khô có tính chất hút ẩm nên thịt khi đổ ra ráo, không ướt. Một số gia đình muốn ăn nhanh thì họ để trên gác bếp, hơi nóng của bếp lửa sẽ làm thịt chua nhanh. Bên cạnh những món ăn cổ truyền của dân tộc trong những ngày Tết, thịt chua ăn kèm rau mơ, lá sung là món ăn không thể thiếu trên mâm cỗ của người Phú Thọ.

Anh Hùng Cường, du khách đến từ Thành phố Hồ Chí Minh sau khi trải nghiệm món thịt chua cho biết: Được nghe nhiều về món ăn này nhưng lần đầu thưởng thức tại đất Tổ thấy rất ngon, tôi sẽ mua làm quà cho gia đình và bạn bè.

Sản phẩm thịt chua của Cơ sở sản xuất Thanh Sơn Foods.

Hiện nay, một số công ty đã có thương hiệu trên thị trường như: Công ty Cổ phần sản xuất và thương mại Trường Foods, Công ty Trách nhiệm hữu hạn chế biến thực phẩm Hồng Chi Foods, Cơ sở sản xuất Thanh Sơn Foods và một số cơ sở khác đã sản xuất món thịt chua với quy trình sản xuất đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm, đặc biệt sản phẩm được đựng trong ống nứa đẹp mắt, là món quà thân thiện với môi trường.

H.C

Nguồn: Dulichvn

Nghệ nhân Êđê và hành trình giữ hồn thổ cẩm

Người miệt mài ngồi bên khung dệt là nghệ nhân H’Jih Ayun. Những tiếng lách cách như là nhịp đập của thời gian, là hơi thở văn hóa, là linh hồn của người Êđê được chắt lọc qua bao thế hệ.


Giữa những chuyển động không ngừng của cuộc sống hiện đại, ở Buôn Knia, xã Ea Tul, huyện Čư̆ M’Gar, tỉnh Đắk Lắk vẫn vang lên âm thanh mộc mạc, quen thuộc mà thiêng liêng: tiếng khung cửi thổ cẩm Êđê. Người miệt mài ngồi bên khung dệt là nghệ nhân H’Jih Ayun. Những tiếng lách cách như là nhịp đập của thời gian, là hơi thở văn hóa, là linh hồn của người Êđê được chắt lọc qua bao thế hệ.

Sinh ra trong một gia đình có truyền thống dệt thổ cẩm, từ thuở nhỏ H’Jih Ayun đã được bà và mẹ truyền dạy từng đường kim, mũi chỉ. Tiếng khung cửi nhịp nhàng, màu sắc nhuộm từ lá cây, rễ cỏ, họa tiết thổ cẩm cất lời kể chuyện… tất cả đã thấm vào tâm hồn, nuôi dưỡng tình yêu bền bỉ với nghề dệt.

Nghệ nhân H’Jih Ayun đang dạy học viên dệt hoa văn (ảnh:Bùi Văn Cọ)

Cuộc sống mưu sinh lam lũ với rẫy nương không làm H’Jih Ayun lùi bước. Những đêm khuya, dưới ánh đèn dầu le lói, bà vẫn cặm cụi bên khung cửi, đôi tay thoăn thoắt đưa sợi – như đang dệt nên ký ức, niềm tin, lời hứa thầm lặng: “Phải giữ cho bằng được nghề dệt thổ cẩm của dân tộc mình.” Và rồi không chỉ giữ được nghề, bà lại tiếp nối trao truyền nghề dệt thổ cẩm cho thế hệ sau.

Nghệ nhân H’Jih Ayun tâm sự: chỉ cần người trẻ có tình yêu với văn hóa Êđê, bà sẵn sàng truyền dạy hết lòng. Gần hai thập kỷ qua, bà đã truyền nghề cho hàng trăm lượt học viên, nhiều người trong số đó đã tự làm, tự bán sản phẩm, cải thiện thu nhập, góp phần lan tỏa nét đẹp văn hóa đến cộng đồng.

“Năm nay tôi đã 67 tuổi rồi. Trước đây, tôi tham gia dạy nghề trong các hợp tác xã dệt thổ cẩm, cả trong và ngoài huyện. Từ năm 2008, tôi bắt đầu giảng dạy tại Trung tâm dạy nghề của tỉnh, trung bình mỗi năm dạy hai lớp. Giờ đây, tôi cũng không còn nhớ mình đã đứng lớp bao nhiêu lần nữa”, nghệ nhân H’Jih Ayun nói.

Với nghệ nhân H’Jih Ayun, mỗi tấm thổ cẩm là một câu chuyện. Hoa văn không chỉ để trang trí mà là ký hiệu văn hóa. Từ đường thẳng, hình vuông, hình thoi, đến hình cây cỏ, chim thú… tất cả mang ý nghĩa riêng biệt: sự hài hòa, sức mạnh, sự gắn bó với thiên nhiên. Bằng bàn tay khéo léo, ánh mắt tỉ mỉ và trái tim yêu nghề sâu sắc, bà không chỉ dệt nên những tấm vải rực rỡ sắc màu mà còn dệt nên tình yêu văn hóa và niềm tự hào dân tộc.

Nghệ nhân H’Jih Ayun tâm sự: “Chúng tôi là những người phụ nữ truyền nghề, và hành trình ấy không ít gian nan – từ đường sá xa xôi đến việc di chuyển nguy hiểm. Nhưng điều khiến chúng tôi luôn thấy vui và tự hào chính là được làm công việc này. Tôi thật sự biết ơn Nhà nước, Trung tâm dạy nghề của tỉnh và các huyện đã tạo điều kiện để tôi cùng nhiều nghệ nhân khác có cơ hội truyền dạy nghề dệt thổ cẩm cho thế hệ sau. Niềm vui lớn nhất của chúng tôi là được góp phần giữ gìn nghề truyền thống, để các em nhỏ trong buôn làng tiếp tục nối dài giá trị văn hóa của dân tộc mình”.

Các cô gái Êđê ở Buôn Knia, xã Ea Tul trong sắc màu thổ cẩm

Những tấm thổ cẩm không chỉ đẹp mà còn chất chứa biết bao giọt mồ hôi, sự nhẫn nại và cả lòng tự hào. Mỗi tấm vải có khi mất hàng tuần, thậm chí hàng tháng để hoàn thiện, nhưng giá trị văn hóa mà nó mang theo thì còn mãi.

Đối với chị H’Hương Niê, ở xã Ea Tul, được học hỏi từ nghệ nhân cao tuổi như bà H Jih Ayun là cơ hội tốt để thoả niềm đam mê dệt thổ cẩm và góp phần lưu giữ, phát triển nét văn hóa đặc sắc của dân tộc mình. Chị H’Hương Niê cho biết: “Tôi nhận thấy trong buôn làng, người Êđê hiện nay chỉ còn những phụ nữ lớn tuổi là còn biết dệt trang phục và chăn thổ cẩm, còn lớp trẻ thì gần như không còn ai theo nghề. Chính vì vậy, sau khi tốt nghiệp cấp 3, tôi quyết định theo học nghề dệt tại trường Cao đẳng nghề. Sau khi hoàn thành khóa học, tôi trở về buôn làng và tiếp tục học thêm từ các nghệ nhân lớn tuổi để hiểu sâu hơn về kỹ thuật và giá trị truyền thống của nghề dệt thổ cẩm”.

 Làm sao để thổ cẩm không chỉ hiện diện trong lễ hội, mà còn là món đồ dùng hàng ngày, là món quà lưu niệm cho du khách khi ghé thăm buôn làng Êđê? Những trăn trở với nghề đã giúp Nghệ nhân H’Jih tạo ra nhiều sản phẩm thổ cẩm cuốn hút du khách. Anh Thành Trung – du khách đến từ Thành phố Hồ Chí Minh, chia sẻ:

“Tôi cũng là một người làm thời trang, và điều đặc biệt tôi cảm nhận được ở thổ cẩm chính là sự biến tấu tinh tế – một sự kết hợp hài hòa giữa yếu tố hiện đại và truyền thống. Khi chạm tay vào, các sản phẩm thủ công thường mang đến cảm giác thô ráp bề mặt, nhưng khi mặc vào lại bất ngờ vì độ mịn và sự mềm mại rất dễ chịu”.

Trong hành trình gìn giữ bản sắc văn hóa, có những con người lặng thầm như bà H’Jih Ayun – không ồn ào, không phô trương, nhưng lại tỏa sáng bằng chính sự bền bỉ, tình yêu và lòng tự hào dân tộc. Mỗi tấm thổ cẩm được dệt nên không chỉ là sản phẩm thủ công, mà còn là kết tinh của truyền thống, là thông điệp văn hóa gửi gắm đến mai sau.

Zawut

 

Nguồn: Dulichvn

Cá ồ nướng muối ớt đậm đà vị biển

Ở vùng biển Bình Định, đặc biệt là các địa phương ven biển như huyện Phù Cát, Phù Mỹ, TX Hoài Nhơn, TP Quy Nhơn…, cá ồ nướng muối ớt là món ăn dân dã nhưng đậm đà bản sắc.


Ảnh: H.Y

Cá ồ nơi đây thường là loại cá nhỏ, thân thon dài, thịt đỏ tươi, săn chắc và thơm đặc trưng. Khi còn tươi rói vừa kéo lưới lên, cá được làm sạch rồi ướp với hỗn hợp gia vị gồm sả băm, gừng, hành, ớt, tỏi, muối hột giã nhỏ. Cách ướp cũng rất riêng ở xứ biển có đủ vị ngọt, cay, mặn nhưng chỉ ướp khoảng một phần ba hỗn hợp ban đầu để cá thấm nhẹ, phần còn lại dùng trong lúc nướng.

Người Bình Định có bí quyết nướng cá ồ rất khéo. Cá được nướng trên lửa than riu riu, vừa chín tới, lớp da bắt đầu xém vàng thì người nướng quét từng lớp gia vị còn lại lên mình cá. Cứ cách vài phút lại rưới đều, để gia vị thấm từ từ vào từng thớ thịt, dậy lên mùi thơm hấp dẫn khó cưỡng.

Cá ồ nướng muối ớt thường ăn nóng với rau sống, bánh tráng và nước mắm chanh tỏi ớt. Vị ngọt đậm đà, cay cay nơi đầu lưỡi, thơm lừng mùi sả gừng khiến món ăn này trở thành đặc sản trong những bữa cơm quê đậm tình người xứ Nẫu.

Bùi Nghĩa

Nguồn: Dulichvn

Tranh ghép từ gốm Biên Hòa (Đồng Nai) đặc sắc của họa sĩ Mai Văn Nhơn

Festival Gốm truyền thống Biên Hòa – Đồng Nai dự kiến sẽ khai mạc vào ngày 27-4. Nhân dịp này, Báo Đồng Nai Online trân trọng giới thiệu một số tác phẩm tranh ghép gốm của họa sĩ Mai Văn Nhơn. Trong đó, họa sĩ đã sử dụng nguyên liệu gốm Biên Hòa – Đồng Nai để tạo nên những bức tranh đặc sắc, mang đậm tính nghệ thuật.


Tranh ghép (mosaic) gốm là loại hình mỹ thuật kết hợp giữa hội họa và gốm thủ công, trong đó các mảnh gốm được cắt, nung và sắp đặt thành một bố cục hoàn chỉnh như một bức tranh. Quá trình thực hiện gồm nhiều công đoạn công phu: từ phác thảo; chọn màu men và nung gốm ở nhiệt độ cao; sau đó cắt từng mảnh gốm và ghép lại trên nền tranh theo bố cục đã phác thảo. Chính sự kết hợp giữa chất liệu truyền thống và kỹ thuật tạo hình hiện đại đã làm nên nét độc đáo cho dòng tranh này.

Mỗi tác phẩm không chỉ là một bức tranh, mà còn là sự kết tinh của cảm xúc, kỹ thuật và tâm huyết mà họa sĩ Mai Văn Nhơn dành cho quê hương và nghệ thuật gốm truyền thống. Qua những mảnh ghép tưởng chừng rời rạc, ông đã thổi hồn vào đất, lửa và men gốm, kể nên những câu chuyện mang đậm bản sắc Biên Hòa – Đồng Nai.

Bác là Việt Nam

Chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh được thể hiện bằng kỹ thuật tranh ghép từ gốm Biên Hòa, với dáng vẻ uy nghiêm, giản dị mà sâu lắng. Tác phẩm từng được trưng bày tại Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam năm 2017, là một điểm nhấn nghệ thuật giàu cảm xúc và giá trị lịch sử.

Đại tướng của lòng dân

Chân dung Đại tướng Võ Nguyên Giáp được thể hiện bằng tranh ghép gốm Biên Hòa. Tác phẩm được phóng tác từ một bức ảnh nổi tiếng, thể hiện gương mặt đôn hậu, truyền tải ý chí kiên cường trong phong thái điềm đạm, bao dung của một vị tướng vì dân.

Thiên thai

Tác phẩm chân dung nhạc sĩ Văn Cao, thể hiện bằng gốm Biên Hòa với kỹ thuật men xám đa sắc. Văn Cao hiện lên mơ màng, hòa vào không gian huyền ảo của thiên thai, nơi âm nhạc, con người và thiên nhiên như quyện làm một.

Vó ngựa trời Nam

Chân dung Thi tướng Huỳnh Văn Nghệ – nhà lãnh đạo quân sự tài ba trong kháng chiến chống Pháp ở miền Đông Nam Bộ. Bức tranh được phóng tác từ ảnh chụp tại Chiến khu Đ, khắc họa hình ảnh ông cưỡi ngựa, lưng mang súng, tay cầm gươm, oai phong tiến về phía trước.

Mẹ và biển

Tác phẩm dùng chất liệu kết hợp giữa gốm Biên Hòa và sơn dầu, lấy cảm hứng từ những người mẹ miền Trung có chồng con lênh đênh giữa biển khơi. Khuôn mặt mẹ với ánh nhìn xa xăm được thể hiện bằng kỹ thuật mosaic tinh tế, phản chiếu nỗi khắc khoải, niềm hy vọng và tình yêu vô bờ.

Hồn xưa phố cũ

Bức tranh khắc họa chân dung họa sĩ Bùi Xuân Phái – biểu tượng của tình yêu phố cổ Hà Nội – được thể hiện bằng chất liệu gốm, acrylic và sơn dầu, gợi lên nỗi hoài niệm quá khứ và khát vọng gìn giữ giá trị văn hóa giữa dòng chảy hiện đại.

Đôi mắt Tà Lài

Chân dung em bé Châu Ro ở làng Tà Lài (Đồng Nai), với đôi mắt ngây thơ, truyền cảm hứng cho bức tranh ghép gốm rực rỡ. Tác phẩm sử dụng gốm Biên Hòa để tôn vinh vẻ đẹp hồn nhiên và văn hóa bản địa, lan tỏa câu chuyện cộng đồng qua nghệ thuật đương đại.

Bà mẹ Cù Lao

Chân dung người mẹ Nam Bộ hiền hậu với nụ cười đôn hậu và ánh mắt đầy yêu thương. Tác phẩm được chuyển thể từ tranh sơn dầu thập niên 1990 của chính họa sĩ Mai Văn Nhơn sang tranh ghép gốm Biên Hòa, tái hiện chân thực nét thời gian và sự hy sinh thầm lặng của người bà, người mẹ xứ Cù Lao.

Đắc Nhân

Nguồn: Dulichvn

Làng nghề truyền thống Ninh Bình – Nơi mang đến cho du khách những trải nghiệm chân thực

Ninh Bình nằm ở vùng cực Nam của đồng bằng châu thổ sông Hồng, là cửa ngõ vào các tỉnh phía Nam, nơi đây không chỉ nổi tiếng với những danh thắng thiên nhiên hùng vĩ như Tràng An, Tam Cốc – Bích Động hay chùa Bái Đính, mà còn là vùng đất giàu truyền thống lịch sử và văn hóa. Một trong những yếu tố góp phần làm nên nét độc đáo trong hành trình khám phá Ninh Bình của du khách chính là các làng nghề thủ công truyền thống. Đây không chỉ là nơi lưu giữ những tinh hoa của cha ông mà còn đang từng bước trở thành điểm đến trải nghiệm hấp dẫn, đóng góp tích cực vào phát triển du lịch địa phương theo hướng bền vững.


Tại Ninh Bình, nhiều làng nghề truyền thống đã tồn tại hàng trăm năm, gắn bó mật thiết với đời sống người dân địa phương. Tiêu biểu có thể kể đến làng thêu ren Văn Lâm (xã Ninh Hải, thành phố Hoa Lư), làng đá mỹ nghệ Ninh Vân (thành phố Hoa Lư), làng gốm Gia Thủy (huyện Nho Quan), làng rượu Kim Sơn, làng Sinh Dược (huyện Gia Viễn), gốm Bồ Bát (huyện Yên Mô)… Mỗi làng nghề là một kho tàng văn hóa, một câu chuyện lịch sử được truyền lại qua nhiều thế hệ, thể hiện sự khéo léo, tinh tế và óc sáng tạo của người thợ.

Một trong những xu hướng phát triển du lịch hiện nay là du lịch trải nghiệm – nơi du khách không chỉ tham quan, chụp ảnh mà còn trực tiếp tham gia vào các hoạt động bản địa. Nhận thấy tiềm năng từ các làng nghề, ngành du lịch Ninh Bình đã từng bước kết nối các điểm tham quan sinh thái – văn hóa với làng nghề truyền thống, tạo nên những tour du lịch trải nghiệm đầy cuốn hút.

Tại làng thêu Văn Lâm, du khách có thể tận tay thử thêu những đường kim mũi chỉ trên nền vải, được nghệ nhân hướng dẫn tỉ mỉ và kể lại những câu chuyện thú vị về nghề. Ở làng đá Ninh Vân, khách có thể xem tận mắt quy trình chọn đá, đục đẽo, mài giũa để tạo thành các tác phẩm nghệ thuật kỳ công. Đến làng Sinh Dược, du khách được tham quan, trải nghiệm các quy trình sản xuất ra các sản phẩm từ thảo dược như: xà bông Sinh dược, muối ngâm chân thảo dược, tinh dầu, dầu gội đầu,….

Sự kết hợp giữa làng nghề và du lịch không chỉ tạo ra giá trị văn hóa mà còn mang lại hiệu quả kinh tế thiết thực. Nhiều hộ dân làng nghề có thêm thu nhập nhờ bán sản phẩm thủ công, mở xưởng trải nghiệm, cung cấp dịch vụ ăn uống, lưu trú cho du khách. Bên cạnh đó, việc thu hút khách du lịch đến với làng nghề cũng góp phần giữ gìn, bảo tồn các giá trị di sản phi vật thể vốn đang dần mai một bởi sự phát triển của công nghiệp và hiện đại hóa.

Làng nghề không chỉ đơn thuần là nơi sản xuất hàng hóa, mà đã và đang trở thành không gian văn hóa sống động, nơi giao thoa giữa quá khứ và hiện tại. Nhờ đó, mỗi chuyến đi đến Ninh Bình không chỉ là hành trình thưởng ngoạn cảnh đẹp thiên nhiên mà còn là dịp để du khách “sống chậm” và kết nối sâu sắc hơn với văn hóa bản địa. Với sự hỗ trợ đồng bộ từ chính quyền, cộng đồng và ngành du lịch, chắc chắn làng nghề Ninh Bình sẽ tiếp tục phát huy vai trò, góp phần xây dựng một hình ảnh Ninh Bình giàu bản sắc, thân thiện và hấp dẫn trong lòng du khách trong nước và quốc tế.

Nguyễn Loan

Nguồn: Dulichvn

TIN MỚI NHẤT