Du lịch trong nước

Du lịch trong nước, tin tức du lịch trong nước, các tour du lịch trong nước, các địa điểm du lịch trong nước hấp dẫn được chúng tôi tổng hợp và đưa tin hàng ngày đến cho khách du lịch trên khắp mọi miền đất nước có được thông tin du lịch trong nước để có những thông tin hữu ích nhất cho mình và gia đình khi quyết định chọn chuyến du lịch trong nước cho mình và người thân

Gốm Mỹ Thiện chính thức là di sản văn hóa phi vật thể quốc gia

Nghề gốm truyền thống Mỹ Thiện (xã Châu Ổ, tỉnh Quảng Ngãi) vừa được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch công nhận là di sản văn hóa phi vật thể quốc gia, theo Quyết định số 2208/QĐ-BVHTTDL.


Đây là một trong những nghề thủ công lâu đời bậc nhất ở vùng hạ lưu sông Trà Bồng, nổi tiếng với kỹ thuật chế tác gốm thủ công bằng tay, nung bằng lò củi truyền thống. Các sản phẩm gốm Mỹ Thiện (từ vật dụng sinh hoạt, đồ thờ tự đến vật liệu xây dựng) đều mang dáng dấp mộc mạc nhưng tinh xảo, thấm đẫm tinh thần lao động và thẩm mỹ của người thợ Quảng Ngãi.

Các sản phẩm gốm Mỹ Thiện đều mộc mạc nhưng tinh xảo.

Theo quyết định của Bộ, nghề gốm Mỹ Thiện được xếp vào loại hình “Nghề thủ công truyền thống”, chính thức ghi danh vào kho tàng di sản văn hóa phi vật thể quốc gia. Sự kiện này không chỉ là sự ghi nhận về mặt chuyên môn và pháp lý, mà còn là cơ hội để Quảng Ngãi tiếp tục bảo tồn, phục dựng và phát huy giá trị làng nghề gắn với phát triển du lịch, kinh tế cộng đồng.

Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch giao UBND tỉnh Quảng Ngãi cùng các cơ quan liên quan có trách nhiệm bảo vệ và phát huy giá trị di sản, tuân thủ đúng quy định của Luật Di sản văn hóa.

Việc nghề gốm Mỹ Thiện được công nhận di sản quốc gia là minh chứng cho sức sống bền bỉ của văn hóa bản địa. Trong bối cảnh đô thị hóa ngày càng lấn át không gian làng nghề, những nỗ lực gìn giữ di sản như thế này càng trở nên cấp thiết – không chỉ để gìn giữ quá khứ, mà còn để tạo nền tảng cho một tương lai phát triển bền vững, có chiều sâu văn hóa.

Hà Phương

 

Nguồn: Dulichvn

Giữ gìn, bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa

Chuyển đổi số, ứng dụng thành tựu khoa học công nghệ vào các hoạt động văn hóa là một yêu cầu tất yếu trong thời kỳ hiện nay. Ứng dụng khoa học công nghệ tiên tiến không chỉ giúp phục hồi, bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa trong đời sống mà còn góp phần lan tỏa, nâng tầm giá trị văn hóa Việt Nam trên trường quốc tế.


Các giá trị văn hóa đặc sắc của dân tộc sẽ được lan tỏa mạnh mẽ khi ứng dụng các công nghệ tiên tiến vào hoạt động văn hóa.

Hiện nay, mọi lĩnh vực của đời sống văn hóa đang chuyển động theo chiều hướng tích cực nhờ ứng dụng các công nghệ hiện đại. Chúng ta đã cơ bản xây dựng được nguồn dữ liệu số về di sản văn hóa, là cơ sở cho việc đánh giá, quản lý, nghiên cứu, bảo tồn, phát huy, quảng bá văn hóa.

Lan tỏa mạnh mẽ

Với sự phát triển mạnh mẽ về công nghệ, ngày nay mọi người dân có thể dễ dàng tiếp cận các thông tin, tìm hiểu, học hỏi và sáng tạo văn hóa. Các công nghệ mới như trí tuệ nhân tạo (AI), công nghệ quét 3D, công nghệ thực tế ảo (AR), thực tế ảo tăng cường (VR), thực tế ảo mở rộng (XR), công nghệ chuỗi khối (Blockchain), công nghệ kết nối không dây tầm ngắn (NFC), dữ liệu lớn (Big data)… đều đã được ứng dụng mạnh mẽ trong văn hóa.

Thí dụ, gần đây các nhà khảo cổ đã sử dụng công nghệ hình ảnh 3D để lưu trữ và tái hiện các hiện vật tại di chỉ Vườn Chuối (Hà Nội). Trong không gian ba chiều từ hố khai quật mà công nghệ trợ giúp, đã thu thập được tối đa các dữ liệu chân thực phục vụ công tác nghiên cứu. Sự hỗ trợ của công nghệ giúp làm sáng tỏ hơn nhận định của chuyên gia về thời kỳ tiền sử của dân tộc cách đây từ 3.500 đến 4.000 năm.

Dự án Định danh số và triển lãm các cổ vật triều Nguyễn được thực hiện tại Bảo tàng Cổ vật Cung đình Huế sử dụng công nghệ Blockchain và NFC để quản lý và định danh các cổ vật. Khách tham quan bảo tàng khi sử dụng điện thoại thông minh quét chip gắn trên cổ vật có thể ngay lập tức tìm hiểu các thông tin về nguồn gốc, ý nghĩa của cổ vật trên địa chỉ museehue.vn. Đại diện Bảo tàng Cổ vật Cung đình Huế cho biết, mỗi ngày có hàng nghìn khách tham quan truy cập vào không gian trực tuyến, công nghệ đã giúp lan tỏa các hình ảnh và dữ liệu, kiến thức về hiện vật của bảo tàng đến đông đảo người xem.

Tại Văn Miếu-Quốc Tử Giám (Hà Nội), dự án “Ứng dụng công nghệ vật lý số nâng tầm giá trị di sản” đã được triển khai với nhiều nội dung thiết thực. Dự án là sự chung tay của nhiều chuyên gia cùng tìm kiếm các giá trị văn hóa truyền thống có nguy cơ mai một, ứng dụng công nghệ định danh số Nomion (kết hợp giữa chíp NFC và Blockchain) để tạo ra một danh tính số duy nhất cho mỗi sản phẩm vật lý, với mục đích lưu giữ, phát huy các giá trị văn hóa vào đời sống.

Chiến dịch mở đầu của dự án mang tên “Tầm Chân” giúp tạo ra một cuốn sách vật lý số đầu tiên tại Việt Nam mang tên “Nghê nơi cửa Khổng sân Trình”. Nhờ đó, hình ảnh Nghê – một linh thú thuần Việt trong không gian Văn Miếu-Quốc Tử Giám lan tỏa rộng rãi đến người dân và du khách quốc tế, giúp quảng bá văn hóa Việt. Để thưởng thức cuốn sách đặc biệt này, khách tham quan có thể sử dụng điện thoại thông minh tương tác với chíp RFID gắn trên tượng Nghê đúc bằng đồng thau ở Văn Miếu…

Thực tế hiện nay, hầu hết các ngành, các lĩnh vực trong văn hóa như nghệ thuật biểu diễn, di sản, du lịch, nhiếp ảnh-triển lãm, âm nhạc, quảng cáo… đều đã hòa nhịp trong công tác chuyển đổi số, dành sự ưu tiên đầu tư thích đáng vào việc ứng dụng công nghệ như một xu hướng tất yếu. Nhờ công nghệ, nhiều sản phẩm, giá trị văn hóa đã đến với bạn bè quốc tế, giới thiệu một Việt Nam độc đáo trong văn hóa và hiện đại trên con đường hội nhập.

Điểm tựa vững chắc cho bảo tồn và phát triển

Trong bối cảnh toàn xã hội chuyển đổi số, văn hóa với vai trò là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, sức mạnh nội sinh, động lực quan trọng để phát triển đất nước càng cần thiết phải được ưu tiên đặc biệt để không những không bị đi sau, mà còn phải vượt lên trước một bước, như một ngọn đèn “soi đường”. Trong thế giới ngày nay, văn hóa, kinh tế, chính trị luôn đan xen với nhau, và văn hóa là một lĩnh vực quan trọng, có vị trí đặc biệt trong cuộc cạnh tranh về sức mạnh tổng hợp của mỗi quốc gia, các ngành công nghiệp văn hóa là một lĩnh vực đặc biệt, vừa mang lại lợi ích kinh tế, vừa có giá trị xã hội, nhân văn.

Kinh nghiệm của nhiều quốc gia phát triển trên thế giới cho thấy, công nghiệp văn hóa dẫn lối cho phát triển kinh tế. Muốn phát triển công nghiệp văn hóa, việc ứng dụng công nghệ để biến các giá trị văn hóa thành sản phẩm tiêu dùng, mang lại lợi ích kinh tế cho từng địa phương và quốc gia là đòi hỏi tất yếu. Chính sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ đã giúp hình thành các ngành công nghiệp văn hóa, mở rộng thị trường dịch vụ, lan tỏa sức mạnh văn hóa đến với mọi tầng lớp nhân dân và ra thế giới, nhờ đó thúc đẩy giao lưu hợp tác quốc tế, tạo sức mạnh mềm quốc gia.

Công nghệ mang đến nhiều cơ hội, cung cấp nhiều giải pháp bảo tồn, phát huy, lan tỏa văn hóa. Nếu biết tận dụng sức mạnh công nghệ trong khai thác, quảng bá các giá trị văn hóa, chúng ta có thể tạo ra sức thu hút sự quan tâm của cộng đồng quốc tế từ những điểm đến du lịch, những di sản văn hóa, những món ăn ngon, các môn nghệ thuật truyền thống đặc sắc mang đậm dấu ấn Việt Nam.

Khảo sát cho thấy, ở nhiều di tích văn hóa, điểm du lịch, bảo tàng…, việc ứng dụng công nghệ số tạo thêm nguồn thu đáng kể từ việc bán vé tham quan, sản xuất, phân phối các món đồ lưu niệm là bản sao có chứng thực của các hiện vật di sản. Ông Huy Nguyễn, Tổng Giám đốc Phygital Lab, đơn vị đã phối hợp cung cấp giải pháp số cho nhiều đơn vị văn hóa cho biết, với việc ứng dụng mạnh mẽ công nghệ số trong văn hóa hiện nay, chúng ta có thể tiến đến giao dịch các phiên bản số của hiện vật di sản trên chợ số, hay chợ vật lý số trong tương lai gần.

Nhà lý luận phê bình Ngô Thảo cho rằng, một trong những ý nghĩa quan trọng nhất của việc ứng dụng khoa học công nghệ vào văn hóa là giúp đáp ứng nhu cầu hưởng thụ văn hóa của người dân, tạo cơ hội bình đẳng cho người dân mọi vùng miền được tiếp cận, tìm hiểu, sáng tạo văn hóa. Nhờ công nghệ, người dân ở miền núi hay miền xuôi, thành phố hay nông thôn đều có thể truy cập vào các ứng dụng qua thiết bị thông minh để tìm kiếm tri thức văn hóa, nghiên cứu học hỏi, tương tác lựa chọn điểm đến…

Ở góc độ mở rộng giao lưu quốc tế, công nghệ với những tính năng ưu việt có thể giới thiệu, quảng bá các giá trị văn hóa Việt ra thế giới. Từ đây các giá trị văn hóa đặc sắc của Việt Nam dễ dàng đến được với bạn bè quốc tế, tạo sức hút cho du lịch, giúp Việt Nam trở thành điểm đến văn hóa được ưa chuộng. Với ý nghĩa đó, công nghệ đã giúp nâng tầm giá trị văn hóa Việt trên trường quốc tế, bởi vì muốn mở rộng quan hệ hợp tác và hội nhập sâu vào thế giới, ngoại giao văn hóa là câu chuyện cốt lõi.

Các sản phẩm văn hóa mang đậm bản sắc Việt Nam đi ra thị trường quốc tế vừa tăng cường sức mạnh mềm quốc gia vừa thúc đẩy phát triển thương mại, củng cố quan hệ hữu nghị, kiến tạo và bảo vệ an ninh quốc gia một cách tinh tế, sâu sắc. Khi công nghệ trở thành công cụ hiện đại đắc lực, các giá trị văn hóa kết tinh hàng nghìn năm lịch sử của dân tộc sẽ có cơ hội được bay cao, bay xa.

Chương trình Mục tiêu quốc gia về phát triển văn hóa giai đoạn 2025-2035 đã được Quốc hội thông qua ngày 27/11/2024 đặt mục tiêu phấn đấu các ngành công nghiệp văn hóa có mức tăng trưởng trung bình hằng năm là 7%, đóng góp 8% GDP cả nước.

Một trong những giải pháp đề ra để hoàn thành các mục tiêu là tăng cường ứng dụng công nghệ nhằm số hóa các giá trị văn hóa, biến văn hóa thành một dòng chảy mạnh mẽ với những sản phẩm cụ thể, mở rộng thị trường trong nước và quốc tế vừa giới thiệu quảng bá văn hóa vừa mang về nguồn lợi kinh tế cho đất nước.

Để thực hiện được điều này, trước tiên cần tập trung phát triển hạ tầng kỹ thuật số để hỗ trợ các ngành công nghiệp sáng tạo, như mạng internet tốc độ cao, các nền tảng trực tuyến và các ứng dụng công nghệ hiện đại. Về nhân lực, cần thúc đẩy công tác đào tạo chuyên sâu cho nghệ sĩ, nghệ nhân, các nhà sáng tạo, để họ có thể sử dụng thành thạo công nghệ vào các hoạt động của mình, mang đến những vẻ đẹp mới cho các sản phẩm văn hóa.

Các nhà quản lý, nhân viên làm việc trong ngành văn hóa cần thay đổi tư duy, cập nhật các xu hướng mới trong công nghệ, bởi vì công nghệ là thứ luôn thay đổi và cải tiến. Nắm vững công nghệ sẽ giúp người làm công tác văn hóa chủ động đề xuất các phương án, chính sách đầu tư, ứng dụng, thúc đẩy văn hóa. Đây cũng là cơ sở để triển khai thành công các mục tiêu trong Chiến lược phát triển văn hóa đến năm 2030 đã được Chính phủ ban hành.

Việt Nam hoàn toàn có thể tự tin trở thành một trung tâm công nghiệp văn hóa của khu vực Đông Nam Á. Với sự quan tâm của toàn xã hội, với sự đầu tư thích đáng vào khoa học công nghệ như một công cụ hỗ trợ đắc lực, văn hóa sẽ ngày càng phát triển, không chỉ đóng góp vào tăng trưởng kinh tế đất nước mà còn khẳng định, lan tỏa một hình ảnh Việt Nam độc đáo, giàu bản sắc ra thế giới.

Quỳnh Vũ

Nguồn: Dulichvn

Cơm hến ở Huế

Huế cổ kính, Huế thân thương và Huế cũng nổi tiếng với nền ẩm thực phong phú, tinh tế. Từ phong cách ẩm thực cung đình cầu kỳ đến những món ăn đường phố dân dã nhưng chứa đựng trọn vẹn tinh hoa ẩm thực xứ Huế…


Một trong những món ăn gây nhiều thương nhớ nhất chính là cơm hến. Cơm hến vốn là một món ăn dân dã của người lao động, nhưng dần dà trở thành một biểu tượng ẩm thực khi nhắc đến Huế. Những người sành ẩm thực Huế vẫn nói rằng, hến ngon nhất là bắt ở sông Hương, quanh cồn Hến hay cầu Trường Tiền.

Món ăn này không cầu kỳ trong nguyên liệu nhưng lại đòi hỏi sự chỉn chu, tinh tế ở từng công đoạn, với những nguyên liệu quen thuộc như: Cơm nguội, tóp mỡ, hến tươi, lạc rang, tỏi, bột ngọt, hoa chuối…

Cơm hến.

Thành phần chính của món ăn là cơm nguội – thứ cơm trắng để nguội từ trước, được người Huế cho rằng khi ăn sẽ giòn hơn, thấm vị hơn so với cơm nóng. Hến sau khi được cào từ sông Hương lên, làm sạch, luộc chín, tách lấy phần thịt nhỏ xíu, thơm ngọt, phần nước luộc hến cũng được tận dụng làm nước chan đậm đà. Điểm nhấn của món ăn này chính là mắm ruốc Huế pha đậm vị và ớt chưng cay nồng. Tất cả được trộn đều, chan thêm nước canh hến nóng hổi, tạo nên sự hòa quyện tinh tế giữa các tầng hương vị.

Cơm hến ngọt thanh từ thịt hến, béo ngậy từ tóp mỡ, bùi bùi của lạc rang, cay nồng của ớt, đậm đà của mắm ruốc và vị giòn mát từ rau sống. Điều thú vị là thực khách có thể thưởng thức cơm hến theo nhiều cách khác nhau: ăn khô trộn đều hoặc chan nước canh hến. Nhưng dù ăn cách nào thì vị ngon đặc trưng vẫn không hề thay đổi. Hương vị độc đáo và sự hòa quyện của nguyên liệu tươi ngon làm cho món cơm hến trở thành một trải nghiệm không thể quên đối với du khách.

Cơm hến vốn là món ăn bắt nguồn từ làng Cồn Hến – một cồn đất nhỏ nằm giữa dòng sông Hương thơ mộng, thuộc phường Vỹ Dạ, thành phố Huế. Đến Cồn Hến, bạn không chỉ được chiêm ngưỡng những di tích lịch sử cổ kính, những nếp nhà đơn sơ, yên bình mà còn được thưởng thức món cơm hến ngon nức tiếng.

Người Huế vẫn bảo, không chỉ đơn thuần là món ăn, cơm hến còn phản ánh nét văn hóa ẩm thực Huế – nơi những sản vật bình dị của thiên nhiên được người dân khéo léo chế biến thành đặc sản níu chân du khách. Món ăn này cũng thể hiện sự tiết kiệm, giản dị, tinh tế của người Huế.

Ngoài cơm hến, các món ăn được chế biến cùng hến có thể kể đến như: bún hến, hến trộn, hến xúc bánh đa, cháo hến… Nhưng chỉ có cơm hến mới gây nhiều thương nhớ cho người ta nhiều đến thế. Ở Huế, không khó để tìm được một nơi bán đồ ăn hến. Nếu đến Huế, ngoài các loại bánh, chè, nem nụi… đừng quên thưởng thức một tô cơm hến- một món ăn mà người ta vẫn bảo “mỹ vị nhân gian” của Huế.

Mai Hoa

Nguồn: Dulichvn

Về làng trải nghiệm văn hóa truyền thống

Tháng 7 này, tại Làng Văn hóa – Du lịch các dân tộc Việt Nam (xã Đoài Phương, TP Hà Nội) sẽ diễn ra chuỗi hoạt động với chủ đề “Về Làng trải nghiệm nét văn hóa truyền thống”.


Hoạt động tháng 7 có sự tham gia của hơn 100 đồng bào thuộc 16 dân tộc anh em như đồng bào Nùng, Tày, Mông, Dao, Mường, Ê Đê, Khmer… đến từ 11 địa phương trên cả nước. Trong suốt một tháng, không gian Làng Văn hóa – Du lịch sẽ trở thành nơi hội tụ những giá trị văn hóa đặc sắc, nơi du khách – đặc biệt là các em nhỏ có thể tìm hiểu, trải nghiệm, tương tác với các chủ thể văn hóa một cách trực tiếp.

Du khách tham gia trải nghiệm múa sạp cùng đồng bào dân tộc Thái. Ảnh. P. Sỹ

Điểm nhấn của chương trình là không gian giới thiệu văn hóa truyền thống của từng tộc người thông qua các hoạt động như tái hiện kiến trúc dân tộc, trình diễn nhạc cụ, múa dân gian, trò chơi truyền thống, nghi lễ cộng đồng. Tại mỗi điểm làng, du khách không chỉ được nghe kể chuyện, xem trình diễn mà còn được tham gia vào quy trình làm sản phẩm, tự tay tô tượng, làm chuồn chuồn tre, tô tranh cát hay khoác lên mình trang phục dân tộc, để hiểu sâu sắc hơn về đời sống tinh thần của đồng bào.

Bên cạnh đó, không gian ngoài trời sôi động với các trò chơi dân gian như nhảy sạp, đi cà kheo, đánh đu, bập bênh… sẽ mang lại cho các em nhỏ trải nghiệm vui nhộn, gắn kết bạn bè, rèn luyện sự khéo léo, tư duy và khả năng tương tác xã hội – những điều mà cuộc sống công nghệ hiện đại đôi khi khiến trẻ em thiếu hụt.

Hướng tới kỷ niệm 78 năm Ngày Thương binh – Liệt sĩ (27/7/1947 – 27/7/2025), các hoạt động tại Làng cũng dành không gian trang trọng cho việc giáo dục truyền thống yêu nước, lòng biết ơn và tri ân các Anh hùng liệt sĩ. Đặc biệt, chương trình dân ca, dân vũ cuối tuần với chủ đề “Âm vang nguồn cội” sẽ mang đến những tiết mục nghệ thuật mang đậm bản sắc dân tộc, ca ngợi quê hương đất nước, tưởng nhớ công ơn những người đã hy sinh vì Tổ quốc.

Không dừng lại ở các sự kiện theo mốc thời gian, trong suốt tháng 7, các làng dân tộc tại “Ngôi nhà chung” vẫn duy trì các hoạt động hàng ngày như trình diễn ẩm thực truyền thống, thao tác nghề thủ công (dệt vải, đan lát, nấu rượu, chế biến thuốc nam…), tái hiện sinh hoạt đời thường, phục vụ Homestay, giao lưu văn nghệ dân gian. Du khách sẽ có cơ hội thưởng thức những món ăn đặc trưng như cá nướng, thịt gác bếp, xôi màu, khau nhục… phản ánh sự phong phú trong ẩm thực vùng miền.

Các làng dân tộc cũng chủ động tăng cường sắc xanh, tạo không gian nghỉ ngơi thoáng mát cho khách tham quan, bố trí lại khuôn viên, giới thiệu văn hóa tại các điểm làng, tổ chức trò chơi dân gian và các buổi truyền dạy nhạc cụ truyền thống như đàn T’rưng, Chapi, Đinh pút… giúp lan tỏa tình yêu văn hóa dân tộc đến thế hệ trẻ.

Theo ông Trịnh Ngọc Chung – Cục trưởng Cục Văn hóa các dân tộc Việt Nam, trong thời gian tới, các giá trị văn hóa truyền thống của đồng bào dân tộc ở khắp các vùng miền sẽ tiếp tục được tái hiện tại Làng Văn hóa. Không chỉ là những sự kiện riêng lẻ, đây sẽ là chuỗi hoạt động được tổ chức đều đặn vào các ngày trong tuần và cuối tuần.

“Qua đó, những giá trị văn hóa không chỉ dừng lại ở các dự án hay phương án bảo tồn trên giấy, mà phải được tái hiện bằng những hành động cụ thể, sinh động. Từ không gian Làng Văn hóa, các giá trị ấy sẽ được truyền tải sâu rộng, góp phần bảo tồn và phát huy di sản văn hóa dân tộc, đồng thời nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho đồng bào.

P. Sỹ

Nguồn: Dulichvn

Lao xao mùa giũ cá cơm sông trên sông Tiền, sông Hậu

Từ bao đời nay, dòng sông Tiền, sông Hậu luôn hào phóng, mang đến nguồn lợi thủy sản phong phú theo con nước lớn ròng cho người dân miền Tây. Mùa nước nổi, cá linh sinh sản đầy sông, còn mùa nước kiệt thì cá cơm cũng chộn rộn xuôi dòng để dân vạn chài đánh lưới.


Ngày trước, trên dòng sông Tiền, sông Hậu, người dân chỉ bắt cá lớn, ít ai chú ý tới loài cá bé xíu như con cá cơm. Thế nhưng, khi nguồn cá tôm cạn kiệt, loài cá cơm được xem là đối tượng thủy sản được ngư dân khai thác bằng lưới, kiếm thêm thu nhập lúc nhàn hạ. Vậy đó, mà cá cơm đi vào ẩm thực như một món ngon dân dã rồi hình thành hẳn cái nghề giũ cá cơm tại các tỉnh đầu nguồn.

Mùa cá cơm sông Cửu Long

Theo một giai thoại, cái tên cá cơm có từ thời Nguyễn Ánh bôn tẩu. Bị nghĩa quân Tây Sơn truy đuổi, sức cùng, lương thực cạn kiệt, tàu lênh đênh, quân lính đói lả, Nguyễn Ánh cầu xin trời cứu.

Bỗng xuất hiện từng đàn cá trắng nhỏ, dày đặc, mọi người vớt lên, chế biến sơ, ăn thay cơm, qua cơn đói. Từ đó mà con cá bé xiu trắng nõn được gọi là cá cơm.

Cá cơm sông, sống thành đàn lên tới hàng triệu con, kích cỡ bằng đầu đũa và dài chừng 10cm, ăn sinh vật phù du.

Theo nhà nghiên cứu văn hóa, lịch sử địa phương Nam Bộ – Nguyễn Hữu Hiệp, thời tiết Nam bộ chia hai mùa rõ rệt nắng và mưa. Riêng vùng đầu nguồn sông Cửu Long thì mùa nắng gọi mùa mùa cạn; mùa mưa gọi mùa nước nổi. Giao mùa bắt đầu từ tháng 5 âm lịch, nước bắt đầu quay.

Dòng chảy các con sông Tiền Giang và Hậu Giang không xuôi một chiều theo những con nước lớn, nước ròng như bình thường mà vào thời điểm này nước từ thượng nguồn đổ xuống ngày càng nhiều, không thoát hết ra biển được nên phải dội lại, lựng bựng, gọi là “nước quay kỳ nhứt”. Khi “nước quay kỳ nhì” thì nước từ từ tràn lên đồng, nhiều nơi ngập đường, ngập chợ. Ở kỳ “nước nhì”, sông rạch toàn vùng có rất nhiều tôm cá, nhất là cá linh. Còn ở kỳ “nước nhứt” thì trên sông có vô số cá trắng, trong đó cá cơm là chộn rộn nhất, từng bầy tua tủa khắp các dòng trường giang rộng lớn.

Cá cơm là “em út” họ nhà cá về trọng lượng, thân mình trắng trong, phần bụng trắng đục như hạt cơm, sống ở vùng nước ấm. Có hai loại cá cơm biển và cá cơm sông. Cá sống thành đàn lên tới hàng triệu con, kích cỡ bằng đầu đũa và dài chừng 10 cm trở lại, ăn sinh vật phù du.

Các loài cá cơm thường gặp ở Việt Nam được gọi theo màu sắc, là: Trắng, thường, sọc tiêu, đỏ, than, sọc phấn, phấn chì, lép, mờm. Sống ở nước ngọt, cá xuất hiện nhiều trên sông Tiền, sông Hậu và sông Vàm Cỏ.

Thời điểm rộ nhất của cá cơm là từ tháng 12 năm trước đến tháng 5 âm lịch năm sau. Tuy thân hình “tí hon” nhưng toàn chọn sinh sôi ở sông lớn, không chịu bơi vào kinh, rạch nên cá cơm cũng dễ bị “tóm cổ” trong mành lưới cước của dân vạn chài.

Ngư dân đánh bắt cá cơm trên sông Tiền đoạn qua tỉnh An Giang.

Anh Nguyễn Hoàng Minh – ngư dân bắt cá cơm tại xã Tân Thuận Tây, TP. Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp cho biết: “Từ tháng 10 đến hết mùng 5/5 mới hết. Cái loài này nước lên hoặc nước ròng chảy xiết cũng không có, nước chuẩn mới có mặt nó. Bắt nó chỉ có lúc sẩm tối hoặc hừng đông thôi”.

Hồng Ngự, Chợ Mới, Cần Đước… là những nơi hội tụ nhiều ngư dân hành nghề đánh bắt cơm, mỗi địa phương có hơn 100 hộ bủa lưới. Mùa cá cơm chỉ diễn ra trong vài tháng nên bà con tranh thủ thả lưới cả ban đêm. Cá cơm sống ở tầng nước mặt nên ngư dân không dùng lưới sâu dạo, chỉ cần dài, càng dài càng bắt được nhiều cá, do đó phạm vi bao chiếm của lưới khá rộng.

Muốn đánh bắt nó phải chờ con nước ròng mới trúng đậm. Với chiếc xuồng 6,5 mét và một luồng lưới 400m thả dài trên một khúc sông, chờ đến sau 1 giờ, mẻ lưới kéo lên giũ nhẹ cho cá gom về một ụ rồi xúc ra thau, một mẻ trúng đậm thì khoảng 30kg cá.

Ông Nguyễn Văn Hoàng – ngư dân ở xã Tân Thuận Tây, TP.Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp kể: “Thả ngầm là thả lưới sâu dưới lòng đất mới dính, còn thả nổi là thả vào ban đêm vì giờ đó cá cơm nổi lên mặt nước. Năm rồi thì ít, cá xuất hiện vài hôm là biến mất tiêu, năm nay kéo dài tận nửa tháng, trung bình một mẻ kiếm 30-40 kg cá là đó. Còn ngày nào trúng đậm là 60kg, mà lâu thiệt lâu mới có một mẻ đậm như vậy”.

Muốn đánh bắt cá cơm phải chờ con nước ròng mới trúng đậm. Với chiếc xuồng 6,5m và một luồng lưới 400m thả dài trên một khúc sông, chờ đến sau 1 giờ, mẻ lưới kéo lên giũ nhẹ cho cá gom về một ụ rồi xúc ra thau. Một mẻ trúng đậm thì khoảng 30kg cá.

Công đoạn để thả một giác lưới (tức một lần) rất vất vả, phải chọn bến thả, xăng dầu, máy móc, lưới, phao và đèn. Mỗi ngọn đèn cách nhau chừng 6 đến 10m, 2 đầu đèn màu đỏ và ở giữa màu xanh lá cây, 2 đầu phải có cờ báo hiệu để tránh ghe tàu ban đêm chạy qua.

Đầu hôm quăng một mẻ, đến khoảng 3 đến 4 giờ khuya sáng hôm sau thì tiếp tục mẻ thứ hai. Những đêm trời đứng gió, sông dài vắng lặng, hàng ngàn chiếc đèn lưới cá cơm lung linh dưới mặt sông đầy tựa như những vì sao của dãy ngân hà.

Quang cảnh cái nghề giũ cá cơm đêm trong mắt người ngoài nó quyến rũ vậy đó, nhưng đối với dân vạn chài đó là sinh kế quan trọng theo mùa. Có bữa chờ đến con nước thả lưới, mây ù ù kéo tới, mưa giáng xuống, coi như ngày hôm đó trắng tay về xuồng không.

Chị Phan Thị Kim Sang – ngư dân đóng đáy cá cơm trên sông Tiền đoạn qua xã Tân Thuận Tây, TP.Cao Lãnh cho biết: “8h tối thả lưới xuống, 12 khuya kéo lên. Cá nhiều thì một chút xíu đổ một lần, cá ít thì ngủ 1 giấc hơn 1 tiếng đồng đồ đổ một lần. Ngày trước cá nhiều lắm, nhưng bây giờ ít đi nhiều rồi”.

Từ bữa ăn quê nhà đến đặc sản, giấc mơ du lịch trên sông

Nguồn cá cơm luôn được được bạn hàng thu mua mạnh. Cá tươi, mỗi ký thấp nhất 20.000 đồng. Cá phơi khô mỗi ký có giá thấp nhất 150.000 đồng. Hiện, nguồn cá cơm phơi khô được xem là đặc sản, tiêu thụ ở các tỉnh miền Đông, như: Bình Dương, Đồng Nai hoặc TP. Hồ Chí Minh. Loại khô cá cơm này rất độc đáo, dễ ăn, hậu ngọt như được ướp chất phù sa của vùng châu thổ Cửu Long mà không nơi nào có được.

Thấy vậy mà cá cơm sinh lợi cũng nhiều, mỗi đầu xuồng bỏ túi trên 500.000 đồng/ngày sau khi trừ tất cả chi phí, nông dân thôn quê có nguồn thu nhập cũng cơ bản ổn định.

Cá cơm sông nhúng bột chiên trở thành món đặc sản tại các nhà hàng lớn.

Anh Đỗ Hữu Tài, chủ quán ăn sinh thái tại xã Tân Thuận Tây, TP. Cao Lãnh cho biết: “Khách đến hay gọi cá cơm kho cà hoặc chiên bột. Kho cà mình nấu nước dừa với cà, cá tươi nhúng vào nên nó ngon ngọt lắm”.

Năm tháng trôi qua, dân vạn chài cứ sống cùng sông nước và lầm lũi bắt cá trên sông để mưu sinh theo nhịp đập thời gian. Những năm gần đây, biến đổi khí hậu, cá mắm ít dần nên những đêm bội thu cá cơm cũng không còn thường xuyên như ngày trước. Một vạt lưới dài chừng 300 mét cộng với ghe tàu…, sau 3 năm sử dụng, thay mới, ít nhất cũng từ 15 đến 20 triệu đồng mà tiền bán cá chỉ xoay sở trong ngày.

Đây cũng là điều mà địa phương cần suy nghĩ, nên chăng khuyến khích nông dân tập hợp thành làng nghề để thuận lợi trong vay vốn và mức lãi suất được ưu tiên để cuộc sống của họ được nâng lên.

Ở Chợ Mới, Cù lao Giêng nằm trong quy hoạch vùng du lịch sinh thái cộng đồng, nghề đánh cá trên sông cũng là điểm hẹn tuyệt vời nhưng để nghề giũ cá cơm bước chân được vô ngành du lịch không phải là chuyện dễ dàng. Mới đây nhất, Tâm Quê Hội quán ở xã Tân Thuận Tây, TP. Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp đã mở một không gian tên “Đêm Tân Thuận Tây”.

Không gian này nép mình bên sông Tiền, phục vụ 32 quầy ẩm thực cùng các hoạt động trải nghiệm gắn với nghề truyền thống, trong đó có nghề giũ cá cơm đêm.

Đây được xem như một phần an ủi cho dân vạn chài, cái nghề vừa lạnh vừa ướt, vừa cô đơn trên sông vắng cũng có ngày được quan tâm. Chỉ mong những ngày tháng tới, dân hạ bạc xứ đầu nguồn trúng nhiều tôm cá để tiếp tục mưu sinh ổn định nơi quê nhà!

Kim Loan

 

Nguồn: Dulichvn

Xây dựng thương hiệu sản phẩm làng nghề

Tỉnh An Giang có nhiều làng nghề truyền thống, đóng góp vào sự phát triển kinh tế-xã hội cho địa phương, tạo việc làm ổn định cho hàng nghìn lao động. Xây dựng thương hiệu bền vững cho các sản phẩm địa phương là nhiệm vụ quan trọng.


Sản phẩm thổ cẩm Làng Chăm được du khách quốc tế quan tâm.

Các làng nghề truyền thống lâu đời ở An Giang như: nghề nhang Bình Đức, lưỡi câu Mỹ Hòa, bánh tráng Mỹ Khánh (phường Long Xuyên); nghề dệt thổ cẩm Chăm Châu Phong, nghề dệt lụa Tân Châu; nghề dệt thổ cẩm Khmer Văn Giáo, nghề đóng xuồng ghe Mỹ Hiệp, nghề vẽ tranh trên kính, nghề mộc Chợ Thủ; nghề rèn Phú Mỹ, bánh phồng Phú Mỹ… Các làng sản xuất quanh năm, một số ít hoạt động mạnh trong mùa nước nổi như nghề lợp lươn Cần Đăng, nghề lợp cua Mỹ Đức.

Mỗi làng nghề có sự sáng tạo và giá trị riêng. Vùng Bảy Núi làm đường thốt nốt với hơn 350 cơ sở sản xuất, mỗi năm cho sản lượng hơn 3.800 tấn, từ đó giải quyết việc làm ổn định cho hơn 1.000 lao động nông thôn. Ông Chau Rô Thi, ngụ ấp Tà Ngáo, phường Tịnh Biên kể, cây thốt nốt cho nhiều nước vào các tháng khô hạn cho nên từ tháng 11 năm nay đến tháng 4 năm sau là thời vụ khai thác nước thốt nốt để nấu thành đường. Đường thốt nốt với hương vị độc đáo rất được ưa chuộng, du khách đến vùng Bảy Núi thường mua đem về biếu tặng người thân. Hiện nay đường thốt nốt đã có mặt ở các siêu thị, cửa hàng trong và ngoài tỉnh. Nghệ nhân Chau Ngọc Dịu, Tổng Giám đốc Công ty cổ phần Palmania, xã Tri Tôn cho biết, công ty của chị đã nghiên cứu, chế biến thành công đường thốt nốt sệt bằng phương pháp sản xuất thủ công truyền thống. Sản phẩm có chất lượng cao, đáp ứng các tiêu chuẩn sạch, bảo đảm sức khỏe người tiêu dùng cho nên đã xuất khẩu qua một số nước như Hà Lan, Thụy Điển, Phần Lan…

Xã Long Điền nằm bên cù lao sông Hậu và sông Tiền là vùng nổi tiếng với làng nghề làm mộc Chợ Thủ với hàng trăm cơ sở lớn nhỏ dọc theo sông Tiền và kênh Trà Thôn. Ông Trần Minh Đoàn, người thợ lành nghề nhớ lại: “Làng nghề hình thành vào năm 1892 và duy trì ổn định cho đến nay. Các thợ thầy tạo ra các sản phẩm đa dạng từ đồ gia dụng đến các sản phẩm chạm trổ mỹ nghệ như tủ thờ, tủ quần áo, bàn ghế…”. Làng nghề hoạt động mạnh nhất vào dịp Tết cổ truyền do lúc này nhiều gia đình mua sắm bàn ghế, giường tủ… mới thay đồ dùng cũ. Các thợ thầy luôn cố gắng, tìm tòi tạo ra sản phẩm đa dạng, kết hợp cách làm truyền thống với hiện đại để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng.

Một trong những làng nghề luôn sôi động quanh năm là làng nghề rập chuột An Châu, xã An Châu, xuất hiện từ năm 1957. Ruộng đồng ở Đồng bằng sông Cửu Long “cò bay thẳng cánh”, chuột đồng sinh sôi nhanh, nông dân phải giăng bẫy bắt chuột để bảo vệ mùa màng. Ông Nguyễn Văn Giàu, sống bằng nghề làm rập chuột cho biết, hiện làng nghề có 15 cơ sở, lúc trước các thợ thầy làm bằng thủ công sau này có máy móc trợ lực cho nên số lượng rập cũng tăng theo. Vào lúc sạ lúa và thu hoạch, chuột cắn phá lúa, nhà nông phải đặt mua rập. Cao điểm, mỗi ngày cơ sở ông Giàu sản xuất hơn 500 cái rập, bán với giá từ 10.000 đến 25.000 đồng tùy loại. Theo ông Giàu, do nhiều công đoạn làm rập cho nên mỗi cơ sở có hàng chục nhân công với mức thu nhập hơn 100.000 đồng/ngày.

Theo Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang, chỉ tính riêng phần tỉnh An Giang cũ, có 29 làng nghề và làng nghề truyền thống cho tổng doanh thu mỗi năm hơn 818 tỷ đồng. Đồng chí Ngô Công Thức, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh cho biết, trên cơ sở những chính sách của Trung ương, Ủy ban nhân dân tỉnh ban hành nhiều chính sách hỗ trợ như: đào tạo, tập huấn; vốn tín dụng hoạt động sản xuất, kinh doanh và đầu tư công nghệ mới; đầu tư mới máy móc thiết bị, hỗ trợ đăng ký thương hiệu… Nhờ đó, ngành nghề nông thôn được duy trì và phát triển ổn định.

Các cơ sở ngành nghề nông thôn đã tạo ra sản phẩm hàng hóa ngày càng phong phú, từng bước đáp ứng nhu cầu sản xuất và tiêu thụ trên thị trường. Theo phương hướng nhiệm vụ, giải pháp giai đoạn 2026-2030 và định hướng đến năm 2045, tỉnh phát triển sản phẩm ngành nghề nông thôn theo hướng bền vững gắn với chuỗi giá trị nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm và tăng giá trị xuất khẩu các mặt hàng chủ lực, lợi thế.

Tuy nhiên các làng nghề vẫn gặp khó khăn. Một số làng nghề có nguy cơ mai một như nghề dệt lụa Tân Châu; nghề dệt thổ cẩm làng Chăm Châu Phong… Để khắc phục, tỉnh sẽ xây dựng thương hiệu cho các sản phẩm ngành nghề nông thôn, kết hợp phát triển các hoạt động dịch vụ du lịch; từng bước chuyển đổi sản xuất quy mô nhỏ, lẻ sang sản xuất hàng hóa lớn theo hướng liên kết chuỗi giá trị khép kín, trong đó hợp tác xã, doanh nghiệp nhỏ và vừa đóng vai trò quan trọng.

Tỉnh hỗ trợ đào tạo và phát triển nghề cho thế hệ trẻ; khuyến khích các làng nghề áp dụng công nghệ hiện đại vào sản xuất để nâng cao chất lượng và năng suất, đồng thời giữ gìn nét đặc trưng của sản phẩm; tích cực tham gia các hội chợ, triển lãm sản phẩm thủ công truyền thống, giúp người tiêu dùng nhận diện và ưa chuộng các sản phẩm làng nghề; xây dựng chiến lược marketing, xây dựng thương hiệu cho các sản phẩm của làng nghề, không chỉ tiêu thụ nội địa mà còn xuất khẩu. Ngoài ra, địa phương sẽ cải thiện hạ tầng tại các làng nghề để phục vụ tốt hơn cho hoạt động sản xuất và du lịch; thúc đẩy du lịch nông nghiệp theo hướng bền vững, chuyên nghiệp, hiện đại, có trọng tâm; tập trung nguồn lực phát triển các làng nghề, làng nghề truyền thống, ngành nghề nông thôn gắn với tour du lịch nông nghiệp…

Thanh Dũng

Nguồn: Dulichvn

Độc đáo Lễ hội Thắk Côn

Lễ hội Thắk Côn (Lễ Cúng Dừa) của người Khmer, thuộc địa bàn xã An Hiệp, huyện Châu Thành, tỉnh Sóc Trăng (cũ); nay là xã An Ninh, TP Cần Thơ; vừa được Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch ký quyết định đưa vào Danh mục Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia.


Lễ hội Thắk Côn ở xã An Ninh, TP Cần Thơ.

Lễ hội Thắk Côn hay còn gọi là Lễ Cúng Dừa, là một lễ hội độc đáo riêng biệt của đồng bào Khmer ấp An Trạch, xã An Hiệp, huyện Châu Thành, tỉnh Sóc Trăng (cũ), nay là xã An Ninh, TP Cần Thơ. Lễ hội được hình thành theo truyền thuyết cách nay khoảng 300 năm, được duy trì, bảo tồn và trao truyền qua nhiều thế hệ.

Lễ hội Thắk Côn diễn ra trong 5 ngày, từ ngày 13-3 đến ngày 17-3 âm lịch hằng năm, trong đó nghi thức khai hội bắt đầu từ rằm tháng 3 âm lịch. Lễ hội mang ý nghĩa cầu an của đồng bào Khmer Nam Bộ, bắt nguồn từ một truyền thuyết về gò đất nổi lên, khi dẫm chân lên có âm thanh vang như tiếng cồng. Qua quá trình lịch sử, sự kiện này dần dần được linh thiêng hóa và trở thành tín ngưỡng dân gian mang đậm dấu ấn của cư dân nông nghiệp. Bên cạnh đó, lễ hội còn phản ánh tư duy của nghề nông khi ngay từ thời điểm tổ chức, người nông dân bắt đầu vào mùa vụ mới và mừng một mùa thu hoạch. Việc lựa chọn sản vật dâng cúng cùng với nguyện ước tạ ơn trời đất, thần linh, ông bà phù hộ cho mùa màng tươi tốt hoặc tạ ơn bề trên đã cho một mùa bội thu. Lễ hội Thắk Côn có vai trò rất quan trọng trong đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội, giáo dục truyền thống… nhắc nhở mọi người sống thiện, sống đẹp để ngày một hoàn thiện bản thân. Lễ hội được tổ chức đều đặn hằng năm, mang tính giao lưu văn hóa các dân tộc, quảng bá du lịch của địa phương và bảo tồn bản sắc văn hóa dân tộc.

Đặc biệt, Lễ hội Thắk Côn còn có một dấu ấn riêng là các slathodon (bình bông làm bằng trái dừa), tượng trưng cho sự thanh khiết và mong cầu mưa thuận gió hòa, cuộc sống bình an. Thực hành di sản lễ hội truyền thống này đã tạo nên sự cố kết cộng đồng, sự đoàn kết, giao lưu văn hóa giữa cộng đồng người Khmer với người Kinh, người Hoa trên địa bàn huyện Châu Thành và các vùng lân cận.

Trong Lễ công bố Quyết định và trao Bằng chứng nhận Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia Lễ hội Thắk Côn vào cuối tháng 6 vừa qua, lãnh đạo ngành văn hóa, thể thao và du lịch địa phương khẳng định lễ hội cũng là dịp để nhân dân và du khách tham gia trải nghiệm, khám phá những di sản văn hóa giàu bản sắc như nghệ thuật trình diễn dân gian Dù kê, nghệ thuật múa Chhay-dăm, múa Rom Vong, nhạc Ngũ âm… làm cho không gian của phần hội luôn mới mẻ, tươi vui, bên cạnh những nghi lễ truyền thống trang trọng và linh thiêng. Đồng thời đề xuất, ngành chức năng tham mưu cấp thẩm quyền định hướng giải pháp phát huy giá trị và mở rộng về quy mô, nâng cao về chất lượng hoạt động tổ chức lễ hội trong thời gian tới. Đưa lễ hội vào Chương trình phát triển văn hóa của Chính phủ; tuyên truyền, giới thiệu và khai thác Lễ hội Thắk Côn thành sản phẩm du lịch đặc trưng, gắn với quảng bá bản sắc văn hóa truyền thống của cộng đồng cư dân địa phương.

Duy Lữ

Nguồn: Dulichvn

Hợp lưu di sản và bản sắc đô thị

Từ động lực, tầm cao mới của TPHCM khi hợp nhất cùng Bà Rịa – Vũng Tàu và Bình Dương, một siêu đô thị mới mở ra nhiều hướng phát triển toàn diện đời sống. Trong đó, có một dòng chảy tạo nên sức mạnh nội sinh – dòng hợp lưu các giá trị di sản văn hóa ở 3 vùng đất Đông Nam bộ, góp phần hình thành, nâng tầm bản sắc cho siêu đô thị, tự hào lan tỏa nhịp sống phát triển, đời sống văn hóa đa dạng, với các giá trị tinh thần đặc sắc của vùng đất phương Nam.


Nền tảng tăng trưởng tinh thần

Việc hợp nhất TPHCM với tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu và tỉnh Bình Dương mở ra nhiều kỳ vọng phát triển các ngành công nghiệp văn hóa cũng như bảo tồn và phát huy hơn nữa các giá trị di sản xứng tầm với một siêu đô thị mới hàng đầu phía Nam.

Bà Lê Tú Cẩm, Chủ tịch Hội Di sản văn hóa TPHCM, chia sẻ, kể từ sau năm 1975, nhiều chuyên gia trong lĩnh vực văn hóa, lịch sử từng có suy nghĩ và đồng tình ý kiến đưa huyện Côn Đảo về địa phận TPHCM, để trao truyền, tiếp nối giá trị thiêng liêng của vùng đất này. Bởi TPHCM, đô thị hàng đầu phía Nam, sẽ có nhiều lợi thế trong việc phát huy giá trị lịch sử quý báu của di tích lịch sử này. Hiện tại, đặc khu Côn Đảo đã trở thành một phần của TPHCM – một siêu đô thị quy mô và năng động hàng đầu cả nước, giới chuyên gia kỳ vọng giá trị hào hùng từ vùng đất lịch sử thiêng liêng của dân tộc được phát huy tốt hơn bao giờ hết.

Bà Lê Tú Cẩm bày tỏ: “Tôi từng là tù chính trị Côn Đảo, vùng đất này thế hệ chúng tôi vẫn gọi là “bàn thờ Tổ quốc”. Từ lâu rồi, rất nhiều ý kiến mong muốn huyện Côn Đảo thuộc TPHCM, đô thị trung tâm của phía Nam, để làm tốt hơn nữa công tác bảo tồn, phát huy giá trị di sản, lịch sử của nơi mà mỗi bước chân là một câu chuyện bi hùng. Bây giờ thì điều mong muốn này đã thành hiện thực, rất nhiều kỳ vọng để giá trị thiêng liêng ở Côn Đảo được phát huy, chạm đến mỗi người dân một cách sâu sắc hơn”.

Bên cạnh đó, việc hình thành siêu đô thị mới được các chuyên gia trong lĩnh vực văn hóa đánh giá sẽ góp phần nâng cao đời sống tinh thần, đáp ứng nhu cầu thụ hưởng các giá trị văn hóa của người dân… Cốt lõi của vấn đề này được cho là từ sự hình thành mạnh mẽ của đời sống công nghiệp, mà ở đó mức sống nâng cao, người dân bắt đầu chú trọng giá trị tinh thần.

Buổi tổng diễn tập Lễ hội sông nước TPHCM lần 2-2024. Ảnh: Hoàng Hùng

“Việc hợp nhất này sẽ tạo lợi thế lớn để phát triển kinh tế, xã hội và hòa cùng dòng chảy phát triển đó của siêu đô thị mới, chắc chắn sẽ hình thành một đời sống đô thị công nghiệp phát triển. Khi mức sống được nâng cao sẽ thúc đẩy người dân quan tâm đến thưởng thức văn hóa, hình thành thói quen tìm hiểu giá trị di sản văn hóa. Nhiều nước phương Tây phát triển như Pháp, Đức… mà tôi từng đến, thiết chế bảo tàng của họ phát triển rất mạnh. Mỗi lĩnh vực trong đời sống luôn để lại một giá trị di sản nhất định, vì thế họ xây dựng đủ bảo tàng từ xe cộ, đồng hồ, máy móc công nghiệp đến văn hóa, lịch sử, nghệ thuật… để công chúng trong nước tìm hiểu và khai thác du lịch quốc tế”, bà Lê Tú Cẩm phân tích.

Có thể thấy, bài toán tăng trưởng kinh tế, đóng góp cụ thể vào GDP chung của thành phố rất dễ thấy qua thực tế lẫn số liệu thống kê, nhưng nền tảng tăng trưởng về văn hóa tinh thần vẫn còn như một giá trị tiềm ẩn. Một khi được định hướng và phát triển xứng tầm, nó sẽ là nền tảng và động lực cho guồng quay phát triển chung.

Tiềm năng phát triển du lịch sinh thái, tâm linh

Từ đô thị TPHCM mới sau sáp nhập, tín ngưỡng dân gian được mở rộng, viết tiếp một đời sống tinh thần đa dạng sắc màu văn hóa của người dân. Điển hình như Lễ hội Nghinh Ông huyện Cần Giờ (Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia từ năm 2013) sẽ được kết nối cùng Lễ hội Nghinh Ông đình Thắng Tam (Vũng Tàu, được Cục Du lịch Quốc gia Việt Nam chọn là một trong 15 lễ hội lớn của cả nước).

Hay như lễ hội miếu Bà Thiên Hậu Thánh Mẫu (dân gian thường gọi chùa Bà) thu hút hàng trăm ngàn lượt khách dịp đầu năm mới. Các điểm tham quan như nhà cổ Trần Văn Hổ, nhà cổ Trần Công Vàng, chùa Hội Khánh, làng nghề sơn mài Tương Bình Hiệp… Những ngôi chùa, đình cổ, nhà cổ chứa đựng nhiều giá trị kiến trúc nghệ thuật, lịch sử, văn hóa, là nơi để mọi người tìm về với giá trị truyền thống giữa cuộc sống hiện đại.

Từ dòng sông thời mở cõi

Việc hợp nhất TPHCM có thể nhìn rõ hơn từ sông Sài Gòn, một dòng chảy xuyên suốt, vắt mình qua lòng thành phố. Ông Nguyễn Kim Toản, Giám đốc Công ty Sài Gòn Water Bus, chia sẻ: “Đặc điểm nhận diện của sông Sài Gòn chính là nhiều khúc cong, uốn lượn mạnh. Nếu nhìn từ trên cao khi hợp nhất 3 tỉnh thành, dòng sông Sài Gòn chảy qua cả 3 nơi một cách mạnh mẽ, mà chúng ta có thể liên tưởng đến hình ảnh con rồng vươn mình. Siêu đô thị TPHCM gần như ôm trọn sông Sài Gòn, từ đây chúng ta có thể mở ra nhiều hướng phát triển giao thông, du lịch trên dòng sông đã khởi nguồn hình thành đô thị từ thuở cha ông mở cõi về phía Nam”.

Từ sông Sài Gòn, nhánh sông Soài Rạp, cảng Hiệp Phước, nơi xuất phát tàu cao tốc nối đặc khu Côn Đảo gần hơn với Bến Nhà Rồng – nơi Bác Hồ lên tàu tìm đường cứu nước năm 1911. Các công ty du lịch lữ hành của TPHCM giờ đây sẽ nối dài, đưa Côn Đảo trở thành một điểm đến trong tour tuyến du lịch lâu nay cùng Bến Nhà Rồng, địa đạo Củ Chi… để làm mới, tăng chất các tour tuyến du lịch phục vụ khách trong, ngoài nước. Bước đệm này cũng là động lực thực tế để thu nhập của người dân Côn Đảo sẽ có bước cải thiện đáng kể trong thời gian tới.

Với sông Sài Gòn, nhiều tuyến du lịch bằng đường thủy nội thành mở ra trải nghiệm văn hóa địa phương hấp dẫn, độc đáo cho du khách. Từ bến tàu Bạch Đằng, du khách có thể đến phường Thủ Dầu Một, kết hợp di chuyển đường bộ đến các điểm di tích lịch sử văn hóa như: đình Phú Long, nhà cổ Trần Văn Hổ, chùa Bà Bình Dương, Công ty Gốm sứ Minh Long… như gần hơn với khách phương xa. Ngoài các điểm này, tuyến du lịch đường thủy còn có thể kết hợp với Làng sơn mài Tương Bình Hiệp, Làng gốm Lái Thiêu (đều nằm trên lưu vực sông Sài Gòn) để tạo nên những tour du lịch văn hóa đường sông hấp dẫn trong thời gian tới.

Khai thác vốn di sản phong phú và đa dạng

Việc hợp nhất TPHCM với tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu và tỉnh Bình Dương góp phần làm dày thêm bộ sưu tập di sản cho siêu đô thị TPHCM mới, như: trận địa pháo cổ Vũng Tàu và bộ sưu tập các hiện vật trục vớt được từ những con tàu đắm. Trong đó, nổi bật là bộ sưu tập từ con tàu đắm ở hòn Cau (Côn Đảo) vào năm 1990, với 68.000 cổ vật, nhiều nhất là đồ gốm, sứ (men trắng, men lam xanh…) sản xuất ở các lò gốm trứ danh của Trung Quốc. Theo giới chuyên môn, tàu buôn này xuất phát từ một cảng ở phía Nam Trung Quốc (thời vua Khang Hy nhà Thanh), đang trên đường sang châu Âu thì bị bão đánh chìm ở độ sâu 40m, cách đây hơn 300 năm.

Hệ thống bảo tàng sẽ có thêm Bảo tàng gốm sứ cao cấp Minh Long, nơi lưu giữ tài liệu, hiện vật về nghề làm gốm sứ hơn 300 năm gắn với quá trình di dân của người Hoa (Trung Quốc) vào khai khẩn vùng đất Đông Nam bộ. Ông Lý Ngọc Minh (người sáng lập, chủ Công ty Minh Long) chia sẻ: “Tôi kỳ vọng thế hệ tiếp nối nghề gốm sứ sau này mang cái học của phương Tây và kế thừa truyền thống văn hóa phương Đông giữ vững ngọn lửa đam mê, sẽ tiếp nối hành trình phát triển rực rỡ của nghề gốm sứ, không chỉ làm giàu cho công ty mà cho quê hương, đất nước”.

Ngoài ra, một hướng bảo tồn các làng nghề truyền thống mới cũng bắt đầu khả quan từ thực tế. Trước đây, do quá trình đô thị hóa, TPHCM khá eo hẹp quỹ đất lẫn điều kiện để quy hoạch các làng nghề thủ công, điển hình như nghề đúc lư đồng An Hội (Gò Vấp). Với việc hình thành siêu đô thị mới, nhiều nhà nghiên cứu di sản nhìn nhận, thành phố sẽ có thêm cơ hội bảo tồn, tái hiện các làng nghề cổ truyền như đúc lư đồng, gốm sứ… quy hoạch thành cụm làng nghề truyền thống, bên cạnh các khu công nghiệp. Điều này không chỉ bảo tồn và phát huy được nghề truyền thống, mà còn góp phần hình thành sự đa dạng trong đời sống sinh hoạt xã hội.

Văn Phong – Thiên Thanh – Hồng Thuận

Nguồn: Dulichvn

Điện Biên: Xây dựng Nhà tưởng niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh trên Đồi E2

UBND tỉnh Điện Biên vừa tổ chức khởi công xây dựng công trình Nhà tưởng niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh và đầu tư bổ sung một số hạng mục công trình tại di tích Đồi E2.


Phối cảnh công trình Nhà tưởng niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Đồi E2

Theo đó, công trình Nhà tưởng niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh và đầu tư bổ sung một số hạng mục công trình tại di tích Đồi E2 thuộc tổ 23, phường Điện Biên Phủ.

Công trình do Sở VHTTDL Điện Biên làm chủ đầu tư, thời gian thực hiện dự án năm 2024 – 2026. Với tổng mức đầu tư 35 tỉ đồng, nguồn vốn do UBND TP. HCM hỗ trợ có tổng diện tích 160m2, trong đó, nhà tưởng niệm thiết kế theo kiến trúc truyền thống, mái hai tầng, thuộc nhóm công trình dân dụng cấp III.

Việc đầu tư xây dựng công trình mang ý nghĩa chính trị – xã hội, giá trị nhân văn sâu sắc, đồng thời giáo dục truyền thông yêu nước, thể hiện tình cảm, lòng biết ơn của Đảng, Nhà nước và nhân dân đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Công trình cũng góp phần tạo điểm nhấn về kiến trúc, không gian, thu hút người dân, du khách đến tham quan, du lịch. Đồng thời đáp ứng nhu cầu, nguyện vọng của nhân dân, các cựu chiến binh, du khách trong và ngoài nước khi tới Điện Biên tham quan, trải nghiệm.

Để đảm bảo công trình phát huy hiệu quả, UBND tỉnh Điện Biên cũng yêu cầu Sở VHTTDL Điện Biên đơn vị chủ đầu tư phải cần bám sát quản lý chất lượng, tiến độ công trình bảo đảm đúng các quy định của pháp luật hiện hành.

Bên cạnh đó, các đơn vị thi công, tư vấn giám sát, tư vấn thiết kế phải bảo đảm kỹ thuật, mỹ thuật, giải pháp thi công các hạng mục công trình trên tổng mặt bằng một cách hợp lý, không ảnh hưởng đến yếu tố nguyên gốc của di tích.

Mộc Trà

Nguồn: Dulichvn

Khám phá Công viên địa chất toàn cầu UNESCO Đắk Nông

Được UNESCO công nhận lần thứ nhất vào năm 2020 và lần thứ 2 vào năm 2024, Công viên địa chất toàn cầu (CVĐCTC) UNESCO Đắk Nông là vùng di sản độc đáo với hệ thống hang động núi lửa lớn nhất Đông Nam Á và kho tàng văn hóa đa dạng của hơn 40 dân tộc.


Kỳ quan giữa đại ngàn

Nằm trên cao nguyên M’nông, với diện tích hơn 4.700 km² trải dài trên nhiều địa phương, CVĐCTC UNESCO Đắk Nông là “kho báu” địa chất quý giá của Việt Nam, được UNESCO vinh danh vào năm 2020. Đây là CVĐCTC thứ ba của Việt Nam, sau Cao nguyên đá Đồng Văn và Non nước Cao Bằng.

Nét độc đáo nổi bật của CVĐCTC UNESCO Đắk Nông chính là hệ thống hang động núi lửa Krông Nô – kỳ quan tự nhiên có một không hai ở Đông Nam Á. Hệ thống này được khảo sát với chiều dài khoảng 25 km, gồm nhiều hang động lớn nhỏ như C2, C3, C4, C7, C8… Trong đó, hang C7 nổi bật với chiều dài lên tới 1.200 m được UNESCO ghi nhận là hang dung nham dài nhất Đông Nam Á.

Hệ thống hang động núi lửa Krông Nô có chiều dài khoảng 25 km với nhiều hang động lớn nhỏ

Theo các nghiên cứu công bố vào năm 2014 bởi các nhà khoa học Việt Nam và Nhật Bản, toàn bộ hệ thống hang động dung nham Krông Nô trải dài từ miệng núi lửa Buôn Choáh theo dòng sông Sêrêpốk đến khu vực thác Đ’ray Sáp, tạo thành một chuỗi “mạch ngầm dung nham” độc đáo chưa từng thấy trong khu vực. Trên vách đá vẫn còn lưu lại dấu tích của thực vật bị hóa đá, như những tấm thảm thực vật bị nung chảy rồi hóa thạch giữa dòng dung nham.

Du khách chụp hình kỷ niệm trong hang C3

Du khách khi đặt chân vào lòng hang như bước vào một chiều không gian khác, sâu thẳm, kỳ bí và hùng vĩ. Du khách Nguyễn Văn Pháp đến từ TP. Hồ Chí Minh, sau chuyến khám phá hang C3 và C4 chia sẻ: “Tôi như được xuyên không trở về hàng triệu năm trước. Cảnh quan trong lòng hang quá ngoạn mục, hoang sơ, thâm u nhưng đầy sức sống. Đây thực sự là một báu vật của thiên nhiên”.

PGS.TS Nguyễn Khắc Sử, Hội Khảo cổ Việt Nam (bên trái) giới thiệu về các hiện vật khảo cổ được tìm thấy trong vùng CVĐCTC UNESCO Đắk Nông

Không chỉ ghi dấu bởi cảnh quan kỳ thú, CVĐCTC UNESCO Đắk Nông còn chứa đựng những “di chỉ sống” về lịch sử tiến hóa của loài người.

Trong đó, hang C6 là một điểm khảo cổ quan trọng thuộc xã Nam Đà (trước đây là xã Buôn Choáh), đã phát hiện nhiều dấu tích cư trú của người tiền sử như xương hóa thạch, công cụ bằng đá, mảnh gốm thô sơ… Những di chỉ này cho thấy con người đã từng sinh sống và thích nghi với môi trường núi lửa vùng CVĐC Đắk Nông cách đây hàng chục ngàn năm. Đây là phát hiện có giá trị đặc biệt, mở ra hướng nghiên cứu mới trong ngành khảo cổ học Đông Nam Á.

Những di chỉ này cho thấy con người đã từng sinh sống và thích nghi với môi trường núi lửa trong vùng CVĐCTC UNESCO Đắk Nông cách đây hàng chục nghìn năm

Trở ra khỏi lòng đất, CVĐCTC UNESCO Đắk Nông còn là mái nhà của những cánh rừng nguyên sinh rộng lớn, nơi lưu giữ hệ sinh thái đa dạng, phong phú bậc nhất Tây Nguyên. Những cánh rừng tại Nâm Nung, Tà Đùng, Đ’ray Sáp… vẫn ghi nhận sự hiện diện của các loài động vật quý hiếm nằm trong Sách đỏ.

Hệ thực vật tại đây cũng phong phú không kém, với hàng trăm loài đặc hữu, từ các loài phong lan rừng đến các loài cây dược liệu quý hiếm.

Không gian văn hóa trong lòng di sản

Điều làm nên sự khác biệt sâu sắc của CVĐCTC UNESCO Đắk Nông không chỉ nằm ở vẻ đẹp địa chất mà còn ở “phần hồn” văn hóa đặc sắc.

Được mệnh danh là “xứ sở của những âm điệu”, vùng đất này là nơi hội tụ văn hóa của hơn 40 dân tộc gồm: M’nông, Ê đê, Mạ, Kinh, Tày, Nùng, Dao… Tất cả đã tạo nên một không gian văn hóa đa sắc màu, sống động và chân thực.

Không gian cồng chiêng Tây Nguyên vẫn được lưu giữ trong các lễ hội, nghi thức cộng đồng và sinh hoạt hằng ngày của người Ê đê

Không gian cồng chiêng Tây Nguyên – Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại vẫn vang vọng trong những lễ hội, nghi thức cộng đồng và sinh hoạt hàng ngày của người dân bản địa. Những bài sử thi Ót N’Drông hùng tráng, tiếng chiêng vọng rừng, điệu múa xoang rộn ràng giữa đêm lửa… tạo nên một bản giao hưởng âm thanh đậm chất đại ngàn.

Đến với nơi đây, du khách có thể hòa mình vào đời sống địa phương, trải nghiệm đêm cồng chiêng, học dệt thổ cẩm, nấu cơm lam hay cùng già làng kể sử thi bên ché rượu cần.

CVĐCTC UNESCO Đắk Nông là nơi hội tụ văn hóa của hơn 40 dân tộc anh em, đã tạo nên một không gian văn hóa đa sắc màu, sống động và chân thực

Một điểm nhấn hiện đại nhưng vẫn đậm chất văn hóa là Bảo tàng Âm thanh – nơi tái hiện âm thanh của thiên nhiên, đời sống và lịch sử qua các không gian nghệ thuật đương đại.

Bảo tàng có 8 phòng theo chủ đề: âm thanh rừng núi, tiếng chim, tiếng nước đến âm thanh của nhạc cụ dân tộc,… Mỗi không gian là một hành trình trải nghiệm đa giác quan, để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng du khách.

Du khách tham gia trải nghiệm tại Bảo tàng âm thanh

Không chỉ gìn giữ giá trị văn hóa bản địa, CVĐCTC còn tích hợp các địa chỉ đỏ lịch sử như Đường mòn Hồ Chí Minh, các di tích kháng chiến và nghĩa trang liệt sĩ. Hành trình khám phá công viên vì thế không chỉ là cuộc phiêu lưu thiên nhiên mà còn là hành trình tri ân quá khứ, tìm về cội nguồn dân tộc.

Hướng tới phát triển bền vững

PGS.TS Trần Tân Văn, chuyên gia cao cấp của Mạng lưới CVĐCTC UNESCO nhận định: “CVĐCTC UNESCO Đắk Nông là một trong những công viên địa chất hiếm hoi trên thế giới hội tụ trọn vẹn các yếu tố: di sản địa chất đặc sắc, nền văn hóa bản địa phong phú và cộng đồng cư dân gắn bó sâu sắc với di sản.”

Người dân ở đây không chỉ sống cùng di sản mà còn giữ gìn, kể lại và truyền dạy di sản đó từ thế hệ này sang thế hệ khác. Đó là “phần hồn” giúp Lâm Đồng trở thành hình mẫu của sự gắn kết giữa bảo tồn, giáo dục và phát triển sinh kế.

CVĐCTC UNESCO Đắk Nông như một “lớp học lớn ngoài trời”, nơi học sinh, sinh viên, du khách và cộng đồng được trực tiếp học hỏi về địa chất, môi trường và văn hóa

Trong hơn một thập niên phát triển, CVĐCTC UNESCO Đắk Nông đã khẳng định vai trò như một “lớp học lớn ngoài trời”, nơi học sinh, sinh viên, du khách và cộng đồng được trực tiếp học hỏi về địa chất, môi trường và văn hóa. Hàng trăm chuyến tham quan, học tập ngoại khóa được tổ chức mỗi năm, góp phần hình thành ý thức gìn giữ di sản, bảo vệ môi trường và tôn trọng đa dạng văn hóa ngay từ thế hệ trẻ.

Không dừng lại ở giáo dục, CVĐCTC UNESCO Đắk Nông còn là động lực phát triển kinh tế địa phương. Nhiều mô hình du lịch cộng đồng, sản phẩm OCOP gắn với địa chất và văn hóa đã được triển khai giúp người dân, đặc biệt là đồng bào dân tộc thiểu số có thêm thu nhập và sinh kế ổn định. Người dân không chỉ là cư dân mà còn là hướng dẫn viên, nghệ nhân, người kể chuyện về di sản, là những “người giữ hồn” cho công viên địa chất.

Người dân không chỉ là cư dân mà còn là hướng dẫn viên, nghệ nhân, người kể chuyện về di sản, là những “người giữ hồn” cho công viên địa chất

Hòa An

Nguồn: Dulichvn

TIN MỚI NHẤT