Du lịch trong nước

Du lịch trong nước, tin tức du lịch trong nước, các tour du lịch trong nước, các địa điểm du lịch trong nước hấp dẫn được chúng tôi tổng hợp và đưa tin hàng ngày đến cho khách du lịch trên khắp mọi miền đất nước có được thông tin du lịch trong nước để có những thông tin hữu ích nhất cho mình và gia đình khi quyết định chọn chuyến du lịch trong nước cho mình và người thân

Mùa hè ăn món từ sen

Sen là tặng vật của đất trời dành riêng cho mùa hè. Thưởng thức những món ngon từ sen trong mùa này, chính là thưởng thức cái thi vị của thú vui ẩm thực tao nhã…


Mứt củ sen dẻo thơm là thức quà đẹp đẽ, bổ dưỡng từ sen. Ảnh: T.H.T

Món ngon

Hạt sen chính là phần tinh túy nhất của giống loài thanh tao này. Thứ hạt ẩn mình trong gương sen khi được khai mở khỏi lớp vỏ xanh mướt kia sẽ lộ ra hạt “ngọc” của đất trời.

Trong y học, hạt sen được xếp vào loại dược liệu quý với các chức năng an thần, chữa suy nhược, làm đầy giấc ngủ, chữa được chứng biếng ăn, ăn uống khó tiêu.

Trong Tây y, hạt sen được khuyến khích dùng nhiều vì những giá trị dinh dưỡng mà nó mang lại cho sức khỏe. Hạt sen có hàm lượng các chất protein, magie, kali và phốt pho cao, trong khi hàm lượng mỡ bão hòa, natri và cholesterol lại rất thấp.

Những vi chất có lợi trong hạt sen giúp kháng viêm tốt, vì vậy, đây là loại thực phẩm lành tính, được ưa chuộng trong những thực đơn hàng ngày và cả trong những món cao lương mỹ vị, tiệc tùng.

Những thành phần khác như củ sen, ngó sen, tim sen, cánh hoa sen… đều được dùng cho ẩm thực. Củ sen cứng cáp vùi mình trong bùn đất, hút những dưỡng chất của đất, được xem là “thần dược”. Người Nhật vốn đã biết nâng niu thứ “thần dược” ẩn trong bùn đất đó từ rất lâu. Còn người Việt chỉ mới chú trọng khai thác củ sen vào ẩm thực mạnh mẽ vào những năm gần đây, với các món ngon được nâng tầm mỹ vị hài hòa: mứt củ sen, kim chi củ sen, củ sen hầm, snack củ sen chiên giòn…

Ẩm thực sen trong cung đình Huế

Ẩm thực cung đình là một biểu tượng tinh hoa trong ẩm thực của xứ kinh kỳ, gắn liền với phồn vinh của triều đại nhà Nguyễn. Ẩm thực cung đình không chỉ là việc chế biến món ăn mà là một nghệ thuật mang dấu ấn lịch sử của triều đại.

Ẩm thực cung đình Huế nổi tiếng với tổ hợp Bát Trân tiến cung gồm những tinh hoa mỹ vị quý hiếm: nem công, chả phượng, yến sào…và hàng trăm món ăn đánh thức tất cả 5 giác quan của người thưởng thức.

Sen ở xứ sở kinh kỳ mang vẻ đẹp thanh thoát. Loài sen trắng, hồng trong hồ Tĩnh Tâm, dường như được trồng chỉ để tiến cung. Hạt sen từ những gương sen lấp lóa mặt hồ mang vị thơm bùi đặc biệt hơn sen của những nơi khác, một phần nhờ thổ nhưỡng, khí trời dung hòa.

Cơm hấp lá sen, chè hạt sen long nhãn chính là 2 món trứ danh góp mặt trong ẩm thực cung đình Huế. Cơm hấp lá sen nhất định phải lấy hạt sen lẩy từ gương sen hồ Tĩnh Tâm, lá sen gói cơm cũng vậy.

Cơm hấp lá sen là món ngon đẹp mắt, mô phỏng một đóa sen bung nở, khoe hết vẻ đẹp mãn khai với những thứ ngọc ngà bên trong: gạo dẻo, hạt sen thơm, hòa trộn cùng các loại rau củ, tôm thịt…cho ra phần nhân bên trong hoa sen thật bắt mắt. Chè hạt sen long nhãn với vị ngọt thanh của nước chè, tưới tẩm cho hạt nhãn trong veo, ôm trong mình hạt sen mềm mịn.

Món ngon từ xứ sen hồng

Tôi vẫn nhớ chuyến đi An Giang cách đây không lâu của mình. Trên đường về, đoàn chúng tôi ghé ngang một khu du lịch khá nổi tiếng của vùng đất Đồng Tháp Mười.

Năm 2022, món cá lóc nướng trui cuốn lá sen non của tỉnh Đồng Tháp lọt vào top 100 món ăn đặc sắc nhất Việt Nam do Viện kỷ lục Việt Nam – VietMaster – VietKing bình chọn. Ảnh: internet

Rảo những bước chân trên chiếc cầu ván ghép trải dài từ đầu ngõ rồi đi dọc ngang các đầm sen, đôi chân dân thị thành đã thấm mỏi. Nói vui như dân miền Tây, người Sài Gòn về xứ này, lội mấy đầm sen một chút thôi đã muốn “rụng giò”.

Sen bạt ngàn. Sen mênh mông. Sen ngút mắt người. Sen nhiều đến nỗi đứng bên bờ này đầm, không thể thấy bờ bên kia đầm vì những thân sen cao lút mắt. Những bông sen hồng nổi bật trên nền xanh của lá, cứ vậy mà mở ra tận chân trời.

Ngắm sen, chụp hình mải miết rồi cái bụng cũng đói, cả đoàn kéo nhau vô chòi lá giữa đầm nghỉ mệt. Nhân viên khu du lịch khoe khéo món cá lóc nướng trui ghém với lá sen non. Mấy chục người ồ lên. Lá sen ăn được hả? Được chớ, mà phải là lá sen non!

Món cá được bày ra trước mắt, nhưng phải chờ nhân viên nhóm lửa, đám rơm rạ cháy lan, lộ ra mấy con cá lóc đồng cắm dọc theo ống trúc, lửa bén đen thui. Cá nướng chín được úm trong lá sen già, nhân viên khệ nệ bưng lên bàn.

Mấy đọt sen non mướt, mềm ùi chiếm hết 2 phần dĩa rau quê: lá cách thơm nồng, lá xoài non, lá cóc, lá chiếc… kèm với xoài xanh xắt sợi. Đọt sen non hơi nhẫn nhưng lại bắt với cái ngọt của thịt cá đồng, chấm vô chén mắm nêm chua ngọt lại dậy lên mùi dân dã, nó hợp tình hợp cảnh với cái không gian bát ngát hương sen.

Dịp đó, tôi cũng mới biết tới món củ sen sấy giòn kẹp mứt thơm, mứt cam của xưởng bánh kẹo Tư Bông nức tiếng miệt Đồng Tháp Mười. Cái món ăn vặt lạ miệng với hai lát củ sen sấy giòn tan từ từ trong miệng, mới thấy ẩm thực của người Việt mình là cả một “kho tàng”.

Mùa hè với cái nắng chói chang và mưa phủ mờ mịt luân phiên từng vùng. Nhưng dù mưa hay nắng, sen và những món ngon từ sen vẫn âm thầm đối đãi với người theo cách dung dị thanh tao muôn đời của nó.

Trần Huyền Trang

Nguồn: Dulichvn

Điện Biên: bảo tồn, gìn giữ các nghề truyền thống

Những năm gần đây, Điện Biên tích cực triển khai các giải pháp bảo tồn, phát huy giá trị các nghề truyền thống.


Trăn trở “giữ lửa” nghề truyền thống

Xã Mường Phăng (TP Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên) hiện có 3 bản người Mông sinh sống vẫn duy trì nghề rèn truyền thống, vừa để sử dụng, vừa cung cấp ra thị trường, với những sản phẩm phong phú, đa dạng như: dao, liềm, thuổng… được thực hiện thủ công, từ khâu cắt sắt thép, tạo hình, quai búa, làm tay cầm…

Nghề rèn truyền thống của xã Mường Phăng. Ảnh: IT

Anh Cứ A Nếnh, Bí thư Chi bộ bản Lọng Háy (xã Mường Phăng) cho biết, nghề rèn của người Mông xưa kia, chủ yếu tồn tại theo hình thức cha truyền con nối. Trước đây, hầu như gia đình người Mông nào cũng có một lò rèn riêng để làm ra những nông cụ và đồ dùng sinh hoạt trong gia đình. Các sản phẩm rèn của người Mông vẫn nổi tiếng với độ bền, độ tinh xảo riêng có.

Theo anh Nếnh, để làm ra được một sản phẩm tốt, những nghệ nhân nghề rèn truyền thống dân tộc Mông phải thực hiện nhiều bước, từ chuẩn bị và lấy nguyên liệu đến cắt sắt, thép, sau đó rèn công cụ, tôi, mài, tra cán…

Anh Nếnh cho hay, do tập quán cộng với sự cầu kỳ, cẩn trọng trong nghề rèn, thêm vào đó là giá thành mỗi sản phẩm rèn của người Mông lại cao so với các sản phẩm cùng loại, nên sản phẩm nông cụ của người Mông chưa thể tìm được chỗ đứng trên thị trường. Chính điều này đã khiến nghề rèn truyền thống của người Mông đang có nguy cơ bị mai một, có nhiều thợ rèn giỏi đã chuyển sang sử dụng công nghệ đúc, rèn theo phương pháp hiện đại.

Nghề mây, tre đan bản Nà Tấu 1 (xã Nà Tấu, TP Điện Biên Phủ) là một trong những nghề truyền thống được công nhận đầu tiên tại Điện Biên. Đầu tháng 6/2025, kỹ thuật mây, tre đan của đồng bào Thái tỉnh Điện Biên được đưa vào Danh mục di sản văn hóa phi vật thể cấp quốc gia. Tuy nhiên, ông Lò Văn Cương, nguyên Giám đốc Hợp tác xã Mây, tre đan Nà Tấu, cho biết, Hợp tác xã giải thể từ tháng 5. Để duy trì và phát triển nghề, đơn vị đã gặp không ít khó khăn do không có thị trường tiêu thụ ổn định, nguồn vốn đầu tư hạn hẹp, nguyên liệu ngày càng khan hiếm và thiếu hụt nhân lực. Đặc biệt, hiện nay thanh niên không mấy mặn mà với nghề truyền thống. Những người thành thạo đan lát ở khu vực này đều đã cao tuổi…

Bảo tồn các làng nghề truyền thống

Tỉnh Điện Biên hiện có 44 nghề và làng nghề, hoạt động trong nhiều lĩnh vực khác nhau như: dệt thổ cẩm, mây tre đan và sản xuất, chế biến, bảo quản nông – lâm – thủy sản. Tuy nhiên, phần lớn các làng nghề quy mô sản xuất nhỏ lẻ, chủ yếu theo mô hình hộ gia đình, thiếu sự liên kết giữa các nhóm hộ, dẫn đến khó khăn trong việc phát triển bền vững và mở rộng quy mô.

Nhằm khôi phục và thúc đẩy sự phát triển của các nghề và làng nghề truyền thống, Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh đã xây dựng Đề án Quy hoạch phát triển ngành nghề nông thôn tỉnh Điện Biên giai đoạn 2021-2025, định hướng đến năm 2030.

Theo kế hoạch, Điện Biên sẽ tập trung bảo tồn, mở rộng quy mô và đa dạng hóa sản phẩm của các làng nghề hiện có, kết hợp phát triển sản phẩm OCOP. Bên cạnh đó, nghiên cứu, ban hành các chính sách khuyến khích phát triển ngành nghề nông thôn; chú trọng tôn vinh, công nhận nghề, làng nghề truyền thống và các nghệ nhân.

Từ năm 2022 đến nay, UBND tỉnh Điện Biên đã công nhận nhiều nghề, làng nghề truyền thống, đồng thời ban hành những chính sách hỗ trợ các nghề, làng nghề truyền thống phát triển. Gần đây nhất, cuối năm 2024, UBND tỉnh đã công nhận thêm 4 nghề truyền thống tại huyện Tủa Chùa gồm: làm giày và trang phục người Xạ Phang tại thôn Tả Sìn Thàng (xã Tả Sìn Thàng); chế tác khèn Mông tại thôn Sông Ún (xã Mường Báng); thêu ren, dệt thổ cẩm dân tộc Mông tại thôn Tà Là Cáo và rèn dao, nông cụ dân tộc Mông tại thôn Dê Dàng (xã Sính Phình).

Một số hoạt động ngành nghề cũng đã được đưa vào Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia, như: nghệ thuật tạo hoa văn trên trang phục truyền thống của người Mông hoa; nghệ thuật chế tác và múa khèn của người Mông; nghề làm bánh khẩu xén, bánh chí chọp của người Thái trắng Mường Lay; nghệ thuật làm trang phục của người Hà Nhì; nghề rèn của người Mông; nghệ thuật trang trí trên trang phục của người Lào…

Để gìn giữ, phát triển nghề truyền thống của các địa phương trên địa bàn tỉnh, theo bà Nguyễn Thị Thanh Chuyên, Phó Giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Điện Biên, song song với việc quảng bá các sản phẩm nghề truyền thống ra ngoài tỉnh, thời gian tới Sở phối hợp chặt chẽ với chính quyền địa phương và các làng nghề để kết nối các điểm du lịch, xây dựng các tour tuyến. Qua đó, không chỉ đưa khách du lịch đến gần hơn với các sản phẩm truyền thống mà còn góp phần thúc đẩy sự phát triển bền vững của các nghề, làng nghề.

Nguyễn Hương

Nguồn: Dulichvn

Khám phá điểm di sản Mắt Thần núi – Cao Bằng

Cao Bằng là một trong những khu vực giàu tiềm năng du lịch di sản, trong đó có di sản địa chất. “Mắt Thần núi” hay còn gọi “Núi Thủng” là một danh thắng độc đáo, hứa hẹn là điểm đến lý tưởng của du khách trong hành trình trải nghiệm Công viên địa chất Non nước Cao Bằng.


Mắt Thần núi nằm trong quần thể danh lam thắng cảnh hồ Thang Hen với hệ thống 36 hồ liên thông nhau thuộc 2 xã: Cao Chương (Trùng Khánh) và Quốc Toản (Quảng Hòa). Bao quanh là các dãy núi đá trập trùng và những dòng suối uốn lượn tạo nên vẻ đẹp kỳ vỹ. Theo các nhà khoa học, Mắt Thần núi thực chất là một hang khô, hang hóa thạch được hình thành cách ngày nay hơn 300 triệu năm. Hang nằm ở độ cao như hiện nay là do vận động nâng trong giai đoạn tân kiến tạo, bao gồm các khối núi dạng tháp và dạng nón đan xen với hàng chục hồ nước lớn nhỏ.

Bên dưới Mắt Thần núi là những con suối uốn lượn bao bọc lấy thảm cỏ mênh mông, xanh mướt tạo nên vẻ đẹp mềm mại nên thơ như nàng thiếu nữ tuổi xuân thì. Trên những vạt cỏ xanh mênh mông bên hồ nước là các hang sâu có đáy phủ rêu xanh và lởm chởm nhũ đá với những hình dạng khác nhau. Để tạo nên khung cảnh ấn tượng này do sự vận động đầy thú vị trong giai đoạn tân kiến tạo. Sự vận động này đã tạo nên nhiều ngọn núi đá vôi xen lẫn hàng chục hồ nước lớn nhỏ. Từ đó, bức tranh du lịch đầy sống động của quần thể Mắt Thần núi và Hồ Thang Hen cũng được hình thành.

Mắt Thần núi là danh thắng độc đáo nằm trong quần thể Công viên địa chất UNESCO Non nước Cao Bằng.

Vẻ đẹp quyến rũ và hùng vĩ của Mắt Thần núi vẫn được giữ nguyên vẹn quanh năm. Mỗi một mùa trong năm, phong cảnh bao quanh Mắt Thần núi lại mang một vẻ đẹp khác nhau. Tất cả hòa quyện lại tạo nên một vùng đất nguyên sơ đẹp hài hòa như một tuyệt tác. Khi mùa mưa tới, thác nước Nặm Trá đổ tuôn ào ào xuống dòng suối trong xanh đẹp đến khó tả. Thác nước này tuy không cao và nhiều tầng nhưng lại tạo thành nhiều dòng chảy với những làn nước mềm mại uốn lượn giữa các mỏm đá. Vào mùa này, ngọn núi kiêu hãnh soi bóng mình cùng “con mắt thần” khổng lồ in nơi đáy nước giữa không gian của núi rừng. Tới mùa khô, khi đông tàn, xuân đến, dưới chân Mắt Thần núi nơi trước kia là đáy hồ nay trở thành một thảm cỏ xanh mướt như nhung. Đâu đó những chú ngựa hay trâu bò đang thong dong gặm cỏ. Nằm xem kẽ với những ngọn núi đá trập trùng trong màn sương trắng nắng vàng, ngọn Mắt Thần nổi bật giữa khung cảnh nên thơ, bình yên như một thảo nguyên du mục. Những vạt hoa dại khoe sắc trải dài khắp thung lũng như điểm tô thêm sắc màu cho khung cảnh nơi đây. Đây chính là thời điểm nhiều tín đồ du lịch phượt tìm đến Mắt Thần núi để trải nghiệm và khám phá.

Tới đây, vào những buổi sáng sớm, du khách sẽ có cơ hội được chiêm ngưỡng cảnh bình minh “độc nhất vô nhị”. Khi ấy, ánh mặt trời ửng hồng mọc lên từ phía Đông sau ngọn núi, chiếu những ánh sáng trực rỡ qua “mắt thần” ở trên đỉnh tạo thành vầng hào quang lấp lánh đầy độc đáo khiến ai cũng phải ngẩn ngơ trước những điều kỳ diệu mà thiên nhiên, tạo hóa ban tặng cho nơi đây.

Ngoài Mắt Thần núi độc đáo, dọc con đường mòn chỉ khoảng 15 phút đi bộ, du khách có thể tìm hiểu cuộc sống sinh hoạt đời thường của người Tày, với những nếp nhà sàn, hàng rào đá, cánh đồng lúa, ruộng ngô, đàn trâu, bò… cùng cảnh quan karst trưởng thành xanh tốt xung quanh, những trải nghiệm chắc chắn sẽ giúp du khách thư giãn sau những căng thẳng của cuộc sống thường ngày.

An Minh

Nguồn: Dulichvn

Khám phá thiên đường nghỉ dưỡng không thể bỏ lỡ tại đảo ngọc Hòn Tre

(TITC) – Nằm trên đảo Hòn Tre thơ mộng, Nha Trang Marriott Resort & Spa, khu nghỉ dưỡng 5 sao lớn nhất của Tập đoàn Marriott International tại Việt Nam được ví như một ốc đảo bình yên ẩn mình giữa thiên nhiên tươi đẹp cùng những tiện nghi đẳng cấp vượt trội. Nơi đây là một điểm đến dành cho những ai ưa chuộng du lịch để nghỉ ngơi, tận hưởng và trải nghiệm trọn vẹn.


Sở hữu hệ thống phòng đa dạng với 403 phòng nghỉ tiện nghi cùng 426 biệt thự từ hai, ba đến bốn phòng ngủ, đáp ứng mọi nhu cầu của du khách. Đặc biệt hơn, căn biệt thự hồng độc đáo nằm tại vị trí tuyệt đẹp – sở hữu tầm nhìn khoáng đạt hướng biển, mở ra bức tranh toàn cảnh tuyệt đẹp của thành phố Nha Trang. Nội thất sang trọng với sắc hồng làm chủ đạo và các đường nét hiện đại kết hợp không gian ngoài trời có hồ bơi riêng sẽ mang lại một kì nghỉ dưỡng thực sự tươi mới.

Với hàng loạt các nhà hàng đa dạng, Nha Trang Marriott Resort & Spa là thiên đường ẩm thực dành cho những tâm hồn yêu thích khám phá. Từ những bữa tiệc buffet hoành tráng tại Sands và Greens, đến những món ăn mang hương vị phong phú từ Đông Phương tại Windy, và những buổi chiều lãng mạn ngắm hoàng hôn bên tiệc BBQ hải sản tươi ngon ngay tại bờ biển dịu êm, mỗi bữa ăn tại đây đều là một trải nghiệm đáng nhớ.

Du khách không thể bỏ lỡ sân pickleball thời thượng duy nhất tại đảo Hòn Tre, hai hồ bơi chính và hồ bơi riêng tại mỗi căn biệt thự cùng hàng loạt hoạt động ngoài trời thú vị như các trò chơi dưới nước, đạp xe quanh khu nghỉ dưỡng và dạo quanh vườn hữu cơ M Valley.

Chỉ cách khu nghỉ chưa đầy 5 phút di chuyển, công viên chủ đề VinWonders là điểm đến lý tưởng cho những ai yêu thích sự náo nhiệt với hàng loạt các trò chơi cảm giác mạnh, khu công viên nước hiện đại, thủy cung rộng lớn sở hữu đa dạng sinh vật biển, cùng nhiều chương trình biểu diễn nghệ thuật đặc sắc. Bên cạnh đó, tổ hợp giải trí Vinpearl Harbour với muôn vàn lựa chọn ẩm thực, khu vực mua sắm, cùng nhiều hoạt động giải trí cũng là một điểm đến không thể bỏ qua.

Ẩn mình giữa những hàng cây xanh mướt tại trung tâm của khu nghỉ dưỡng, Quan Spa sở hữu khuôn viên trang nhã cùng 12 phòng trị liệu được thiết kế hài hòa theo concept âm – dương, giúp bạn tìm lại sự cân bằng hoàn hảo cho thân, tâm và trí. Với sự chăm sóc tận tâm của các chuyên gia trị liệu, hãy để sự thư thái thế chỗ cho những căng thẳng thường nhật qua các liệu pháp mát-xa truyền thống, những lớp thiền định và yoga tái tạo năng lượng, bên cạnh những buổi hướng dẫn tìm hiểu về nghệ thuật mát-xa. Ngoài ra, Quan Spa còn sở hữu phòng gym với đầy đủ tiện nghi và máy móc hiện đại cùng tầm nhìn ra bãi biển xanh mát, mang lại nguồn cảm hứng bất tận để bạn duy trì chế độ luyện tập xuyên suốt kỳ nghỉ. 

Nếu bạn lưu trú tại một trong những biệt thự riêng tư của khu nghỉ dưỡng, hãy thử tắm mình trong ánh bình minh và trải nghiệm lớp học yoga bên hồ bơi để thả hồn vào sắc xanh bất tận của trời mây và biển cả. Các lớp học yoga riêng tư của khu nghỉ được thiết kế cho mọi nhu cầu, dù bạn mong muốn nạp năng lượng, tìm kiếm sự thư giãn, hay đánh thức sự chánh niệm từ sâu trong tâm hồn.

Hơn cả một nơi lưu trú sang trọng, Nha Trang Marriott Resort & Spa, Hon Tre Island là chất xúc tác mạnh mẽ cho hành trình rực rỡ của bạn và những người đồng hành thân yêu. Hãy để làn nước trong xanh, cảnh quan thiên nhiên hùng vĩ và các tiện nghi sang trọng cùng đội ngũ nhân viên tận tâm luôn sẵn sàng phục vụ bạn với thái độ chuyên nghiệp, chu đáo và nụ cười thân thiện tạo nên những kỷ niệm thanh xuân đáng nhớ của bạn.

Trung tâm Thông tin du lịch

Nguồn: Dulichvn

Ninh Thuận: Khai thác giá trị văn hóa Chăm để phát triển du lịch

Tỉnh Ninh Thuận có 80 di sản được lập hồ sơ và xếp hạng, trong đó Nghệ thuật làm gốm của người Chăm được UNESCO ghi danh là Di sản văn hóa phi vật thể cần bảo vệ khẩn cấp; có 2 di tích được Thủ tướng Chính phủ công nhận Di tích quốc gia đặc biệt là tháp Hòa Lai và tháp Pô Klong Garai. Bên cạnh đó, còn có tháp Pô Rômê là di tích lịch sử, kiến trúc cấp quốc gia…


Tháp Pô Klong Garai, phường Đô Vinh, thành phố Phan Rang – Tháp Chàm (Ninh Thuận), được Thủ tướng Chính phủ công nhận Di tích quốc gia đặc biệt tháng 12/2016.

Giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Ninh Thuận Nguyễn Văn Hòa cho biết, những năm qua, để khai thác giá trị văn hóa Chăm thúc đẩy phát triển du lịch, địa phương đã quảng bá rộng rãi hình ảnh các di tích lịch sử, kiến trúc đền tháp, lễ hội gắn với làng nghề truyền thống và các Bảo vật quốc gia của đồng bào Chăm hằng năm, thu hút hàng triệu lượt du khách đến với Ninh Thuận.

Cùng với Lễ hội Katê và Nghi lễ đầu năm của người Chăm được công nhận Di sản văn hóa phi vật thể cấp quốc gia, Ninh Thuận còn có 4 hiện vật được Chính phủ công nhận là Bảo vật quốc gia, gồm: Phù điêu Pô Rômê được thờ tại tháp Pô Rômê, huyện Ninh Phước; tượng vua Pô Klong Garai được thờ tại tháp Pô Klong Garai, phường Đô Vinh, thành phố Phan Rang-Tháp Chàm; bia Hòa Lai được tìm thấy tại huyện Thuận Bắc và bia Phước Thiện, huyện Ninh Phước đang được trưng bày tại Bảo tàng tỉnh.

Lễ hội Katê là di sản văn hóa đặc sắc của đồng bào Chăm theo đạo Bàlamôn được tổ chức vào đầu tháng bảy âm lịch hằng năm, thể hiện sự tôn kính, lòng biết ơn của người dân với các vị thần linh, cầu cho mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt, nhân dân được mạnh khỏe, bình yên, ấm no, hạnh phúc. Tháng 6/2017, Lễ hội Katê được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đưa vào Danh mục Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia.

Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Ninh Thuận Nguyễn Long Biên cho biết: Tỉnh đã phê duyệt Đề án Bảo tồn và phát huy giá trị Lễ hội Katê của đồng bào Chăm tỉnh Ninh Thuận giai đoạn 2025- 2030, với vốn đầu tư hơn 10 tỷ đồng. Mục tiêu, nhằm bảo tồn các nghi thức, nghi lễ, nghệ thuật trình diễn, trang phục truyền thống, nhạc cụ cùng các di sản văn hóa phi vật thể gắn liền với lễ hội.

Theo đó, nhiều hoạt động cụ thể sẽ được triển khai, như: Phục dựng, tổ chức Lễ hội Katê định kỳ tại các điểm di tích tiêu biểu tháp Pô Klong Garai, phường Đô Vinh, thành phố Phan Rang-Tháp Chàm; tháp Pô Rôme; hỗ trợ nghệ nhân, duy trì hoạt động các làng nghề truyền thống phục vụ lễ hội; lồng ghép nội dung lễ hội vào chương trình học đường và hoạt động du lịch…

Cả sư Đổng Bạ, Phó Chủ tịch Hội đồng chức sắc Chăm Bàlamôn, Trụ trì tháp Pô Klong Garai phấn khởi: “Pô Klong Garai là vị vua có nhiều công lao trong việc khẩn hoang đồng ruộng, dẫn thủy nhập điền, chăm lo nâng cao đời sống người dân. Đồng bào Chăm xây dựng tháp Pô Klong Garai trên đồi Trầu để tôn thờ.

Tượng thờ vua Pô Klong Garai được bảo vệ nghiêm ngặt, phục vụ tín ngưỡng tâm linh của đồng bào Chăm và du khách. Cộng đồng Chăm luôn chung tay với chính quyền địa phương và ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch gìn giữ, phát huy các giá trị di sản văn hóa phục vụ tốt nhu cầu phát triển du lịch của địa phương tăng trưởng nhanh, bền vững”.

Ông Lê Xuân Lợi, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu văn hóa dân tộc và Bảo tàng tỉnh Ninh Thuận chia sẻ: Trong dịp nghỉ lễ 30/4 và 1/5/2025 vừa qua, mỗi ngày có từ 1.200-1.500 lượt khách đến tham quan quần thể tháp Pô Klong Garai và Bảo vật quốc gia tại tháp. Dịp này, đơn vị đã tổ chức chương trình nghệ thuật đặc sắc do các nghệ nhân đồng bào Chăm biểu diễn được du khách yêu thích, khen ngợi.

Bên cạnh đó, sản phẩm gốm Chăm Bàu Trúc được tiêu thụ mạnh, tăng thu nhập cho lao động của làng nghề. Tháng 11/2022, Nghệ thuật làm gốm của người Chăm được UNESCO ghi danh vào Di sản văn hóa phi vật thể cần bảo vệ khẩn cấp, góp phần thúc đẩy khai thác giá trị văn hóa Chăm để phát triển du lịch được nâng lên vị thế mới.

Trong 5 tháng đầu năm 2025, có hơn 1 triệu lượt du khách đến tham quan, nghỉ dưỡng tại Ninh Thuận, tăng hơn 168% so với cùng kỳ; thu nhập xã hội từ du lịch ước đạt 1.060 tỷ đồng, đạt 23,5% so với kế hoạch năm.

Đặc biệt, trong 5 ngày nghỉ lễ (dịp 30/4 và 1/5), Ninh Thuận đón 215.000 lượt khách, tăng 43,3% so với cùng kỳ, doanh thu ước đạt 320 tỷ đồng… Năm 2025, tỉnh Ninh Thuận phấn đấu đón hơn 3,6 triệu lượt khách, doanh thu đạt khoảng 4 nghìn tỷ đồng, đưa du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, đóng góp khoảng 15% tổng giá trị sản phẩm trên địa bàn tỉnh.

Nguyễn Trung

Nguồn: Dulichvn

Bảo tồn nhà sàn người Mường

Đất Tổ cội nguồn không chỉ nổi tiếng với Di tích lịch sử Đền Hùng, mà còn là nơi lưu giữ những giá trị văn hóa đặc sắc của đồng bào Mường, trong đó nhà sàn truyền thống là biểu tượng không thể tách rời. Với lịch sử hàng trăm năm, nhà sàn Mường ở các huyện như: Yên Lập, Thanh Sơn, Tân Sơn, Thanh Thủy đang đối mặt với nguy cơ mai một do đô thị hóa. Việc bảo tồn nhà sàn không chỉ giữ gìn một công trình kiến trúc mà còn là bảo vệ linh hồn văn hóa Mường, góp phần phát triển du lịch bền vững.


Ngôi nhà sàn gần 200 năm tuổi ở khu Mít, thị trấn Yên Lập được người dân lưu giữ, bảo tồn cho đến ngày nay.

Về xã Kim Thượng, huyện Tân Sơn, chúng tôi ghé thăm ngôi nhà sàn của gia đình chị Đinh Thị Hiền ở khu Chiềng 2. Ngôi nhà dựng từ năm 1994 chủ yếu bằng gỗ, mái lợp lá cọ, lót sàn bằng thân cây bương nằm trên sườn đồi và là một trong những nhà sàn lâu năm, vững chãi nhất ở địa phương. Vừa rót chén nước vối mời khách, chị Hiền chia sẻ: “Mọi sinh hoạt của gia đình 3 thế hệ chúng tôi gồm 6 thành viên vẫn diễn ra hằng ngày trong ngôi nhà sàn rộng hơn 70m2 này. Mặc dù, nhiều gia đình trong khu đã thay thế nhà sàn truyền thống bằng nhà xây lợp ngói, nhưng gia đình tôi vẫn muốn giữ lại nếp nhà sàn này vì là tài sản của cha ông để lại. Cả gia đình đều thích không gian thoáng đãng, mát mẻ của ngôi nhà, nó phù hợp với khí hậu miền núi và tạo cảm giác gần gũi khi cả gia đình cùng quây quần bên bếp lửa mỗi khi đêm về”.

Nhà sàn thường được dựng ở vị trí trung tâm của đất thổ cư, hướng về không gian thoáng đãng như cánh đồng, sông suối, ưu tiên hướng Nam hoặc Đông Nam để đảm bảo sự mát mẻ và phong thủy tốt, mang lại hòa thuận và thịnh vượng cho gia đình. Kết cấu nhà sàn truyền thống sử dụng vật liệu tự nhiên như: Tre, nứa, gỗ, và cỏ gianh. Các bộ phận khung nhà không dùng mộng mà gác khắc nấc, tận dụng trọng lực để liên kết. Sàn nhà làm từ tre ngà hoặc bương tạo cảm giác mát mẻ về mùa Hè. Nhà sàn không chỉ là nơi sinh hoạt, mà còn là không gian tâm linh. Cột “chồ” – cột thiêng gần cầu thang là nơi đặt bàn thờ gia tiên, không được buộc gia súc. Gian đầu (gian gốc) dành riêng cho đàn ông và khách quan trọng, gian thứ ba là bếp và nơi sinh hoạt của phụ nữ, còn gian thứ tư để lưu trữ đồ dùng. Lễ nhóm lửa khi dựng nhà mới, với các nghi thức như buộc bẹ chuối hình cá hay đặt bí xanh, thể hiện tín ngưỡng sâu sắc của người Mường.

Nhà sàn của người Mường ở Tân Sơn được dựng bằng gỗ, mái lợp lá cọ thoáng mát về mùa Hè, ấm áp trong mùa Đông.

Sự phát triển của xã hội hiện đại đang đặt nhà sàn Mường trước nguy cơ biến mất. Từ năm 2000, vật liệu truyền thống như gỗ và cỏ gianh ngày càng khan hiếm và đắt đỏ, dẫn đến sự chuyển đổi sang nhà sàn bê tông cốt thép, sàn lát gạch men, mái lợp ngói hoặc tôn lạnh. Ở các khu vực gần quốc lộ, thị trấn, nhà sàn truyền thống dường như đã bị thay thế bằng nhà kiên cố. Riêng tại huyện Yên Lập, những cụm nhà sàn ở các xã: Phúc Khánh, Trung Sơn, khu Mít (thị trấn) đang dần thu hẹp, chỉ còn một số ít được lưu giữ như di sản.

Nhằm bảo tồn nhà sàn Mường, thời gian qua huyện Tân Sơn, Yên Lập, Thanh Thuỷ… đã đẩy mạnh việc phát triển du lịch cộng đồng gắn với bảo tồn di sản văn hoá, trong đó có nhà sàn. Một số địa phương như: Xã Phúc Khánh (huyện Yên Lập), xã Xuân Sơn (huyện Tân Sơn), xã Tu Vũ (huyện Thanh Thuỷ)… đã xây dựng mô hình du lịch trải nghiệm, nơi du khách có thể ở homestay trong nhà sàn, tham gia lễ nhóm lửa, học làm cơm lam, hoặc thưởng thức cồng chiêng. Những hoạt động này không chỉ mang lại thu nhập mà còn khuyến khích người dân giữ gìn nhà sàn như một tài sản văn hóa. Cùng với đó, việc cải tiến kỹ thuật xây dựng, như sử dụng đinh sắt, sơn chống mối mọt, hay kê cột trên đá sẽ giúp nhà sàn bền vững hơn mà vẫn giữ được nét truyền thống vốn có. Chính quyền địa phương cũng khuyến khích việc tách bếp ra nhà riêng hoặc xây hành lang bao quanh nhà sàn, vừa tăng tiện nghi vừa bảo tồn cấu trúc chính. Các lễ hội truyền thống: Mừng cơm mới, hát Ví, diễn xướng cồng chiêng được tổ chức thường xuyên bên những ngôi nhà sàn cũng sẽ tạo cơ hội để thế hệ trẻ tiếp cận và yêu hơn văn hóa Mường.

Bằng cách kết hợp bảo tồn với phát triển du lịch, Phú Thọ không chỉ giữ gìn được di sản quý báu mà còn đưa văn hóa Mường vươn xa, góp phần khẳng định vị thế của Đất Tổ trong lòng du khách trong và ngoài nước.

Hồng Nhung

 

Nguồn: Dulichvn

Độc đáo đèn lồng Hội An

Nhắc đến TP Hội An, Quảng Nam là người ta nhớ ngay đến hình ảnh những chiếc đèn lồng đủ màu sắc, lung linh… Đèn lồng không chỉ trở thành biểu tượng độc đáo cho vẻ đẹp phố cổ, mà còn là một trong những trải nghiệm văn hóa thú vị của người dân, du khách…


Một cửa hàng ở phố cổ Hội An lung linh đèn lồng. Ảnh: Tấn Thành.

Ông Nguyễn Văn Sơn – Chủ tịch UBND TP Hội An cho biết, tập quán sử dụng đèn lồng trong các dịp hiếu hỷ, lễ, tết… tại Hội An đến nay cũng đã hơn 400 năm. Đèn lồng Hội An không chỉ phô diễn màu sắc, hình dáng mà còn được biến tấu với nhiều kiểu như thêu ren gắn với biểu tượng, di tích văn hóa, lịch sử, thêu chữ thư pháp mang nét đẹp văn hóa truyền thống Việt đến với mọi gia đình, đặc biệt là du khách quốc tế.

Ngoài những sản phẩm đèn lồng theo cách truyền thống còn có những loại đèn lồng có thể xếp gọn để thuận tiện cất giữ và dễ dàng mang đi xa. Đèn lồng Hội An được đánh giá là mang những giá trị tạo hình, thẩm mỹ và văn hóa thuần Việt gồm có 9 kiểu dáng gồm các loại đèn hình tròn, bát giác, lục giác, hình trái bí… Ngoài ra còn có những chiếc đèn lồng kéo quân, hình hoa sen, hình rồng với đủ màu sắc.

Từ khoảng thế kỷ XVI, Hội An là một thương cảng sầm uất, nhiều thương nhân người Hoa và người Nhật thường xuyên qua lại để buôn bán, họ mang theo những chiếc đèn lồng treo trước cửa. Sau này, nhiều người dân địa phương cũng treo những chiếc đèn lồng trước nhà để cầu may. Từ năm 1988, chính quyền địa phương quyết định tổ chức Lễ hội đèn lồng vào các ngày rằm hàng tháng như một nét đẹp đặc sắc của phố cổ.

Theo nhiều người dân Hội An, đèn lồng không chỉ là vật trang trí đơn thuần mà còn mang nhiều ý nghĩa tâm linh như xua đuổi tà ma, mang đến may mắn và hạnh phúc cho mọi người. Đặc biệt, trong đêm Trung Thu, những chiếc đèn lồng càng thêm phần ý nghĩa khi chúng gắn kết các gia đình, bạn bè trong không khí ấm cúng, đầm ấm và vui tươi

Ông Nguyễn Thanh Hồng – Giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Quảng Nam chia sẻ, những lễ hội gắn với đèn lồng ở phố cổ Hội An chính là một trong những sản phẩm du lịch độc đáo, đặc sắc của di sản văn hoá thế giới.

“Từ năm 2009 đến nay, thành phố đã đề ra sáng kiến tổ chức Lễ hội đèn lồng Hội An như là một sự kiện định kỳ trong dịp mỗi dịp Tết Nguyên đán, với nhiều hoạt động sôi nổi, hấp dẫn, như Hội thi sáng tác đèn lồng nghệ thuật, chế tác mẫu đèn lồng ứng dụng, trải nghiệm làm nghệ nhân làm lồng đèn, rước đèn lồng… đã góp phần khuếch trương hình ảnh lễ hội văn hóa tại Hội An.

Ông Nguyễn Thanh Hồng chia sẻ thêm: “Vào mỗi đêm 14 âm lịch hằng tháng, thành phố lại tổ chức lễ hội “Đêm phố cổ Hội An”, tắt các thiết bị chiếu sáng hiện đại mang đến không gian rực rỡ ánh đèn lồng cùng các hoạt động văn hóa đặc trưng. Nhiều chuyên trang, tạp chí du lịch nổi tiếng trên thế giới đề xuất đây là một trong những Lễ hội đèn lồng đẹp nhất.

“Có thể nói, Lễ hội đèn lồng là một trong những sản phẩm văn hóa – du lịch thu hút sự quan tâm của người dân và du khách khi đến với Hội An. Đây còn là một trong những hoạt động góp phần bảo tồn, quảng bá thương hiệu đèn lồng Hội An cũng như tôn vinh những nghệ nhân, các thợ thủ công tại Hội An” – ông Hồng nhấn mạnh.

Tấn Thành – Chí Đại

 

 

Nguồn: Dulichvn

Chờ gốm hát ca

Chương trình “GOm Show – Âm thanh từ gốm” sẽ diễn ra ngày 28-29/6 tại Nhà hát Lớn, Hà Nội.


Đây là dự án do nhóm Đàn Đó phối hợp tổ chức, sử dụng các nhạc cụ như chum, vại, niêu, chiêng, chuông… chung quanh chiếc bàn xoay gốm. Thành viên dự án – nghệ sĩ Đinh Anh Tuấn cho biết, tre, đất nung và gốm là những chất liệu bản địa, quen thuộc với người Việt. Tập trung khai thác những điều dung dị, mộc mạc, dự án gửi gắm thông điệp về mối quan hệ của con người với thiên nhiên, vũ trụ.

Trong chương trình, các nghệ sĩ sẽ kết hợp giai điệu mới với âm nhạc truyền thống của các dân tộc M’Nông, Tày, Lô Lô, Ê Đê, Hà Nhì… trong các tác phẩm như “Quay về”, “Thời đó”, “Xuôi dòng”, “Gom”… Nghệ sĩ Nguyễn Quang Sự, người chế tác nhạc cụ của dự án, chia sẻ, đàn Niêu là nhạc cụ mà anh ấn tượng nhất. Mặt đàn được bọc bằng da bò. Làm chiếc đàn Niêu đầu tiên, mỗi lần diễn, anh đều phải lên dây lại, nếu không, âm thanh sẽ bị sai lệch. Trống chum hay chiêng sành cũng đều mang lại cho người nghe cảm giác dễ chịu, âm thanh trong trẻo, êm ái, anh Nguyễn Quang Sự chia sẻ thêm. Trong quá trình chế tác nhạc cụ, anh Sự luôn phải tìm những ý tưởng mới mẻ, qua quá trình tưởng tượng sau đó phác thảo và định hình sản phẩm.

Trong quá trình làm việc, mỗi nhạc cụ mới đều được nhóm nghệ sĩ tìm tòi cách sử dụng. Nhạc cụ như cũng biết “chọn chủ nhân”. “Đều có cơ hội tiếp cận như nhau, nhưng có bạn lại phù hợp với đàn niêu, có bạn đánh trống chum, chiêng sành hay xoay gốm xoay tạo ra âm thanh hay hơn”, anh Đinh Anh Tuấn chia sẻ thêm. Dự án “GOm Show” là hành trình đi tìm, “gom” đủ 10 thành viên để tạo nên một chương trình hoàn chỉnh.

Được biết, 10 nghệ sĩ đến từ các vùng miền, học tại các trường đại học khác nhau. Có thành viên đến từ vùng núi phía bắc, có thành viên là thủ khoa nhạc viện. Có một cặp chị em song sinh… Anh Tuấn cho biết, dự án đăng tuyển thành viên trên mạng xã hội, sau đó phỏng vấn trực tiếp. Một thành viên chương trình, bạn Trần Thịnh, đến từ Tuyên Quang, bộc bạch: “Em đã theo dõi nhóm Đàn Đó của các nghệ sĩ từ lâu và rất yêu thích âm nhạc của các anh. Khi biết tin tuyển thành viên, em đã nhanh tay đăng ký casting”.

Bên cạnh đó, một số thành viên đến với dự án qua bạn bè giới thiệu. Các cá tính, mầu sắc khác nhau được kết hợp, đem đến không gian nghệ thuật vừa truyền thống vừa mang hơi thở hiện đại.

Hương Giang – Mỹ Hào

Nguồn: Dulichvn

Gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc nơi đất mới

Trong hành trình tìm kiếm cuộc sống mới tại vùng đất đỏ bazan màu mỡ Tây Nguyên, cộng đồng các dân tộc Tày, Nùng, H’Mông, Dao… từ một số tỉnh miền núi phía bắc vào lập nghiệp đã mang theo những giá trị văn hóa đặc sắc, tạo nên bức tranh đa dạng, sống động.


Ông Hoàng Văn Soạn (thứ hai từ phải sang) trong một buổi sinh hoạt hát then, đàn tính tại làng Pơ Nang, xã Kon Thụp, huyện Mang Yang, tỉnh Gia Lai.

Trong hành trình tìm kiếm cuộc sống mới tại vùng đất đỏ bazan màu mỡ Tây Nguyên, cộng đồng các dân tộc Tày, Nùng, H’Mông, Dao…từ một số tỉnh miền núi phía bắc vào lập nghiệp đã mang theo những giá trị văn hóa đặc sắc, tạo nên bức tranh đa dạng, sống động. Bên cạnh áp lực phát triển kinh tế, hòa nhập cuộc sống nơi đất mới, việc gìn giữ bản sắc văn hóa gặp không ít thách thức.

Tại làng Pơ Nang, xã Kon Thụp, huyện Mang Yang, tỉnh Gia Lai, cách người dân gìn giữ sợi dây gắn kết văn hóa truyền thống của dân tộc mình nơi đất mới là tổ chức định kỳ những buổi sinh hoạt văn nghệ cộng đồng như hát then, đàn tính.

Ông Hoàng Văn Soạn, Chủ tịch Hội Người cao tuổi làng Pơ Nang, chia sẻ: “Chúng tôi coi văn hóa là cội rễ. Dù xa quê hương, bà con vẫn cố gắng giữ lấy những tập tục, tiếng nói, câu hát của ông cha truyền lại”. Là người dân tộc Tày, hơn 20 năm lập nghiệp trên mảnh đất Tây Nguyên, ông Soạn luôn nỗ lực gìn giữ bản sắc văn hóa cũng như vận động đồng bào dân tộc mình gìn giữ lễ hội truyền thống, thờ cúng tổ tiên theo phong tục cũ, đồng thời kết hợp hài hòa với đời sống tín ngưỡng của người bản địa.

Năm 2021, ông Soạn quyết tâm thành lập Câu lạc bộ hát Then, đàn tính và vận động được 30 người tham gia. Những buổi sinh hoạt của câu lạc bộ đã trở thành cầu nối giữa các thế hệ, giúp lớp trẻ hiểu và tự hào về nguồn cội. Đó cũng là biểu hiện sinh động của quá trình hội nhập bền vững, nơi mà bản sắc riêng không bị phai mờ, mà còn được cộng hưởng trong cộng đồng đa dân tộc ở Tây Nguyên.

“Chúng tôi luôn coi đây là quê hương thứ hai của mình, bà con không chỉ hòa nhập mà còn đóng góp tích cực cho sự phát triển kinh tế-xã hội địa phương. Điều quan trọng là dù ở đâu, văn hóa dân tộc vẫn luôn là phần không thể thiếu trong đời sống của mỗi người”, ông Hoàng Văn Soạn khẳng định.

Theo ông Nguyễn Tiến Sỹ, Trưởng phòng Dân tộc huyện Mang Yang, tỉnh Gia Lai, làng Pơ Nang có 286 hộ với 1.294 nhân khẩu, trong đó có đến 80 hộ là người dân tộc Tày, Nùng. Không phải ai cũng dễ dàng thích nghi với điều kiện thổ nhưỡng, khí hậu và phong tục tập quán mới. Tuy nhiên, với những chính sách của Đảng, Nhà nước về phát triển kinh tế- xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, người dân tộc Tày, Nùng đã từng bước xây dựng cuộc sống ổn định, phát huy bản sắc văn hóa truyền thống.

Từ việc lưu giữ được hương vị bản sắc của các phong tục tập quán đến nỗ lực truyền dạy nghề thủ công truyền thống. Ngoài ra, việc giao thoa với nền văn hóa dân tộc của người Ba Na trên địa bàn luôn được họ quan tâm, học hỏi. Tuy nhiên, theo các nhà dân tộc học, hành trình di cư đến vùng đất mới lập nghiệp cũng gặp không ít khó khăn, đòi hỏi chính quyền địa phương ngoài chính sách đúng, còn cần có sự thấu hiểu văn hóa và ứng xử nhân văn, linh hoạt.

Làng Lơ Pơ, xã Chư Krêy, huyện Kông Chro, tỉnh Gia Lai trước đây vốn là làng gốc của người Ba Na, với hơn 100 hộ gia đình sống tập trung, duy trì nếp sống canh tác nương rẫy, tôn trọng rừng thiêng, có hệ thống già làng, luật tục. Năm 2009, một bộ phận cộng đồng người dân tộc Dao từ Lạng Sơn vào đây sinh sống xen kẽ, các nghi lễ, sinh hoạt và thờ cúng lại có những khác biệt. Chính quyền địa phương đã rất quan tâm vấn đề này và có những cách làm linh hoạt để tăng cường tình đoàn kết dân tộc.

Ông Đinh Chương, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã Chư Krêy cho biết: “Để giải quyết những mâu thuẫn trong sinh hoạt cộng đồng, chúng tôi phải tổ chức nhiều cuộc họp dân, đối thoại giữa các cộng đồng để chia sẻ, giải thích phong tục cho nhau. Từ hiểu mới đến thương, rồi mới cùng nhau phát triển được”.

Nhưng khó khăn hơn cả là những thách thức trong việc gìn giữ bản sắc văn hóa khi tốc độ hội nhập ngày càng mạnh mẽ. Tình trạng này không chỉ xảy ra với cộng đồng người Ba Na mà với cả người dân tộc Dao, Tày, Nùng khi việc gìn giữ bản sắc đang đứng trước nhiều thách thức. Do họ vừa phải hòa nhập vào cộng đồng mới, song vẫn phải nỗ lực gìn giữ tiếng nói, chữ viết, nghi lễ, tín ngưỡng, nghề truyền thống của dân tộc mình.

Trước nguy cơ mai một, không ít cộng đồng đã chủ động tìm cách bảo tồn văn hóa truyền thống trong điều kiện mới. Tại làng Lơ Pơ, gia đình anh Trịnh Sinh Thành và một số hộ người dân tộc Dao đã cùng nhau tổ chức các buổi sinh hoạt cộng đồng vào cuối tuần, nơi người lớn kể chuyện, dạy con cháu nói tiếng Dao, thêu thùa, học nhạc cụ dân tộc.

“Quan trọng nhất là nuôi dưỡng niềm tự hào, trân trọng với các giá trị truyền thống của dân tộc trong thế hệ trẻ. Khi con cháu biết trân trọng ngôn ngữ, y phục, âm nhạc, lễ hội của chính mình, văn hóa sẽ không mất đi, mà còn sống động trong một hình thức mới, phù hợp hơn với đời sống hiện đại”- anh Thành chia sẻ.

Việc tìm đến vùng đất mới để lập nghiệp đã đặt ra nhiều thách thức lớn đối với các cộng đồng dân tộc thiểu số trong việc giữ gìn bản sắc văn hóa. Tây Nguyên, vùng đất đã và đang chứng kiến sự hội nhập, thích nghi mạnh mẽ, trong đó, việc giữ được bản sắc không chỉ là gìn giữ quá khứ, mà còn là nền tảng để cộng đồng phát triển bền vững, tự tin bước vào tương lai.

Bài và ảnh: Thu Hằng

Nguồn: Dulichvn

Nhộng chuồn chuồn hương vị từ núi rừng

Trong văn hóa ẩm thực của đồng bào các dân tộc bản địa Kon Tum như Ba Na, Xê Đăng, J’rai có một món ăn “độc, lạ” mà nếu chỉ nghe tên không ít người sẽ rùng mình: nhộng chuồn chuồn.


Với đồng bào dân tộc thiểu số ở Kon Tum, nhộng chuồn chuồn là món ăn có từ những tháng ngày khó khăn, khi lúa chưa vào mùa gặt, khi muối, cá, thịt đều thiếu, chính nhộng chuồn chuồn là nguồn đạm quý giá, là “thịt rừng” của trẻ em vùng cao.

Hơn thế, trong các dịp lễ hội dân gian như: lễ mừng lúa mới, lễ cúng Yàng (thần linh)…, nhộng chuồn chuồn như một món quà dâng lên thần Rừng, thần Nước. Ngày xưa, ai bắt được nhiều nhộng nhất trong làng được xem là người may mắn, sẽ có mùa màng bội thu.

Nhộng chuồn chuồn sau khi được chế biến.

Khi những cơn mưa rào đổ xuống núi rừng, cũng là lúc hàng nghìn con chuồn chuồn non bắt đầu nở mình từ những vũng nước, ao hồ, ruộng lúa. Đồng bào các dân tộc bản địa, đặc biệt là thanh niên và trẻ em thường mang theo những dụng cụ rất đơn sơ như rổ tre, vợt lưới hoặc đơn giản chỉ là đôi bàn tay khéo léo, men theo bờ suối hoặc đầm lầy để bắt nhộng chuồn chuồn. Già làng A Yưi (thôn Kon Klor, xã Đăk Rơ Wa, TP. Kon Tum) chia sẻ: “Bắt nhộng phải khéo, không là làm vỡ mất thân nhộng, mất ngon. Con nhộng chuồn chuồn mập, trắng ngà, mình mềm như con nhộng tằm nhưng vị lại béo hơn, thơm hơn, ít tanh”. Trung bình một buổi sáng, một người có thể bắt được 300 – 500 gram nhộng đủ cho một bữa ăn của gia đình.

Không như nhiều loại côn trùng khác có thể nấu ngay, nhộng chuồn chuồn cần sơ chế rất kỹ để bảo đảm an toàn thực phẩm cũng như giữ nguyên vị ngọt tự nhiên. Sau khi bắt về, nhộng được ngâm vào nước muối loãng pha cùng nước gừng để khử mùi và làm sạch. Cần thay nước nhiều lần để “làm trong” nhộng. Sau khoảng 30 phút, nhộng được vớt ra, để ráo nước trước khi đem chế biến.

Bà Y Thanh, một người chuyên chế biến món nhộng chuồn chuồn cho biết: “Làm món này không vội được. Phải rửa cho sạch, rồi để cho nhộng tự tiết bớt nước, như vậy khi xào mới giòn, mới thơm”. Có nhiều cách chế biến nhộng chuồn chuồn nhưng phổ biến nhất là xào với lá chanh, ớt rừng hoặc sả, ớt. Một số gia đình có thể rang khô để ăn dần, hoặc nấu cháo nhộng với gạo nếp rẫy, món ăn được xem là đại bổ, nhất là cho người già và trẻ nhỏ.

Trong căn bếp nhà sàn khói nghi ngút, tiếng mỡ sôi lách tách quyện với hương thơm của sả, của lá chanh thái chỉ, từng con nhộng chuồn chuồn vàng ruộm, căng mọng dần dần se lại trong chảo nóng. Khi ăn, vị béo ngậy lan tỏa nhưng không hề ngấy, lại phảng phất chút ngọt của đất trời, cái bùi bùi của rừng núi. “Nếu ai đã từng ăn thử, sẽ khó quên được. Tôi vốn sợ côn trùng, nhưng món này ăn rồi lại thấy như đang nếm thứ gì đó rất thân thuộc, rất thiên nhiên, lôi cuốn vô cùng”, chị Lê Thị Thắm (35 tuổi, một du khách đến từ TP. Đà Nẵng) chia sẻ sau khi thưởng thức món nhộng xào sả, ớt tại chợ đêm huyện Kon Plông (tỉnh Kon Tum).

Hiện nay nhộng chuồn chuồn trở thành một đặc sản lạ và quý, hấp dẫn khách du lịch ưa khám phá ẩm thực địa phương. Một số homestay tại Măng Đen (huyện Kon Plông) và TP. Kon Tum đã bắt đầu đưa món nhộng chuồn chuồn vào thực đơn đặc sản theo mùa, phục vụ du khách nội địa và cả khách nước ngoài. Tuy nhiên, để phát triển bền vững, chính quyền địa phương cần có sự hướng dẫn khai thác hợp lý, tránh tận diệt chuồn chuồn trong tự nhiên, đồng thời nghiên cứu nuôi nhân tạo nhộng chuồn chuồn để cung cấp đủ bốn mùa trong năm, đáp ứng nhu cầu của du khách.

Hậu Văn

 

Nguồn: Dulichvn

TIN MỚI NHẤT