Du lịch trong nước

Du lịch trong nước, tin tức du lịch trong nước, các tour du lịch trong nước, các địa điểm du lịch trong nước hấp dẫn được chúng tôi tổng hợp và đưa tin hàng ngày đến cho khách du lịch trên khắp mọi miền đất nước có được thông tin du lịch trong nước để có những thông tin hữu ích nhất cho mình và gia đình khi quyết định chọn chuyến du lịch trong nước cho mình và người thân

Bánh tráng An Ngãi, bánh hỏi An Nhứt là Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia

Sáng 24/6, UBND tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu tổ chức Lễ công bố Quyết định đưa nghề thủ công truyền thống nghề bánh tráng An Ngãi và nghề làm bánh hỏi An Nhứt vào danh mục Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia.


Nghề làm bánh tráng An Ngãi, thuộc xã An Ngãi, huyện Long Điền (nay là xã Tam An, huyện Long Đất), là nghề thủ công truyền thống gần 100 năm nay theo hình thức cha truyền con nối. Năm 2013, nghề làm bánh tráng xã An Ngãi được UBND tỉnh công nhận là nghề truyền thống.

Bánh tráng An Ngãi là nghề truyền thống có từ lâu đời

 Với quyết định này, người dân sẽ có thêm điều kiện tiếp cận công nghệ, máy móc, nâng cao chất lượng sản phẩm và mở rộng thị trường.

Hiện nay, làng nghề bánh tráng An Ngãi có hơn 130 hộ gia đình tham gia, với nhiều loại bánh tráng đa dạng như bánh tráng nem (lớn, nhỏ), bánh tráng ớt, bánh đa nướng, bánh tráng chuối…

Để phát triển hơn nữa, làng nghề đang hướng tới việc ứng dụng khoa học kỹ thuật, cơ giới hóa sản xuất, xây dựng các khu du lịch cộng đồng và đăng ký sản phẩm OCOP.

Có hơn 130 hộ dân sản sản xuất bánh tráng theo phương pháp truyền thống

 Nghề làm bánh hỏi An Nhứt thuộc xã An Nhứt, huyện Long Điền (nay là xã Tam An, huyện Long Đất), xuất hiện vào khoảng cuối thế kỷ thứ XVII – đầu thế kỷ XVIII, từ đó hình thành làng nghề truyền thống. Bánh hỏi An Nhứt có những bí quyết ẩm thực riêng, tạo nên thương hiệu đặc trưng suốt hơn 60 năm qua.

Trong thời gian qua, nghề làm bánh hỏi An Nhứt và bánh tráng An Ngãi tại xã Tam An, huyện Long Đất được tiếp nối để giữ vững nghề truyền thống. Việc sản xuất bánh hỏi và bánh tráng theo phương thức thủ công, áp dụng công nghệ hiện đại cũng góp phần cho sự phát triển bền vững các làng nghề.

Sở VHTTDL tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu cho biết, nghề làm bánh hỏi An Nhứt và nghề làm bánh tráng An Ngãi được Bộ VHTTDL đưa vào Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia là động lực lớn trong việc bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa của địa phương.

Các hộ dân 2 làng nghề truyền thống nhận quyết định

Các ngành, các cấp từ tỉnh đến cơ sở cần tích cực quản lý, bảo tồn và phát huy hiệu quả giá trị của di sản, phát triển tour, tuyến du lịch, quảng bá sản phẩm làng nghề truyền thống để du khách tham quan, trải nghiệm; giúp các hộ gia đình có thêm thu nhập, bảo tồn nghề bánh tráng thủ công và thúc đẩy kinh tế – xã hội địa phương phát triển.

Lưu Sơn

 

Nguồn: Dulichvn

Làng nghề đúc đồng Đại Bái – Bắc Ninh

Bắc Ninh là một tỉnh có nhiều làng nghề truyền thống, trong đó có làng nghề đúc đồng Đại Bái xưa kia có tên nôm là làng Văn Lãng (làng Bưởi Nồi) thuộc xã Đại Bái, huyện Gia Bình. Từ xưa, làng  nổi tiếng về nghề truyền thống đúc đồng, sản xuất ra các sản phẩm thủ công mỹ nghệ tinh xảo.


Người thợ tỉ mỉ khắc từng chi tiết trên sản phẩm.

Thời kỳ Đông Sơn, để phục vụ sản xuất nông nghiệp và đời sống sinh hoạt, người dân nơi đây đã biết gò, đúc đồ đồng: rìu, đục, dao găm, bình, muôi… Đến đầu thế kỳ XI, với sự chỉ dẫn của Tổ nghề Nguyễn Công Truyền, Đại Bái phát triển thành một trung tâm đúc đồng thịnh vượng, buôn bán tấp nập, nổi tiếng cả nước. Trải qua thời gian, làng nghề Đại Bái ngày một phát triển, người dân dần tổ chức sản xuất chuyên môn hóa sản phẩm, thành lập các phường sản xuất theo từng xóm, mỗi xóm sản xuất một mặt hàng riêng, chẳng hạn như: xóm Sông thì chuyên làm đồ thờ, xóm Tây chuyên làm chiêng, cồng, mâm, xóm Giữa chuyên làm xiêu, niêu còn xóm Ngoài chuyên làm nồi…  Kỹ thuật luyện đồng, pha chế đồng của nghệ nhân làng nghề Đại Bái đạt tới độ chuyên sâu, mang bí quyết riêng. Qua bàn tay khéo léo và óc sáng tạo, từ khâu làm khuôn mẫu, kỹ thuật đúc, phôi, tỉ mẩn trong từng nét chạm, tạo ra những sản phẩm tinh xảo được đánh giá cao.

Chị Nguyễn Thị Huyền, chủ cơ sở Tranh đồng Quang Hưng cho biết: “việc chạm trổ các sản phẩm đồng nhất là đồ thờ đòi hỏi phải cẩn thận, tỉ mỉ từng chi tiết. Với đồng ngũ sắc, các màu sắc được bổ sung bao gồm: trắng, xám, vàng, xanh kết hợp với màu đồng nguyên bản (5 màu – ngũ sắc) tạo ra loại sản phẩm đồng cao cấp (có giá trị cao).

Gắn những họa tiết trên từng sản phẩm.

Hiện nay, làng Đại Bái có khoảng 700 hộ làm nghề với hơn 1.700 lao động. Để đáp ứng nhu cầu của thị trường, người dân trong làng đã sản xuất đa dạng hóa các sản phẩm như: tranh nghệ thuật, trống đồng, các đồ thờ tự trong gia đình (hoành phi, câu đối, đỉnh đồng, lư hương)… Cùng với đó, việc mở rộng thị trường cũng được quan tâm, các sản phẩm của Đại Bái không còn bó hẹp quanh làng nghề mà được du khách trong nước và quốc tế biết đến thông qua các cửa hàng đại diện, website quảng bá sản phẩm của làng nghề.

Kiểm tra độ ngân của chiêng khi sản xuất.

Làng nghề Đại Bái còn có nhiều di tích lịch sử – văn hóa tiêu biểu như: Khu lăng tổ sư nghề đồng Nguyễn Công Truyền, đình Văn Lãng, đình Diên Lộc, chùa Diên Phúc và Lễ hội truyền thống làng Đại Bái – nơi tôn vinh những sản phẩm truyền thống được làm từ đồng, tôn vinh những tấm lòng gắn bó với nghề và lưu giữ những nét đẹp văn hóa của quê hương. Với khát vọng, hoài bão của người dân làng nghề, nội lực từ chính đôi bàn tay khéo léo, đức tính cần cù, sáng tạo của những người thợ đúc đồng nơi đây đã và đang góp phần tạo dựng cho nghề truyền thống của quê hương ngày càng khởi sắc. Đại Bái ngày nay vừa là làng nghề truyền thống tiêu biểu trong cả nước, vừa là điểm đến của những du khách muốn tìm hiểu về lịch sử, văn hóa truyền thống của dân tộc Việt Nam.

Các sản phẩm của làng nghề được khách hàng ưa chuộng.

Văn Hải – Đình Duy

Nguồn: Dulichvn

Bánh cuốn vị trà xanh – sự kết hợp tinh tế giữa truyền thống và hiện đại

Trong dòng chảy đa dạng của ẩm thực Việt, bánh cuốn luôn là một trong những món ăn truyền thống được yêu thích nhất. Mới đây, một biến tấu thú vị của món ăn này đã thu hút sự chú ý của thực khách – đó chính là bánh cuốn vị trà xanh, một sáng tạo mang đậm tinh thần đổi mới nhưng vẫn giữ trọn cốt cách dân tộc.


Màu xanh dịu mát, hương trà thanh khiết là nét nổi bật của bánh cuốn trà.

Một món ăn mới mẻ, bắt mắt và tốt cho sức khỏe, được sáng tạo từ bàn tay của người phụ nữ vùng cao, chị Trương Thị Minh Hậu, chủ khách sạn Bản Giốc Quây Sơn, xã Đàm Thủy (Trùng Khánh) chi sẻ: Không giống với bánh cuốn truyền thống có màu trắng trong, bánh cuốn vị trà xanh nổi bật với sắc xanh lá nhẹ nhàng và mùi thơm thanh khiết đặc trưng của trà. Màu sắc này hoàn toàn tự nhiên, đến từ bột trà xanh nguyên chất được phối trộn cùng gạo Đoàn kết – loại gạo địa phương nổi tiếng tại Cao Bằng, mang lại độ dẻo thơm riêng biệt. Sự kết hợp giữa gạo truyền thống và trà xanh không chỉ tạo nên vẻ ngoài bắt mắt, mà còn mang lại nhiều lợi ích cho sức khỏe như thanh nhiệt, hỗ trợ tiêu hóa, chống oxy hóa, giúp món ăn vừa ngon miệng và lành mạnh.

Phần nhân bánh là sự hòa quyện đơn giản nhưng tròn vị của thịt lợn xay, hành khô phi thơm và gia vị truyền thống. Tuy không cầu kỳ, nhưng từng công đoạn làm bánh – từ chọn nguyên liệu, pha bột, đến tráng bánh – đều đòi hỏi sự tỉ mỉ và được chế biến theo công thức riêng. Bánh phải thật mỏng, không rách, nhân được gói đều tay, giữ được độ nóng khi dọn lên thực khách trải nghiệm. Điều làm nên giá trị của món ăn không chỉ nằm ở hương vị mà còn ở quy trình chế biến công phu, thể hiện sự chăm chút của người đầu bếp và tinh thần tôn trọng truyền thống trong từng lát bánh.

Với sự độc đáo và giá trị văn hóa ẩm thực, bánh cuốn vị trà xanh đã vinh dự được bình chọn vào Top 153 món ăn đặc sắc trong khuôn khổ Liên hoan ẩm thực “Trải nghiệm xứ Trà, đậm đà bản sắc” Thái Nguyên năm 2024. Đây không chỉ là sự ghi nhận về mặt chất lượng món ăn, mà còn là sự khẳng định tinh thần đổi mới và kết nối văn hóa giữa các vùng miền.

Bánh cuốn vị trà xanh thường được dùng kèm với giò lụa, trứng hấp và canh xương hầm, tạo nên một bữa ăn hài hòa về màu sắc và dinh dưỡng. Đây không chỉ là món điểm tâm lý tưởng mà còn là lựa chọn tuyệt vời cho các thực đơn vùng cao, sự kiện du lịch cộng đồng hay trải nghiệm ẩm thực văn hóa địa phương.

Thu Trang

 

Nguồn: Dulichvn

Đặc sắc nghề dệt thổ cẩm truyền thống của người M’nông

Trải qua nhiều thế hệ, đồng bào M’nông tỉnh Bình Phước đã sáng tạo và tích lũy nhiều loại hình nghề thủ công truyền thống mang sắc thái đặc trưng của cộng đồng, trong đó nổi bật là nghề dệt thổ cẩm.


Nghề dệt thổ cẩm của người M’nông tỉnh Bình Phước được trình diễn qua bàn tay khéo léo của nghệ nhân Thị Yum

Người M’nông là một cộng đồng dân tộc có lịch sử sinh cư lâu đời tại Bình Phước, với hơn 10 ngàn người, chiếm khoảng 1,1% dân số toàn tỉnh.

Trải qua nhiều thế hệ, đồng bào M’nông đã sáng tạo và tích lũy nhiều loại hình nghề thủ công truyền thống mang sắc thái đặc trưng của cộng đồng, trong đó nổi bật là nghề dệt thổ cẩm.

Nghề dệt thổ cẩm được truyền lại qua các thế hệ và trong tiếng M’nông, nghề này được gọi là “Kan Tanh Zar”.

Nghề dệt thổ cẩm được đồng bào M’nông lưu truyền theo hình thức truyền miệng. Những người phụ nữ lớn tuổi trong bon, sóc sẽ truyền dạy lại cho các thế hệ kế tiếp những kỹ năng và tri thức trong việc thực hành nghề dệt thổ cẩm.

Để có một sản phẩm thổ cẩm hoàn thiện, người M’nông phải thực hiện nhiều công đoạn cùng với những kỹ năng, tri thức và sức sáng tạo của riêng mỗi nghệ nhân.

Trước đây, khi sợi bông vải còn ít, đồng bào M’nông thường dùng vỏ cây rừng để làm sợi dệt vải.

Loại vỏ cây này có tên gọi tiếng M’nông là C’ra Bau, là một loại cây thân dây leo mọc tự nhiên trong rừng. Thân cây C’ra Bau sau khi khai thác về sẽ được lột vỏ, ngâm vào nước gạo rồi tách thành những sợi nhỏ như sợi chỉ.

Sợi từ vỏ cây C’ra Bau tạo ra sản phẩm thổ cẩm rất bền nhưng thô và nặng hơn so với sản phẩm làm từ sợi bông vải.

Sau này, khi bông vải được trồng nhiều, sợi bông vải đã được sử dụng phổ biến để thay thế cho sợi vỏ cây C’ra Bau. Bông vải sau khi khai thác và tách hạt sẽ được se thành những cuộn sợi làm nguyên liệu dệt.

Để tạo nên những màu sắc khác nhau cho sợi vải và sản phẩm thổ cẩm, đồng bào M’nông đã tích lũy kỹ thuật nhuộm màu vải bằng những nguồn nguyên liệu tự nhiên.

 Kỹ thuật và tri thức sử dụng màu nhuộm đã được truyền qua nhiều thế hệ và trở thành tri thức dân gian của cộng đồng.

Các màu sắc phổ biến thường xuất hiện trên sản phẩm thổ cẩm của người M’nông bao gồm vàng, đen, đỏ, tím, trắng và xanh.

 Màu vàng sử dụng lá cây rừng gọi là cây “Ria” hoặc phần thân và rễ cây “Tăng War”; màu đen sử dụng lá cây “La-Tum” (có nơi gọi là “La-Rum”); màu đỏ sử dụng trái của cây “Kon-Đơi” hoặc lá và trái cây “Pây-Nhau”; màu nâu sử dụng cây “La-Zol”…

Do là hình thức dệt thủ công, việc hoàn thiện một sản phẩm thổ cẩm thường tốn nhiều thời gian và công sức

Sau khi nguyên liệu dệt đã được chuẩn bị xong, người M’nông tiến hành công đoạn dệt vải. Để dệt sản phẩm thổ cẩm, đồng bào M’nông sử dụng bộ khung dệt gọi là “Tay-Kho-Ao”.

Bộ khung dệt được làm từ các bộ phận bằng tre, gỗ, với kích thước lớn nhỏ khác nhau tùy thuộc vào kích thước của sản phẩm thổ cẩm.

Bước đầu tiên là tạo khuôn bằng cách se và luồn các sợi vải theo chiều dọc của bộ khung dệt, vừa tạo khuôn cho sản phẩm vừa liên kết các bộ phận của khung dệt thành một bộ máy hoàn chỉnh. Bước tiếp theo là thực hiện đan, dệt các sợi vải theo phương ngang của khung dệt.

Tùy thuộc vào tư duy, kỹ năng và sự sáng tạo của mỗi người trong cách tạo hình hoa văn, đường nét trang trí, các sợi vải có màu sắc khác nhau sẽ được sử dụng trong quá trình dệt.

Sau khi quá trình dệt vải hoàn thành, người nghệ nhân sẽ hoàn thiện sản phẩm bằng cách may các đường viền hoặc đính khuy, cúc.

Thời gian hoàn thành mỗi sản phẩm thổ cẩm phụ thuộc vào trình độ, kỹ năng của người dệt, kích thước và “độ khó” trong thao tác tạo hình hoa văn.

Do là hình thức dệt thủ công, việc hoàn thiện một sản phẩm thổ cẩm thường tốn nhiều thời gian và công sức.

Các sản phẩm thổ cẩm truyền thống của đồng bào M’nông bao gồm: Quầy (phuộc lai), khố (troi von vút), chăn (ôi zoong), khăn, túi xách (thong), áo (ao lách)…

Đây đều là những sản phẩm truyền thống được sử dụng trong đời sống thường nhật của người M’nông Bình Phước.

Các sản phẩm thổ cẩm thường chỉ được người M’nông sử dụng trong cuộc sống hàng ngày hoặc làm đồ vật để tặng, trao đổi trong cộng đồng.

Trong quan niệm và “quy ước mang tính truyền thống” của người phụ nữ M’nông xưa, việc biết trồng bông dệt vải là rất quan trọng.

Các bé gái đến độ tuổi khoảng 12 đến 15 tuổi sẽ được những người phụ nữ lớn tuổi truyền dạy những kỹ thuật của nghề dệt thổ cẩm.

Hiện nay, cùng với quá trình tiếp xúc, giao thoa văn hóa giữa các cộng đồng dân cư và các hoạt động giới thiệu, quảng bá di sản văn hóa của các cấp chính quyền, sản phẩm thổ cẩm của đồng bào M’nông ngày càng được du khách và các cộng đồng khác sử dụng.

Ngày 4.8.2022, Bộ VHTTDL đã ban hành Quyết định số 1838/QĐ-BVHTTDL công nhận Nghề thủ công truyền thống nghề dệt thổ cẩm của người M’nông xã Bù Gia Mập, huyện Bù Gia Mập và xã Đăk Nhau, Đồng Nai, Thọ Sơn, Phú Sơn, huyện Bù Đăng, tỉnh Bình Phước là Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia.

Đây là tiền đề quan trọng góp phần quảng bá và đưa sản phẩm thổ cẩm vươn xa, đáp ứng nhu cầu thị trường, phục vụ thương mại, du lịch và là động lực để người dân bảo tồn, giữ gìn và phát huy nghề truyền thống.

Huy An; ảnh: Tuấn Minh

Nguồn: Dulichvn

Về nơi bình minh tới sớm

Mùa hè, thắng cảnh Bãi Môn – Mũi Điện (Phú Yên) là điểm đến hấp dẫn nhiều bước chân du khách. Nơi đây có ngọn hải đăng trên đất liền nước Việt vươn xa nhất ra Biển Đông.


Tại Phú Yên, kề ngọn hải đăng Mũi Điện hiện có cột mốc đá hoa cương, ghi rõ “Mũi Điện (Mũi Đại Lãnh), điểm cực Đông, nơi đón ánh bình minh đầu tiên đất liền Việt Nam, 109027’06” kinh độ Đông, cao độ 83,5 m; thuộc xã Hòa Tâm, thị xã Đông Hòa, tỉnh Phú Yên”.

Ngọn hải đăng trên Mũi Điện nhìn từ đường ven biển Tuy Hòa – Vũng Rô.

Theo Bảo tàng Phú Yên, mỏm núi Mũi Điện (trước đây còn gọi là mũi Kê Gà, mũi Đại Lãnh) do tướng người Pháp Varella phát hiện, xác định tầm điểm quan trọng trên tuyến biển vào cuối thế kỷ 19. Năm 1890, người Pháp cho xây dựng ngọn hải đăng tại đây và từ đó có thêm tên gọi mới là Mũi Điện. Điều này được lý giải là do ngư dân đánh cá ngoài khơi ban đêm nhìn vào thấy ánh chớp liên tục của đèn điện trên ngọn hải đăng.

Đến năm 1945, hải đăng tạm ngưng hoạt động vì chiến tranh thế giới thứ hai diễn ra ác liệt trên khắp các châu lục. Năm 1961, chính quyền Sài Gòn đã cho khôi phục lại ngọn hải đăng này nhưng hoạt động đến năm 1965 thì cũng tạm ngưng, vì lúc đó máy bay Mỹ ném bom phá hủy gần như toàn bộ khu vực Vũng Rô kề cận, nơi đón nhận những con tàu không số vận chuyển vũ khí, đạn dược, thuốc men từ miền Bắc chi viện cho chiến trường miền Nam theo đường mòn Hồ Chí Minh trên biển. Đến năm 1995, hải đăng Mũi Điện mới được khởi công xây dựng trở lại và hoàn công ngày 3/7/1997, trở thành một trong những ngọn hải đăng nổi tiếng nhất Biển Đông.

Ngọn hải đăng này có ánh sáng chớp nhịp 3 và chu kỳ 15 giây trên đỉnh cao nhất của Hòn Bà cao 586 m. Ánh sáng hải đăng phát xa trong khoảng cách 27 hải lý (tương đương 40 km), với nhiệm vụ định vị cho tàu bè trong và ngoài nước qua lại trên hải phận quốc tế trong đêm tối một cách dễ dàng. Từ chân tháp đến ngọn đèn hải đăng cao 26 m, được kết nối bởi cầu thang 107 bậc bằng gỗ xoắn trôn ốc. Nếu tính từ mặt nước biển lên đến đỉnh đèn hải đăng thì độ cao là 110 m. Mũi Điện là một trong 8 ngọn hải đăng có tuổi thọ trên 100 năm của Việt Nam.

Du khách chụp ảnh lưu niệm bên cột mốc Mũi Điện.

Từ TP. Tuy Hòa, du khách có thể theo tuyến đường ven biển hơn 30 km để tường tận điểm đến hấp dẫn Bãi Môn – Mũi Điện. Hoặc du khách có thể chọn đi thuyền trên biển từ phía cảng Vũng Rô. Đường lên Mũi Điện hiện đã được kè xây bậc đá công phu. Nhiều loài kỳ hoa dị thảo xanh mát quanh năm xung quanh ngọn núi đặt hải đăng Mũi Điện. Điểm đến này luôn có nhiều phòng ở xinh xắn, an lành trên độ cao 560 m giữa dạt dào sóng biển.

Ban ngày, du khách có thể tận hưởng làn nước trong xanh bên bờ cát phẳng lì ở eo biển Bãi Môn nằm kề dưới chân Mũi Điện. Đêm về từ ngọn hải đăng, du khách có thể ngắm ánh đèn của hàng nghìn tàu thuyền đánh cá nhấp nhô khơi xa. Để rồi du khách dậy sớm hân hoan đón những tia nắng đầu tiên từ vầng dương nhô trên Biển Đông tỏa lên đất liền nước Việt.

Năm 2008, Bãi Môn – Mũi Điện được công nhận là Di tích danh thắng cấp quốc gia.

Hùng Phiên

Nguồn: Dulichvn

Gìn giữ, phát triển làng nghề truyền thống: Tiềm năng nhưng đầy thách thức

Làng nghề truyền thống tại Hà Nội cũng như trên cả nước dù có nhiều thuận lợi và tiềm năng nhưng những điểm yếu cố hữu như hoạt động manh mún, thiếu liên kết, già hóa nhân lực, thiếu cả vốn lẫn công nghệ… khiến các làng nghề Thủ đô phản ứng chậm chạp với những đổi thay của kinh tế hiện đại.


Doanh thu hàng chục nghìn tỷ đồng mỗi năm

Theo thống kê, cả nước hiện có khoảng 5.400 làng nghề và làng có nghề, trong đó, riêng Hà Nội có hơn 1.300 làng nghề và làng có nghề (chiếm khoảng 1/4 số làng nghề cả nước). Với doanh thu khoảng 24.000 tỷ đồng mỗi năm, các làng nghề tại Hà Nội đang có sự đóng góp tích cực vào tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) của thành phố. Trong đó, một số làng nghề có doanh thu hằng năm cao như làng nghề mỹ nghệ Sơn Đồng đạt hơn 1.000 tỷ đồng; làng nghề cơ khí Phùng Xá đạt hơn 1.200 tỷ đồng… những con số trên cho thấy tiềm năng tích cực của các làng nghề trên địa bàn Thủ đô.

Thực tế, Đảng, Nhà nước, TP Hà Nội đã rất quan tâm đến hoạt động của các làng nghề Thủ đô cũng như trên cả nước, thể hiện qua nhiều chỉ đạo, định hướng nhằm khơi dậy tiềm năng, lợi thế, giá trị truyền thống mang dấu ấn, thương hiệu của địa phương và quốc gia thông qua phát triển sản phẩm của các làng nghề. Thủ tướng Chính phủ cũng đã ban hành Quyết định số 801/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình bảo tồn và phát triển làng nghề Việt Nam giai đoạn 2021-2030. Theo đó, mục tiêu đến năm 2030 thực hiện khôi phục, bảo tồn được ít nhất 129 nghề truyền thống và 208 làng nghề truyền thống có nguy cơ mai một, thất truyền; trên 80% làng nghề, làng nghề truyền thống hoạt động có hiệu quả, nâng kim ngạch xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của các làng nghề đạt khoảng 6 tỷ USD.

Bà Trần Thị Ngọc Lan, Phó chủ tịch Hội Làng nghề dệt lụa Vạn Phúc với các sản phẩm của làng nghề.

Trong khi đó, tại địa phương có nhiều làng nghề nhất cả nước là Hà Nội, thành phố đã đưa nhiều nội dung liên quan đến vấn đề gìn giữ, bảo tồn, phát triển làng nghề vào Luật Thủ đô 2024. Vừa qua, TP Hà Nội cũng đã ban hành Đề án tổng thể phát triển làng nghề trên địa bàn thành phố giai đoạn 2025-2030, tầm nhìn đến năm 2050. Theo đó, TP Hà Nội đề ra mục tiêu đến năm 2030, thực hiện khôi phục, bảo tồn được ít nhất 5 nghề, làng nghề truyền thống có nguy cơ mai một, thất truyền. TP Hà Nội cũng dự kiến đầu tư đồng bộ kết cấu hạ tầng, thực hiện bảo tồn, phục dựng không gian văn hóa làng nghề nhằm phát triển ít nhất 3 làng nghề gắn với du lịch, hình thành 10 điểm, tuyến du lịch làng nghề.

Mới đây, hai làng nghề gốm Bát Tràng và lụa Vạn Phúc đã chính thức trở thành thành viên của Mạng lưới các thành phố thủ công sáng tạo thế giới, đánh dấu một cột mốc quan trọng trong việc đưa các làng nghề của Thủ đô từng bước hội nhập với thế giới. Việc gia nhập Mạng lưới các thành phố thủ công sáng tạo thế giới có ý nghĩa lớn, mở ra nhiều cơ hội hợp tác, phát triển, giao thương với các đối tác trên khắp thế giới, thúc đẩy công nghiệp văn hóa, kết hợp sản xuất làng nghề với du lịch, góp phần quảng bá văn hóa Thủ đô.

Còn đó nhiều nỗi lo

Tại cuộc gặp mặt các nghệ nhân làng nghề tiêu biểu toàn quốc ngày 10-6, Chủ tịch nước Lương Cường đã thẳng thắn chia sẻ, đất nước đang bước vào giai đoạn phát triển mới với nhiều thuận lợi, thời cơ, đan xen không ít khó khăn, thách thức. Trong quá trình phát triển, thủ công mỹ nghệ cũng là ngành có sự cạnh tranh gay gắt do yêu cầu đòi hỏi ngày càng cao của hội nhập quốc tế và phát triển; dù đã đạt được nhiều kết quả quan trọng, rất đáng tự hào, song cũng cần nhìn nhận thẳng thắn hoạt động sản xuất ở các làng nghề hiện nay vẫn còn không ít tồn tại, khó khăn cần được khắc phục và tháo gỡ.

Theo ông Nguyễn Văn Vũ, Phó chủ tịch Hiệp hội Làng nghề Việt Nam, các làng nghề tạo ra nhiều sản phẩm chất lượng phục vụ nhu cầu trong nước và xuất khẩu ra thị trường nước ngoài, từ đó đóng góp tích cực cho nền kinh tế của Thủ đô. Tuy nhiên, tiềm năng thì lớn nhưng nỗi lo thì cũng không ít trong việc gìn giữ và phát triển làng nghề của thành phố, nhất là trong bối cảnh nền kinh tế hiện đại chịu nhiều sự chi phối, dẫn dắt của chuyển đổi số và khoa học, công nghệ, vị thế của những làng nghề đã hàng trăm, hàng nghìn năm tuổi đang gặp những thách thức không nhỏ.

Ông Nguyễn Văn Vũ nhận định, các làng nghề hiện nay tại Hà Nội đa số hoạt động manh mún theo mô hình cha truyền con nối, mà đặc trưng là sản xuất nhỏ lẻ theo hộ cá thể và thiếu tính liên kết, đồng hành để phát triển, dẫn đến gặp khó khăn trong việc tiêu thụ khi thị trường thay đổi. Cùng với đó, do sản xuất nhỏ lẻ, không có quy hoạch các khu sản xuất tập trung khiến môi trường xung quanh nhiều làng nghề bị ô nhiễm, ảnh hưởng tiêu cực đến sức khỏe của người dân và chính các hộ kinh doanh.

Một trong những khó khăn nữa trong việc gìn giữ và phát triển làng nghề là vấn đề nhân lực. Có thể nhận thấy, làng nghề không chỉ là truyền thống văn hóa mà còn là nơi tạo ra việc làm cho người dân. Khi người dân có công việc thì đời sống sẽ bớt bấp bênh, trở nên ổn định hơn. Người dân địa phương có công việc, chuyên tâm vào lao động thì tệ nạn xã hội cũng sẽ được kéo giảm. Nhưng thực tế hiện nay, không ít người đã rời bỏ nghề truyền thống, lực lượng lao động trẻ cũng không quá mặn mà với nghề, điều này đang đặt ra bài toán khó đối với cơ quan chức năng và những người trong cuộc.

Bài và ảnh: Hoàng Chung

 

Nguồn: Dulichvn

Liên kết vùng để bảo tồn, phát huy giá trị di sản

Xu hướng liên kết vùng để phát triển các sản phẩm công nghiệp văn hóa, bảo tồn di sản là một trong định hướng chiến lược phát triển kinh tế – xã hội hiện nay của cả nước nói chung và Hà Nội nói riêng.


Gia tăng sức mạnh

Theo PGS.TS Vũ Thị Phương Hậu – Viện trưởng Viện Văn hóa và Phát triển, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Thủ đô Hà Nội là địa phương đi đầu cả nước trong phát triển công nghiệp văn hóa. Tuy nhiên, để công nghiệp văn hóa Hà Nội phát huy hết tiềm năng, việc “đứng riêng một mình” là chưa đủ.

Du khách nước ngoài thích thú tham gia workshop làm các sản phẩm thủ công nghệ thuật từ giấy dó truyền thống Việt Nam. Ảnh: Chạm dó

Liên kết vùng giữa Hà Nội và các tỉnh trong khu vực không chỉ giúp chia sẻ nguồn lực, bổ trợ điểm mạnh cho nhau mà còn tạo sức mạnh tổng hợp, hình thành thị trường và không gian phát triển rộng lớn hơn cho công nghiệp văn hóa. Các địa phương trong vùng khi kết nối với Hà Nội cũng có cơ hội thúc đẩy kinh tế địa phương, nhất là trong các lĩnh vực du lịch, thủ công mỹ nghệ, nghệ thuật biểu diễn… thông qua việc tham gia chuỗi giá trị văn hóa chung.

Một trong những ví dụ điển hình là liên kết bảo tồn, phát huy giá trị di sản của các làng nghề, nghề truyền thống. Theo TS Nguyễn Thị Thanh Hòa – Trường Đại học Thủ đô Hà Nội, làng nghề giấy dó là một trong số những làng nghề thủ công truyền thống xuất hiện lâu đời ở làng Yên Thái (nay thuộc phường Bưởi, Hà Nội) nhưng nay đã thất truyền, sau đó lan truyền và phát triển mạnh ở làng Đống Cao (phường Phong Khê, TP Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh) song hiện nay nghề này ở Đống Cao đang đứng trước nguy cơ bị mai một. Trong khi đó, làng nghề làm giấy bản của người Dao đỏ ở thôn Thanh Sơn (huyện Bắc Quang, Hà Giang) và nghề làm giấy dó của người Nùng ở bản Lũng Ỏ (xã Phúc Sen, Cao Bằng) đang phát triển với quy mô lớn, dần trở thành điểm du lịch được nhiều du khách quan tâm.

Nhận thấy giá trị lịch sử, văn hóa, kinh tế của làng nghề, hiện nay, một số nhóm bạn trẻ ở Hà Nội đã bắt đầu quan tâm đến nghề làm giấy dó và đã hình thành nhiều dự án khôi phục, bảo tồn, quảng bá nghề làm giấy dó của làng Yên Thái xưa đến khách du lịch.

Một trong những dự án tiêu biểu là “Chạm dó” của Lê Hồng Kỳ sáng lập từ năm 2021, với mong muốn tái sinh nghề cổ truyền nổi tiếng của Thăng Long đã bị thất truyền. Lê Hồng Kỳ đã mở một workshop trên phố Châu Long, hàng ngày chị vẫn sản xuất giấy dó theo quy trình truyền thống để tạo ra những sản phẩm thủ công đáp ứng thị hiếu của giới trẻ và nhu cầu tiêu dùng hiện nay như làm menu bằng giấy dó cho các khách sạn, quán trà, cà phê, spa, đặc biệt là bộ sản phẩm quà tặng khách hàng trong các khách sạn 5 sao…

Với đồng bào người Dao đỏ, người Nùng, giấy dó vẫn thịnh hành bởi đáp ứng nhu cầu về phong tục và tín ngưỡng truyền thống của người dân. Trong bốn địa phương cùng làm nghề giấy dó thì Cao Bằng, Hà Giang cần phối hợp để quy hoạch trở thành nơi cung cấp nguyên liệu cho Hà Nội, Bắc Ninh. Ngược lại, Hà Nội, Cao Bằng, Hà Giang là địa bàn trao đổi, tiêu thụ sản phẩm giấy dó cho làng Đống Cao ở Bắc Ninh…

Nghề làm giấy dó ở làng Đống Cao (phường Phong Khê, TP Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh. Ảnh: Viết Sơn

“Như vậy, người làm nghề ở bốn địa phương này cần liên kết với nhau tạo thành mạng lưới khép kín từ nguồn nguyên liệu, sản xuất sản phẩm, tiêu thụ sản phẩm. Sau đó khai thác để trở thành chuỗi điểm du lịch làng nghề cùng làm giấy dó, phục vụ nhu cầu du khách quan tâm đến tham quan, trải nghiệm quy trình sản xuất hoặc sáng tạo ra sản phẩm từ chất liệu giấy dó truyền thống” – TS Nguyễn Thị Thanh Hòa chia sẻ.

Phát huy tối đa tiềm năng văn hóa

Liên kết vùng trong phát triển công nghiệp văn hóa trở thành đòi hỏi tất yếu để Hà Nội và các tỉnh đồng bằng sông Hồng tận dụng tối đa tiềm năng văn hóa, tạo bứt phá trong giai đoạn tới. Thực tiễn cho thấy, sức mạnh văn hóa – sáng tạo của Hà Nội sẽ được nhân lên gấp bội khi cộng hưởng với những di sản và nguồn lực đặc sắc từ các địa phương lân cận.

Liên kết vùng cũng chính là chìa khóa để hình thành những cụm ngành văn hóa liên vùng, những sản phẩm văn hóa – du lịch có thương hiệu tầm cỡ quốc gia và khu vực, đưa văn hóa thực sự trở thành ngành kinh tế mũi nhọn như kỳ vọng.

Theo TS Nguyễn Thị Thanh Hòa, trước khi tiến hành việc liên kết vùng đáp ứng yêu cầu phục dựng, bảo tồn làng nghề thủ công và sản phẩm nghề truyền thống, phải xác định giá trị của di sản văn hóa làng nghề chính là các dấu vết lịch sử hiện còn. Trong quá trình phục dựng, bảo tồn, phải lấy việc bảo tồn những giá trị nguyên gốc từ nguồn nguyên liệu, quy trình sản xuất, loại hình sản phẩm để phát huy, chứ không phải tạo ra một loại sản phẩm thủ công mới.

Du khách nước ngoài hào hứng mua sản phẩm thủ công từ giấy dó trong sự kiện Hà Nội Art Fair tại Văn Miếu – Quốc Tử Giám. Ảnh: Chạm dó

Đồng thời đẩy mạnh việc đưa làng nghề vào chương trình du lịch, vừa để quảng bá hình ảnh làng nghề và sản phẩm nghề truyền thống vừa góp phần nâng cao thu nhập cho người dân địa phương. Nhà nước cần hoàn thiện thể chế, chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch về phát triển liên kết vùng gắn với phát triển bền vững về kinh tế và an sinh xã hội, trong đó có du lịch văn hóa.

Đặc biệt, cần có chính sách khuyến khích việc duy trì, phục dựng, bảo tồn di sản văn hóa làng nghề truyền thống gắn với việc bảo vệ môi trường và cảnh quan thiên nhiên để làng nghề phát triển bền vững. “Để liên kết vùng trong việc phục dựng, bảo tồn di sản văn hóa làng nghề truyền thống gắn với phát triển kinh tế – xã hội đạt được hiệu quả cần huy động trí tuệ, công sức, sáng kiến của toàn xã hội từ nhiều phía: nhà quản lý, cộng đồng dân cư, các cơ quan truyền thông, các nhà khoa học, chuyên gia trong lĩnh vực di sản” – TS Nguyễn Thị Thanh Hòa nêu quan điểm.

Theo Phó Giám đốc Sở VHTT&DL tỉnh Bắc Ninh Nguyễn Văn Đáp, vùng đồng bằng sông Hồng có đặc trưng nổi trội không chỉ về giá trị di sản mà còn phong phú cả về ẩm thực, trang phục, đến các làng nghề truyền thống. Đặc biệt, các làng nghề trong vùng là hiện thân sinh động của lịch sử lâu đời của người Việt cổ, như làng Ngũ Xã (Hà Nội) nổi tiếng với nghề đúc đồng, làng gốm sứ Bát Tràng (Hà Nội), làng tranh Đông Hồ (Bắc Ninh), lụa Hà Đông (Hà Nội), gốm Chu Đậu (Hải Dương)…

“Tận dụng di sản văn hóa và lịch sử là một cơ hội lớn để tạo ra các sản phẩm trải nghiệm du lịch văn hóa độc đáo. Lấy Thủ đô Hà Nội là trung tâm, có thể mở rộng không gian và phát triển các sản phẩm du lịch văn hóa mới đến các địa phương, phát triển thử nghiệm các sản phẩm du lịch văn hóa đêm, du lịch đường phố… nhằm phát huy tối đa tiềm năng, lợi thế của các tỉnh, TP trong khu vực” – ông Nguyễn Văn Đáp nói.

Du khách tham quan Hoàng thành Thăng Long – Hà Nội.

Một trong những yếu tố quan trọng của liên kết vùng là cần thúc đẩy chuyển đổi số và ứng dụng công nghệ trong công nghiệp văn hóa liên vùng, xóa nhòa khoảng cách địa lý, tạo môi trường kết nối ảo cho các chủ thể văn hóa vùng. Trước hết, cần đẩy mạnh số hóa các di sản văn hóa trong vùng về di tích, lễ hội, làng nghề… của từng địa phương và tích hợp vào một hệ thống chung, hình thành nên bản đồ số các điểm di sản kèm thông tin thuyết minh, hình ảnh 3D, video… để người dùng khám phá trực tuyến.

Ví dụ phát triển ứng dụng AR cho phép du khách khi đến Hoàng thành Thăng Long (Hà Nội) có thể hướng điện thoại vào hiện trường và xem hình ảnh tái hiện điện Kính Thiên xưa, đồng thời giới thiệu các di tích liên quan ở Nam Định (như Phủ Thiên Trường thời Trần). Hay sử dụng công nghệ VR để tạo tour tham quan ảo liên tỉnh: du khách ngồi tại Hà Nội đeo kính VR có thể tham quan lần lượt chùa Keo (Thái Bình), đền Trần (Nam Định), chùa Bút Tháp (Bắc Ninh) với hướng dẫn viên ảo. Những trải nghiệm số sáng tạo này sẽ khuyến khích họ tìm đến tham quan thực tế sau đó.

“Hà Nội – với vai trò là trung tâm dẫn dắt vùng phải chủ động, năng động hơn nữa trong việc khởi xướng các sáng kiến liên kết, hỗ trợ và điều phối các tỉnh bạn cùng phát triển. Sự thành công của Hà Nội trong lĩnh vực này sẽ là hình mẫu lan tỏa, tạo động lực cho các vùng miền khác ở Việt Nam trong công cuộc xây dựng nền công nghiệp văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, đưa văn hóa Việt vươn ra thế giới” – PGS.TS Vũ Thị Phương Hậu nhận định.

Thiên Tú

Nguồn: Dulichvn

Khi lễ hội trở thành tài sản du lịch: Câu chuyện từ vùng cao Lào Cai

Vốn được mệnh danh là vùng đất quanh năm lễ hội, Lào Cai là nơi có 25 nhóm ngành dân tộc sinh sống, trong đó, có nhiều tộc người thiểu số mang bản sắc rất riêng, tạo nên bức tranh văn hóa đa sắc màu. Những ngày này, hòa chung không khí các ngày lễ lớn trong tháng 5, không chỉ trong năm nay mà từ nhiều năm trước, tại các điểm đến nổi bật như Khu du lịch quốc gia Sa Pa, cao nguyên trắng Bắc Hà, điểm du lịch cộng đồng xã Y Tý (huyện Bát Xát), hay điểm du lịch xanh Nghĩa Đô (huyện Bảo Yên) đều diễn ra chuỗi sự kiện văn hóa đặc sắc. Đây không chỉ là ngày hội của người dân địa phương, mà còn được nâng tầm trở thành sản phẩm du lịch hấp dẫn, thu hút du khách đến với mảnh đất biên cương Lào Cai.


Tiết mục trình diễn văn hóa dân tộc tại Lễ hội đường phố Sa Pa 2025. Ảnh: Hoàng Linh

Đã thành thông lệ, các màn trình diễn Lễ hội đường phố tại thị xã Sa Pa luôn là điểm nhấn ấn tượng bởi sắc màu văn hóa của các dân tộc thiểu số đặc trưng như Mông, Dao Đỏ, Tày, Giáy, Xá Phó… Các tiết mục dân ca, dân vũ đặc sắc được người dân bản địa biểu diễn trong trang phục truyền thống đã tạo nên bản sắc riêng có của Lễ hội đường phố tại Khu du lịch trọng điểm quốc gia Sa Pa. Những màn múa trống nêm của người Dao Đỏ, múa khèn của người Mông, múa xòe quạt của người Giáy, trình diễn đàn tính của người Tày… đều thu hút sự quan tâm đặc biệt của du khách, góp phần tạo nên trải nghiệm độc đáo trong kỳ nghỉ.

Bà Hoàng Thị Vượng, Trưởng phòng Văn hóa, Khoa học và Thông tin thị xã Sa Pa cho biết: “Khai thác giá trị văn hóa để phát triển du lịch là một trong những chủ trương xuyên suốt trong định hướng phát triển kinh tế – văn hóa – xã hội của thị xã những năm qua. Các dân tộc thiểu số sinh sống trên địa bàn đang nắm giữ kho tàng tri thức văn hóa dân gian quý giá, với 14 di sản văn hóa phi vật thể cấp quốc gia như: Lễ hội Gầu tào của người Mông; nghi lễ Cấp sắc của người Dao Đỏ; Lễ hội Roóng Poọc của người Giáy; Lễ hội Pút Tồng của người Dao… cùng nhiều nghề truyền thống như: nghề làm bạc của người Mông, Dao; nghệ thuật trang trí trên trang phục của người Dao, Xá Phó… Cấp ủy, chính quyền địa phương cùng các ban, ngành, đoàn thể đã nỗ lực khôi phục, bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống này thông qua việc tổ chức các lễ hội và sự kiện văn hóa – du lịch tại Sa Pa, góp phần xây dựng thương hiệu du lịch đặc sắc”.

Mặc dù mới được công nhận là điểm du lịch cộng đồng cấp tỉnh từ tháng 9/2022, nhưng điểm du lịch xanh Nghĩa Đô đã từng bước định hình được sản phẩm du lịch của riêng mình. Trong 3 năm liên tiếp, địa phương đã tổ chức sự kiện văn hóa “Sắc vàng bên dòng Nặm Luông”, với hàng loạt trò chơi dân gian, hoạt động trình diễn văn hóa, làm nổi bật nét đẹp văn hóa truyền thống của dân tộc Tày. Ngoài các hoạt động biểu diễn văn nghệ, thi trình diễn trang phục, ẩm thực, đan lát…, lễ hội còn tổ chức nhiều trò chơi dân gian đặc sắc như đi cà kheo, đua mảng trên sông, thi bắn nỏ, đánh yến, gánh nước, bắt cá, bịt mắt bắt vịt…

Đặc biệt, tại Lễ hội “Sắc vàng bên dòng Nặm Luông” năm 2025, lần đầu tiên, huyện Bảo Yên tổ chức Lễ hội quả còn tại xã Nghĩa Đô. Lễ hội không chỉ tôn vinh giá trị văn hóa của quả còn trong đời sống tinh thần của người Tày, mà còn được tổ chức bài bản và quy mô hơn. Ngoài các nghi lễ truyền thống như thầy then cúng quả còn, thi tung còn – hoạt động vốn chỉ xuất hiện vào dịp đầu xuân, năm nay còn có màn đồng diễn múa còn với 250 người tham gia, trưng bày quả còn với nhiều kích thước tại các điểm check-in, không gian trưng bày quả còn đặc sắc của các dân tộc Tày, Nùng (Cao Bằng), Thái (Yên Bái, Sơn La), Mường (Hòa Bình) cùng các dân tộc trong tỉnh như Tày ở Bắc Hà, Mông Xanh ở Văn Bàn… Đặc biệt, có cả các đội thi tay nghề làm quả còn đẹp.

Thi ném còn trong Lễ hội quả còn xã Nghĩa Đô năm 2025. Ảnh: Hoàng Linh

Ông Nguyễn Anh Dũng, Phó Chủ tịch UBND huyện Bảo Yên cho biết: “Không chỉ tạo ra không gian vui chơi sôi động, việc phát huy giá trị văn hóa của quả còn nhằm tạo sinh kế bền vững cho người dân địa phương. Hiện nay, với sự tư vấn của các chuyên gia văn hóa – du lịch, bà con đã sáng tạo ra các mẫu quả còn đa dạng dựa trên kỹ thuật truyền thống, biến chúng thành sản phẩm quà tặng, đồ trang trí có giá trị ứng dụng cao. Các sản phẩm này được đưa vào không gian tại các điểm du lịch, homestay, phục vụ nhu cầu trang trí văn hóa của nhiều tổ chức, cá nhân trong và ngoài tỉnh”.

Thực tế, từ nhiều năm qua, các điểm du lịch trên địa bàn tỉnh đã khai thác hiệu quả thế mạnh bản sắc văn hóa của cộng đồng các dân tộc (lễ hội, nghi lễ, dân ca dân vũ, nghề truyền thống…) để đưa vào nội dung các chương trình lễ hội, vừa bảo tồn, vừa phát huy giá trị văn hóa phục vụ phát triển kinh tế – du lịch. Đặc biệt, nhiều địa phương đã tổ chức phục dựng nghi lễ truyền thống và khôi phục nghề thủ công đặc sắc để tạo điểm nhấn du lịch riêng. Đơn cử như điểm du lịch cộng đồng Y Tý (huyện Bát Xát), nơi tập trung khai thác bản sắc văn hóa của dân tộc Hà Nhì: trình diễn dân ca, dân vũ Hà Nhì, khôi phục nghề đan mâm mây, tổ chức Lễ hội Gạ Ma Do, Lễ hội Khô Già Già…

Tại huyện Bắc Hà, các giá trị văn hóa của người Mông Hoa như giai điệu khèn Mông, nghề vẽ sáp ong, thêu thổ cẩm, rèn đúc nông cụ, các món ăn đặc trưng như thắng cố ngựa, phở chua, khâu nhục, cốm… cũng được phát huy để phục vụ du lịch.

Theo ông Dương Tuấn Nghĩa, Phó Giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Lào Cai, với nguồn tài nguyên phong phú về di sản văn hóa, đến nay, Lào Cai đã có 41 di sản văn hóa phi vật thể cấp quốc gia – dẫn đầu cả nước về số lượng di sản. Việc các địa phương biến lợi thế văn hóa thành lợi ích kinh tế đang là hướng đi đúng đắn. Các lễ hội được tổ chức không chỉ là không gian sinh hoạt văn hóa của cộng đồng, là cách để gìn giữ, bảo tồn giá trị văn hóa truyền thống, mà còn là dịp tôn vinh và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc thiểu số trong đời sống đương đại.

Hoàng Linh

Nguồn: Dulichvn

Phát huy giá trị Không gian văn hóa Trà Tân Cương

Không gian văn hóa Trà Tân Cương có kiến trúc độc đáo ở vùng chè đặc sản lớn nhất, nơi được vinh danh “Đệ nhất danh trà” Thái Nguyên. Được giao quản lý thiết chế văn hóa, điểm du lịch cộng đồng này, Bảo tàng Thái Nguyên đã có nhiều nỗ lực, sáng tạo nhằm thu hút du khách, góp phần quảng bá, giới thiệu chè Thái Nguyên, tôn vinh vùng đất và con người nơi đây.


Không gian văn hóa Trà Tân Cương lưu giữ giá trị về nghề chè, văn hóa trà, nơi tổ chức nhiều sự kiện văn hóa thu hút đông du khách tham quan, trải nghiệm.

Cách thành phố Thái Nguyên 12 km về phía tây, Không gian văn hóa Trà Tân Cương tọa lạc trên diện tích 1,7ha ở xóm Soi Vàng, xã Tân Cương, đi vào hoạt động từ Festival Trà Quốc tế – Việt Nam năm 2011. Đây là thiết chế văn hóa, nơi lưu giữ, bảo tồn, giới thiệu Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia tri thức trồng – chế biến chè Tân Cương và là điểm du lịch cộng đồng của tỉnh Thái Nguyên.

Không gian văn hóa Trà Tân Cương gồm ba hạng mục công trình: Không gian trưng bày ngoài trời, nhà trưng bày và không gian thưởng trà.

Không gian trưng bày ngoài trời bao gồm sân lễ hội, sân khấu tổ chức Lễ hội Trà xuân – Vùng chè đặc sản Tân Cương, các hoạt động văn hóa cộng đồng; có “Ấm trà tri kỷ” được tạo dáng giống ấm trà truyền thống của người Việt, được ghi vào kỷ lục là ấm trà gắn gốm sứ lớn nhất Việt Nam.

Không gian nhà trưng bày lưu giữ nhiều hình ảnh lãnh đạo Đảng, Nhà nước thăm vùng chè Tân Cương; mô hình những đồi chè xanh mát trùng điệp đặc trưng của bốn vùng chè nổi tiếng Thái Nguyên, được mệnh danh “Tứ đại danh Trà” gồm: Khe Cốc (huyện Phú Lương), La Bằng (huyện Đại Từ), Trại Cài (huyện Đồng Hỷ) và Tân Cương (thành phố Thái Nguyên); thấp thoáng là hình ảnh nhà sàn tượng trưng cho những homestay, mô hình du lịch cộng đồng vùng chè đang được ưa chuộng. Bộ sưu tập ấm chén dùng để thưởng trà từ thế kỷ XIX đến nay được trưng bày, thể hiện nét văn hóa, phong cách uống trà của người Việt qua các giai đoạn lịch sử. Tầng hai của không gian trưng bày lịch sử ra đời và phát triển cây chè, nghề chè ở Tân Cương.

Không gian thưởng trà tái hiện quy trình chế biến chè truyền thống, hướng dẫn cách pha trà có nước xanh vàng, tươi sáng, hương thơm nồng đậm đà chát ngọt hậu của trà Tân Cương và cách thưởng trà.

Giám đốc Bảo tàng Thái Nguyên Trần Thị Nhiện cho biết: “Không gian văn hóa Trà Tân Cương được xây dựng ở vị trí trung tâm vùng chè Tân Cương, có kiến trúc, cảnh quan thiên nhiên đẹp, phù hợp cho các hoạt động văn hóa, thể thao, du lịch và tham quan, tìm hiểu, nghiên cứu về lịch sử văn hóa trà, đất và người Thái Nguyên. Thời gian vừa qua, chúng tôi đã kết nối với ngành giáo dục-đào tạo, ngành du lịch trong và ngoài tỉnh, các địa chỉ du lịch cộng đồng vùng chè để đưa học sinh, du khách tham quan Không gian văn hóa Trà Tân Cương, vùng chè trong khu vực; góp phần tích cực giới thiệu, quảng bá văn hóa trà, sản phẩm chè và du lịch vùng Đệ nhất danh trà – Tân Cương”. Thăm Không gian văn hóa Trà Tân Cương, đồng thời là điểm du lịch cộng đồng, du khách cảm nhận lịch sử hình thành, phát triển nghề chè, văn hóa trà và thưởng thức giá trị đặc sản chè Tân Cương. Từ đây, khách có thể tỏa đi các vùng chè chung quanh để trải nghiệm cảnh quan, thu hái, chế biến, kinh doanh chè tại các hợp tác xã, điểm trải nghiệm chè Hảo Đạt, Tiến Yên, Thắng Hường, Minh Thu…

Tỉnh Thái Nguyên chủ trương đến năm 2030 đưa cây chè và ngành chè mang lại doanh thu 25 nghìn tỷ đồng, tăng khoảng 45% so với hiện nay. Việc gắn văn hóa trà với du lịch, trong đó phát huy Không gian văn hóa Trà Tân Cương là điểm kết nối, lan tỏa, góp phần quan trọng đạt doanh thu đó.

Nhiều ý kiến cho rằng, cần mở rộng diện tích tại Không gian văn hóa Trà Tân Cương để đầu tư xây dựng, nâng cấp, mở rộng các không gian trải nghiệm, giới thiệu di sản văn hóa, trưng bày chuyên đề, trưng bày ngoài trời, quảng bá văn hóa trà, sân tổ chức lễ hội, bãi đỗ xe đáp ứng nhu cầu tham quan, nghiên cứu, học tập ngày càng đông của du khách khắp nơi.

Theo bà Trần Thị Nhiện, khi thiết chế văn hóa này được nâng cấp, mở rộng, Bảo tàng Thái Nguyên sẽ lập phương án thiết kế tổng thể không gian trưng bày, tăng cường quảng bá trà Thái Nguyên, xây dựng như một “bảo tàng Trà” có tính khoa học, logic, thẩm mỹ để nơi đây thật sự trở thành một trung tâm nghiên cứu, trưng bày, giới thiệu văn hóa Trà Thái Nguyên, Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia tri thức trồng và chế biến chè Tân Cương xứng tầm với vị thế là tỉnh được mệnh danh “Đệ nhất danh trà” gắn với du lịch cộng đồng vùng chè, thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội địa phương.

Thế Bình

Nguồn: Dulichvn

Hương cốm Hà Nội giữa lòng phố núi Pleiku

Bằng tình yêu với ẩm thực Hà Nội, chị Lê Thị Ni Na (tổ 2, phường Thống Nhất, TP. Pleiku) đã làm ra món xôi cốm đặc sắc khiến những ai đã một lần nếm thử cũng đều quyến luyến nhớ thương.


Sinh ra và lớn lên ở Gia Lai nhưng chị Na có một tình yêu sâu sắc với cảnh sắc và ẩm thực Hà Nội. Hiện nay, chị làm việc tại một phòng khám Đông y. Những lúc rảnh rỗi, chị lại tìm hiểu về ẩm thực Hà Nội, đặc biệt là cốm.

Chị Na kể: “Trong một lần ra thăm Thủ đô, tôi được thưởng thức món xôi cốm. Cốm xanh đượm mùi thơm lúa non, gói mình trong lá sen tỏa hương dịu nhẹ khiến tôi ấn tượng mãi. Ngay từ lúc ấy, tôi ấp ủ dự định sẽ đưa cốm về Pleiku và chế biến thành những thức món theo khẩu vị của người dân phố núi”.

Chị Lê Thị Ni Na (bìa phải) gói xôi cốm cho khách hàng. Ảnh: M.K

Đầu năm 2024, chị ra Hà Nội để tìm hiểu và tự tay chọn nguyên liệu. Theo chị Na, những hạt cốm xanh mỏng nhưng hàm chứa những tinh túy của đất trời, hương nắng và gió mùa thu. Hà Nội có 2 làng làm cốm rất nổi tiếng là làng Vòng và Mễ Trì. Chị Na chọn loại cốm được làm từ gạo nếp như nếp thơm, nếp tan, nếp quýt, nếp cái hoa vàng. Cốm phải có màu xanh ngọc và dậy mùi thơm ngậy của lúa non.

“Sau khi mang cốm về Pleiku, tôi bắt tay chế biến xôi cốm-món ăn bình dị gắn liền với những ngày se se lạnh. Xôi cốm là sự kết hợp của cốm xanh cùng với những hạt nếp ngon căng mẩy, trộn thêm vài sợi dừa béo và hạt sen bùi bùi. Nghe thì đơn giản thế nhưng tôi đã mất gần 1 tháng thử nghiệm với nhiều lần thất bại mới cho ra mẻ xôi cốm chuẩn vị Hà Nội.

Sau nhiều lần thất bại, tôi nhận thấy, xôi không được quá khô hoặc quá nhão, phải canh nhiệt độ để xôi có vị dẻo, thơm, bùi của cốm và đậu xanh, vị béo của dừa và thoảng vị ngọt bùi của hạt sen. Đặc biệt, tôi đã tìm cách biến tấu một chút để xôi đậm vị hơn so với nguyên gốc xôi cốm của Thủ đô để phù hợp với khẩu vị của người Pleiku”-chị Na chia sẻ.

Không chỉ đơn thuần là món ăn, cốm như một món quà của Hà Nội xuất hiện giữa lòng phố núi Pleiku và kể về những câu chuyện văn hóa đầy sức hút. Ảnh: M.K

Màu xanh tươi của cốm kết hợp với màu vàng của đậu xanh và màu trắng của dừa tạo nên một món ăn hấp dẫn về cả hương vị lẫn hình thức. Xôi cốm thường được người Hà Nội gói trong lá sen để giữ ấm và tăng thêm hương thơm.

Tuy nhiên, Pleiku lại rất khan hiếm lá sen. Chị Na tìm cách thử gói xôi cốm trong nhiều loại lá khác nhau nhưng sau cùng chị nhận thấy lá dong là phù hợp nhất. Cây dong được người dân vùng ven Pleiku trồng nhiều quanh vườn. Lá dong có tác dụng chống oxy hóa tốt, vị ngọt, màu xanh mát mắt phù hợp để dùng gói xôi cốm.

Chị Na tâm sự: “Qua khảo sát, xôi cốm được nhiều thực khách ở Pleiku ngợi khen và thường xuyên quay lại đặt mua. Tôi quyết định mở bán online với cái tên thân thuộc “Bếp nhà Na”. Mỗi gói xôi tôi bán với giá 30-35 ngàn đồng. Thực khách đến với “Bếp nhà Na” ngày một đông hơn giúp tôi tự tin phát triển thêm một số món ăn khác từ cốm như: cốm mộc, cốm xào”.

Chị Trần Hoài Anh (tổ 4, phường Hoa Lư, TP. Pleiku) thổ lộ: “Tôi xa Hà Nội từ năm 17 tuổi nhưng hương vị của cốm thì mãi không thể quên. Tình cờ được thưởng thức món xôi cốm từ “Bếp nhà Na”, tôi vô cùng thích thú. Tuy ở Pleiku nhưng vẫn cảm nhận được hương cốm Hà Nội. Điều đó quả thật rất thú vị”.

Khác với chị Hoài Anh, bà Văn Thị Ái Nhung (tổ 2, phường Trà Bá, TP. Pleiku) lại khá bất ngờ khi lần đầu được thưởng thức vị cốm của Thủ đô. “Tôi có ra Hà Nội tham quan vài lần nhưng chưa có dịp thưởng thức món cốm. Chính vì vậy, khi được ăn món xôi cốm của chị Na làm, tôi thấy rất ấn tượng. Món ăn có vị đặc trưng của Hà Nội nay được biến tấu phù hợp với khẩu vị vùng đất cao nguyên”-bà Nhung cho hay.

Mai Ka

Nguồn: Dulichvn

TIN MỚI NHẤT