Điểm đến du lịch

Những địa điểm du lịch hấp hẫn những địa điểm du lịch trong nước, địa điểm du lịch nước ngoài được chúng tôi tổng hợp và đưa tin đến Quý bạn đọc đam mê du lịch có cái nhìn tổng quan nhất về các địa danh du lịch để quyết định cho mình cho những chuyến du lịch ý nghĩa nhất

Xao xuyến mùa hoa tam giác mạch

Tháng mười, nỗi nhớ cảnh vật, con người Hà Giang cứ cồn cào trong ruột. Đất đá sỏi ấy có gì lạ mà khiến tình người lưu luyến thế? Tháng mười Hà Giang, mùa hoa tam giác mạch, những con đường như đi vào lòng núi, lòng mây, những cánh đồng rập rờn hoa dại, ánh mắt diệu vợi của người sơn nữ… Tháng mười, ta lại lên đường về với Hà Giang.

Dăm năm trở lại đây, phong trào đi du lịch tự túc hay còn gọi là đi “phượt” của giới trẻ dường như đã đi vào “nền nếp”. Đầu năm đi ngắm hoa ban, hết ban lại đến dã quỳ, rồi đến tam giác mạch, cuối năm ngắm mận, ngắm đào. Vậy là hết một năm “phượt”! Mùa hoa tam giác mạch luôn gọi lòng người lữ khách, bởi dịp tháng mười, trời đất chuyển mùa, cái lạnh chưa sâu, nắng nóng đã dịu, ở Hà Giang nở rộ những cánh đồng hoa. Hoa tam giác mạch mong manh, mùa ngắn, rộ nhất chừng 10 đến 15 ngày… Hoa này có cái lạ là càng ở “đất khổ” hoa càng đẹp. “Đất khổ” ở đây nên hiểu là những triền núi cao, dốc, thiếu nước, lắm đá sỏi. Tam giác mạch là một loại thực phẩm của người dân vùng cao, trồng thâm canh gối vụ, thường là sau vụ ngô. Năng suất tam giác mạch thấp, thực tế thì vụ tam giác mạch chỉ góp vào bữa phụ của đồng bào.

 

 

Nhưng đó là bữa phụ quý giá giữa hai mùa, lúc giáp hạt. Đi chợ vùng cao, nếu để ý một chút, du khách có thể được thưởng thức một số loại bánh làm từ hạt tam giác mạch. Ngoài ra còn có rượu tam giác mạch, một đặc sản nổi tiếng chỉ có ở vùng cao nguyên đá. Hoa tam giác mạch, xét cho cùng cũng không phải là loài hoa quá đẹp. Nhưng hãy thử tưởng tượng, một thảm hoa tam giác mạch mượt mà, trải rộng ôm khắp rặng núi đá đen rầu rĩ, phả lên đó một thứ màu hồng phơn phớt tím, man mác. Đứng trước những cảnh tượng đối lập và hùng vĩ đó, người ta hoàn toàn bị choáng ngợp. Và đó cũng là lý do khiến đến tháng mười là “dân phượt” lại ngứa ngáy chân muốn cất bước lên đường tới Hà Giang.

 

Thời gian qua, tiếng hay của mùa hoa tam giác mạch đã lưu truyền rộng rãi và Hà Giang được đón rất nhiều du khách đến từ khắp mọi miền trên Tổ quốc. Du khách đến Hà Giang, đến cao nguyên đá, mang lại một vài mối lợi từ các dịch vụ ăn theo du lịch như dịch vụ ăn uống, dịch vụ ngủ nghỉ, dịch vụ cho thuê nương, vườn chụp ảnh… Tuy vậy, cũng có nhiều trường hợp người nông dân phải hứng chịu những thiệt hại từ các du khách vô ý thức. Như đã biết, ruộng nương đồng bào thường làm rất xa nhà, và rõ ràng không có sức đâu mà trông hết các thửa ruộng. Nhiều bạn du lịch “phượt” ngắm những cánh đồng hoa đó, say đắm quá mà nếu có nằm lăn vào giữa ruộng để chụp ảnh thì cũng chỉ mất giỏi lắm là một bát mạch của dân. Ấy thế nhưng có những bạn phi cả xe máy vào giữa ruộng của dân để chụp ảnh thì thiệt hại ấy khó mà thống kê nổi. Trên rất nhiều diễn đàn, mạng xã hội, cộng đồng du lịch “phượt” lên án rất gay gắt những bức ảnh khoe xe máy giữa vườn hoa như vậy. Thái độ đó của các bạn trẻ rất đáng hoan nghênh, vì xét cho cùng, mình đi chơi, đi du lịch, ngắm cảnh rất nên gìn giữ cho người đến sau, và quan trọng nhất là đừng để thiệt thòi cho người nông dân, những người đã tạo nên mùa hoa đẹp.

 

Nguồn: Vietnamtourism.gov.vn

Ấn tượng thác Vực Bà

Từ tuyến đường liên xã Bình Minh-Bình An thuộc huyện Bình Sơn rẽ vào xóm Bá Lăng, thôn Mỹ Long (Bình Minh) và tiếp tục hành trình vào núi sẽ gặp thác Vực Bà. Khe nguồn thác nước cùng với câu chuyện dân gian tạo cho nơi đây nét thơ mộng và pha một chút gì tiềm ẩn thần thoại.

Đầu nguồn thác nước dài đến mấy cây số, rất nhiều khe suối nhỏ hợp thành. Trên đoạn ấy có thác giê, nước từ trên cao đổ xuống không nhiều, gợi cho người ta cảm giác giống như nhà nông giê thóc. Một bãi rộng mênh mông, vô số những hòn đá cuội, người địa phương gán cho nơi ấy cái tên “sân bay”… Rồi bờ đá đột nhiên cắt ngang dòng chảy tạo nên thác Vực Bà.

 

 

Mặc dù rừng phòng hộ không còn nhiều, phần lớn là rừng trồng nhưng ngay cả khi nắng hạn nhất, thác Vực Bà nước vẫn chảy. Khu vực chính của thác kể từ bờ đá đến vực sâu dài hơn trăm mét, rộng khoảng bốn chục mét có bình độ tương đối. Một không gian nghệ thuật mở ra với những tác phẩm đá do thiên nhiên tạo nên. Về màu sắc có chỗ đá màu đen của năm tháng rêu phong, có chỗ mặt đá trắng và nhẵn thín như ai đó gia công mài giũa thành. Không phải chỉ một tảng mà cả bãi dài nhiều tảng đá trắng trơn như thế.

Về hình thù cũng khá đặc biệt, có đá muỗng đường to đồ sộ, bởi nó giống như chiếc muỗng đựng đường của nghề làm đường thủ công Quảng Ngãi trước đây. Rồi những hang, hốc sâu khoét vào những tảng đá to, vừa đẹp, vừa gợi cảm tò mò “nước chảy đá mòn” hay thiên nhiên kỳ bí làm nên. Mà nếu nước chảy đá mòn thì trải bao nhiêu năm tháng? Còn bàn tay siêu nhiên tác động vào, phải chăng có liên quan đến tên Vực Bà có từ xa xưa, đến nỗi người già nhất vùng cũng chỉ nghe cha ông mình kể lại. Hai bên vách núi không cao lắm nhưng cheo leo, hiểm trở với những đoạn vách đá xen triền đất, dường như không thấy một dấu tích lở núi nào.

Đứng từ thác nhìn về phía hạ du ta có cảm giác như đi qua một đường hầm dài uốn lượn tít tắp, hai bờ vách rừng xanh ngắt, rồi mở ra trời mây, ruộng, làng. Nước thác Vực Bà chảy vào sông Sau rồi cuối cùng chảy vào sông Trà Bồng. Vào mùa mưa bão thác đổ ầm ầm, âm thanh vang xa vài cây số. Vào mùa khô nước chảy róc rách triền miên trong không gian tĩnh lặng như tiếng đàn nước. Đẹp ấn tượng là mùa xuân, thác chảy vừa phải, âm thanh khi trầm khi bổng hòa trong nắng gió mùa xuân và hoa rừng đua nở. Tiếng chim rừng mùa nào cũng có, khi gần, khi xa, lúc khoan thai, lúc ríu rít góp phần làm nên nhạc điệu của thác Vực Bà.

 Người dân xóm núi Bá Lăng coi Vực Bà là nơi kỳ bí, nơi mạch nguồn của vùng cao khô hạn chỉ biết nhờ nước trời. Câu chuyên thần thoại chưa có lời giải thích là thác có khả năng báo hiệu trời mưa. Người địa phương kể rằng mặc dù trời đang nắng hạn nhưng nếu tối hôm trước mà nghe tiếng thác Vực Bà đổ ầm ầm thì chiều hôm sau nhất định sẽ có mưa giông. Lặp đi lặp lại như thế nên người ta dệt nên câu chuyện thần kỳ rằng có con cá to ngăn dòng nên thác mới đổ như thế và mưa về tưới cho xóm làng, ruộng đồng. Ngày ấy người xóm Bá Lăng hằng năm mang lễ vật vào thác để cúng, có người khơi nguồn xin dẫn nước về tưới hoa màu như sức sống của “Mẹ Nước” siêu nhiên.

 Quê hương Bá Lăng ngày nay đã đổi thay nhiều, nông nghiệp vườn rừng phát triển, tình người chân thật. Nguồn nước thác Vực Bà đang được khai thác để tưới cho hầu hết diện tích trong vùng. Vẻ đẹp và những câu chuyện dân gian về thác cùng với bạt ngàn rừng sẽ là nơi khai thác du lịch sinh thái hấp dẫn.

Nguồn: Vietnamtourism.gov.vn

Nghệ thuật điêu khắc gỗ độc đáo của người Cơ Tu, Quảng Nam

Trải qua những biến động, thay đổi của thời gian, những tác phẩm điêu khắc gỗ có giá trị về đời sống sinh hoạt, lao động – sản xuất, tâm linh – tín ngưỡng của người Cơ Tu vẫn được giữ gìn qua các thế hệ.

Với dân số khoảng 40.000 người, dân tộc Cơ Tu ở Quảng Nam, cư trú trên một địa bàn rộng lớn từ vùng biên giới Việt-Lào đến vùng phía Đông; họ lập làng nơi đầu nguồn con suối; chủ yếu ở ba huyện Đông Giang, Tây Giang và Nam Giang. Ngoài những phong tục tập quán, văn hóa, lễ hội và những nghi thức bản địa độc đáo, riêng biệt tồn tại từ xưa đến nay, người Cơ Tu còn có một loại hình nghệ thuật đặc sắc thể hiện về thế giới cuộc sống xung quanh cũng như khát vọng lưu giữ, bảo tồn những giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể truyền thống của dân tộc mình, đó là nghệ thuật điêu khắc gỗ…

 

Điêu khắc của người Cơ Tu có từ lâu đời. Ở các Gươl làng hay trong từng mái nhà của đồng bào đều được trang trí bằng điêu khắc đủ loại. Điêu khắc về con người, loài vật hay những sinh hoạt cộng đồng, lễ hội… Trước đây, do chiến tranh tàn phá, điêu khắc của người Cơ Tu bị mai một, bị lãng quên… Từ khi có nghị quyết Trung ương V khóa 8 của Đảng về vấn đề giữ gìn và phát huy nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, người Cơ Tu đã thực hiện rất tốt chủ trương này và từng bước khôi phục nghệ thuật điêu khắc, làm phong phú thêm cho đời sống tinh thần của mình…

 

Ngày nay, ở các xã vùng cao các huyện Tây Giang, Nam Giang, Đông Giang của tỉnh Quảng Nam vẫn còn giữ được loại hình Gươl (ngôi nhà sinh hoạt chung của cộng đồng làng) truyền thống; có rất nhiều làng, bản người Cơ Tu đã khôi phục được Gươl theo đúng kiểu dáng kiến trúc và các tác phẩm nghệ thuật điêu khắc gỗ, hội họa truyền thống; đặc biệt là những bức tranh điêu khắc trên gỗ rất đa dạng và sống động. Với những bức tượng và những tấm tranh điêu khắc gỗ đã làm cho Gươl trở thành một biểu tượng, là niềm tự hào của người Cơ Tu – là nơi thể hiện những tinh túy của nghệ thuật điêu khắc, hội họa trong kết cấu xây dựng nhà cửa.

 

Các bức tranh điêu khắc gỗ của người Cơ Tu là những nét phát họa đơn giản, với những nhát gọt, đẽo không cầu kỳ về đường nét… song cũng phản ánh được nhân sinh quan, thế giới quan của người Cơ Tu về vũ trụ, trời đất, vạn vật cũng như phong tục, tập quán, sinh hoạt, lao động, sản xuất… Với những dụng cụ đơn sơ tự tạo như cái rựa, cái rìu, cái đục… các nghệ nhân người Cơ Tu đã khéo léo đục đẽo nên những bức tranh gỗ đầy màu sắc và cực kỳ sinh động. Đó có thể là những bức tranh diễn tả những sinh hoạt, lao động, sản xuất, vui chơi thường ngày của người Cơ Tu như: uống rượu, sàng gạo, giã gạo, múa tung tung-ya yá, đánh chiêng, đánh trống, thổi kèn… trên những bức tranh điêu khắc gỗ dài; hoặc những bức tranh đặc tả các công đoạn của nghề truyền thống của người Cơ Tu như nghề rèn; hay diễn tả một buổi đi săn của các chàng trai.

 

Hai màu chủ đạo, người Cơ Tu rất hay sử dụng để tô lên những bức tranh điêu khắc là màu chàm đen – là màu của đất (Abhuyh-Catiếc) và màu đỏ – là màu của mặt trời (Abhuyh-plêếng). Đây là hai màu sắc của hai vật thiêng không thể thiếu trong đời sống của người Cơ Tu. Màu đỏ lấy từ củ nâu, màu chàm từ cây tà râm, màu nâu từ củ ma rớt để trang trí trên tượng gỗ.

 

Có thể nói những bức tranh điêu khắc gỗ của đồng bào Cơ Tu là những tác phẩm nghệ thuật độc đáo, chỉ bằng kinh nghiệm, bằng sự tiếp nối truyền thống, bằng khả năng quan sát thực tiễn, các nghệ nhân đã tạo nên những bức tranh điêu khắc gỗ mộc mạc, nguyên sơ từ chất liệu, ý tưởng, đường nét, bố cục đến cả màu sắc của tác phẩm.

 

Nguồn: Vietnamtourism.gov.vn

Đắm mình trước vẻ đẹp như thơ của Thung lũng Vàng

Cách trung tâm thành phố Đà Lạt khoảng 15km về hướng Tây Bắc, nằm bên cạnh hồ Đan Kia Suối vàng, khu du lịch Thung lũng vàng là một trong những địa điểm du lịch được ưa chuộng của du khách khi đến Đà Lạt.

Hồ Đan Kia Suối vàng nằm dưới chân núi LangBiang. Đây là một hồ nước nhân tạo cung cấp nước cho thành phố Đà Lạt. Trong quần thể rừng thông bạt ngàn và mênh mang đồi cỏ có diện tích 170ha, Thung lũng vàng là khu du lịch sinh thái được sự ưu đãi đặc biệt của thiên nhiên.

 

 

Khách vào cổng, đi theo con đường láng nhựa chạy quanh co hai bên là rừng thông bạt vút thẳng tắp đưa khách đến khu vực trung tâm. Thông và đồi cỏ làm nền cho hoa, đá, hồ nước, thác nước và nhiều cảnh quan đẹp là đặc điểm của Thung lũng Vàng.

 

Trên lưng chừng đồi thông có một dòng suối nhân tạo dài khoảng 1 cây số, những lớp đá được sắp đặt có chủ ý nhưng cứ như vô tình giống dòng suối tự nhiên. Nước từ suối này đổ xuống và chia thành hai dòng chảy có tên là Tĩnh và Động. Loanh quanh qua con đường đất, hai dòng suối nhập lại một rồi đổ về làm quay bánh xe nước thật lớn với đường kính khoảng 6m. Dòng suối và bánh xe nước này khiến khách có thể liên tưởng đến hình ảnh guồng nước ở các sông miền Trung hay núi rừng miền Bắc.

 

Xa xa, lại thấp thoáng những chiếc cầu tre lắc lẻo, những ụ rơm, giếng nước, bánh xe gỗ, nhà chòi… gợi nên hình ảnh đồng quê Nam bộ.

 

Chiếm diện tích lớn nhất Thung lũng vàng là hoa viên cây cảnh với nhiều giống cây quý được trồng tỉa, chăm sóc rất công phu. Tại đây có thể thấy được thông 5 lá Việt Nam, thông 5 lá Trung Quốc, bạch tùng, thanh tùng, tùng búp, tùng xà ngũ phúc, thông đỏ, vườn hoa đỗ quyên…; một số giống cây từ nước ngoài du nhập vào như voong ke, hồng sa mạc, phong lữ thảo, cây lá phong…. Và rất nhiều các loại hoa khác đặc trưng của Đà Lạt như cẩm tú cầu, thạch thảo, mimosa… được trồng theo từng cụm, từng vạt tha hồ cho du khách suýt xoa và tranh thủ chụp hình.

 

Cuối vườn bonsai có cây bồ đề gần 300 năm tuổi. “Cỏ cây chen lá đá chen hoa”, những phiến đá đủ hình thù tạo cho vườn hoa vẻ đẹp rất riêng, không tìm thấy ở các khu du lịch khác của Đà Lạt như Thung lũng tình yêu hay Đồi mộng mơ, hồ Than thở…

 

Thơ mộng và có vẻ huyền ảo là những khu vui chơi với những cái tên gợi sự khám phá như vườn đá Tứ Linh, bức tượng lớn có hình dáng vị thần đang gieo hạt, khu vui chơi Thái cực, Đại viên cảnh, hồ Lưỡng nghi, cùng những viên đá lót lối đi lên đồi được xếp theo hình quẻ “Thiên hỏa đồng nhân” trong Kinh Dịch, mỏ neo khổng lồ…

 

Nơi tận cùng của Thung lũng vàng là hồ Đan Kia Suối vàng. Đứng trên triền dốc nhìn xuống là một vùng nước tĩnh lặng, mênh mông bát ngát, hàng thông rũ bóng xuống mặt hồ đẹp như một bức tranh thuỷ mặc. Bên kia hồ cũng bạt ngàn rừng thông, gợi thèm cảm giác phiêu lưu.

 

Đến đây, bạn có thể nằm dài trên đồi cỏ nghe tiếng thông reo, xa xa lẫn trong tiếng nhạc thông vẳng lại tiếng cười nói của từng đoàn khách đang cắm trại. Mùi thịt nướng lẩn quất đâu đó, khói bay tỏa nhẹ trong không gian thanh bình, yên ả. Một vài đôi bạn trẻ ngồi tâm sự, cùng những tiếng cười nhẹ nhàng của những cô bé, cậu bé đang tìm những cảnh đẹp bên hồ hay quanh những gốc thông.

 

Dạo chơi hết khuôn viên Thung lũng vàng, có thể chụp cả trăm tấm hình từ vạt cỏ xanh dưới thung lũng, đến đồi hoa, rừng thông… đến khi nào mỏi chân, máy hình hết pin mới thôi!

 

Nguồn: Vietnamtourism.gov.vn

Sắc màu văn hóa Yang Bay

Giữa không gian núi rừng, tiếng đàn đá, tiếng mã la vang lên những thanh âm độc đáo như muốn níu giữ bước chân du khách đến với Công viên du lịch Yang Bay.

 

Cách TP. Nha Trang khoảng 40km về phía Tây, Công viên du lịch Yang Bay (xã Khánh Phú, huyện Khánh Vĩnh) thừa hưởng vẻ đẹp của cánh rừng nguyên sinh với thác nước hùng vĩ. Đến đây, du khách được hòa mình vào không gian thiên nhiên rợp mát bóng cây và tiếng chim rừng ríu rít. Để tô điểm cho cảnh sắc núi rừng, những người làm du lịch ở Yang Bay đã khéo léo khai thác những sắc màu văn hóa độc đáo. Bước chân vào cổng khu du lịch, du khách bắt gặp ngay hình ảnh cây Mộc thần sừng sững. Mộc thần  gồm 3 cây: 2 cây cổ thụ  Da và Sanh đan xen, một cây rừng nhỏ mọc trong hộc cây của cây Da. Dân gian truyền miệng rằng đây là nơi cư ngụ của thần Rừng Yang Bay. Ba cây là ba thành viên của gia đình Thần rừng. Đặc biệt Mộc thần có 8 bành rất lớn tượng trưng cho 8 mặt của Thần rừng để trông coi 8 hướng của trời đất. Mộc thần rất linh thiêng nên bà con Raglai hàng ngày trước khi ra vào rừng đều dừng lại thắp hương và cầu khấn. Bà con truyền miệng rằng: Mộc thần 8 mặt (8 bành) ban phúc 8 vấn đề quan trọng trong đời, cụ thể là: sức khỏe, tình duyên, sự nghiệp, học hành, gia đình, tiền bạc, cầu tự,  tâm an. Trước kia, mỗi lần đồng bào đi rừng đều đến bên gốc cây này xin thần linh ban cho những điều may mắn. Còn bây giờ, cây Mộc thần trở thành nơi để du khách gửi những dải lụa cầu may cho bản thân, gia đình.

 

Ấn tượng nhất ở Yang Bay là nét văn hóa bản địa luôn được lưu giữ. “Với mong muốn du khách gần xa biết được những nét đẹp văn hóa của người dân địa phương, từ nhiều năm nay, chúng tôi đã thành lập và duy trì đội văn nghệ người Raglai biểu diễn phục vụ du khách”, ông Nguyễn Phi Trường – Phó Giám đốc Công viên du lịch Yang Bay cho biết. Đội văn nghệ hiện có 11 người chuyên biểu diễn các tiết mục ca múa nhạc mang màu sắc truyền thống dân tộc Raglai: từ những vũ điệu Raglai uyển chuyển, đến câu hát giao duyên mượt mà; từ thanh âm trầm ấm của dàn mã la, đến tiếng réo rắt của bộ đàn đá. Cùng với đó là âm thanh quyện hòa của những loại nhạc cụ được làm bằng tre như: Đàn Chapi, đàn Tơ rưng, đàn Krong put, sáo Ta Cung, sáo Tale Piloy… Những nhạc cụ đơn sơ, mộc mạc đã chuyển tải đến du khách nhiều cảm xúc. “Anh chị em trong đội văn nghệ đều rất yêu thích ca múa, nhất là được biểu diễn những lời ca, điệu múa, tiếng đàn của dân tộc mình. Tại đây, chúng tôi có cơ hội giao lưu, giới thiệu cho mọi người vẻ đẹp trong tâm hồn người Raglai thông qua những lời ca tiếng hát mang âm hưởng núi rừng”, anh Cao Dy – Đội trưởng đội văn nghệ Yang Bay chia sẻ.


Điểm nhấn của văn hóa bản địa ở Yang Bay chính là lễ hội “Huyền thoại Yang Bay” được tổ chức vào trung tuần tháng 7 hàng năm. Yang Bay trong tiếng Raglai có nghĩa là “thác trời” và nó gắn chặt với truyền thuyết kể về mối tình của chàng Cau Sơn – chàng trai hiền lành, chất phác người Raglai với nàng Tiên Út. Trong lễ hội, thông qua hình thức sân khấu hóa, các diễn viên đã tái hiện vẻ đẹp của đồng bào Raglai trong lao động, vui chơi…


Để du khách hiểu rõ hơn về đời sống, sinh hoạt của đồng bào Raglai, trong Công viên du lịch Yang Bay có không gian tái hiện ngôi nhà sàn truyền thống của người dân nơi đây. Tại đây, du khách được xem những công cụ lao động, sản xuất, những bộ trang phục dân tộc, dàn nhạc cụ của người Raglai. Du khách có dịp trò chuyện với những thiếu nữ Raglai để biết thêm những điều thú vị về cuộc sống của người dân địa phương. “Nét đẹp văn hóa nơi đây thực sự tạo cho chúng tôi những ấn tượng đẹp”, chị Nguyễn Phương Nguyên – du khách đến từ Bình Dương chia sẻ. Còn với du khách nước ngoài, họ luôn bị thu hút bởi những điều mới lạ ở Yang Bay. “Cảnh quan thiên nhiên tuyệt vời. Công viên có nhiều hoạt động văn hóa, biểu diễn văn nghệ mang màu sắc truyền thống, điều này khiến tôi thực sự nhớ mãi”, chị Eremina Yuliya – du khách Nga tâm sự.


Để hướng tới một điểm đến thân thiện dành cho du khách, đồng thời duy trì nét độc đáo của riêng mình, những người làm du lịch ở Yang Bay đang không ngừng nỗ lực để khai thác hiệu quả nét đẹp văn hóa bản địa của đồng bào Raglai. “Hướng tới cộng đồng dân cư ở địa phương, giúp họ có điều kiện cải thiện thu nhập, đồng thời bảo tồn được những nét đẹp trong văn hóa truyền thống được chúng tôi xem là một hướng đi mang tính bền vững”, ông Nguyễn Phi Trường cho biết.  


Trong bối cảnh du lịch văn hóa đang trở thành xu hướng phổ biến, có thể nói, những hoạt động ở Công viên du lịch Yang Bay đang góp phần đa dạng hóa sản phẩm du lịch ở Khánh Hòa.

 

Nguồn: Vietnamtourism.gov.vn

Nam Ô – Một pho sử liệu và văn hóa độc đáo

Nam Ô là một làng thuộc phường Hòa Hiệp Nam, Liên Chiểu, Đà Nẵng. Nằm cạnh quốc lộ 1A và đường sắt Bắc – Nam, cách trung tâm thành phố khoảng hơn 10 km về phía Tây Bắc, Làng Nam Ô hình thành song song với quá trình Nam tiến của nước Đại Việt.

Tên gọi Nam Ô chính là cửa ô phía Nam của Đại Việt thời ấy, vì vậy Nam Ô có giá trị lịch sử của quốc gia chứ không chỉ đơn thuần là một tên làng. Nơi đây đã chứa đựng một đời sống tinh thần và tâm linh khá phong phú. Đó là hệ thống di tích lịch sử, văn hóa, tâm linh có giá trị. Trong khu vực này có các di tích mà dân làng Nam Ô đang giữ gìn như Dinh Âm hồn, Lăng Cá Ông, Miếu Bà Liễu Hạnh…

 

 

Là vùng đất được bao bọc bởi núi, sông hùng vĩ, biển cả bao la, Nam Ô được xem là nơi có phong cảnh hữu tình, thuận lợi cho việc phát triển kinh tế biển, xây dựng nền văn hóa đậm đà bản sắc địa phương.

 

Theo các cụ cao niên thì trong các trận chiến chống quân Pháp đánh cửa biển Đà Nẵng vào các năm 1858, 1859, 1862, quân lính triều đình của 2 đồn Nam Ô, Cu Đê và dân binh địa phương tử trận rất nhiều, nên triều đình vua Tự Đức sau đó đã có sắc dụ cho các dân xã lập âm linh để tưởng nhớ tử sĩ trận vong. Vua Thành Thái khi lên ngôi đã sắc dụ cho các nơi lập Âm Hồn Đàn để tưởng vọng các tử sĩ đã bỏ mình trong biến cố thất thủ kinh đô 1885. Miếu Âm Linh sau này dân làng mở rộng thờ thập loại chúng sinh, cô hồn phiêu phương và các âm hồn xiêu mồ lạc nấm của chư phái tộc họ trong làng. Điều đó thể hiện tính nhân văn sâu sắc của di tích, phù hợp với tinh thần uống nước nhớ nguồn và tinh thần nhân đạo của dân tộc ta.

 

Lăng Ông Ngư là di tích được xây dựng từ thời Vua Gia Long (1802), chính là văn hóa tâm linh thờ cá ông. Lúc đầu Lăng có kiến trúc như sườn gỗ, tường đá trác vôi vữa, mái lợp lá kè. Đến năm Tự Đức thứ 4 (1851) Lăng được tôn tạo to đẹp hơn. Năm Bảo Đại thứ 10 (1935), Lăng được làm mới, mái lợp ngói âm dương. Từ đó đến nay Lăng được sửa chữa gia cố nhiều lần nhưng vẫn giữ được vẻ cổ kính, tôn nghiêm, nằm trên khuôn viên rộng chừng 360m2, cách mép nước biển khoảng 50m để dân làng tế lễ hàng năm.

 

Miếu Bà Liễu Hạnh gắn với tục thờ mẫu của cư dân Đại Việt trên vùng đất mới, được nhân dân làng Nam Ô lưu truyền nhiều đời. Bà Chúa Liễu Hạnh nằm trong tín ngưỡng đặc biệt của dân tộc là tục thờ “tứ bất tử” (gồm Tản Viên, Thánh Gióng, Chử Đồng Tử và Liễu Hạnh). Tục thờ Bà Chúa Liễu Hạnh là một giá trị văn hóa tinh thần rất đẹp của dân tộc ta.

 

Về mặt cảnh quan tự nhiên, điều thu hút của Nam Ô là một nơi cửa sông Cu Đê tiếp biển, với rạn hay còn gọi là ghềnh đá tuyệt đẹp ẩn hiện trong làn sóng biển, bao bọc một khu rừng nguyên sinh đầy huyền tích của làng.

 

Ghềnh Nam Ô chỉ rộng khoảng hơn 2ha nhưng chứa đầy những huyền tích. Điều kỳ lạ là dân làng Nam Ô đang ở chen chúc nhau với mật độ dân cư rất cao, nhiều kiệt hẻm chỉ đủ cho một người đi nhưng dân cư không bao giờ lấn vào khu rừng thiêng hay chặt phát cây trong rừng. Chính vì vậy, ở ngay gần khu đô thị sầm uất, rừng Nam Ô vẫn giữ được vẻ nguyên sinh với màu xanh bất tận như một lá phổi của cánh Bắc quận Liên Chiểu. Du khách đến đây sẽ được chiêm ngưỡng tuyệt tác của thiên nhiên qua những dải đá ngầm phân bố dày đặc, có đá chồng lên đá, có nơi sâu khoảng vài mét tạo nên khung cảnh khá hoang sơ.

 

Ghềnh Nam Ô xưa kia từng là ngư trường của ngư dân các quận huyện lân cận bởi đây có môi trường khá lý tưởng cho nhiều loài cá trú ẩn, cùng với đó là có nhiều rong tảo nên cung cấp một lượng thức ăn phong phú cho đủ loài cá khác nhau. Ngư dân ở vùng này xem nơi đây như một kho báu để khai thác hải sản.

 

Vào những ngày đẹp trời, bãi rạn nước êm đềm hiền hòa như người thôn nữ e ấp nhưng khi biển động thì từng cơn sóng dội ầm ầm vào những tảng đá to tạo thành cơn thịnh nộ của cuồng phong, sóng biển sẵn sàng hất tung đến vài mét. Những ngày hè oi ả, ghềnh thu hút nhiều bạn trẻ đến đây vui chơi, hẹn hò đôi lứa hay tổ chức picnic cùng đám bạn.

 

Nam Ô còn là làng nghề pháo cổ truyền một thời và hiện tại đây là làng nghề nước mắm nổi tiếng toàn quốc. Nghề pháo ở Nam Ô là nghề cổ truyền thủ công sản xuất ra pháo nổ và pháo hoa.

 

Người dân Nam Ô tôn vinh cụ Cửu Mai là tổ nghề pháo Nam Ô. Cụ Cửu Mai tên thật là Ngô Mai (18?? – 1957) quê gốc tỉnh Quảng Ngãi, là người có rất nhiều tài. Trên đường “hành hóa” qua Nam Ô, nhìn thấy phong thủy nơi đây đầy vượng khí, phong cảnh tuyệt đẹp, sản vật sung túc nên cụ quyết định ở lại. Cụ chữa bệnh cứu người bằng cây thuốc và nước khoáng, biết gọi “âm binh, thiên tướng”, lại biết cách làm pháo nổ, pháo hoa. Dân làng Nam Ô xem cụ như một vị phù thủy, gọi cụ một cách tôn kính là Thầy Ngài.

 

Năm Bảo Đại thứ mười (1934), nhà vua làm đại lễ cưới Nam Phương Hoàng hậu. Nghe tài năng của cụ Mai, vua bèn triệu cụ về kinh đô Huế để dựng giàn pháo hoa kịp trình diễn trong ngày khánh lễ. Giàn pháo đã gây sức hấp dẫn mãn nhãn tuyệt vời cho vua, quan và dân chúng kinh thành. Từ đó vua ban cho cụ Mai hàm Chánh Cửu phẩm nên dân làng gọi cụ là Cửu Mai.

 

Tiếp đó, đúng lúc vạn mành trùng tu lăng Ngư Ông của làng Nam Ô, cụ Mai phát tâm hiến cúng một giàn pháo hoa và những tràng pháo cho lễ lạc thành. Dưới sự chỉ dẫn của cụ, một giàn pháo tuyệt đẹp đã kịp trình làng cho lễ lạc thành ngày 21/5 năm Giáp Tuất. Sự kiện đặc biệt này đã thu hút đông đảo dân chúng đến xem. Tất cả mọi người có mặt đều ngỡ ngàng trước một cảnh kỳ vĩ lung linh của màu sắc pháo trên bầu trời mà trong đời lần đầu tiên được thấy. Đêm pháo hoa đó đã đặt nền móng khởi sinh nghề pháo cho làng Nam Ô.

 

Đến năm 1994, vì yếu tố môi trường, an ninh và kinh tế, Thủ tướng Chính phủ có chỉ thị cấm sản xuất, buôn bán và đốt pháo. Tuy nghề pháo không còn nhưng người dân nơi này vẫn không quên người đã truyền nghề cho mình để sản xuất những dây pháo thương phẩm có chất lượng, từng vang bóng một thời…

 

Qua một ngày tham quan thỏa thích, du khách có thể ghé vào một quán bình dân trong làng để thưởng thức món gỏi cá Nam Ô đầy mặn mà pha lẫn hương vị cay nồng tuyệt đỉnh của ẩm thực xứ Quảng.

 

Gỏi cá với rau tươi các loại được cuốn trong bánh tráng mỏng và chấm nước chấm, ăn cùng với bánh tráng nướng hoặc có thể trộn chung thành món “lẩu thập cẩm” thì ngon tuyệt. Bởi vậy, một thực khách đã tả vị ngon của gỏi cá Nam Ô: “Thịt cá ngọt mát. Nước chấm đậm bùi. Vị riềng, ớt cay thơm quyện với hương vị các loại lá. Ăn kèm khế chua và chuối xanh chan chát… Vị ngon như ngấm vào chân răng, đầu lưỡi, chạy thẳng xuống đến dạ dày…”.

 

 

Nguồn: Vietnamtourism.gov.vn

Bản tình ca mùa thu Tây Bắc

Nghĩ đến Tây Bắc, du khách thường chọn Sa Pa (Lào Cai) như một điểm dừng chân lý tưởng, nhưng hành trình của chúng tôi lại đi theo cung đường mới, phía Tây của Tây Bắc, qua bốn tỉnh Yên Bái, Sơn La, Điện Biên, Hòa Bình.

 

Mùa thu trên từng hoa lúa

 

Điểm bắt đầu là Mù Căng Chải (Yên Bái). Không nhộn nhịp, dập dìu du khách như Sa Pa, Mù Căng Chải mang trọn nét nguyên sơ, tinh khôi của núi rừng Tây Bắc. Chúng tôi nhanh chóng bị hút hồn bởi những thửa ruộng bậc thang nối nhau vắt ngang qua những triền đồi; nhìn từ xa giống như những dải lụa xanh ngắt, vàng óng xen lẫn, tạo thành nhiều hình dạng khác nhau.

 

Con đường chinh phục Tây Bắc luôn quanh co, uốn lượn. Qua mỗi khúc quanh, cảnh sắc liên tục thay đổi khiến du khách náo nức, mắt như không dám chớp bởi sợ bỏ lỡ một cảnh đẹp nào đó. Dù sáng, trưa hay chiều, tối, mây trắng luôn bồng bềnh trên những đỉnh núi và sà xuống lưng chừng đồi. Thỉnh thoảng lại có dòng thác nhỏ trắng xóa đổ xuống khe núi, bên dưới chân núi là dòng suối uốn quanh mềm mại. Dọc hai bên đường, những dải hoa cúc dại trắng tinh khôi và hàng loạt những loài hoa dại khác thi nhau khoe sắc.

 

Ở địa phận Mường La (Sơn La), du khách còn được chiêm ngưỡng công trình thủy điện Sơn La lớn nhất Đông Nam Á (công suất 2.400MW, sản lượng điện bình quân hàng năm trên 10,2 tỷ kWh). Con đập ngăn dòng đã biến sông Đà hùng vĩ với dòng chảy cuồn cuộn, màu nước “lừ lừ chín đỏ” thành một hồ nước mênh mông xanh thẳm với lưu vực rộng đến 43.760km2. Những thảm lúa mượt mà dọc hai bên sườn đồi cùng mặt hồ phẳng lặng tạo nên bức tranh thủy mặc khổng lồ đẹp đến nao lòng.

 

Có lẽ không nơi nào phù hợp hơn để du khách cảm nhận trọn vẹn nhất không khí của mùa thu như ở Tây Bắc. Nắng vừa đủ vàng cho hoa thêm biếc, nước thêm trong… Và đặc biệt, với Tây Bắc, không chỉ mũi, phổi mà từng tế bào trên cơ thể của bạn cũng được “thở”.

 

Chếnh choáng say

 

Giai điệu ngọt ngào nhất của bản tình ca Tây Bắc chính là hình ảnh của các thiếu nữ vùng cao. Du khách vùng xuôi đến đây dù chưa nếm men rượu vẫn không khỏi có chút chếnh choáng trước vẻ duyên dáng của thiếu nữ Thái với má thắm, môi hồng, mắt lúng liếng, miệng cười duyên. Hầu hết phụ nữ Thái có dáng người cao ráo, thanh mảnh, bộ váy áo truyền thống ôm sát người càng làm tôn lên vẻ uyển chuyển, thanh tao. Đặc biệt, không chỉ nấu ăn giỏi, họ còn hát múa rất hay.

 

Dừng chân ở bản Noong Chứn, thành phố Điện Biên hay bản Lác (Mai Châu, Hòa Bình), chúng tôi được tận mắt xem phụ nữ Thái chuẩn bị bữa ăn với gần chục món như xôi đồ, cá nướng, gà nướng, thịt băm nướng lá chuối, lợn gác bếp, nộm da trâu… Những phụ nữ vừa làm bếp đó nhanh chóng hóa thân thành các diễn viên múa thết đãi du khách bữa tiệc tinh thần mang đậm nét văn hóa bản địa. Điệu múa thổ cẩm khoe vẻ đẹp tinh tế của hoa văn dệt qua chiếc khăn, là cách để họ khoe sự khéo léo của mình đến… phía đàng trai. Điệu múa mời rượu chào mừng khách đến nhà, thể hiện lòng hiếu khách của gia chủ…

 

Cô gái Mông lại mang nét đẹp khỏe khoắn, khoáng đạt với làn da rám nắng và bước chân thoăn thoắt trên những sườn đồi. Chiếc váy xòe thổ cẩm đầy sắc màu tung tăng theo từng bước chân. Các cô luôn đem theo tấm vải và kim chỉ để thêu váy mọi lúc mọi nơi. Khi tụ tập nơi đầu hè, khi xuống chợ hay dọc theo đường đi, bên những thửa ruộng; vừa đi đôi tay vẫn liên tục điều khiển các mũi kim. Để thêu xong một chiếc váy, có thể mất đến đôi ba tháng. Chiếc váy như một bản hòa ca của các sắc màu và hoa văn; màu nào cũng nổi song vẫn rất hài hòa. Không được cởi mở như phụ nữ Thái, cô gái Mông thường e thẹn nhìn du khách cười và ngập ngừng trả lời khi được hỏi.

 

Đậm đà hương vị thiên nhiên

 

Ẩm thực Tây Bắc mang đặc trưng hương vị của thiên nhiên. Đến nơi nào chúng tôi cũng được thưởng thức món xôi đồ, từ loại nếp nương thơm trồng trên vùng núi cao suốt sáu tháng. Lúa ở đây được tạo nên từ những dưỡng chất của đất trời trong lành, vậy nên xôi có vị ngọt bùi rất đặc trưng.

 

Người Tây Bắc rất thích ăn món nướng hoặc gác bếp. Họ có cách kết hợp những loại gia vị của rừng ướp vào thịt, cá để khi nướng lên tạo ra một mùi thơm và hương vị độc đáo. Gia vị chủ đạo cho các món như pa pỉnh tộp (cá nướng gập), gà nướng, thịt băm nướng lá chuối, lợn gác bếp… là hạt mắc khén (chỉ có ở núi rừng Tây Bắc) và lá thì là. Không chỉ vậy, trước khi ướp, các gia vị muối, ớt đều được rang lên để tạo mùi thơm. Còn gì tuyệt vời hơn trong tiết trời lành lạnh của mùa thu, ngồi trên nhà sàn thưởng thức món nướng và nhấp chén rượu ngô cùng bạn bè.

 

 

 

Nguồn: Vietnamtourism.gov.vn

Khám phá làng lụa Hà Đông giữa lòng Hà Nội

Người Sài Gòn ai cũng biết đến bài “Áo lụa Hà Đông” của Nguyên Sa với hai câu thơ nổi tiếng “Nắng Sài Gòn anh đi mà chợt mát. Bởi vì em mặc áo lụa Hà Đông”. Dệt nên những tấm lụa mềm mại ấy là những nghệ nhân làng lụa Vạn Phúc, cách trung tâm Hà Nội chỉ 10km.

 

Làng lụa Vạn Phúc (nay thuộc phường Vạn Phúc, quận Hà Đông, Hà Nội) là một làng nghề dệt lụa tơ tằm đẹp nổi tiếng từ ngàn năm trước, được công nhận kỷ lục “Làng nghề dệt lụa tơ tằm lâu đời nhất còn duy trì hoạt động đến ngày nay” do Trung tâm sách kỷ lục Việt Nam trao tặng. Đây là điểm tham quan rất nổi tiếng tại Hà Nội, mỗi tháng đón từ 3.000 đến 5.000 khách du lịch.

 

 

Chúng tôi đến thăm làng lụa Vạn Phúc vào một chiều đầu thu. Trước cổng làng, nép mình dưới tán cây cổ thụ xanh rì là tảng đá màu trắng xám đầy vẻ nguyên sơ với dòng chữ: “Làng lụa Vạn Phúc” cách điệu mềm mại như lụa.

 

Bước qua cánh cổng làng uy nghi sừng sững, nắng chiều thu vàng hoe hoe kẻ loang lổ lên màu gạch đỏ au, như nét màu nghịch ngợm của đứa trẻ lên năm, chúng tôi như lạc vào thế giới của sắc màu. Dọc hai bên đường, những gian hàng lụa san sát, như một cuộc tụ hội của sắc màu: xanh, đỏ, tím, vàng, nâu, đen, trắng… Sắc màu rực rỡ của những tà áo thướt tha, những chiếc khăn mềm mại, những chiếc túi thanh lịch và long lanh ánh mắt, tươi rói nụ cười của những cô bán hàng.

 

Nằm bên bờ sông Nhuệ, làng lụa Vạn Phúc vẫn còn giữ được ít nhiều nét cổ kính của làng quê xưa với hình ảnh cây đa cổ thụ, giếng nước, sân đình, buổi chiều họp chợ dưới gốc đa trước đình.

 

Cánh cổng tre đậm nét Việt dẫn vào khu giới thiệu, nơi đưa khách du lịch đến gần hơn với lụa Vạn Phúc, với hai câu đối: “Chấn hưng nghiệp Tổ kết tinh hoa/Hòa hợp âm dương sinh bảo vật” thể hiện niềm tin, sự quyết tâm gìn giữ, bảo tồn nghề truyền thống của ông cha truyền lại. Trong khu giới thiệu trưng bày mô hình một khung dệt lụa cổ có từ đầu thế kỉ 19 là công cụ lao động đem lại sự phồn thịnh của làng nghề Vạn Phúc suốt bao nhiêu thế kỉ. Trên từng thanh gỗ in hằn những vết chân thời gian, được đặt uy nghiêm trong lầu tứ trụ nâng đỡ mái lợp ngói mũi hài, uốn cong bốn góc mềm mại, chạm trổ phượng long, rèm tre rủ bốn phía. Hiện nay những khung dệt máy thay dần cho những khung dệt thủ công vì thế khung dệt lụa cổ ấy như ôm vào lòng mình bao thăng trầm của làng lụa Vạn Phúc.

 

Du khách không chỉ đắm mình vào những màu sắc tươi rói của lụa với đủ thứ mặt hàng đa dạng, đẹp mắt như quần, áo, túi, ví, khăn, gối hay những tấm lụa nguyên bản,… trong gian hàng trưng bày mà còn được lắng nghe âm thanh rộn ràng của khung cửi, tiếng lách cách của con thoi, những âm thanh đã trở thành nhịp điệu cuộc sống nơi đây. Chúng tôi được một nghệ nhân giới thiệu về quy trình hoạt động của chiếc máy dệt lụa, chị vừa thoăn thoắt tay làm vừa hồ hởi: “Công việc này đòi hỏi sự tỉ mỉ, cẩn thận, chịu khó. Khi khung dệt chạy, lúc nào cũng phải có người túc trực bên để khi sai lỗi thì chỉnh sửa kịp thời để có được một tấm lụa đẹp, đảm bảo chất lượng.”

 

Được chạm tay lên tấm lụa mềm mịn, mát rượi, óng ả như đánh thức mọi giác quan, lòng chợt nhớ hai câu thơ của nhà thơ Nguyên Sa trong bài thơ “Áo lụa Hà Đông”: “Nắng Sài Gòn anh đi mà chợt mát/ Bởi vì em mặc áo lụa Hà Đông”. Hoa văn trang trí trên vải lụa rất đa dạng và tinh tế như mẫu Song hạc, mẫu Thọ Đỉnh, mẫu Tứ Quý… khiến cho các bộ trang phục trở nên duyên dáng, sống động. Dường như những nghệ nhân đã gửi cả cái tình đằm thắm vào từng đường kim, mũi chỉ.

 

Đền thờ Tổ Nghề trầm mặc, mái ngói đỏ au dẫu qua bao mưa nắng như thắm mãi sự tôn kính, lòng biết ơn đối với cha ông đã gây dựng lên làng nghề Vạn Phúc. Tương truyền rằng Tổ nghề là bà Lã Thị Nga, con một gia đình hào phú ở Cao Bằng, một lần theo chồng là Cao Biền đi kinh lí ở ấp Vạn Bảo, thấy đất đai trù phú, bà xin ở lại ấp dạy dân trồng dâu, nuôi tằm, dệt lụa. Trong hậu cung của đền thờ vẫn bày những thúng sơn, thước sơn, kéo bằng sắt, vạch bằng ngà là những đồ dùng của thợ may. Hàng năm cứ vào ngày mùng 10 tháng 8 và 25 tháng chạp âm lịch, làng Vạn Phúc lại nô nức lễ hội giỗ tổ.

 

Cây cầu gỗ cong cong màu son đỏ bắc qua con suối nhỏ róc rách chảy dẫn sang đền thờ chủ tịch Hồ Chí Minh nép mình bên um tùm cây cối. Khu giới thiệu như hình ảnh thu nhỏ của làng Vạn Phúc, lưu giữ những nét xưa giữa ồn ào phố thị. Dạo quanh những con đường nhỏ giữa làng, chúng tôi đặt chân vào không gian linh thiêng của chùa Vạn Phúc khi bóng tối đã mỏng mảnh như khói loãng dần trong hoàng hôn. Theo lời kể của một người trong làng, ngôi chùa là nơi hàng trăm thợ thủ công làng Vạn Phúc và gần 600 thợ vùng nam Hoài Đức đấu tranh đòi cải thiện đời sống cho nhân dân lao động, tố cáo tội ác của thực dân Pháp vào ngày 6/2/1937. Đây là cuộc đấu tranh công khai đầu tiên của nhân dân Vạn Phúc trong thời kì cao trào cách mạng dân chủ 1936-1939. Vì thế ngôi chùa không chỉ là một địa chỉ tâm linh mà còn mang đậm dấu ấn lịch sử. Giữa hồ nước xanh thăm thẳm, tượng Phật Bà Quan Âm bằng đá trắng ngự trên đài sen hướng ra con đường chạy qua trước cổng làng.

 

Chúng tôi còn được thăm đình làng Vạn Phúc, miếu làng, chợ làng,… những nét vẽ đơn sơ, cổ kính phác họa lên hình ảnh một làng nghề truyền thống giữa lòng thủ đô.

 

 

Nguồn: Vietnamtourism.gov.vn

Du thuyền trên sông Tranh

Thử một lần du thuyền trên lòng hồ sông Tranh (Bắc Trà My) để cảm nhận vẻ đẹp nguyên sơ giữa sắc nước mây trời.

 

Khởi đầu Bến Cá (thôn Tư, xã Trà Tân), đi giáp hết một vòng quanh hồ du khách mất khoảng 1 giờ đồng hồ ngồi ghe máy, dù thời gian hơi lâu nhưng bù lại sẽ được chiêm ngưỡng cảnh đẹp hoang sơ với những ngọn đồi lúp xúp cây bụi cùng những ngọn núi mờ xa, tất cả hiện hữu như một bức tranh tĩnh lặng đầy màu sắc. Trên chuyến hành trình, thỉnh thoảng bạn sẽ bắt gặp vài thân cây khô gầy guộc đứng chỏng chơ giữa lòng hồ hay những vạt đồi bạc trắng, dấu vết còn lại của một thời chặn dòng tích nước, nhấn chìm bao cánh rừng nơi đây xuống đáy. Tuy nhiên, điểm tạo nên nét sinh động giữa lòng hồ chính là những lồng nuôi cá của người dân thả trên sông và những con thuyền nhỏ nhoi cắm sào hững hờ ven bến dưới chân đồi. Hiện nay trên lòng hồ có khoảng 10 hộ dân nuôi cá bè với trên 100 lồng cá các loại như diêu hồng, rô phi, trê…. Nếu thong thả du khách có thể ghé vào bè mua vài con cá diêu hồng hay trắm cỏ nhờ gia chủ chế biến thưởng thức tại chỗ để cảm nhận hương vị thơm ngon đặc trưng của núi rừng mà không phải nơi nào cũng có được.

 

Hồ thủy điện Sông Tranh có diện tích mặt nước rộng lớn hơn 2400ha nên đi thuyền luôn mang đến cho du khách những cảm xúc thú vị, bất chợt nhận ra cái bé nhỏ hữu hạn của con người trước thiên nhiên vô cùng. Còn với những nhà lữ hành, dù Thủy điện Sông Tranh không kỳ vĩ như Thủy điện Hòa Bình hay Sơn La ở miền Bắc nhưng du lịch hồ thủy điện Sông Tranh vẫn sẽ là điểm nhấn hấp dẫn để đưa khách hành trình ngược núi tìm về địa danh đã trở nên quá “nổi tiếng” trong nước với các sự cố rò rỉ và động đất để làm lên những tour “du lịch mạo hiểm” ăn theo đầy ngoạn mục. Chắc chắn sẽ ít du khách bỏ qua cơ hội được tham quan chân đập cao hàng vài chục mét hay xuống những căn hầm vận hành máy nằm sâu dưới lòng đất để thấy được sức mạnh phi thường của bàn tay và khối óc con người khai phá tạo dựng lên.

 

Một chuyến hành trình du ngoạn trên hồ không nhiều tốn kém nhưng sẽ mang lại nhiều trải nghiệm bất ngờ thú vị. Chỉ cần đến bến đò Bến Cá, nơi luôn có những chiếc ca nô của người dân sẵn sàng đưa khách tham quan hồ với giá phải chăng, và họ – những hướng dẫn viên nhiệt tình sẽ mang đến sự hài lòng cao nhất cho bất kỳ ai muốn được trải nghiệm cảm xúc phiêu bồng non nước nơi đây.

Nguồn: Vietnamtourism.gov.vn

Làng cổ bên dòng Ô Lâu

Làng cổ Phước Tích (xã Phong Hòa, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên – Huế) còn lưu giữ khá nguyên vẹn những yếu tố gốc của làng cổ vùng văn hóa Huế và miền Trung.

Ngôi làng để lại ấn tượng ngay với khách tham quan bởi vẻ cổ kính, đậm chất làng quê miền Trung, với những mái nhà cổ rêu phong ẩn mình trong những tàng cây xanh mát và không khí yên bình. Đường vào làng là con đường độc đạo, được lát gạch hoặc trải bê tông khang trang, sạch sẽ. Hai bên đường là hai hàng chè tàu xanh mướt, được cắt tỉa gọn gàng, uốn lượn theo trục đường làng, ngõ xóm và ngăn cách khuôn viên từng nhà.

 

 

Nhìn từ trên cao hoặc qua bản đồ, dòng Ô Lâu như một dải lụa xanh bao quanh 3 mặt làng Phước Tích. Các nhà thờ họ và đình làng đều hướng mặt ra sông Ô Lâu. Ông Lương Vĩnh Viễn, 71 tuổi, hướng dẫn viên, người làng Phước Tích cho biết, từ khoảng nửa cuối thế kỷ XV, ông Hoàng Minh Hùng từ Nghệ An cùng 12 dòng họ di cư đến vùng đất này lập làng, bắt đầu làm nghề gốm. Từ trục đường chính bên dòng Ô Lâu, người xưa đã xây dựng 12 bến nước để thuận tiện cho việc đưa gốm xuống thuyền mang đi các nơi tiêu thụ.

 

Hiện nay làng Phước Tích có 19 dòng họ, 117 hộ với 327 nhân khẩu. Người làng Phước Tích không làm nông nghiệp. Con cháu người làng Phước Tích học hành đỗ đạt và lập nghiệp khắp nơi. Vì vậy, khách đến làng Phước Tích vào những ngày bình thường chỉ gặp phụ nữ và người già. Điều đó cũng góp phần làm nên khung cảnh rất đỗi thanh bình, êm ả cho ngôi làng cổ này. “Mỗi dòng họ trong làng có một nhà thờ họ riêng. Khi có việc họ, con cháu lại tụ tập về đứng chật sân, tràn cả ra đường làng. Như họ tôi đây (họ Lương Vĩnh – PV) có đến gần 300 người. Việc họ xong, con cháu đi hết, làng lại trở về với nếp sống thanh bình, tĩnh lặng”, ông Lương Vĩnh Viễn nói thêm. Làng tuy vắng vẻ là thế nhưng tình hình an ninh trật tự rất tốt. “Mùa hè, người làng Phước Tích ngủ chẳng cần đóng cửa vào ban đêm. Ai có để quên xe máy ngoài đường thì sáng ra vẫn ở đó”, ông Lương Vĩnh Viễn giới thiệu đầy tự hào về làng mình.

 

Theo anh Nguyễn Ngọc Nam, cán bộ Ban quản lý di tích kiến trúc nghệ thuật làng cổ Phước Tích, làng có hơn 30 căn nhà cổ, được xây dựng từ khoảng những năm 1850 – 1870, trong đó 24 căn còn khá nguyên vẹn. Các ngôi nhà cổ ở làng có 2 kiểu kiến trúc: 3 căn, 2 chái và 1 căn, 2 chái (nhà vuông), trên lợp ngói liệt dày, hệ thống cột kèo chắc chắn. Trước mỗi ngôi nhà cổ thường có bình phong, hồ cá cảnh mà theo quan niệm của người xưa là để chắn gió và các thứ ô tạp không vào được. “Nếu không có việc gì quan trọng, cửa chính của các ngôi nhà cổ luôn đóng, chỉ mở cửa phụ hai bên. Theo quan niệm xưa, phụ nữ sống trong các ngôi nhà này phải ở phòng dưới, lúc ăn uống ít khi được ngồi cùng mâm với nam giới và khi đi qua gian giữa thì phải cúi đầu”, ông Lương Vĩnh Viễn giải thích.

 

Hiện nay, hoạt động du lịch ở làng cổ Phước Tích đã được chuyên nghiệp hóa. Thế nhưng, dịch vụ du lịch của làng còn khá đơn điệu. Khách đến thăm làng chủ yếu mới được tham quan nhà cổ, lò gốm và cùng trải nghiệm làm rồi thưởng thức các loại bánh Huế như: bánh lá, bánh nậm, bánh lá gai, bánh su sê… Nhưng có lẽ đấy là nếp sống vốn có của một ngôi làng cổ mà du khách thích khám phá.

 

 

Nguồn: Vietnamtourism.gov.vn

TIN MỚI NHẤT