Điểm đến du lịch

Những địa điểm du lịch hấp hẫn những địa điểm du lịch trong nước, địa điểm du lịch nước ngoài được chúng tôi tổng hợp và đưa tin đến Quý bạn đọc đam mê du lịch có cái nhìn tổng quan nhất về các địa danh du lịch để quyết định cho mình cho những chuyến du lịch ý nghĩa nhất

Thung lũng Bắc Sơn, thiên đường màu xanh

Thung lũng Bắc Sơn là một địa điểm có cảnh sắc tuyệt đẹp tại huyện Bắc Sơn, tỉnh Lạng Sơn.

 

Mới đây, cánh đồng lúa chín tuyệt đẹp của Bắc Sơn đã được trang web nổi tiếng chuyên tư vấn du lịch Whenonearth giới thiệu trên trang web với nhiều lời ca ngợi, thán phục bởi vẻ đẹp của thắng cảnh này.

 


Whenonearth đã dùng mỹ từ “Thiên đường màu xanh hiếm có trên trái đất” để miêu tả và ca ngợi cánh đồng lúa trong thung lũng Bắc Sơn.


Là một huyện thuộc tỉnh Lạng Sơn, cách Thủ đô Hà Nội 160km về phía bắc. Từ Hà Nội đi theo quốc lộ 3 tới Thái Nguyên rồi theo quốc lộ 1B, di chuyển thêm gần 80km là tới Bắc Sơn. Bởi là một huyện vùng cao, người dân nơi đây chủ yếu là đồng bào dân tộc Tày, do đó những nét truyền thống của ông cha xưa như: tục nhà gái chăng dây đón rể ngày cưới; những trò chơi dân gian ném còn, đánh đu…vẫn được người dân giữ gìn khá nguyên vẹn. Những ngôi nhà sàn giống nhau cùng quay về hướng Đông Nam của người dân nơi đây càng khiến cho vẻ đẹp của thung lũng Bắc Sơn trở nên độc đáo hơn. Cuộc sống tại vùng đất này luôn bình yên, người dân hiền hòa và đặc biệt là cảnh sắc thiên nhiên vô cùng ấn tượng.


Nếu chỉ đi trên con đường qua thị trấn nằm giữa thung lũng, sẽ khó để chiêm ngưỡng cảnh sắc của toàn bộ thung lũng. Để có thể ngắm nhìn thung lũng Bắc Sơn trọn vẹn, du khách phải leo lên những đỉnh núi cao. Nếu như may mắn đến với Bắc Sơn đúng mùa lúa chín, chắn chắn cảnh sắc nơi đây sẽ khiến bất kỳ ai cũng muốn trở lại để có thể chiêm ngưỡng lần thứ 2.

 

Được bao bọc bởi những dãy núi đá vôi, Bắc Sơn hiện ra trong mây khói mờ ảo với vẻ đẹp mê hoặc, kỳ vĩ của núi, của mây, của những đồng lúa xanh mướt hút tầm mắt..


Địa hình Bắc Sơn bằng phẳng thuận lợi cho việc tưới tiêu nên lúa được trồng 2 vụ và thường thu hoạch muộn hơn đa số các vùng khác từ nửa tháng tới một tháng. Lúa ở Bắc Sơn được trồng không cùng thời điểm nên có ruộng thu hoạch trước, ruộng thu hoạch sau tạo thành những mảng màu đặc sắc. Đặc biệt, người nông dân ở Bắc Sơn thường thu hoạch bằng máy nên tốc độ thu hoạch rất nhanh và tạo thành những hình thù rất lạ mắt trên đồng ruộng.

 

Mặc dù đẹp nhất vào mùa lúa chín, khoảng từ tháng 7 đến cuối tháng 11, khi đó những bông lúa chín vàng nhuộm một màu vàng ruộm, óng ả lên cả vùng thung lũng rộng lớn, song thực tế du khách có thể chiêm ngưỡng vẻ đẹp ấn tượng của vùng đất này vào tất cả các mùa trong năm, mỗi mùa Bắc Sơn khoác lên mình một màu sắc khác  Nếu đến Bắc Sơn vào thời điểm khi lúa mới cấy, toàn bộ không gian sẽ hiện ra một màu xanh mướt của nước, của mạ non, thật đúng như lời ví von của Whenonearth – “Thiên đường màu xanh hiếm có trên trái đất”.


Cảnh sắc Mỹ Sơn còn được tô điểm bởi những con sông, con kênh nhỏ uốn lượn cắt ngang, chạy dọc những cánh đồng trong thung lũng. Núi, mây, sông, nước, ruộng lúa, những mái nhà sàn…tất cả hòa quyện tạo thành bức tranh đông quê hoàn hảo mang tên Việt Nam.

 

Nguồn: Vietnamtourism.gov.vn

Vườn Quốc gia Xuân Sơn điểm đến hấp dẫn của ngày cuối thu

Nằm trên địa bàn huyện Tân Sơn, tỉnh Phú Thọ, Vườn Quốc gia Xuân Sơn bắt đầu trở thành một điểm đến mới của dân thích du lịch phía Bắc. Bởi nơi đây vẫn giữ được vẻ nguyên sơ, hoang dã; khí hậu quanh năm mát mẻ.

Cách Hà Nội chỉ khoảng 120km, Vườn quốc gia Xuân Sơn như mời gọi dân du lịch bụi, ưa thám hiểm bởi cái “danh là một trong số 15 vườn quốc gia lớn nhất Việt Nam, nơi có môi trường sạch sẽ, mát mẻ, nhiệt độ trung bình năm từ 22-23 độ C. Và lý thú hơn nữa là một ngày ở đây có đủ tiết trời của 4 mùa: buổi sáng mát mẻ của mùa Xuân, buổi trưa ấm áp của mùa Hè, buổi chiều hiu hiu như mùa Thu, buổi tối trời se lạnh đặc trưng của mùa Đông.

 

 

Từ Hà nội đi qua Sơn tây theo đường 32 tới Thanh Sơn, chạy tiếp tới ngã ba có cái cầu đi Phú Thọ thì trước cầu rẽ trái là lối đi Cổ Tiết, chạy theo đường QL xuyên qua khu rừng trồng phi lao và cả chè bạn sẽ nhìn thấy biển chỉ đường tới “Vườn Quốc Gia Xuân Sơn”. Nếu đi xe máy, bạn có thể len lỏi trong những con đường nhỏ để thâm nhập sâu vào rừng. Rồi nếu không kìm được cái khát khao được khám phá, được tự mình mò mẫm trong rừng xanh thì hãy tìm nơi gửi xe để rồi bắt đầu một cuộc trekking kỳ thú. Tuy nhiên, nếu đã có ý định sống trong rừng thì hành trang theo mình cũng cần đẩy đủ để sẵn sàng hoang dại một vài ngày và chớ quên những dụng cụ phòng thân cũng như đồ sơ cứu cần thiết.

 

Bên cạnh sự đa dạng về hệ sinh thái, Vườn quốc gia Xuân Sơn còn cuốn hút với hệ thống suối thác, từ những con suối hiền hòa, những thác nước nhỏ cho đến những đèo dốc núi cao với những con thác bạc đổ nước trắng xóa. Dân du lịch còn truyền nhau sự kỳ bí của khu rừng quý sau những chuyến thám hiểm 16 hang động đá với thạch nhũ đẹp rủ xuống thành muôn hình kỳ lạ. Động Tiên là một hang ngầm trong lòng núi đá cẩm thạch dài 10km. Trong hang có đường thông gió lên thẳng đỉnh núi, làm cho không khí trong lành mát dịu. Hồ nước có nhiều loài cá lạ hấp dẫn. Các hang Thổ Thần, hang Na, thác nước Lưng Trời cũng có sức quyến rũ du khách với vẻ đẹp kỳ vĩ.

 

Rải rác quanh vườn quốc gia là các bản người Mường, người Dao vẫn còn nguyên văn hoá cổ truyền. Đa, nên bạn cũng dễ dàng xin được “home stay” tại các gia đình bản địa để trải nghiệm đời sống sinh hoạt hàng ngày của người dân tộc như đan lát đồ dùng, dệt thổ cẩm, hay những buổi sinh hoạt văn hóa như đâm đuống, múa xòe, thưởng thức những món ăn miền sơn cước….

 

Cứ mỗi bước khám phá vườn quốc gia, lại là những cảm giác đầy lý thú khi được thoả chí tưởng tượng, cảm nhận và trải nghiệm những hấp dẫn núi rừng, hang sâu, dễ khiến những bước chân lữ hành phải chùn lại, nghiêng mình trước vẻ đẹp mà tạo hoá đã dành tặng Xuân Sơn.

 

Nguồn: Vietnamtourism.gov.vn

Du lịch Cúc Phương, hành trình trở về với thiên nhiên

Chỉ cách Hà Nội 120 cây số về phía Tây Nam, Vườn Quốc gia Cúc Phương (Ninh Bình) như một bảo tàng thiên nhiên, lưu giữ hệ động, thực vật trên hệ núi đá vôi phong phú bậc nhất ở nước ta.

Đến Cúc Phương, du khách sẽ được chiêm ngưỡng những cây cổ thụ ngàn năm, những loài thực vật tồn tại từ lâu đời, những loài chim quý hiếm tuyệt đẹp…

 

 

Nghe tiếng Cúc Phương đã nhiều, từ rất lâu khi còn ngồi trên ghế nhà trường với những giờ sinh học, địa lý… Ấy vậy mà mới gần đây chúng tôi mới chọn nơi đây là địa điểm du lịch vì nghĩ rằng, Cúc Phương… kém hấp dẫn, so với các bãi biển đầy nắng gió, những thành phố hiện đại tha hồ có chỗ ăn, chỗ chơi, chỗ mua sắm… Song, khi đến với Cúc Phương chúng tôi mới biết mình lầm! Với hệ sinh thái phong phú, Cúc Phương rất phù hợp với những người thích nghỉ dưỡng, tham quan, đắm mình vào khung cảnh thiên nhiên hoang sơ; chứ không phải là những người đi du lịch để tìm nơi hát karaoke hay vũ trường sôi động. Ở Cúc Phương, thú vị nhất là hoạt động cắm trại và đi bộ trên những con đường mòn nhỏ, tìm đến những loài cây quý hiếm trong khu rừng rậm rạp. Bên cạnh đó là các hoạt động khác như chạy xe đạp xuyên rừng, tham gia một khóa du lịch ngắm chim, tìm về hang động người xưa hay đi bộ xuyên rừng già. Đơn giản hơn nữa là ngồi thư giãn đung đưa nhịp chân trên chiếc xích đu ngay trước khu nhà nghỉ và mở một bữa tiệc nho nhỏ trong không gian xanh mướt. Người lớn có thể dạy cho con trẻ học về thiên nhiên, cho chúng biết về thế giới sinh vật như các loài côn trùng, các loài cây và những loài hoa dại.

 

Nghe được lời khuyên của những người đã từng đến Cúc Phương nên chúng tôi đi du lịch vào thời điểm đẹp nhất, từ tháng 12 đến tháng 4 năm sau. Như bao du khách khác, chúng tôi chọn tuyến đi trải nghiệm đầy đủ với thăm Động Người Xưa đầu tiên, rồi tham quan Bảo tàng động vật quý hiếm. Sau bữa tối là chương trình giao lưu đốt lửa trại, liên hoan văn nghệ và ngủ đêm tại nhà sàn giữa rừng. Sáng ngày hôm sau, sẽ đi khám phá một số điểm du lịch độc đáo khác như: Vườn thực vật Cúc Phương, trung tâm du khách Cúc Phương, trung tâm cứu hộ thú linh trưởng Cúc Phương, cây đăng cổ thụ, cây chò ngàn năm, bản người Mường, đỉnh mây bạc, hồ Yên Quang-động Phò Mã, Hang Con Moong, Động Trăng Khuyết…

 

Hiện nay, Vườn quốc gia Cúc Phương có ba khu vực lưu trú, ăn uống và vui chơi giải trí hoàn thiện, bao gồm: Khu cổng Vườn, khu Hồ Mạc và khu Trung tâm, du khách có thể nghỉ chân tại các phòng nghỉ hiện đại, tiện nghi, vệ sinh khép kín hay nhà sàn tập thể, phòng nghỉ đơn giản với giá cả phải chăng. Nếu khách du lịch thích tự túc, bạn cũng có thể chuẩn bị những đồ ăn sẵn mang đi theo suốt cuộc hành trình của mình như: Cơm nắm, muối vừng, xôi, cơm lam… hoặc có thể thưởng thức những món ăn vừa ngon vừa rẻ ở nơi đây. Nếu như đi du lịch vào mùa mưa nên chuẩn bị cho mình và cả đoàn những loại kem bôi chống các loại côn trùng, vì vào mùa mưa trong rừng rất lắm loại côn trùng có thể “làm phiền” chuyến du lịch của bạn.

 

Kết thúc chuyến đi hai ngày tới Cúc Phương, chúng tôi biết rằng, mình sẽ còn quay lại nơi đây cùng với gia đình và bạn bè. Để chia sẻ với nhau những phút giây trải nghiệm với thiên nhiên Cúc Phương, sau những khoảng thời gian làm việc mệt mỏi cũng như cuộc sống thành thị xô bồ. Nếu bạn chưa có dịp được đến với Cúc Phương, thì còn chờ gì nữa? Hãy xách ba lô lên và bắt đầu cuộc hành trình trở về với thiên nhiên.

 

 

Nguồn: Vietnamtourism.gov.vn

Mì Quảng – đậm đà hương vị miền Trung

(TITC) – Mì Quảng là đặc sản nổi danh không chỉ ở vùng đất Quảng Nam mà còn phổ biến ở cả khu vực miền Trung.  

Mì Quảng có nhiều loại khác nhau như mì gà, tôm, thịt, trứng, bò, sứa, cá lóc…, mỗi loại mang một hương vị đặc trưng riêng, không lẫn vào đâu. Hòa quyện cùng sợi mì trắng ngà, mềm mại là vị thanh ngọt và béo của nước hầm xương, mà người dân địa phương vẫn quen gọi là nước lèo hay nước nhưng.

Sợi mì Quảng làm từ loại gạo không dẻo, hàm lượng bột cao nhưng phải đảm bảo độ kết dính. Gạo được ngâm ít nhất trong vòng 1 tiếng, sau đó cho vào cối xay mịn, tráng thành những lá mì mỏng, xếp chồng lên nhau và thái sợi. Để những sợi mì không dính, phải dùng dầu phụng (hay còn gọi là dầu lạc) phi thơm với củ nén đập dập thoa lên bề mặt của lá mì.

Nước lèo được chế biến từ nhiều loại nguyên liệu khác nhau tùy từng loại mì. Với mì Quảng truyền thống thì nguyên liệu chính là tôm và thịt heo tươi. Tôm sau khi bỏ đầu, làm sạch thì được ướp cùng với thịt. Một ít tôm được để riêng, giã nát rồi cho vào nước lèo tạo vị ngọt tự nhiên. Tôm và thịt sau khi ướp sẽ được chao bằng dầu phụng cho đủ độ thấm và nấu với nước lèo. Nếu là mì gà thì để có một nồi nước lèo ngon, phải lọc thịt nạc của gà để ướp rồi đem xào. Xương và những phần còn lại của gà cho vào nồi nước ninh kỹ. Để tạo váng màu đỏ sóng sánh cho nước lèo, người ta xào hạt điều với mỡ rồi cho vào nồi nước, chờ khi nước sôi già mới đổ thịt gà đã xào vào và nêm gia vị vừa ăn.

Bên cạnh đó, việc chuẩn bị rau sống và các loại phụ liệu khác cũng là một công đoạn không thể thiếu. Rau dùng cho mì Quảng bao gồm 9 loại là cải non, xà lách tươi, húng lủi, quế xanh, giá trắng, rau răm, ngò rí, hành hoa và hoa chuối thái mỏng. Đặc biệt, đậu phộng rang và bánh tráng mè nướng giòn sẽ làm tăng thêm hương vị độc đáo cho mì Quảng. Bên cạnh bát mì còn có một chén nước mắm chanh, tỏi, ớt để nêm cho vừa ăn.

Đến với Quảng Nam, đâu đâu du khách cũng đều có thể dễ dàng tìm đuợc một quán mì Quảng. Có những quán vách nứa mái tranh bên sườn núi, có quán nằm yên ả bên những cánh đồng xanh mướt, có quán lại lọt thỏm giữa phố thị ồn ào. Mì Quảng hiện diện trong bữa ăn của người dân địa phương như là một thói quen cũng như là thứ đặc sản dùng để tiếp đãi khách và bạn bè phương xa. Chính điều này là một nét hấp dẫn riêng níu chân du khách mỗi khi có dịp ghé thăm mảnh đất này. 

Phạm Phương

Nguồn: Vietnamtourism.gov.vn

Hòn Tằm – đảo thiên đường giữa vịnh Nha Trang

Người xưa ví von Hòn Tằm như một con tằm xanh giữa nương dâu xanh ngát hướng về biển Đông vì vị trí và hình dáng đặc biệt của hòn đảo này.

Bạn hãy thử tưởng tượng một ngày nào đó khi tia nắng đầu tiên rọi vào tận chiếc giường êm ái đánh thức bạn dậy trong tiếng chim hót lảnh lót trong khu vườn sát bên bungalow. Nhìn ra phía biển, bạn thấy Mặt Trời vàng rực đang từ từ nhô lên giữa biển khơi. Bạn sẽ bật dậy, tung tăng chạy trên bãi cát trắng mịn, hít thở không khí trong lành và tâm hồn lâng lâng mỉm cười đón chào ngày mới hứa hẹn thật nhiều niềm vui tại Hòn Tằm. 

 

 

Người xưa ví von Hòn Tằm như một con tằm xanh giữa nương dâu xanh ngát hướng về Biển Đông vì vị trí và hình dáng đặc biệt của hòn đảo. Giữa Vịnh Nha Trang xanh và êm ả, khí hậu luôn mát mẻ, đầy nắng và gió, hòn đảo nhiệt đới này không chỉ giàu sức sống với biển xanh quyến rũ và cát trắng mịn màng, mà còn được phủ xanh bát ngát bởi rừng nguyên sinh nhiệt đới. Tổng thể thiên nhiên ấy làm bất cứ du khách nào đặt chân lên hòn đảo cũng phải ngây ngất trước vẻ quyến rũ mà tạo hóa đã ưu ái ban cho hòn đảo này. Từ lâu, Hòn Tằm đã nổi tiếng là một địa điểm lý tưởng dành cho du lịch sinh thái tại Việt Nam. 

 

Chỉ một lần đến với Hòn Tằm, du khách sẽ đắm chìm trong trời biển bao la đẹp như huyền thoại và lắng đọng tâm hồn để nhận ra giá trị từng khoảnh khắc thời gian. Hãy đắm mình vào thiên nhiên và tận hưởng cuộc sống tuyệt vời ở chính nơi trời biển bao la giao hòa với nhau này qua tập phim S – Việt Nam sau đây.

 

Nguồn: Vietnamtourism.gov.vn

Chợ đêm Bến Tre – điểm tham quan, mua sắm về đêm thú vị

(TITC) – Nằm trên tuyến đường Phan Ngọc Tòng và đường Hùng Vương (từ cầu Bến Tre 1 đến đường Nguyễn Huệ), TP. Bến Tre, chợ đêm Bến Tre bắt đầu đi vào hoạt động từ năm 2012 để phục vụ nhu cầu mua sắm, giải trí, giao lưu văn hóa của người dân địa phương và du khách. 

Chợ đêm Bến Tre gồm 183 gian hàng, trong đó có 128 gian thương mại (hàng may sẵn, hàng lưu niệm, hàng thủ công mỹ nghệ…), 11 gian ẩm thực và 44 gian trái cây. Chợ hoạt động từ 17h00 đến 22h00 hàng ngày.

Các gian hàng của khu chợ được bố trí trên 2 trục đường có nhiều nhà hàng, khách sạn lớn từ một đến ba sao của TP. Bến Tre như: nhà hàng Nam Sơn (đường Phan Ngọc Tòng); khách sạn Hàm Luông, Việt Úc, Hùng Vương, Đại An (đường Hùng Vương… cùng nhiều khách sạn khác trong khu vực trung tâm thành phố. Những khách sạn này cách khu chợ đêm khoảng vài trăm mét nên rất thuận tiện cho du khách tản bộ để tham quan mua sắm. Du khách có thể thuê xe đạp tại khách sạn để tự do dạo quanh khu chợ đêm náo nhiệt này. Những mặt hàng được bày bán ở chợ rất phong phú, đa dạng với giá cả phải chăng. Du khách có thể chọn cho mình những món quà để làm kỷ niệm hoặc tặng cho bạn bè, người thân nhân chuyến du lịch về quê hương xứ dừa Bến Tre. Ngoài các mặt hàng thời trang, lưu niệm, chợ đêm còn bày bán rất nhiều loại trái cây tươi ngon do những chủ nhà vườn trực tiếp đem đến bán cùng nhiều món đặc sản của miền quê sông nước Bến Tre. Rất nhiều du khách nước ngoài đến Bến Tre cũng có thú vui tham quan, mua sắm tại chợ đêm. Mặc dù bất đồng ngôn ngữ nhưng với sự hiếu khách và kinh nghiệm của người bán hàng, họ vẫn mua được những món hàng mà mình thích.

Không chỉ nằm ở vị trí thuận lợi cho các hoạt động giao thương, buôn bán, lại nằm dọc theo dòng sông Bến Tre thơ mộng, chợ đêm Bến Tre còn phù hợp cho việc tổ chức các dịch vụ thương mại kết hợp du lịch, ngắm cảnh vào ban đêm. Đến đây, du khách sẽ cảm nhận được Bến Tre lãng mạn về đêm qua những ánh đèn lung linh ở hai bên bờ sông được nối liền bởi cây cầu Bến Tre xinh đẹp. Sẽ tuyệt vời hơn nếu du khách có dịp đi dạo trên cầu để ngắm nhìn toàn cảnh thành phố khi màn đêm buông xuống và hít thở không khí trong lành của miền quê sông nước.

Chợ đêm Bến Tre là sản phẩm du lịch vừa phục vụ người dân địa phương vừa đáp ứng nhu cầu tham quan, mua sắm và thưởng thức ẩm thực về đêm của du khách trong và ngoài nước. Việc đưa chợ đêm Bến Tre vào hoạt động cũng đã góp phần thúc đẩy phát triển du lịch, nhất là lưu giữ khách ở lại dài ngày tại xứ dừa Bến Tre.

Phạm Phương

Nguồn: Vietnamtourism.gov.vn

Hấp dẫn chè Huế

(TITC) – Nói đến ẩm thực Huế không thể không nhắc đến chè Huế với thực đơn chè 36 món. Vị ngọt thanh hấp dẫn của các loại chè Huế khiến du khách nếm thử một lần sẽ lưu luyến không quên.  

Chè Huế có từ lâu đời, là đỉnh cao của nghệ thuật chế biến để tạo nên một trong ngũ vị đặc trưng (mặn – ngọt – chua – cay – đắng) của ẩm thực Huế. Chính vì thế, trong cung đình trước đây, chè là món tráng miệng không thể thiếu trong bữa ngự thiện của các vua triều Nguyễn. Bên cạnh chè cung đình, các món chè dân dã bình dị không chỉ là món ăn ưa thích hàng ngày của mọi tầng lớp nhân dân Huế mà còn được người dân dùng để cúng tế nhân dịp lễ, tết như món quà dân dã, ngọt ngào dâng lên các bậc tiền nhân.

Chè Huế có nét đặc sắc riêng về hương vị, màu sắc, độ ngọt, thanh, thơm dịu, béo, bùi hòa quyện… là nhờ vào nguyên liệu đặc trưng và nghệ thuật chế biến tài hoa. Để làm nên những món chè mang đậm phong vị Huế phải trải qua rất nhiều công đoạn công phu, tỉ mỉ, từ chọn nguyên liệu, chuẩn bị gia vị, hương liệu đến khâu chế biến sao cho ly chè đến tay thực khách phải thật thơm ngon, hấp dẫn.

Thành phố Huế có rất nhiều quán chè đủ loại bán cả ngày trên các tuyến đường, vỉa hè, nhưng nổi tiếng nhất là chè Hẻm ở đường Hùng Vương, chè Tý ở đường Trần Phú hay các quán chè ở đường Trương Định, Đông Ba… Nếu thích vị ngọt bùi, thơm mát, du khách có thể chọn chè bắp, khoai mài, đậu xanh, đậu ván… Nếu thích hương vị trái cây thì chè xanh dứa, hạt lựu, môn sáp vàng, bông cau, chuối, mít… là lựa chọn tuyệt vời. Tuy nhiên, đỉnh cao của ẩm thực chè Huế phải kể đến những món chè thanh tao của chốn cung đình xưa như chè hạt sen, nhãn bọc hạt sen, đậu ngự, bột lọc thịt heo quay… Mỗi loại chè đều có một hương vị đặc trưng riêng, không lẫn vào nhau. Người Huế hầu như ăn chè quanh năm, mùa đông chè nóng, mùa hè chè đá.

Chè Huế là một phần không thể thiếu trong đời sống của người dân Huế cũng như văn hóa ẩm thực Huế. Đến nay, ở Hà Nội, Đà Nẵng, TP. Hồ Chí Minh hay một số thành phố khác trong cả nước đều có những quán chè Huế do chính người Huế chế biến, luôn tấp nập khách đến thưởng thức.

Phạm Phương

Nguồn: Vietnamtourism.gov.vn

Vàng phơi mùa giáp hạt

Cuối tháng Chín (theo lịch ta), khi đất trời bắt đầu dựng heo may, mặt trời rải những tia nắng màu mật ong lên những thửa ruộng bậc thang vùng miền Tây xứ Thanh, cũng là lúc đồng bào các dân tộc Thái, Mường bắt đầu cho một mùa thu hoạch lúa mới.

Theo Quốc lộ 47, ngược miền Tây xứ Thanh vào một ngày hươm nắng, nắng như nhuộm vàng tất cả những thửa ruộng bậc thang từ những bản làng ven lộ chính đến những bản làng nơi lưng chừng núi xa xôi. Tôi có cảm giác những thảm lúa như được dát vàng, chảy bất tận từ đỉnh trời xuống mãi những bình nguyên xa xôi, nơi những con xuối hòa mình vào dòng Mã Giang cuộn sóng về đông!

 

 

Những thửa ruộng bậc thang ở đây tuy không quy mô như những thửa ruộng mạn Tây Bắc, nhưng nó mang trong mình một vẻ đẹp riêng bởi thổ nhưỡng, khí hậu, tấm chân tình của đồng bào miền núi và vượt lên tất thảy là mùa vàng ở đây đang góp phần giúp đồng bào dân tộc thiểu số đi qua những cơn đói mùa giáp hạt.

 

Nguồn: Vietnamtourism.gov.vn

Khám phá những nét rồng tiên trong điêu khắc dân gian

Qua những nét chạm khắc tinh xảo và sắc nét đến từng chi tiết, người nghệ nhân tài hoa đã thổi hồn vào những khúc gỗ, tảng đá vô tri, khiến chúng không còn đơn thuần là đồ vật, mà đã thành những bức phù điêu biết nói, những sứ giả của lịch sử.

Tự ngàn xưa, nhắc đến người Việt là nhắc đến đức tính cần cù chịu thương chịu khó, óc sáng tạo phong phú và đôi bàn tay khéo léo tài hoa. Từ đôi bàn tay ấy, cả một thế giới đa dạng về hình khối, màu sắc của nghệ thuật tạo hình dân gian đã hiện ra và khắc họa sinh động đời sống dân tộc Việt.

 

 

Trong những gam màu của lịch sử, có thể dễ dàng tìm lại những dấu vết còn rất rõ nét của nghệ thuật chạm khắc dân gian là ở trong đình chùa xứ Bắc.

 

Ra đời và phát triển nở rộ trong giai đoạn thế kỉ XVI và thế kỉ XVII, trải qua một thời kì dài khi thịnh lúc suy trên con đường phát triển của dân tộc, những màu sắc dân gian đó không hề bị lu mờ bởi những biến cố lịch sử, mà vẫn “trơ gan cùng tuế nguyệt” tồn tại cho đến tận hôm nay. Chúng là những chiếc chìa khóa vô cùng quý giá để dẫn dắt chúng ta cùng tìm về những tinh túy mà ông cha ta dày công vun đắp.

 

Qua những nét chạm khắc tinh xảo và sắc nét đến từng chi tiết, người nghệ nhân tài hoa đã thổi hồn vào những khúc gỗ, tảng đá vô tri, khiến chúng không còn đơn thuần là đồ vật, mà đã thành những bức phù điêu biết nói, những sứ giả của lịch sử. Chúng kể cho ta câu chuyện đời sống thường nhật của người xưa thật mộc mạc và gần gũi. Đó là hoa lá chim muông được cách điệu ngộ nghĩnh, là cảnh sinh hoạt thường nhật những khi đi cấy đi cày, khi hội hè đình đám, là đôi trai gái đùa vui trong đầm sen đã xô đổ những thành lũy bảo thủ kiên cố của thời kì phong kiến để vươn tới thế giới tự do của tình yêu và khát vọng.

 

Những bản khắc ấy là những “tài liệu không chữ” quý giá phản ánh quá trình giao thoa và tiếp biến các giá trị trong mọi mặt của đời sống từ kinh tế, chính trị cho đến văn hóa, tín ngưỡng và tôn giáo trong lịch sử Việt.

 

Để khám phá những di sản quý giá đó, công chúng quan tâm có thể tham gia trải nghiệm tour du lịch thứ 11 của “Tôi xê dịch” mang tên: “Điêu khắc dân gian – Những nét rồng tiên” tổ chức ngày 12/10/2014 (6h00-18h00) tại Đình Làng Thổ Hà (Bắc Giang) và Chùa Phật Tích (Bắc Ninh) để cùng nhau lật mở các bí ẩn thú vị dưới mái đình cổ kính, hiểu được ý nghĩa của vẻ đẹp giản dị mà lộng lẫy trên những cột, những kèo…

 

Nguồn: Vietnamtourism.gov.vn

Nhà dài M’nông

Mỗi gia tộc M’nông sống trong một bon thường làm chung một nhà dài. Nhà dài chứa từ năm, mười hộ cho đến hàng chục hộ, mỗi hộ đều có kho lúa và bếp nấu ăn riêng, của cải tài sản cũng phải quản lý riêng biệt từng hộ.

Không gian nhà ở

 

Theo quan niệm của đồng bào M’nông, làm nhà dài có nhiều cái lợi: không tốn phên che vách hông, vào mùa mưa đi lại từ hộ này sang hộ khác không bị mưa ướt, bà con dòng họ được sống chung trong một mái nhà, chết sống có nhau, đói rét giúp nhau. Gia đình gốc, tức là thế hệ đầu tiên ở giữa, cai quản các hộ thành viên, những gia đình mới tách hộ ở hai bên.

 

 

Cách bố trí không gian trong ngôi nhà dài theo một trật tự được quy định: Kho lúa làm trên gác, phía dưới làm bếp nấu ăn, hai bên làm sạp ngủ, phía trên làm sạp dài liền nhau cả dãy nhà, phía dưới làm sạp từng hộ, để khoảng trống chừng bốn sải để làm cửa và có chỗ để giã lúa khi trời mưa.

 

Kho lúa của mỗi hộ đặt cuối dãy nhà, nối đuôi nhau. Mỗi kho lúa đều có thang riêng để lên xuống khi cần lấy lúa. Hai bên cửa kho lúa có đặt hai bồ lúa to đựng lúa giống và đựng lúa tiết kiệm, khi lúa trong kho đã hết mới lấy lúa trong bồ ra ăn.

 

Ngay cửa ra vào có một bếp lửa dành cho đàn ông và khách. Bếp lửa phía dưới kho lúa dành cho đàn bà con gái nấu ăn. Ngoài ra còn có bếp lửa trong phòng ngủ dành cho đàn bà có con nhỏ. Trong nhà bố trí giường và sạp ngủ cho các thành viên như ông bà, cha mẹ, con gái, con trai, chủ và khách. Trên đầu giường thường để ngay ngắn một hàng ché rượu cần lớn. Phía trên vách còn treo thêm một hàng ché nhỏ, bầu gạo và nồi nấu cơm. Dưới mái nhà ngay cửa ra vào là nơi cất ná và chà gạt. Hai bên cửa ra vào sát giường cha mẹ ngủ bố trí một cái sạp để bầu nước, ngay dưới sạp là nơi chất củi.

 

Dụng cụ, đồ dùng sinh hoạt cũng được bố trí theo đúng quy định trong nhà. Bộ cồng chiêng treo sát vách phía trên hàng ché lớn, túi cá nhân treo vào cột nhà. Những vật quý của gia đình thường được giữ trong một chiếc gùi có nắp đặt phía trên đầu nằm của ông bà hoặc cha mẹ. Chén đĩa và thức ăn để trên sạp, gần chỗ con gái và ông bà ngủ. Cối và chày giã lúa cất phía ngoài hai bên cửa ra vào. Những chiếc gùi và nia treo trên bếp lửa. Bàn thờ hồn lúa đặt phía sau kho lúa, ngay cửa ra vào, phía sau nhà có trồng ngải hộ thân. Mỗi khi uống rượu hoặc khi có lễ cúng, trước khi ăn uống phải phết rượu và máu lợn, gà, trâu, bò vào đá bếp, bàn thờ tổ tiên, bàn thờ đầu dê, đầu vịt và bụi ngải trồng phía sau nhà để cho các Thần phù hộ gia đình.

 

Bảo tồn nhà ở truyền thống dân tộc M’nông

 

Tập quán cư trú trong ngôi nhà dài tồn tại từ rất lâu đời của đồng bào M’nông, Mạ, S’tiêng ở tỉnh Đắk Nông, Đắk Lắk, Lâm Đồng, Bình Phước. Đây là nét đặc trưng của kiến trúc của cư dân sinh sống trên cao nguyên. Khi thực hiện cuộc sống định canh định cư, tách hộ, nhà dài của người M’nông và các dân tộc khác dường như bị quên lãng, nhà ngắn của gia đình cá thể trở nên phổ biến ở các buôn làng.

 

Tuy nhiên, với nét kiến trúc và tập quán cư trú độc đáo, một số nhà dài đã được phục hồi nguyên mẫu. Tại khu trưng bày ngoài trời của Bảo tàng các tỉnh Tây Nguyên, khu du lịch sinh thái Buôn Đôn, khu du lịch Thác Bảy Nhánh, các làng du lịch bên Hồ Lắc (Đắk Lắk)… nhà dài truyền thống của dân tộc M’nông được phục dựng, là công trình kiến trúc vừa làm nơi lưu trú cho du khách vừa phục vụ tham quan, tìm hiểu, khám phá nét văn hóa cổ xưa của đồng bào.

 

Hiện nay, tại Làng Văn hóa – Du lịch các dân tộc Việt Nam (Đồng Mô, Sơn Tây, Hà Nội) đã phục dựng một vài ngôi nhà truyền thống của người M’nông bên cạnh các loại hình kiến trúc của dân tộc khác. Đây là cách làm hiệu quả để bảo tồn kiến trúc dân tộc M’nông, giữ gìn những yếu tố văn hóa truyền thống độc đáo của các dân tộc bản địa vùng Trường Sơn – Tây Nguyên.

 

 

 

Nguồn: Vietnamtourism.gov.vn

TIN MỚI NHẤT