Điểm đến du lịch

Những địa điểm du lịch hấp hẫn những địa điểm du lịch trong nước, địa điểm du lịch nước ngoài được chúng tôi tổng hợp và đưa tin đến Quý bạn đọc đam mê du lịch có cái nhìn tổng quan nhất về các địa danh du lịch để quyết định cho mình cho những chuyến du lịch ý nghĩa nhất

Huffington Post ca ngợi món Cao Lầu của Việt Nam

(TITC) – Tạp chí Huffington Post của Mỹ đã có bài viết ca ngợi món Cao Lầu của Hội An là một trong những món ăn độc đáo nhất trong kho tàng ẩm thực phong phú của Việt Nam.

Bài báo miêu tả món ăn trông có vẻ kỳ lạ với sợi mì dai, thịt lợn, rau sống, mì khô chiên giòn và giá đỗ tươi, nhưng chính những thành phần này lại tạo nên một trong những món ăn tiêu biểu của Việt Nam có tên gọi là Cao Lầu – xuất xứ từ Hội An (một thành phố cổ nổi tiếng của Miền Trung Việt Nam).

 

 

Lần ngược trở lại lịch sử, Huffington Post đưa độc giả về khoảng thời gian từ thế kỷ 15 đến thế kỷ 19 khi Hội An là trung tâm mậu dịch lớn của Việt Nam, là một thương cảng sầm uất và quan trọng của vùng biển Đông Nam Á, nơi tàu thuyền ngoại quốc ghé qua để giao thương, và cũng là nơi cư ngụ tạm thời hoặc lâu dài cho người nước ngoài, nhất là người Trung Quốc và Nhật Bản. Khi phù sa sông Thu Bồn bồi đắp khiến cho tàu thuyền không thể cập cảng Hội An được nữa, dần dần hoạt động giao thương tại cảng thị này bị ngưng trệ. Nhưng niềm vui đã quay trở lại từ đầu những năm 1990 khi ngành Du lịch bắt đầu đưa thành phố này phát triển trở lại. Năm 1999, Hội An được UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới, và đến nay Hội An đã là một trung tâm du lịch nổi tiếng của Việt Nam và thế giới.

 

“Những đền thờ, miếu mạo mang dấu tích của người Hoa hay chùa Cầu với ảnh hưởng của kiến trúc Nhật Bản và các ngôi nhà, biệt thự mang kiến trúc Pháp xen lẫn nhau trong lòng phố cổ khiến cho Hội An thêm lung linh, cổ kính và quyến rũ”, tác giả bài báo thể hiện sự ngưỡng mộ. Đồng thời nhấn mạnh rằng bên cạnh nét độc đáo của những công trình kiến trúc mang âm hưởng của sự giao thoa văn hóa, một yếu tố quan trọng khác khiến du khách rất hào hứng khi đến với Hội An chính là ẩm thực.

 

Bài báo cho rằng Hội An, thành phố với hơn 120.000 dân, là nơi tập trung nhiều thể loại hương vị cả trong nước lẫn thế giới. Từ những quán ăn đường phố đến các nhà hàng nổi tiếng, mọi lúc mọi nơi, du khách không phải lo việc thiếu nơi thưởng thức ẩm thực. Du khách đến đây có thể thưởng thức những đặc sản độc đáo của phố Hội như: Cơm Gà (cơm được nấu với nước luộc gà, gà được xé nhỏ rồi trộn với hành tây và rau răm); bánh Bao, bánh Vạc (nhân làm bằng tôm và thịt lợn trộn với hành tỏi băm nhuyễn); và đặc biệt là Cao Lầu.

 

Thích thú với món ăn này, Huffington Post mô tả tỉ mỉ thành phần của Cao Lầu gồm có mì sợi dày và dai, thịt lợn, rau và sợi mì chiên giòn. Khi thưởng thức món mì này có người liên tưởng đến món mì soba của Nhật Bản, trong khi thịt lợn được thái lát mỏng và được chế biến theo phương pháp truyền thống Trung Quốc gọi là xá xíu. Kèm theo một ít rau sống, giá đỗ tươi và sợi mì cắt nhỏ đem phơi khô rồi chiên giòn trộn lẫn vào món ăn tạo nên âm thanh thú vị khi nhai lẫn với nhau.

 

Đi sâu vào cách thức chế biến, mì sợi để làm món Cao Lầu là tâm điểm của món ăn và cũng là thành phần chính để tạo nên sự độc đáo cho món ăn. Dường như chỉ có một số ít người biết chính xác công thức để chế biến loại mì này, câu chuyện về cách chế biến là cả một huyền thoại. Đầu tiên, nước để chế mì sợi phải được lấy từ nước giếng cổ Bá Lễ (giếng nằm nép mình ở một con hẻm nhỏ trong lòng phố cổ và ít người biết đến) rồi trộn với tro củi lấy từ đảo Cù Lao Chàm (đảo ngoài khơi của Hội An), sau đó mới đem ngâm gạo.

 

Quy trình làm Cao Lầu cũng tách rời nhau. Công thức là một bí mật, chỉ một số gia đình ở Hội An biết. Tuy nhiên, ngày càng có nhiều người cố gắng ghi chép lại công thức của riêng mình. Trong số đó, năm 2012, nhà văn David Farley của tạp chí AFAR đã đến Hội An để tìm hiểu về món ăn này. Ông được xem lại quy trình chế biến món Cao Lầu trong một gia đình ở Hội An. Những điều Farley khám phá ra là sợi mì được đem hấp, không luộc như hầu hết các loại mì khác. Và gia đình chế biến Cao Lầu ở Hội An mà Farley có dịp đến xem không sử dụng nước giếng cổ Bá Lễ mà chỉ dùng nước giếng đào bên cạnh nhà, tro để trộn nước ngâm gạo cũng được lấy ở địa phương chứ không phải từ đảo Cù Lao Chàm.

 

Bài báo khẳng định dù rằng ngày nay món Cao Lầu có được chế biến với nước giếng cổ và tro Cù Lao Chàm hay không không quá quan trọng. Điều quan trọng là món ăn này vẫn giữ được hương vị truyền thống, đậm đà bản sắc văn hóa của một đô thị cổ. Sự kết hợp giữa các thành phần nguyên liệu, cũng như câu chuyện bí ẩn thú vị phía sau mỗi công đoạn chế biến đã tạo nên sự hấp dẫn kỳ lạ cho món ăn độc đáo này của Hội An.

Phạm Thanh (theo Huffington Post )

 

Nguồn: Vietnamtourism.gov.vn

Bảo tàng Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ: Nơi tôn vinh giá trị lịch sử dân tộc

Bảo tàng Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ là công trình xây dựng chào mừng kỷ niệm 60 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ (7/5/1954-7/5/2014), được khởi công xây dựng từ tháng 10/2012 và mở cửa đón khách ngày 5/5/2014. Đây là điểm dừng chân mỗi khi du khách đến Điện Biên, là không gian sống động về chiến thắng chấn động địa cầu.

Bảo tàng Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ được thi công xây dựng từ tháng 10/2012, có diện tích trên 22.000m2. Sự hoành tráng trong thiết kế cùng với thủ pháp trưng bày độc đáo sẽ khiến người xem như được trở về để chứng kiến chặng đường 9 năm kháng chiến chống Pháp khi đi xuyên suốt không gian trưng bày của Bảo tàng.

 


Khu nhà chính được thiết kế hình chiếc mũ nan có mắc lưới để gài vật ngụy trang, giống như của chiến sĩ Điện Biên năm xưa, gồm một tầng hầm và một tầng nổi.


Tầng hầm sẽ là nơi đón tiếp khách tham quan, khu hành chính và không gian học tập tương tác; tầng nổi sẽ là không gian trưng bày cố định, không gian panorama (toàn cảnh) và bộ phận làm việc.


Bảo tàng rộng hơn 7.000m2, trưng bày gần 1.000 hiện vật và hình ảnh được chia làm 4 nội dung gồm: Chặng đường 9 năm kháng chiến chống thực dân Pháp, từ 9/1945-9/1953; diễn biến chiến dịch Điện Biên Phủ; sự giúp đỡ của nhân dân thế giới đối với chiến dịch Điện Biên Phủ; tác động của Chiến thắng Điện Biên Phủ đối với thế giới; phòng tôn vinh.


Ngoài ra, toàn bộ phía trong tầng 2 của nhà bảo tàng sẽ được thiết kế bức tranh panorama, là một hạng mục rất quan trọng trong chuỗi nội dung trưng bày của Bảo tàng Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, dự kiến hoàn thành vào năm 2016.


Đây là bức tranh tròn đầu tiên được thực hiện tại Việt Nam nhằm tái hiện một cách chân thực nhất chiến trường Điện Biên Phủ.


Toàn bộ Đề cương trưng bày trong Bảo tàng gắn với những sự kiện liên quan đến chiến dịch Điện Biên Phủ, trong đó điểm nhấn là “56 ngày đêm khoét núi, ngủ hầm, mưa dầm, cơm vắt”, tôn vinh gương hy sinh của các anh hùng Tô Vĩnh Diện, Bế Văn Đàn, Phan Đình Giót…


Nhiều hiện vật mô tả công tác mở đường, kéo pháo, vận chuyển lương thực của quân và dân trong chiến dịch như chiếc xe cút kít của dân công Trịnh Đình Bầm với 1 phần bánh xe được làm từ bàn thờ tổ tiên, chiếc xe có thể chở tới 280kg/chuyến lương thực, nhờ vậy chỉ trong vòng 4 tháng, với quãng đường gian khổ 20km, cụ Bầm đã chuyển được hơn 12 tấn lương thực phục vụ chiến trường.


Đó là những hiện vật, kỷ vật minh chứng cho sự thần kỳ mà quân và dân Việt Nam đã làm nên trong chiến dịch Điện Biên Phủ, bằng những vũ khí, phương tiện thô sơ nhưng đã đánh bại vũ khí, phương tiện tối tân của thực dân Pháp trong kháng chiến.


Đặc biệt, nhiều hiện vật mới đã được đưa vào trưng bày tại Bảo tàng, là những hiện vật trước đây được trưng bày ngoài trời cùng với những hiện vật mà tỉnh Điện Biên trưng tập được trong cuộc vận động cựu chiến binh Điện Biên Phủ hiến tặng thời gian vừa qua như Bức tranh “Xuân trong hầm pháo” của Họa sĩ Phạm Thanh Tâm; con dao đa năng của Thiếu úy Nguyễn Dũng Chi thu được tại hầm De Castries; Sơn pháo 75 ly của Anh hùng Phùng Văn Khầu; khẩu pháo 105 ly đã bắn loạt ở trận đánh đầu tiên tại Him Lam, mở màn chiến dịch Điện Biên Phủ…


Trong Bảo tàng cũng dành nhiều không gian để tôn vinh Đại tướng Võ Nguyên Giáp – vị Tổng Tư lệnh chiến dịch Điện Biên Phủ bằng nhiều hình thức trưng bày, triển lãm.

 

Trong những ngày đầu tiên mở cửa, Bảo tàng Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ đã đón rất nhiều du khách trong và ngoài nước, nhất là các cựu chiến binh, cũng như các em học sinh, sinh viên đến tham quan, tìm hiểu những kiến thức lịch sử về Chiến thắng Điện Biên Phủ năm xưa và sự nhạy bén, tinh thông, tài tình của vị Đại tướng – Tổng Tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam Võ Nguyên Giáp. Nhiều cựu chiến binh trở lại nơi đây đơn giản chỉ để sống lại những kỷ niệm gian khổ hào hùng của một thời trai trẻ.


Bảo tàng Chiến thắng Điện Biên Phủ sẽ cuốn hút du khách bởi đây là một trong những điểm nhấn làm nên sức hấp dẫn độc đáo và riêng có ở Điện Biên.

Nguồn: Vietnamtourism.gov.vn

Chùa Xiên Cán – lộng lẫy kiến trúc Khmer của Bạc Liêu

Đến thăm Bạc Liêu, du khách ai cũng muốn một lần đến thăm Chùa Xiêm Cán, một công trình kiến trúc tuyệt đẹp của người Khmer và cũng là điểm du lịch tâm linh nổi tiếng của địa phương này.

Là ngôi chùa thuộc hệ phái Phật giáo Tiểu thừa của đồng bào dân tộc Khmer nhưng cái tên Xiêm Cán của chùa xuất phát từ tiếng Tiều (tiếng của người gốc Triều Châu, Trung Quốc hiện đang sinh sống nhiều ở Bạc Liêu) có nghĩa là “giáp nước” bởi địa hình vùng đất này trước đây bên cạnh bãi bồi ven biển.

 


Theo con đường rợp bóng những cây nhãn cổ thụ thuộc xã Hiệp Thành, thành phố Bạc Liêu, chùa Xiêm Cán hiện ra trong mắt chúng tôi với một kiến trúc độc đáo, nổi hẳn lên bầu trời xanh trong một ngày đầy nắng.

Chùa quả thực không hổ danh là một trong những ngôi chùa Khmer lớn nhất và lộng lẫy nhất trong hệ thống chùa Khmer ở Nam Bộ.

Ấn tượng đầu tiên là cổng chùa nằm về hướng Đông với những đường nét, kiến trúc hết sức đa dạng và có một màu vàng đất dịu mắt, mang đậm sắc thái Khmer. Phía trên là hình ba ngọn tháp, mô phỏng theo kiểu kiến trúc Angkor của người Campuchia và tượng hình rắn nhiều đầu được chạm trổ công phu. Ngoài ra, bao quanh chùa nối với cổng là bức tường rào chạm khắc rắn thần và nhiều hoa văn sặc sỡ, đẹp mắt.

Từ cổng vào trung tâm chùa Xiêm Cán khoảng 100m, du khách sẽ đi qua một khuôn viên rộng đầy những cây sao, cây dầu cao vút, xếp thẳng hàng và tỏa bóng mát rượi.

Lúc này, du khách dễ dàng cảm nhận được không gian trang nghiêm và thanh bình của một ngôi chùa cổ được xây dựng từ năm 1887.

Theo quan niệm của người Khmer, chánh điện thường quay về hướng Đông vì họ cho rằng con đường tu hành của Phật đi từ Tây sang Đông. Tọa lạc trên nền gạch cao 1,5m với ba bậc cấp cùng một hành lang bao quanh, chánh điện chùa Xiêm Cán có góc mái của mỗi đỉnh đều được đắp khúc đuôi rắn dài, uốn cong, mềm mại.

In lên nền trời xanh là cấu trúc mái theo nhiều tầng lớp chồng lên nhau, tạo ra khoảng không gian cao vút, hòa với đỉnh nhọn như một chóp tháp. Trên các nếp mái lại đắp các tượng rồng Khmer, đầu rồng dạng kép, thân rồng nằm xoãi và đuôi rồng thì uốn cong ngược lên như những ngọn lửa. Chính sự kết hợp giữa đầu, thân và đuôi rồng tạo nên hình ảnh những chiếc ghe ngo – tài sản chung của đồng bào dân tộc Khmer ở mỗi phum, sóc (đơn vị cư trú của người Khmer ở nông thôn – PV) và được bảo quản chu đáo tại chùa.

Bước vào chánh điện, du khách cần bỏ mũ nón, đi chân không để tỏ lòng tôn kính. Tại đây, cao hơn hết là một bàn thờ Phật với một tượng Phật to lớn, đặt trên các tượng Phật khác ở nhiều tư thế khác nhau – biểu hiện cho các thời kỳ hóa thân của Phật.

Điều đặc biệt trong chánh điện chùa Xiêm Cán chính là các phù điêu, bích họa trang trí nhiều màu sắc trên vách, trên trần và các cột. Riêng các bích họa kể lại cuộc đời của Phật và truyện Reamker (phiên bản Campuchia của trường ca Ramayana, một sử thi Ấn Độ nổi tiếng) đều đã để lại nhiều cảm xúc cho du khách viếng thăm chùa và càng khâm phục những nghệ nhân tạo nên các bích họa đó.

Phía bên ngoài, đối diện chánh điện là cột trụ biểu với hình tượng của con rắn 5 đầu, dùng để thắp nến vào những ngày lễ. Ở đây muốn ngụ ý rằng giáo lý Phật pháp sẽ soi sáng cho nhân loại, giúp mọi người sống hướng thiện như chính loài rắn được thuần hóa nhờ tấm lòng từ bi hỷ xả của Đức Phật.

Ngoài ra, chùa Xiêm Cán còn được bố trí khá hài hòa với Sala, tăng phòng, am, tháp cốt; trong đó, Sala là nhà hội của sư sãi và các tín đồ Phật giáo Khmer dùng để bàn bạc, chuẩn bị trước khi lên chánh điện hành lễ. Sala cũng được trang trí các tiết họa, các bích họa trên vách và trên trần. Xung quanh chánh điện là rất nhiều tháp để cốt của người quá cố. Đây là đặc trưng để nhận ra các ngôi chùa Khmer từ bên ngoài khi các ngọn tháp nhọn cao vút, xếp xen kẽ với nhau.

Không chỉ là nơi thực hiện các hoạt động tôn giáo, chùa Xiêm Cán cũng như các ngôi chùa Khmer khác ở Nam Bộ còn là trung tâm văn hóa, giáo dục của phum, sóc, lưu giữ các tập truyện kể dân gian xưa và nay hoặc các vốn văn hóa truyền thống. Tại đây, trẻ em trước tuổi trưởng thành (18 tuổi) được đưa đến chùa khoảng 3 năm để học chữ Khmer, chữ Pali, dạy kinh… và tìm hiểu được những bản sắc văn hóa của dân tộc mình./.

 

Nguồn: Vietnamtourism.gov.vn

Kỳ thú suối Nước Vàng

Suối Nước Vàng là một địa danh du lịch kỳ thú ở Bắc Giang, nhưng chưa nhiều người biết tới. Con suối này thuộc địa phận xã Lục Sơn, huyện Lục Nam (tỉnh Bắc Giang), nơi giáp ranh với tỉnh Quảng Ninh. Đây là một điểm tham quan cùng trên tuyến đường du lịch Suối Mỡ và khu sinh thái Vũng Tròn-thác Ba Tia của huyện Sơn Động.

Nguồn gốc của dòng suối Nước Vàng là một câu chuyện nhuốm màu sắc Phật giáo. Người ta bảo rằng, du khách đến Tây Yên Tử như được lạc vào vùng thiên nhiên kỳ thú cùng với lòng thành kính dâng lên Phật hoàng Trần Nhân Tông. Ngày xưa, màu vàng là tượng trưng cho sự sang trọng của vua chúa. Sau khi vua Trần Nhân Tông bỏ ngai vàng lên dãy Phật Sơn tu luyện đã trở thành huyền thoại trong Phật giáo Việt Nam nói chung, thiền phái Trúc Lâm Yên Tử nói riêng. Từ đỉnh núi Phật Sơn linh thiêng, nơi Phật hoàng mở thiền viện, tu luyện có chảy ra một dòng suối rất đặc biệt với màu nước vàng óng ánh.

 

 

Đến được Lục Sơn đã rất gian nan rồi, nhưng tìm được con suối Nước Vàng huyền diệu lại càng khó khăn hơn. Có những lúc, chúng tôi phải dừng xe gắn máy lại để đẩy, dắt bộ. Thậm chí, đã có người bỏ cuộc quay xe tìm vội ra quán nước giải khát ở trung tâm xã, chấp nhận “chào thua” trên hành trình tìm suối Nước Vàng. Để đi hết suối Nước Vàng, du khách phải đi bộ 5km đường rừng. Có lẽ vì những lý do ấy mà cho đến hôm nay, suối Nước Vàng vẫn chưa nhiều người biết tới. Chúng tôi đã quyết định đi dọc dòng suối để cảm nhận vẻ đẹp hoang sơ của nó. Trên đường đi, chúng tôi đã bắt gặp những cảnh đẹp thiên nhiên kỳ thú. Thỉnh thoảng, mọi người lại sung sướng hò reo vì bắt gặp những thác nhỏ với nhiều vũng nước có thể tắm để cảm nhận sự mát lạnh thuần khiết. Trên đường đi còn thấy những khóm cây mọc ở vách núi và những tảng đá mang hình thù kỳ lạ, bắt mắt. Tất cả như hòa cùng với tiếng chim hót, tiếng suối chảy róc rách, làm cho lữ khách cảm thấy bớt mệt mỏi hơn.

 

Khi lên tới thác Giót, một khung cảnh tuyệt đẹp hiện ra trước mắt khiến chúng tôi vô cùng ngạc nhiên, thích thú. Đến đây, ai cũng thỏa thích hòa mình vào những tia nước đổ xuống từ độ cao 40m. Vượt qua con thác này, chúng tôi đặt chân tới một nơi cũng rất tuyệt vời mà ở đó có thể dựng lều trại ngủ qua đêm. Dân bản địa gọi nơi đó là Lái Cỏ (một bãi cỏ rộng mênh mông). Những ngày bình thường, mây mù giăng kín làm hạn chế tầm nhìn nên cũng có người gọi là “Sân Trời”. Còn những ngày nắng đẹp trời quang mây thì từ đây, du khách có thể nhìn thấy cảnh làng mạc nhỏ bé dưới chân núi và phía xa xa mờ mờ ảo ảo là đỉnh thiêng Yên Tử-Quảng Ninh.

 

Nguồn: Vietnamtourism.gov.vn

Lãng đãng sương giăng hồ Tuyền Lâm

Nằm cách Trung tâm TP. Đà Lạt chừng 5km, qua thác Datanla trên đèo Prenn, hồ Tuyền Lâm được tạo thành từ dòng suối Tía huyền thoại.

Từ Trúc Lâm Thiền Viện nhìn xuống, hồ Tuyền Lâm thấp thoáng phía sau những rặng thông xanh rì rào với nhiều ốc đảo nhỏ như những viên ngọc bích trên tấm lụa mỏng tang lay động bóng mây soi. Thả bước xuống con dốc nhỏ xuyên qua rặng thông xanh, mặt hồ sẽ dần hiện rõ trong bốn bề bóng núi. 
 


Mỗi sớm mai, mặt hồ được phủ một lớp sương trắng mờ ảo khiến khung cảnh thêm phần huyền bí. Cho đến khi nắng dần lên cao, sương tan, thoảng trong tiếng gió từ rừng thông rì rào là tiếng chim lảnh lót đón ngày mới hân hoan. Du khách đến thăm Hồ Tuyền Lâm có thể nằm dài trên bờ cỏ quanh hồ, ngắm trời mây và tận hưởng bầu không khí thanh khiết tuyệt vời, hoặc lênh đênh trên chiếc thuyền nhỏ ra giữa hồ vừa ngoạn cảnh vừa câu cá. Thi thoảng, một tiếng chuông vọng ra từ Thiền Viện trên đỉnh núi Phụng Hoàng làm cho không gian tĩnh lặng quanh chốn thiền môn có phần siêu nhiên, thoát tục. Tất cả khiến ta thấy dường như không còn nơi nào khác bình yên thi vị hơn nơi này.

Du ngoạn trên hồ, chỉ có tiếng mái chèo khua nước hòa trong tiếng thông reo, chim hót quyện thành vòng quấn quýt tan vào không gian yên ả. Mặt hồ xanh biếc lấp lánh ánh mây trời trên nền nước xanh thẳm và phẳng lặng. Khi đến nơi này, nhiều du khách dành cả ngày trôi dạt với chiếc thuyền câu nhỏ trên mặt hồ, hoặc đi dạo dưới những hàng thông xanh ngay mép nước để cảm nhận không gian thơ mộng, huyền diệu sơn thủy hữu tình.

Xung quanh vùng hồ, những nét văn hóa của các dân tộc thiểu số nam Tây Nguyên, người Lạch, người Mạ vẫn còn nguyên chất núi rừng. Một buổi chiều tà bên đống lửa trại ven hồ, thịt nướng, cơm lam, rượu cần, tiếng cồng chiêng hòa trong điệu múa của những chàng trai, cô gái miền sơn cước sẽ đưa trí tưởng tượng của du khách về với những không gian xưa huyễn hoặc, mộng mơ.

Nguồn: Vietnamtourism.gov.vn

Rừng Trà Sư đón mùa nước nổi

Các cô “tài công” mặc áo bà ba xanh da trời vừa xuống dầm bơi một đỗi, lòng du khách như đã chạm vào không gian yên tĩnh lạ lùng.

 

Tai có thể nghe được hơi thở của tràm phát ra và len sâu theo từng sớ thịt của đất. Đâu đây tiếng cò con hủ hỉ gọi nhau trên tổ ấm pha trộn những âm thanh trong suốt của những chú chim lạ. Màu sắc thay đổi từng lúc trên thảm bèo tai tượng trải dài ngút mắt trên mặt nước dưới chân rừng tràm, khi thì vàng lơ, khi thì xanh thẳm. Nắng đổ từng ô rớt xuống mặt bèo làm ta cảm giác như có bàn tay người họa sĩ vô hình đang tô vẽ lên bức tranh trước mắt. “Không gian này như trở về đôi ba trăm năm trước của miền Tây thuở mới khai hoang”, một ông khách thốt lên khi đang bơi ngược đường đoàn chúng tôi.

 

Quả vậy, chỉ cách tỉnh lộ 984 chưa đầy bốn cây số, mà rừng Trà Sư như tách biệt hẳn thế giới bên ngoài và làm cho du khách dễ có cảm nhận như đang sống với ngày xưa. Khu rừng này hiện thuộc xã Văn Giáo, huyện Tịnh Biên, tỉnh An Giang. Rừng rộng tới 850 héc ta, có hơn 70 loài chim, đặc biệt có hai loài chim quý hiếm ghi trong sách đỏ Việt Nam là giang sen (Mycteria leucocephala) và điên điển (Anhinga melanogaster). Thú thì có 11 loài, nhiều nhất là các loài gặm nhấm và dơi. Riêng dơi có dơi chó, tai ngắn quý hiếm đã được ghi vào sách đỏ. Cá, có khoảng 33 loài, gồm lóc, trê, rô sặc, cá trắng, đỏ man, thác lác cườm… Thực vật thì có trên 140 loài.

 

Nói chung, ở đây không thiếu những loài cá vốn có ở miền Tây Nam bộ trước đây. Trà Sư đúng là khu rừng ngập nước tiêu biểu cho vùng Tây Nam bộ với nhiều loại động vật, thực vật nguyên sơ sinh sôi và phát triển.


“Khoảng 5 giờ chiều mà bơi xuồng len lỏi theo dòng kinh như thế này thì trên đầu có hàng ngàn cánh chim bay về tổ làm náo nhiệt khu rừng”, cô gái bơi xuồng nói.

 

Mỗi chiếc xuồng nhỏ chở hai người bơi len lỏi quanh co theo những con kinh, hai bên kinh, tràm mọc chen nhau, thân cây cao từ 5-8 mét, có độ tuổi 10 năm trở lên. Các cô gái vừa làm hướng dẫn viên vừa làm “tài công” bơi xuồng điệu nghệ, lâu lâu dừng lại cho khách “chớp” một vài pô hình độc đáo từ những cánh cò đang xòe rộng và buông chân trong tư thế đáp xuống. Lỡ như khách bấm không kịp, cô gái tiếc rẻ và nói: “Em sẽ dừng xuồng chờ những cánh cò kế tiếp cho anh chộp, anh chuẩn bị sẵn sàng đi”.

 

“Các anh có thấy rừng tràm nhú đọt đơm bông không?”. Cô gái không đợi mọi người trả lời rồi nói tiếp: “Rừng đang đón mùa nước nổi về đó”. Cô kể, mùa nước nổi, quang cảnh ở đây đẹp hơn, những vạt bèo che kín hết mặt nước, cả lối xuồng đi. Trời vừa rực nắng, bèo như xanh hơn và màu xanh thay đổi từng lúc theo bóng nắng. Cá vào mùa nước nổi làm ổ đẻ trứng sinh con khắp nơi, chim chóc cũng tăng lên theo từng bầy.

 

Thường mùa nước nổi về từ tháng 8 đến tháng 10 âm lịch; năm nay, có thể về sớm vì ở đầu nguồn sông Tiền, sông Hậu nước đang “chụp” một số ruộng lúa vụ ba yếu bờ bao. “Nước nổi cao hơn mực nước này chừng hơn nửa mét, rừng lúc ấy đẹp lắm. Các anh nhớ về chơi một lần cho biết”, cô gái áo bà ba xanh lại nhoẻn miệng cười tươi với khách.

 

Tôi bâng khuâng với màu xanh, với hương tràm phả xuống suốt dọc đường bơi hơn nửa giờ. Đoàn khách tấp vô bến và đi bộ một khoảng đường đất che khuất bởi những tán tràm giao nhau. Tôi leo lên đài quan sát, nhìn bốn phía rừng tràm lung linh trong nắng, một quang cảnh tuyệt vời.

 

Bữa cơm rừng trưa hôm đó được nấu với đôi tay khéo léo của chị Tư ở một quán ăn dã chiến. Món ăn dân dã mà ngon quá chừng: lẩu chua lươn, cá rô kho nồi đất, cá lóc nướng trui gói bánh tráng, rau rừng. Bụng đói và hương vị bữa cơm rừng Trà Sư quá tuyệt, lòng người lại như đang mơ màng sống lại với thuở tiền nhân đi mở cõi phương Nam…

 

Vậy mà giá “tua” vô rừng Trà Sư này chỉ có 50.000 đồng/người dù cho du khách đã được khu rừng tắm gội no nê với tiếng rừng tĩnh mịch luôn thì thầm qua kẻ lá.

 

Và giờ đây, từ phía thượng nguồn, mùa nước nổi đang bắt đầu ngầu đục đổ về. Chia tay với rừng, lòng du khách càng bồi hồi với những bông tràm trắng nở bung tròn, tỏa hương thơm dìu dịu. Chợt nghe rạo rực với tiếng thì thầm đâu đây trong lòng mạch đất: “Rừng Trà Sư đang chờ đón mùa nước nổi”.

 

Nguồn: Vietnamtourism.gov.vn

Gốm Phù Lãng – lắng đọng tình người trong đất

Được du nhập từ thế kỷ XIII, gốm Phù Lãng (xã Phù Lãng, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh) nổi bật với ba loại hình truyền thống: gốm dùng trong tín ngưỡng, gốm gia dụng và gốm trang trí.

Sản phẩm của làng gốm Phù Lãng hiện nay rất đa dạng, gần gũi với đời sống của người dân Việt Nam như chum, vại, lọ, bình hoa, ang nước…

 

Gốm Phù Lãng có màu đặc trưng là hồng đỏ gạch và điều tạo nên nét độc đáo của gốm Phù Lãng được lưu giữ qua bao đời nay là sử dụng chất liệu tự nhiên làm men cho gốm; các công đoạn được làm thủ công hết sức tỷ mỷ từ khâu nặn, chuốt đến trang trí, vẽ hoa văn, lên men rồi phơi khô dưới nắng.

Dáng của gốm Phù Lãng mộc mạc, thô phác nhưng khỏe khoắn, chứa đựng vẻ đẹp nguyên sơ của đất với lửa.

 

Gốm được đem phơi dưới nắng cho khô

 

Các sản phẩm gốm Phù Lãng đã được hoàn thiện

Nguồn: Vietnamtourism.gov.vn

Độc đáo nghề xe lanh dệt vải của người Mông ở Đồng Văn

Người Mông sinh sống trên cao nguyên đá Đồng Văn (Hà Giang) vẫn tự hào rằng, họ có hai nghề truyền thống khiến cộng đồng các tộc người sinh sống ở Tây Bắc phải nể phục là nghề xe lanh dệt vải và nghề rèn độc đáo.
 

Nếu như nghề rèn chỉ dành cho đàn ông thì nghề xe lanh dệt vải dành cho phụ nữ và họ đã tạo nên một nét văn hóa thổ cẩm rực rỡ sắc màu giữa ngút ngàn đá xám ngắt của vùng cao nguyên cằn cỗi.

Ông Thào Mý Giàng ở xã Tà Lũng huyện Đồng Văn kể rằng, xưa kia tộc người Mông hay du canh du cư. Khi đi tìm một vùng đất mới thì người phụ nữ Mông bao giờ cũng mang trong người hai hạt giống là hạt ngô và hạt cây lanh. Khi tìm được đất để dựng bản, đàn ông Mông đắp bể làm lò rèn để rèn dao, cuốc, cày; còn phụ nữ thì tìm đất trong đá để gieo hạt lanh, trỉa hạt ngô.

Hạt ngô nuôi sống người Mông bằng các món như mèn mén, ngô đồ; còn hạt cây lanh sẽ cho sợi lanh để họ dệt nên như chiếc váy thổ cẩm để làm đồ mặc.

Nguồn: Vietnamtourism.gov.vn

Làng Cù Lần: Bí ẩn giữa rừng thông cao nguyên Lâm Đồng

Nằm cách thành phố Đà Lạt chừng 20km, Khu du lịch làng Cù Lần (xã Lát, huyện Lạc Dương, Lâm Đồng) nằm lọt thỏm trong một thung lũng rộng gần 30ha và được bao phủ bởi màu xanh của bạt ngàn rừng thông. Thêm vào đó, chút không khí lành lạnh của cao nguyên càng làm say lòng du khách phương xa.

Đến làng khu du lịch Cù Lần, du khách có thể cưỡi ngựa dọc theo con đường đèo hoặc thử cảm giác mạnh trên những chiếc xe địa hình băng rừng, vượt suối.

Nơi đây từng ngôi nhà sàn nằm sát nhau như một bản làng nguyên sơ cùng những vật dụng sinh hoạt lao động thường ngày của cư dân.

Một người dân bản địa ở đây kể lại với chúng tôi rằng, nơi đây chính là trung tâm của bà con dân tộc K’ho sinh sống từ nhiều thế kỷ trước. Ngôi làng được chia thành nhiều khu vực nhỏ với nhiều dịch vụ riêng.

Cái tên làng Cù Lần được đặt theo tên loài cù lần rất hiền lành, trước đây có rất nhiều ở khu vực này. Nhờ bàn tay của những người có tâm huyết trong nghề du lịch “tô vẽ” thêm một số khu vực để tạo thành một khu du lịch nhằm phục vụ nhu cầu tham quan, khám phá của du khách.

Nguồn: Vietnamtourism.gov.vn

Khám phá những điểm tham quan nổi tiếng tại quần thể danh thắng Tràng An

(TITC) – Nằm cách thủ đô Hà Nội khoảng 90km về phía nam, quần thể danh thắng Tràng An là Di sản thế giới hỗn hợp đầu tiên của Việt Nam được UNESCO công nhận, bao gồm ba vùng được bảo vệ liền kề nhau là khu di tích lịch sử văn hóa cố đô Hoa Lư, khu danh thắng Tràng An-Tam Cốc-Bích Động và rừng nguyên sinh đặc dụng Hoa Lư. Với những giá trị đặc sắc về thẩm mỹ, địa chất – địa mạo và văn hóa, quần thể danh thắng Tràng An là một trong những khu du lịch hấp dẫn và độc đáo của cả nước, mỗi năm đón hàng triệu lượt khách tới tham quan.  

Đền vua Đinh

Điểm đến đầu tiên trong hành trình khám phá quần thể danh thắng Tràng An làkhu di tích lịch sử văn hóa cố đô Hoa Lư thuộc xã Trường Yên, huyện Hoa Lư. Hơn 1.000 năm trước, sau khi bình định 12 sứ quân, Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi hoàng đế, lấy hiệu là Đinh Tiên Hoàng và chọn Hoa Lư làm kinh đô của nước Đại Cồ Việt. Kinh đô Hoa Lư tồn tại 42 năm (968 – 1010) qua ba triều đại: Đinh -Tiền Lê – Lý. Năm 1010, Vua Lý Thái Tổ lên ngôi đã dời đô ra Thăng Long, Hoa Lư trở thành cố đô và được đổi tên thành phủ Trường Yên.

Khu vực cố đô Hoa Lư có tổng diện tích gần 315ha, bao gồm 10 đoạn tường thành nối liền các dãy núi đá tạo nên thành trong (thành Tây) và thành ngoài (thành Đông) được nối thông với nhau bởi nhánh sông Sào Khê. Phía bắc cố đô giáp sông Hoàng Long, phía đông giáp dãy núi Hang Quàn, phía nam giáp dãy núi Hang Luồn, phía tây giáp dãy núi Cổ Giải. Hệ thống núi đồi trùng điệp, sông suối chằng chịt bao quanh chính là hệ thống phòng thủ thiên nhiên vững chắc bảo vệ kinh thành. Tại đây có nhiều di tích lịch sử đặc sắc như: chùa Cổ Am, chùa Nhất Trụ, chùa Thủ, chùa – động Am Tiên, đền thờ công chúa Phất Kim, đình Yên Trạch, miếu thờ Phù Dung công chúa, phủ Kình Thiên, phủ Đầu Tường, phủ Đông Vương, hang Quàn, hang Bim,…, trong đó tiêu biểu là đền vua Đinh và đền vua Lê.  

Đền vua Đinh thờ Đinh Tiên Hoàng (968 – 979) thuộc địa phận làng Trường Yên Thượng, xã Trường Yên, huyện Hoa Lư, cách chân núi Mã Yên khoảng vài trăm mét về phía nam. Được xây dựng vào khoảng thế kỷ 17, đến nay, ngôi đền này vẫn giữ được vẻ uy nghi trầm mặc, lúc nào cũng nghi ngút khói hương. Các lối đi, trụ cổng, tường gạch đều in dấu vết thời gian với những lớp rêu phong cũ kỹ cùng những khu vườn um tùm, xum xuê cây trái. Đền có kiến trúc theo kiểu “nội công, ngoại quốc”, gồm 3 tòa: Bái đường thờ công đồng, Thiêu hương thờ Tứ trụ triều Đinh và Chính cung thờ Vua Đinh Tiên Hoàng cùng các hoàng tử. Ði hết chính đạo, qua hai cột trụ lớn là đến sân rồng, giữa sân có một long sàng bằng đá xanh nguyên khối dài 1,8m, rộng 1,4m, xung quanh chạm nổi hình hoa lá, con vật tinh xảo với đôi nghê đá chầu hai bên rất sống động.

Đền vua Lê

Cách đền vua Đinh khoảng 200m về phía bắc là đền vua Lê thờ Lê Đại Hành (980 – 1005) thuộc làng Trường Yên Hạ, xã Trường Yên. Ðền cũng được xây theo kiểu “nội công ngoại quốc” bao gồm 3 tòa: Bái đường, Thiêu hương và Chính cung nhưng qui mô nhỏ hơn đền vua Ðinh. Nét đặc biệt của đền vua Lê là nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc gỗ thời Hậu Lê (thế kỷ 17) được lưu giữ gần như nguyên vẹn với những nét chạm khắc tinh xảo. Tại đây, các nhà khoa học đã tìm thấy di tích nền cung điện cũ cùng một số đồ gốm sứ cổ.  

Về thăm khu di tích lịch sử văn hóa cố đô Hoa Lư là dịp để du khách chiêm ngưỡng các công trình kiến trúc độc đáo, ghi dấu thời kỳ mở nước huy hoàng, độc lập, tự chủ của đất nước Đại Cồ Việt từ nghìn năm về trước.

Rời khu di tích lịch sử văn hóa cố đô Hoa Lư 4km về phía nam, du khách sẽ đếnkhu danh thắng Tràng An có diện tích 6.172ha thuộc địa phận các xã Trường Yên, Ninh Xuân, Ninh Hải, Ninh Hòa (huyện Hoa Lư); Gia Sinh (huyện Gia Viễn) và xã Ninh Nhất, phường Tân Thành, phường Ninh Khánh (TP. Ninh Bình) để thưởng ngoạn bức tranh thiên nhiên mê đắm lòng người và có những phút giây thanh tịnh, thư giãn với không gian văn hóa tâm linh đặc sắc.

Khu danh thắng Tràng An

Được ví như một “Hạ Long trên cạn”, Tràng An hấp dẫn du khách bởi hệ thống núi đá vôi và hang động tự nhiên đa dạng. Nhiều dãy núi đá vôi vách dựng đứng ôm trọn cả thung lũng, dưới chân các dãy núi có rất nhiều hàm ếch, cửa hang là dấu tích sự xâm thực của nước biển. Đến Tràng An, du khách sẽ không khỏi ngỡ ngàng bởi hệ thống gần 50 động xuyên thủy nối liền 31 thung ngập nước như một trận đồ bát quái vừa kỳ ảo vừa biến hóa khôn lường. Điều làm nên nét quyến rũ trong các hang là hệ thống nhũ đá tự nhiên cùng dòng nước mát lạnh, men theo những lối mòn hằn sâu trên vách hang, tạo thành những dòng chảy uốn lượn.

Khu danh thắng Tràng An còn là nơi có hệ sinh thái động thực vật đa dạng được ví như một “bảo tàng địa chất ngoài trời” với khoảng hơn 310 loại thực vật bậc cao, nhiều loại rêu tảo và nấm; 30 loài thú, hơn 50 loài chim, hàng chục loài bò sát, trong đó có một số loài thú quý hiếm như: sơn dương, chim phượng hoàng…

Đến đây, du khách còn có dịp tham quan các di tích văn hóa lịch sử đặc sắc như: đền Trình (phủ Đột) thờ hai vị tướng nhà Đinh; đền Trần được xây bằng đá xanh nguyên khối, trạm trổ hoa văn tinh xảo, thờ trung vương tướng Trần Quý Minh – viên tướng trấn ải Sơn Nam thời Hùng Vương thứ 18; Phủ Khống – nơi thờ 7 vị quan trung thần triều Đinh, gắn với truyền thuyết khi Vua Đinh Tiên Hoàng băng hà…

Nằm trong khu danh thắng Tràng An, chùa Bái Đính (thôn Sinh Dược, xã Gia Sinh, huyện Gia Viễn) là điểm du lịch tâm linh hấp dẫn không chỉ quy tụ nhiều tăng ni phật tử khắp nơi mà còn thu hút đông đảo du khách trong nước và quốc tế đến hành hương, vãn cảnh.

Chùa Bái Đính

Chùa Bái Đính là một trong những ngôi chùa lớn nhất Việt Nam, tọa lạc trên khuôn viên rộng 700ha với hơn 20 hạng mục công trình kiến trúc, bao gồm khu chùa cổ và khu chùa mới. Khu chùa cổ nằm ở lưng chừng núi Đính, lấy động núi làm chùa thờ Phật. Khu chùa mới nằm ở phía tây bắc núi Đính, có kiến trúc hoành tráng, đồ sộ, mang đậm bản sắc Á Đông, bao gồm các hạng mục kiến trúc xây dựng trên địa hình từ thấp lên cao theo đường chính đạo: cổng Tam quan, hành lang La Hán, tháp chuông, điện thờ Quan Thế Âm Bồ Tát, điện Pháp Chủ và trên cùng là điện Tam Thế.

Chùa Bái Đính lưu giữ nhiều kỷ lục Việt Nam như: bộ tượng Tam Thế bằng đồng lớn nhất (gồm 3 tượng, mỗi tượng cao 7,2m, nặng 50 tấn); bộ tượng An Nan – Ca Diếp bằng đồng lớn nhất (mỗi tượng cao 9m, nặng 30 tấn); tượng Phật Thích Ca bằng đồng dát vàng cao và nặng nhất (cao 9,5m, nặng 100 tấn); tượng ông Khuyến Thiện và Trừng Ác bằng đồng nặng nhất (mỗi tượng nặng 12 tấn); tượng Quan Thế Âm thiên thủ thiên nhãn bằng đồng lớn nhất (cao 9,57m cả bệ, nặng 80 tấn); đại hồng chung lớn nhất (nặng 36 tấn); giếng Ngọc lớn nhất (đường kính 30m, sâu 10m); nhiều cây bồ đề nhất (100 cây được trồng dịp Đại lễ Vesak 2008). Ngoài ra, chùa Bái Đính còn sở hữu ngôi Bảo tháp cao nhất Đông Nam Á (13 tầng); tượng Di Lặc bằng đồng lớn nhất Đông Nam Á (cao 10m, nặng 80 tấn) và hành lang La Hán dài nhất châu Á (500 tượng, mỗi tượng cao 2-2,5m, nặng 2-2,5 tấn, toàn bộ hành lang có chiều dài 1.052m).

Khu danh thắng Tam Cốc – Bích Động

Đến quần thể danh thắng Tràng An, du khách đừng bỏ lỡ cơ hội khám phá khu danh thắng Tam Cốc – Bích Động, xã Ninh Hải, huyện Hoa Lư với tổng diện tích 350,3ha. Tam Cốc nghĩa là ba hang, gồm: hang Cả, hang Hai và hang Ba nằm dọc theo dòng sông Ngô Đồng. Hang Cả xuyên qua một quả núi lớn, dài 127m, cửa hang rộng trên 20m; hang Hai cách hang Cả gần 1km, dài 70m; hang Ba gần hang Hai, dài 45m. Đi thuyền thăm ba hang, du khách sẽ có cảm giác mát lạnh và được ngắm nhìn thạch nhũ từ trần hang rủ xuống lô nhô óng ánh như những khối châu ngọc kỳ ảo.  

Từ Tam Cốc, du khách tiếp tục đi thăm Bích Động ở thôn Đam Khê. Năm 1773, cụ Nguyễn Nghiễm (thân sinh của đại thi hào Nguyễn Du) đến thăm động, nhìn toàn cảnh núi, động, sông nước, đồng ruộng, bầu trời ở đây đều phủ một màu xanh ngắt nên cụ đã đặt cho động một cái tên rất đẹp và mộng mơ là Bích Ðộng (có nghĩa là Ðộng Xanh). Bích Ðộng được mệnh danh là “Nam Thiên đệ nhị động” (động đẹp thứ nhì ở trời Nam). Ðến đây, du khách sẽ có dịp thăm chùa Bích Động nằm trên sườn núi, ẩn hiện giữa những cây đại thụ xanh biếc, gồm 3 tòa Hạ – Trung – Thượng.

Đến khu danh thắng Tam Cốc – Bích Động, du khách còn có cơ hội thăm nhiều di tích văn hóa lịch sử độc đáo khác như: đền Thái Vi, Cố Viên Lầu, hang Múa, động Tiên, thung Nắng, thung Chim…

Ngồi thuyền vãn cảnh, hòa mình với thiên nhiên sơn thủy hữu tình luôn đem lại những ấn tượng sâu sắc cho du khách. Với rất nhiều điểm tham quan hấp dẫn, hành trình khám phá quần thể danh thắng Tràng An chắc hẳn sẽ là một trải nghiệm vô cùng tuyệt vời đang chờ đón du khách.

Phạm Phương

Nguồn: Vietnamtourism.gov.vn

TIN MỚI NHẤT