Du lịch trong nước

Du lịch trong nước, tin tức du lịch trong nước, các tour du lịch trong nước, các địa điểm du lịch trong nước hấp dẫn được chúng tôi tổng hợp và đưa tin hàng ngày đến cho khách du lịch trên khắp mọi miền đất nước có được thông tin du lịch trong nước để có những thông tin hữu ích nhất cho mình và gia đình khi quyết định chọn chuyến du lịch trong nước cho mình và người thân

Khám phá điểm di sản Mắt Thần núi – Cao Bằng

Cao Bằng là một trong những khu vực giàu tiềm năng du lịch di sản, trong đó có di sản địa chất. “Mắt Thần núi” hay còn gọi “Núi Thủng” là một danh thắng độc đáo, hứa hẹn là điểm đến lý tưởng của du khách trong hành trình trải nghiệm Công viên địa chất Non nước Cao Bằng.


Mắt Thần núi nằm trong quần thể danh lam thắng cảnh hồ Thang Hen với hệ thống 36 hồ liên thông nhau thuộc 2 xã: Cao Chương (Trùng Khánh) và Quốc Toản (Quảng Hòa). Bao quanh là các dãy núi đá trập trùng và những dòng suối uốn lượn tạo nên vẻ đẹp kỳ vỹ. Theo các nhà khoa học, Mắt Thần núi thực chất là một hang khô, hang hóa thạch được hình thành cách ngày nay hơn 300 triệu năm. Hang nằm ở độ cao như hiện nay là do vận động nâng trong giai đoạn tân kiến tạo, bao gồm các khối núi dạng tháp và dạng nón đan xen với hàng chục hồ nước lớn nhỏ.

Bên dưới Mắt Thần núi là những con suối uốn lượn bao bọc lấy thảm cỏ mênh mông, xanh mướt tạo nên vẻ đẹp mềm mại nên thơ như nàng thiếu nữ tuổi xuân thì. Trên những vạt cỏ xanh mênh mông bên hồ nước là các hang sâu có đáy phủ rêu xanh và lởm chởm nhũ đá với những hình dạng khác nhau. Để tạo nên khung cảnh ấn tượng này do sự vận động đầy thú vị trong giai đoạn tân kiến tạo. Sự vận động này đã tạo nên nhiều ngọn núi đá vôi xen lẫn hàng chục hồ nước lớn nhỏ. Từ đó, bức tranh du lịch đầy sống động của quần thể Mắt Thần núi và Hồ Thang Hen cũng được hình thành.

Mắt Thần núi là danh thắng độc đáo nằm trong quần thể Công viên địa chất UNESCO Non nước Cao Bằng.

Vẻ đẹp quyến rũ và hùng vĩ của Mắt Thần núi vẫn được giữ nguyên vẹn quanh năm. Mỗi một mùa trong năm, phong cảnh bao quanh Mắt Thần núi lại mang một vẻ đẹp khác nhau. Tất cả hòa quyện lại tạo nên một vùng đất nguyên sơ đẹp hài hòa như một tuyệt tác. Khi mùa mưa tới, thác nước Nặm Trá đổ tuôn ào ào xuống dòng suối trong xanh đẹp đến khó tả. Thác nước này tuy không cao và nhiều tầng nhưng lại tạo thành nhiều dòng chảy với những làn nước mềm mại uốn lượn giữa các mỏm đá. Vào mùa này, ngọn núi kiêu hãnh soi bóng mình cùng “con mắt thần” khổng lồ in nơi đáy nước giữa không gian của núi rừng. Tới mùa khô, khi đông tàn, xuân đến, dưới chân Mắt Thần núi nơi trước kia là đáy hồ nay trở thành một thảm cỏ xanh mướt như nhung. Đâu đó những chú ngựa hay trâu bò đang thong dong gặm cỏ. Nằm xem kẽ với những ngọn núi đá trập trùng trong màn sương trắng nắng vàng, ngọn Mắt Thần nổi bật giữa khung cảnh nên thơ, bình yên như một thảo nguyên du mục. Những vạt hoa dại khoe sắc trải dài khắp thung lũng như điểm tô thêm sắc màu cho khung cảnh nơi đây. Đây chính là thời điểm nhiều tín đồ du lịch phượt tìm đến Mắt Thần núi để trải nghiệm và khám phá.

Tới đây, vào những buổi sáng sớm, du khách sẽ có cơ hội được chiêm ngưỡng cảnh bình minh “độc nhất vô nhị”. Khi ấy, ánh mặt trời ửng hồng mọc lên từ phía Đông sau ngọn núi, chiếu những ánh sáng trực rỡ qua “mắt thần” ở trên đỉnh tạo thành vầng hào quang lấp lánh đầy độc đáo khiến ai cũng phải ngẩn ngơ trước những điều kỳ diệu mà thiên nhiên, tạo hóa ban tặng cho nơi đây.

Ngoài Mắt Thần núi độc đáo, dọc con đường mòn chỉ khoảng 15 phút đi bộ, du khách có thể tìm hiểu cuộc sống sinh hoạt đời thường của người Tày, với những nếp nhà sàn, hàng rào đá, cánh đồng lúa, ruộng ngô, đàn trâu, bò… cùng cảnh quan karst trưởng thành xanh tốt xung quanh, những trải nghiệm chắc chắn sẽ giúp du khách thư giãn sau những căng thẳng của cuộc sống thường ngày.

An Minh

Nguồn: Dulichvn

Khám phá thiên đường nghỉ dưỡng không thể bỏ lỡ tại đảo ngọc Hòn Tre

(TITC) – Nằm trên đảo Hòn Tre thơ mộng, Nha Trang Marriott Resort & Spa, khu nghỉ dưỡng 5 sao lớn nhất của Tập đoàn Marriott International tại Việt Nam được ví như một ốc đảo bình yên ẩn mình giữa thiên nhiên tươi đẹp cùng những tiện nghi đẳng cấp vượt trội. Nơi đây là một điểm đến dành cho những ai ưa chuộng du lịch để nghỉ ngơi, tận hưởng và trải nghiệm trọn vẹn.


Sở hữu hệ thống phòng đa dạng với 403 phòng nghỉ tiện nghi cùng 426 biệt thự từ hai, ba đến bốn phòng ngủ, đáp ứng mọi nhu cầu của du khách. Đặc biệt hơn, căn biệt thự hồng độc đáo nằm tại vị trí tuyệt đẹp – sở hữu tầm nhìn khoáng đạt hướng biển, mở ra bức tranh toàn cảnh tuyệt đẹp của thành phố Nha Trang. Nội thất sang trọng với sắc hồng làm chủ đạo và các đường nét hiện đại kết hợp không gian ngoài trời có hồ bơi riêng sẽ mang lại một kì nghỉ dưỡng thực sự tươi mới.

Với hàng loạt các nhà hàng đa dạng, Nha Trang Marriott Resort & Spa là thiên đường ẩm thực dành cho những tâm hồn yêu thích khám phá. Từ những bữa tiệc buffet hoành tráng tại Sands và Greens, đến những món ăn mang hương vị phong phú từ Đông Phương tại Windy, và những buổi chiều lãng mạn ngắm hoàng hôn bên tiệc BBQ hải sản tươi ngon ngay tại bờ biển dịu êm, mỗi bữa ăn tại đây đều là một trải nghiệm đáng nhớ.

Du khách không thể bỏ lỡ sân pickleball thời thượng duy nhất tại đảo Hòn Tre, hai hồ bơi chính và hồ bơi riêng tại mỗi căn biệt thự cùng hàng loạt hoạt động ngoài trời thú vị như các trò chơi dưới nước, đạp xe quanh khu nghỉ dưỡng và dạo quanh vườn hữu cơ M Valley.

Chỉ cách khu nghỉ chưa đầy 5 phút di chuyển, công viên chủ đề VinWonders là điểm đến lý tưởng cho những ai yêu thích sự náo nhiệt với hàng loạt các trò chơi cảm giác mạnh, khu công viên nước hiện đại, thủy cung rộng lớn sở hữu đa dạng sinh vật biển, cùng nhiều chương trình biểu diễn nghệ thuật đặc sắc. Bên cạnh đó, tổ hợp giải trí Vinpearl Harbour với muôn vàn lựa chọn ẩm thực, khu vực mua sắm, cùng nhiều hoạt động giải trí cũng là một điểm đến không thể bỏ qua.

Ẩn mình giữa những hàng cây xanh mướt tại trung tâm của khu nghỉ dưỡng, Quan Spa sở hữu khuôn viên trang nhã cùng 12 phòng trị liệu được thiết kế hài hòa theo concept âm – dương, giúp bạn tìm lại sự cân bằng hoàn hảo cho thân, tâm và trí. Với sự chăm sóc tận tâm của các chuyên gia trị liệu, hãy để sự thư thái thế chỗ cho những căng thẳng thường nhật qua các liệu pháp mát-xa truyền thống, những lớp thiền định và yoga tái tạo năng lượng, bên cạnh những buổi hướng dẫn tìm hiểu về nghệ thuật mát-xa. Ngoài ra, Quan Spa còn sở hữu phòng gym với đầy đủ tiện nghi và máy móc hiện đại cùng tầm nhìn ra bãi biển xanh mát, mang lại nguồn cảm hứng bất tận để bạn duy trì chế độ luyện tập xuyên suốt kỳ nghỉ. 

Nếu bạn lưu trú tại một trong những biệt thự riêng tư của khu nghỉ dưỡng, hãy thử tắm mình trong ánh bình minh và trải nghiệm lớp học yoga bên hồ bơi để thả hồn vào sắc xanh bất tận của trời mây và biển cả. Các lớp học yoga riêng tư của khu nghỉ được thiết kế cho mọi nhu cầu, dù bạn mong muốn nạp năng lượng, tìm kiếm sự thư giãn, hay đánh thức sự chánh niệm từ sâu trong tâm hồn.

Hơn cả một nơi lưu trú sang trọng, Nha Trang Marriott Resort & Spa, Hon Tre Island là chất xúc tác mạnh mẽ cho hành trình rực rỡ của bạn và những người đồng hành thân yêu. Hãy để làn nước trong xanh, cảnh quan thiên nhiên hùng vĩ và các tiện nghi sang trọng cùng đội ngũ nhân viên tận tâm luôn sẵn sàng phục vụ bạn với thái độ chuyên nghiệp, chu đáo và nụ cười thân thiện tạo nên những kỷ niệm thanh xuân đáng nhớ của bạn.

Trung tâm Thông tin du lịch

Nguồn: Dulichvn

Ninh Thuận: Khai thác giá trị văn hóa Chăm để phát triển du lịch

Tỉnh Ninh Thuận có 80 di sản được lập hồ sơ và xếp hạng, trong đó Nghệ thuật làm gốm của người Chăm được UNESCO ghi danh là Di sản văn hóa phi vật thể cần bảo vệ khẩn cấp; có 2 di tích được Thủ tướng Chính phủ công nhận Di tích quốc gia đặc biệt là tháp Hòa Lai và tháp Pô Klong Garai. Bên cạnh đó, còn có tháp Pô Rômê là di tích lịch sử, kiến trúc cấp quốc gia…


Tháp Pô Klong Garai, phường Đô Vinh, thành phố Phan Rang – Tháp Chàm (Ninh Thuận), được Thủ tướng Chính phủ công nhận Di tích quốc gia đặc biệt tháng 12/2016.

Giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Ninh Thuận Nguyễn Văn Hòa cho biết, những năm qua, để khai thác giá trị văn hóa Chăm thúc đẩy phát triển du lịch, địa phương đã quảng bá rộng rãi hình ảnh các di tích lịch sử, kiến trúc đền tháp, lễ hội gắn với làng nghề truyền thống và các Bảo vật quốc gia của đồng bào Chăm hằng năm, thu hút hàng triệu lượt du khách đến với Ninh Thuận.

Cùng với Lễ hội Katê và Nghi lễ đầu năm của người Chăm được công nhận Di sản văn hóa phi vật thể cấp quốc gia, Ninh Thuận còn có 4 hiện vật được Chính phủ công nhận là Bảo vật quốc gia, gồm: Phù điêu Pô Rômê được thờ tại tháp Pô Rômê, huyện Ninh Phước; tượng vua Pô Klong Garai được thờ tại tháp Pô Klong Garai, phường Đô Vinh, thành phố Phan Rang-Tháp Chàm; bia Hòa Lai được tìm thấy tại huyện Thuận Bắc và bia Phước Thiện, huyện Ninh Phước đang được trưng bày tại Bảo tàng tỉnh.

Lễ hội Katê là di sản văn hóa đặc sắc của đồng bào Chăm theo đạo Bàlamôn được tổ chức vào đầu tháng bảy âm lịch hằng năm, thể hiện sự tôn kính, lòng biết ơn của người dân với các vị thần linh, cầu cho mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt, nhân dân được mạnh khỏe, bình yên, ấm no, hạnh phúc. Tháng 6/2017, Lễ hội Katê được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đưa vào Danh mục Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia.

Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Ninh Thuận Nguyễn Long Biên cho biết: Tỉnh đã phê duyệt Đề án Bảo tồn và phát huy giá trị Lễ hội Katê của đồng bào Chăm tỉnh Ninh Thuận giai đoạn 2025- 2030, với vốn đầu tư hơn 10 tỷ đồng. Mục tiêu, nhằm bảo tồn các nghi thức, nghi lễ, nghệ thuật trình diễn, trang phục truyền thống, nhạc cụ cùng các di sản văn hóa phi vật thể gắn liền với lễ hội.

Theo đó, nhiều hoạt động cụ thể sẽ được triển khai, như: Phục dựng, tổ chức Lễ hội Katê định kỳ tại các điểm di tích tiêu biểu tháp Pô Klong Garai, phường Đô Vinh, thành phố Phan Rang-Tháp Chàm; tháp Pô Rôme; hỗ trợ nghệ nhân, duy trì hoạt động các làng nghề truyền thống phục vụ lễ hội; lồng ghép nội dung lễ hội vào chương trình học đường và hoạt động du lịch…

Cả sư Đổng Bạ, Phó Chủ tịch Hội đồng chức sắc Chăm Bàlamôn, Trụ trì tháp Pô Klong Garai phấn khởi: “Pô Klong Garai là vị vua có nhiều công lao trong việc khẩn hoang đồng ruộng, dẫn thủy nhập điền, chăm lo nâng cao đời sống người dân. Đồng bào Chăm xây dựng tháp Pô Klong Garai trên đồi Trầu để tôn thờ.

Tượng thờ vua Pô Klong Garai được bảo vệ nghiêm ngặt, phục vụ tín ngưỡng tâm linh của đồng bào Chăm và du khách. Cộng đồng Chăm luôn chung tay với chính quyền địa phương và ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch gìn giữ, phát huy các giá trị di sản văn hóa phục vụ tốt nhu cầu phát triển du lịch của địa phương tăng trưởng nhanh, bền vững”.

Ông Lê Xuân Lợi, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu văn hóa dân tộc và Bảo tàng tỉnh Ninh Thuận chia sẻ: Trong dịp nghỉ lễ 30/4 và 1/5/2025 vừa qua, mỗi ngày có từ 1.200-1.500 lượt khách đến tham quan quần thể tháp Pô Klong Garai và Bảo vật quốc gia tại tháp. Dịp này, đơn vị đã tổ chức chương trình nghệ thuật đặc sắc do các nghệ nhân đồng bào Chăm biểu diễn được du khách yêu thích, khen ngợi.

Bên cạnh đó, sản phẩm gốm Chăm Bàu Trúc được tiêu thụ mạnh, tăng thu nhập cho lao động của làng nghề. Tháng 11/2022, Nghệ thuật làm gốm của người Chăm được UNESCO ghi danh vào Di sản văn hóa phi vật thể cần bảo vệ khẩn cấp, góp phần thúc đẩy khai thác giá trị văn hóa Chăm để phát triển du lịch được nâng lên vị thế mới.

Trong 5 tháng đầu năm 2025, có hơn 1 triệu lượt du khách đến tham quan, nghỉ dưỡng tại Ninh Thuận, tăng hơn 168% so với cùng kỳ; thu nhập xã hội từ du lịch ước đạt 1.060 tỷ đồng, đạt 23,5% so với kế hoạch năm.

Đặc biệt, trong 5 ngày nghỉ lễ (dịp 30/4 và 1/5), Ninh Thuận đón 215.000 lượt khách, tăng 43,3% so với cùng kỳ, doanh thu ước đạt 320 tỷ đồng… Năm 2025, tỉnh Ninh Thuận phấn đấu đón hơn 3,6 triệu lượt khách, doanh thu đạt khoảng 4 nghìn tỷ đồng, đưa du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, đóng góp khoảng 15% tổng giá trị sản phẩm trên địa bàn tỉnh.

Nguyễn Trung

Nguồn: Dulichvn

Bảo tồn nhà sàn người Mường

Đất Tổ cội nguồn không chỉ nổi tiếng với Di tích lịch sử Đền Hùng, mà còn là nơi lưu giữ những giá trị văn hóa đặc sắc của đồng bào Mường, trong đó nhà sàn truyền thống là biểu tượng không thể tách rời. Với lịch sử hàng trăm năm, nhà sàn Mường ở các huyện như: Yên Lập, Thanh Sơn, Tân Sơn, Thanh Thủy đang đối mặt với nguy cơ mai một do đô thị hóa. Việc bảo tồn nhà sàn không chỉ giữ gìn một công trình kiến trúc mà còn là bảo vệ linh hồn văn hóa Mường, góp phần phát triển du lịch bền vững.


Ngôi nhà sàn gần 200 năm tuổi ở khu Mít, thị trấn Yên Lập được người dân lưu giữ, bảo tồn cho đến ngày nay.

Về xã Kim Thượng, huyện Tân Sơn, chúng tôi ghé thăm ngôi nhà sàn của gia đình chị Đinh Thị Hiền ở khu Chiềng 2. Ngôi nhà dựng từ năm 1994 chủ yếu bằng gỗ, mái lợp lá cọ, lót sàn bằng thân cây bương nằm trên sườn đồi và là một trong những nhà sàn lâu năm, vững chãi nhất ở địa phương. Vừa rót chén nước vối mời khách, chị Hiền chia sẻ: “Mọi sinh hoạt của gia đình 3 thế hệ chúng tôi gồm 6 thành viên vẫn diễn ra hằng ngày trong ngôi nhà sàn rộng hơn 70m2 này. Mặc dù, nhiều gia đình trong khu đã thay thế nhà sàn truyền thống bằng nhà xây lợp ngói, nhưng gia đình tôi vẫn muốn giữ lại nếp nhà sàn này vì là tài sản của cha ông để lại. Cả gia đình đều thích không gian thoáng đãng, mát mẻ của ngôi nhà, nó phù hợp với khí hậu miền núi và tạo cảm giác gần gũi khi cả gia đình cùng quây quần bên bếp lửa mỗi khi đêm về”.

Nhà sàn thường được dựng ở vị trí trung tâm của đất thổ cư, hướng về không gian thoáng đãng như cánh đồng, sông suối, ưu tiên hướng Nam hoặc Đông Nam để đảm bảo sự mát mẻ và phong thủy tốt, mang lại hòa thuận và thịnh vượng cho gia đình. Kết cấu nhà sàn truyền thống sử dụng vật liệu tự nhiên như: Tre, nứa, gỗ, và cỏ gianh. Các bộ phận khung nhà không dùng mộng mà gác khắc nấc, tận dụng trọng lực để liên kết. Sàn nhà làm từ tre ngà hoặc bương tạo cảm giác mát mẻ về mùa Hè. Nhà sàn không chỉ là nơi sinh hoạt, mà còn là không gian tâm linh. Cột “chồ” – cột thiêng gần cầu thang là nơi đặt bàn thờ gia tiên, không được buộc gia súc. Gian đầu (gian gốc) dành riêng cho đàn ông và khách quan trọng, gian thứ ba là bếp và nơi sinh hoạt của phụ nữ, còn gian thứ tư để lưu trữ đồ dùng. Lễ nhóm lửa khi dựng nhà mới, với các nghi thức như buộc bẹ chuối hình cá hay đặt bí xanh, thể hiện tín ngưỡng sâu sắc của người Mường.

Nhà sàn của người Mường ở Tân Sơn được dựng bằng gỗ, mái lợp lá cọ thoáng mát về mùa Hè, ấm áp trong mùa Đông.

Sự phát triển của xã hội hiện đại đang đặt nhà sàn Mường trước nguy cơ biến mất. Từ năm 2000, vật liệu truyền thống như gỗ và cỏ gianh ngày càng khan hiếm và đắt đỏ, dẫn đến sự chuyển đổi sang nhà sàn bê tông cốt thép, sàn lát gạch men, mái lợp ngói hoặc tôn lạnh. Ở các khu vực gần quốc lộ, thị trấn, nhà sàn truyền thống dường như đã bị thay thế bằng nhà kiên cố. Riêng tại huyện Yên Lập, những cụm nhà sàn ở các xã: Phúc Khánh, Trung Sơn, khu Mít (thị trấn) đang dần thu hẹp, chỉ còn một số ít được lưu giữ như di sản.

Nhằm bảo tồn nhà sàn Mường, thời gian qua huyện Tân Sơn, Yên Lập, Thanh Thuỷ… đã đẩy mạnh việc phát triển du lịch cộng đồng gắn với bảo tồn di sản văn hoá, trong đó có nhà sàn. Một số địa phương như: Xã Phúc Khánh (huyện Yên Lập), xã Xuân Sơn (huyện Tân Sơn), xã Tu Vũ (huyện Thanh Thuỷ)… đã xây dựng mô hình du lịch trải nghiệm, nơi du khách có thể ở homestay trong nhà sàn, tham gia lễ nhóm lửa, học làm cơm lam, hoặc thưởng thức cồng chiêng. Những hoạt động này không chỉ mang lại thu nhập mà còn khuyến khích người dân giữ gìn nhà sàn như một tài sản văn hóa. Cùng với đó, việc cải tiến kỹ thuật xây dựng, như sử dụng đinh sắt, sơn chống mối mọt, hay kê cột trên đá sẽ giúp nhà sàn bền vững hơn mà vẫn giữ được nét truyền thống vốn có. Chính quyền địa phương cũng khuyến khích việc tách bếp ra nhà riêng hoặc xây hành lang bao quanh nhà sàn, vừa tăng tiện nghi vừa bảo tồn cấu trúc chính. Các lễ hội truyền thống: Mừng cơm mới, hát Ví, diễn xướng cồng chiêng được tổ chức thường xuyên bên những ngôi nhà sàn cũng sẽ tạo cơ hội để thế hệ trẻ tiếp cận và yêu hơn văn hóa Mường.

Bằng cách kết hợp bảo tồn với phát triển du lịch, Phú Thọ không chỉ giữ gìn được di sản quý báu mà còn đưa văn hóa Mường vươn xa, góp phần khẳng định vị thế của Đất Tổ trong lòng du khách trong và ngoài nước.

Hồng Nhung

 

Nguồn: Dulichvn

Độc đáo đèn lồng Hội An

Nhắc đến TP Hội An, Quảng Nam là người ta nhớ ngay đến hình ảnh những chiếc đèn lồng đủ màu sắc, lung linh… Đèn lồng không chỉ trở thành biểu tượng độc đáo cho vẻ đẹp phố cổ, mà còn là một trong những trải nghiệm văn hóa thú vị của người dân, du khách…


Một cửa hàng ở phố cổ Hội An lung linh đèn lồng. Ảnh: Tấn Thành.

Ông Nguyễn Văn Sơn – Chủ tịch UBND TP Hội An cho biết, tập quán sử dụng đèn lồng trong các dịp hiếu hỷ, lễ, tết… tại Hội An đến nay cũng đã hơn 400 năm. Đèn lồng Hội An không chỉ phô diễn màu sắc, hình dáng mà còn được biến tấu với nhiều kiểu như thêu ren gắn với biểu tượng, di tích văn hóa, lịch sử, thêu chữ thư pháp mang nét đẹp văn hóa truyền thống Việt đến với mọi gia đình, đặc biệt là du khách quốc tế.

Ngoài những sản phẩm đèn lồng theo cách truyền thống còn có những loại đèn lồng có thể xếp gọn để thuận tiện cất giữ và dễ dàng mang đi xa. Đèn lồng Hội An được đánh giá là mang những giá trị tạo hình, thẩm mỹ và văn hóa thuần Việt gồm có 9 kiểu dáng gồm các loại đèn hình tròn, bát giác, lục giác, hình trái bí… Ngoài ra còn có những chiếc đèn lồng kéo quân, hình hoa sen, hình rồng với đủ màu sắc.

Từ khoảng thế kỷ XVI, Hội An là một thương cảng sầm uất, nhiều thương nhân người Hoa và người Nhật thường xuyên qua lại để buôn bán, họ mang theo những chiếc đèn lồng treo trước cửa. Sau này, nhiều người dân địa phương cũng treo những chiếc đèn lồng trước nhà để cầu may. Từ năm 1988, chính quyền địa phương quyết định tổ chức Lễ hội đèn lồng vào các ngày rằm hàng tháng như một nét đẹp đặc sắc của phố cổ.

Theo nhiều người dân Hội An, đèn lồng không chỉ là vật trang trí đơn thuần mà còn mang nhiều ý nghĩa tâm linh như xua đuổi tà ma, mang đến may mắn và hạnh phúc cho mọi người. Đặc biệt, trong đêm Trung Thu, những chiếc đèn lồng càng thêm phần ý nghĩa khi chúng gắn kết các gia đình, bạn bè trong không khí ấm cúng, đầm ấm và vui tươi

Ông Nguyễn Thanh Hồng – Giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Quảng Nam chia sẻ, những lễ hội gắn với đèn lồng ở phố cổ Hội An chính là một trong những sản phẩm du lịch độc đáo, đặc sắc của di sản văn hoá thế giới.

“Từ năm 2009 đến nay, thành phố đã đề ra sáng kiến tổ chức Lễ hội đèn lồng Hội An như là một sự kiện định kỳ trong dịp mỗi dịp Tết Nguyên đán, với nhiều hoạt động sôi nổi, hấp dẫn, như Hội thi sáng tác đèn lồng nghệ thuật, chế tác mẫu đèn lồng ứng dụng, trải nghiệm làm nghệ nhân làm lồng đèn, rước đèn lồng… đã góp phần khuếch trương hình ảnh lễ hội văn hóa tại Hội An.

Ông Nguyễn Thanh Hồng chia sẻ thêm: “Vào mỗi đêm 14 âm lịch hằng tháng, thành phố lại tổ chức lễ hội “Đêm phố cổ Hội An”, tắt các thiết bị chiếu sáng hiện đại mang đến không gian rực rỡ ánh đèn lồng cùng các hoạt động văn hóa đặc trưng. Nhiều chuyên trang, tạp chí du lịch nổi tiếng trên thế giới đề xuất đây là một trong những Lễ hội đèn lồng đẹp nhất.

“Có thể nói, Lễ hội đèn lồng là một trong những sản phẩm văn hóa – du lịch thu hút sự quan tâm của người dân và du khách khi đến với Hội An. Đây còn là một trong những hoạt động góp phần bảo tồn, quảng bá thương hiệu đèn lồng Hội An cũng như tôn vinh những nghệ nhân, các thợ thủ công tại Hội An” – ông Hồng nhấn mạnh.

Tấn Thành – Chí Đại

 

 

Nguồn: Dulichvn

Chờ gốm hát ca

Chương trình “GOm Show – Âm thanh từ gốm” sẽ diễn ra ngày 28-29/6 tại Nhà hát Lớn, Hà Nội.


Đây là dự án do nhóm Đàn Đó phối hợp tổ chức, sử dụng các nhạc cụ như chum, vại, niêu, chiêng, chuông… chung quanh chiếc bàn xoay gốm. Thành viên dự án – nghệ sĩ Đinh Anh Tuấn cho biết, tre, đất nung và gốm là những chất liệu bản địa, quen thuộc với người Việt. Tập trung khai thác những điều dung dị, mộc mạc, dự án gửi gắm thông điệp về mối quan hệ của con người với thiên nhiên, vũ trụ.

Trong chương trình, các nghệ sĩ sẽ kết hợp giai điệu mới với âm nhạc truyền thống của các dân tộc M’Nông, Tày, Lô Lô, Ê Đê, Hà Nhì… trong các tác phẩm như “Quay về”, “Thời đó”, “Xuôi dòng”, “Gom”… Nghệ sĩ Nguyễn Quang Sự, người chế tác nhạc cụ của dự án, chia sẻ, đàn Niêu là nhạc cụ mà anh ấn tượng nhất. Mặt đàn được bọc bằng da bò. Làm chiếc đàn Niêu đầu tiên, mỗi lần diễn, anh đều phải lên dây lại, nếu không, âm thanh sẽ bị sai lệch. Trống chum hay chiêng sành cũng đều mang lại cho người nghe cảm giác dễ chịu, âm thanh trong trẻo, êm ái, anh Nguyễn Quang Sự chia sẻ thêm. Trong quá trình chế tác nhạc cụ, anh Sự luôn phải tìm những ý tưởng mới mẻ, qua quá trình tưởng tượng sau đó phác thảo và định hình sản phẩm.

Trong quá trình làm việc, mỗi nhạc cụ mới đều được nhóm nghệ sĩ tìm tòi cách sử dụng. Nhạc cụ như cũng biết “chọn chủ nhân”. “Đều có cơ hội tiếp cận như nhau, nhưng có bạn lại phù hợp với đàn niêu, có bạn đánh trống chum, chiêng sành hay xoay gốm xoay tạo ra âm thanh hay hơn”, anh Đinh Anh Tuấn chia sẻ thêm. Dự án “GOm Show” là hành trình đi tìm, “gom” đủ 10 thành viên để tạo nên một chương trình hoàn chỉnh.

Được biết, 10 nghệ sĩ đến từ các vùng miền, học tại các trường đại học khác nhau. Có thành viên đến từ vùng núi phía bắc, có thành viên là thủ khoa nhạc viện. Có một cặp chị em song sinh… Anh Tuấn cho biết, dự án đăng tuyển thành viên trên mạng xã hội, sau đó phỏng vấn trực tiếp. Một thành viên chương trình, bạn Trần Thịnh, đến từ Tuyên Quang, bộc bạch: “Em đã theo dõi nhóm Đàn Đó của các nghệ sĩ từ lâu và rất yêu thích âm nhạc của các anh. Khi biết tin tuyển thành viên, em đã nhanh tay đăng ký casting”.

Bên cạnh đó, một số thành viên đến với dự án qua bạn bè giới thiệu. Các cá tính, mầu sắc khác nhau được kết hợp, đem đến không gian nghệ thuật vừa truyền thống vừa mang hơi thở hiện đại.

Hương Giang – Mỹ Hào

Nguồn: Dulichvn

Gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc nơi đất mới

Trong hành trình tìm kiếm cuộc sống mới tại vùng đất đỏ bazan màu mỡ Tây Nguyên, cộng đồng các dân tộc Tày, Nùng, H’Mông, Dao… từ một số tỉnh miền núi phía bắc vào lập nghiệp đã mang theo những giá trị văn hóa đặc sắc, tạo nên bức tranh đa dạng, sống động.


Ông Hoàng Văn Soạn (thứ hai từ phải sang) trong một buổi sinh hoạt hát then, đàn tính tại làng Pơ Nang, xã Kon Thụp, huyện Mang Yang, tỉnh Gia Lai.

Trong hành trình tìm kiếm cuộc sống mới tại vùng đất đỏ bazan màu mỡ Tây Nguyên, cộng đồng các dân tộc Tày, Nùng, H’Mông, Dao…từ một số tỉnh miền núi phía bắc vào lập nghiệp đã mang theo những giá trị văn hóa đặc sắc, tạo nên bức tranh đa dạng, sống động. Bên cạnh áp lực phát triển kinh tế, hòa nhập cuộc sống nơi đất mới, việc gìn giữ bản sắc văn hóa gặp không ít thách thức.

Tại làng Pơ Nang, xã Kon Thụp, huyện Mang Yang, tỉnh Gia Lai, cách người dân gìn giữ sợi dây gắn kết văn hóa truyền thống của dân tộc mình nơi đất mới là tổ chức định kỳ những buổi sinh hoạt văn nghệ cộng đồng như hát then, đàn tính.

Ông Hoàng Văn Soạn, Chủ tịch Hội Người cao tuổi làng Pơ Nang, chia sẻ: “Chúng tôi coi văn hóa là cội rễ. Dù xa quê hương, bà con vẫn cố gắng giữ lấy những tập tục, tiếng nói, câu hát của ông cha truyền lại”. Là người dân tộc Tày, hơn 20 năm lập nghiệp trên mảnh đất Tây Nguyên, ông Soạn luôn nỗ lực gìn giữ bản sắc văn hóa cũng như vận động đồng bào dân tộc mình gìn giữ lễ hội truyền thống, thờ cúng tổ tiên theo phong tục cũ, đồng thời kết hợp hài hòa với đời sống tín ngưỡng của người bản địa.

Năm 2021, ông Soạn quyết tâm thành lập Câu lạc bộ hát Then, đàn tính và vận động được 30 người tham gia. Những buổi sinh hoạt của câu lạc bộ đã trở thành cầu nối giữa các thế hệ, giúp lớp trẻ hiểu và tự hào về nguồn cội. Đó cũng là biểu hiện sinh động của quá trình hội nhập bền vững, nơi mà bản sắc riêng không bị phai mờ, mà còn được cộng hưởng trong cộng đồng đa dân tộc ở Tây Nguyên.

“Chúng tôi luôn coi đây là quê hương thứ hai của mình, bà con không chỉ hòa nhập mà còn đóng góp tích cực cho sự phát triển kinh tế-xã hội địa phương. Điều quan trọng là dù ở đâu, văn hóa dân tộc vẫn luôn là phần không thể thiếu trong đời sống của mỗi người”, ông Hoàng Văn Soạn khẳng định.

Theo ông Nguyễn Tiến Sỹ, Trưởng phòng Dân tộc huyện Mang Yang, tỉnh Gia Lai, làng Pơ Nang có 286 hộ với 1.294 nhân khẩu, trong đó có đến 80 hộ là người dân tộc Tày, Nùng. Không phải ai cũng dễ dàng thích nghi với điều kiện thổ nhưỡng, khí hậu và phong tục tập quán mới. Tuy nhiên, với những chính sách của Đảng, Nhà nước về phát triển kinh tế- xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, người dân tộc Tày, Nùng đã từng bước xây dựng cuộc sống ổn định, phát huy bản sắc văn hóa truyền thống.

Từ việc lưu giữ được hương vị bản sắc của các phong tục tập quán đến nỗ lực truyền dạy nghề thủ công truyền thống. Ngoài ra, việc giao thoa với nền văn hóa dân tộc của người Ba Na trên địa bàn luôn được họ quan tâm, học hỏi. Tuy nhiên, theo các nhà dân tộc học, hành trình di cư đến vùng đất mới lập nghiệp cũng gặp không ít khó khăn, đòi hỏi chính quyền địa phương ngoài chính sách đúng, còn cần có sự thấu hiểu văn hóa và ứng xử nhân văn, linh hoạt.

Làng Lơ Pơ, xã Chư Krêy, huyện Kông Chro, tỉnh Gia Lai trước đây vốn là làng gốc của người Ba Na, với hơn 100 hộ gia đình sống tập trung, duy trì nếp sống canh tác nương rẫy, tôn trọng rừng thiêng, có hệ thống già làng, luật tục. Năm 2009, một bộ phận cộng đồng người dân tộc Dao từ Lạng Sơn vào đây sinh sống xen kẽ, các nghi lễ, sinh hoạt và thờ cúng lại có những khác biệt. Chính quyền địa phương đã rất quan tâm vấn đề này và có những cách làm linh hoạt để tăng cường tình đoàn kết dân tộc.

Ông Đinh Chương, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã Chư Krêy cho biết: “Để giải quyết những mâu thuẫn trong sinh hoạt cộng đồng, chúng tôi phải tổ chức nhiều cuộc họp dân, đối thoại giữa các cộng đồng để chia sẻ, giải thích phong tục cho nhau. Từ hiểu mới đến thương, rồi mới cùng nhau phát triển được”.

Nhưng khó khăn hơn cả là những thách thức trong việc gìn giữ bản sắc văn hóa khi tốc độ hội nhập ngày càng mạnh mẽ. Tình trạng này không chỉ xảy ra với cộng đồng người Ba Na mà với cả người dân tộc Dao, Tày, Nùng khi việc gìn giữ bản sắc đang đứng trước nhiều thách thức. Do họ vừa phải hòa nhập vào cộng đồng mới, song vẫn phải nỗ lực gìn giữ tiếng nói, chữ viết, nghi lễ, tín ngưỡng, nghề truyền thống của dân tộc mình.

Trước nguy cơ mai một, không ít cộng đồng đã chủ động tìm cách bảo tồn văn hóa truyền thống trong điều kiện mới. Tại làng Lơ Pơ, gia đình anh Trịnh Sinh Thành và một số hộ người dân tộc Dao đã cùng nhau tổ chức các buổi sinh hoạt cộng đồng vào cuối tuần, nơi người lớn kể chuyện, dạy con cháu nói tiếng Dao, thêu thùa, học nhạc cụ dân tộc.

“Quan trọng nhất là nuôi dưỡng niềm tự hào, trân trọng với các giá trị truyền thống của dân tộc trong thế hệ trẻ. Khi con cháu biết trân trọng ngôn ngữ, y phục, âm nhạc, lễ hội của chính mình, văn hóa sẽ không mất đi, mà còn sống động trong một hình thức mới, phù hợp hơn với đời sống hiện đại”- anh Thành chia sẻ.

Việc tìm đến vùng đất mới để lập nghiệp đã đặt ra nhiều thách thức lớn đối với các cộng đồng dân tộc thiểu số trong việc giữ gìn bản sắc văn hóa. Tây Nguyên, vùng đất đã và đang chứng kiến sự hội nhập, thích nghi mạnh mẽ, trong đó, việc giữ được bản sắc không chỉ là gìn giữ quá khứ, mà còn là nền tảng để cộng đồng phát triển bền vững, tự tin bước vào tương lai.

Bài và ảnh: Thu Hằng

Nguồn: Dulichvn

Nhộng chuồn chuồn hương vị từ núi rừng

Trong văn hóa ẩm thực của đồng bào các dân tộc bản địa Kon Tum như Ba Na, Xê Đăng, J’rai có một món ăn “độc, lạ” mà nếu chỉ nghe tên không ít người sẽ rùng mình: nhộng chuồn chuồn.


Với đồng bào dân tộc thiểu số ở Kon Tum, nhộng chuồn chuồn là món ăn có từ những tháng ngày khó khăn, khi lúa chưa vào mùa gặt, khi muối, cá, thịt đều thiếu, chính nhộng chuồn chuồn là nguồn đạm quý giá, là “thịt rừng” của trẻ em vùng cao.

Hơn thế, trong các dịp lễ hội dân gian như: lễ mừng lúa mới, lễ cúng Yàng (thần linh)…, nhộng chuồn chuồn như một món quà dâng lên thần Rừng, thần Nước. Ngày xưa, ai bắt được nhiều nhộng nhất trong làng được xem là người may mắn, sẽ có mùa màng bội thu.

Nhộng chuồn chuồn sau khi được chế biến.

Khi những cơn mưa rào đổ xuống núi rừng, cũng là lúc hàng nghìn con chuồn chuồn non bắt đầu nở mình từ những vũng nước, ao hồ, ruộng lúa. Đồng bào các dân tộc bản địa, đặc biệt là thanh niên và trẻ em thường mang theo những dụng cụ rất đơn sơ như rổ tre, vợt lưới hoặc đơn giản chỉ là đôi bàn tay khéo léo, men theo bờ suối hoặc đầm lầy để bắt nhộng chuồn chuồn. Già làng A Yưi (thôn Kon Klor, xã Đăk Rơ Wa, TP. Kon Tum) chia sẻ: “Bắt nhộng phải khéo, không là làm vỡ mất thân nhộng, mất ngon. Con nhộng chuồn chuồn mập, trắng ngà, mình mềm như con nhộng tằm nhưng vị lại béo hơn, thơm hơn, ít tanh”. Trung bình một buổi sáng, một người có thể bắt được 300 – 500 gram nhộng đủ cho một bữa ăn của gia đình.

Không như nhiều loại côn trùng khác có thể nấu ngay, nhộng chuồn chuồn cần sơ chế rất kỹ để bảo đảm an toàn thực phẩm cũng như giữ nguyên vị ngọt tự nhiên. Sau khi bắt về, nhộng được ngâm vào nước muối loãng pha cùng nước gừng để khử mùi và làm sạch. Cần thay nước nhiều lần để “làm trong” nhộng. Sau khoảng 30 phút, nhộng được vớt ra, để ráo nước trước khi đem chế biến.

Bà Y Thanh, một người chuyên chế biến món nhộng chuồn chuồn cho biết: “Làm món này không vội được. Phải rửa cho sạch, rồi để cho nhộng tự tiết bớt nước, như vậy khi xào mới giòn, mới thơm”. Có nhiều cách chế biến nhộng chuồn chuồn nhưng phổ biến nhất là xào với lá chanh, ớt rừng hoặc sả, ớt. Một số gia đình có thể rang khô để ăn dần, hoặc nấu cháo nhộng với gạo nếp rẫy, món ăn được xem là đại bổ, nhất là cho người già và trẻ nhỏ.

Trong căn bếp nhà sàn khói nghi ngút, tiếng mỡ sôi lách tách quyện với hương thơm của sả, của lá chanh thái chỉ, từng con nhộng chuồn chuồn vàng ruộm, căng mọng dần dần se lại trong chảo nóng. Khi ăn, vị béo ngậy lan tỏa nhưng không hề ngấy, lại phảng phất chút ngọt của đất trời, cái bùi bùi của rừng núi. “Nếu ai đã từng ăn thử, sẽ khó quên được. Tôi vốn sợ côn trùng, nhưng món này ăn rồi lại thấy như đang nếm thứ gì đó rất thân thuộc, rất thiên nhiên, lôi cuốn vô cùng”, chị Lê Thị Thắm (35 tuổi, một du khách đến từ TP. Đà Nẵng) chia sẻ sau khi thưởng thức món nhộng xào sả, ớt tại chợ đêm huyện Kon Plông (tỉnh Kon Tum).

Hiện nay nhộng chuồn chuồn trở thành một đặc sản lạ và quý, hấp dẫn khách du lịch ưa khám phá ẩm thực địa phương. Một số homestay tại Măng Đen (huyện Kon Plông) và TP. Kon Tum đã bắt đầu đưa món nhộng chuồn chuồn vào thực đơn đặc sản theo mùa, phục vụ du khách nội địa và cả khách nước ngoài. Tuy nhiên, để phát triển bền vững, chính quyền địa phương cần có sự hướng dẫn khai thác hợp lý, tránh tận diệt chuồn chuồn trong tự nhiên, đồng thời nghiên cứu nuôi nhân tạo nhộng chuồn chuồn để cung cấp đủ bốn mùa trong năm, đáp ứng nhu cầu của du khách.

Hậu Văn

 

Nguồn: Dulichvn

Đặc sản Quảng Ngãi tên lạ, ăn giòn rụm không cần đũa

Ngoài tên gọi lạ tai và cách thưởng thức độc đáo, món đặc sản dân dã ở Quảng Ngãi còn hút khách nhờ hương vị thơm ngon, giá thành bình dân.


Có mặt ở một số tỉnh ven biển miền Trung như Đà Nẵng, Quảng Nam, Khánh Hòa… nhưng bánh đập (còn gọi là bánh rập, bánh chập, bánh tráng ướt ráo) ở Quảng Ngãi phổ biến hơn và được xem như đặc sản nức tiếng.

Món ăn này không chỉ hấp dẫn bà con bản địa, mà còn gây nhung nhớ cho những người đi lao động xa hay thực khách thập phương.

Thậm chí, một số người con xứ Quảng sinh sống và làm việc ở các vùng miền khác trên cả nước còn đưa bánh đập đi khắp nơi, giới thiệu và quảng bá thức quà quê dân dã.

Bánh đập Quảng Ngãi bên ngoài là bánh tráng nướng giòn rụm, bên trong là bánh ướt mềm mịn, dậy mùi thơm và vị béo ngậy của mỡ hẹ, hành phi. Ảnh: Chuyện ở Quảng Ngãi

Chị Trần Uyên – chủ quán bánh đập bình dân ở hẻm Nguyễn Công Phương, TP Quảng Ngãi chia sẻ, tên món xuất phát từ cách ăn thú vị. Thực khách phải đập nhẹ để bánh vỡ ra, các nguyên liệu dính đều vào nhau rồi mới thưởng thức.

“Bánh đập gồm 2 thành phần chính. Bên ngoài là bánh tráng (bánh đa) nướng, bên trong là lớp bánh ướt mỏng, mềm”, chị nói.

Bánh đập được học sinh, sinh viên xứ Quảng yêu thích. Ảnh: Phương Thu

Tuy là món ăn dân dã, làm từ những nguyên liệu quen thuộc nhưng món bánh đập muốn ngon phải phụ thuộc vào sự khéo léo và tay nghề của người đầu bếp. Theo chị Uyên, phần bánh ướt được làm từ bột gạo khá giống bánh cuốn ở miền Bắc.

Gạo ngâm rồi xay nhuyễn để lấy bột làm bánh. Bột gạo trước khi đem đi tráng sẽ được pha với nước theo tỉ lệ phù hợp để bột không quá loãng hoặc quá đặc. Khi tráng, người ta khuấy rồi múc bột, dàn đều trên miếng vải bọc nồi hơi rồi đậy nắp.

Công đoạn này đòi hỏi chút khéo léo và “canh” thời gian vừa đủ để lớp bánh ướt chín và có độ mỏng vừa phải, đạt độ mềm dẻo, hơi dai, khi lấy lên không bị rách.

Khoảng 1-2 phút là bánh chín. Lúc ấy, người đầu bếp khéo léo dùng que tre mỏng (hoặc dụng cụ chuyên dụng như que, ống sắt…) dỡ bánh lên.

Bánh sẽ được trải lên tấm phên tre cho ráo, sau đó gỡ ra, đặt lên mặt bánh tráng nướng rồi mới cho thêm chút hành phi, mỡ hẹ lên trên và gập lại làm đôi.

Bánh đập không cầu kỳ nhưng ngon. Ảnh: Khoai Lang Thang food

“Khách gọi món đến đâu, chủ quán mới đổ bánh đến đó để món ăn luôn được nóng hổi. Bánh đa trước khi ăn cũng có thể nướng lại cho giòn, ăn sẽ ngon hơn.

Tùy từng địa phương, người ta chỉ dùng hành phi và mỡ hẹ hoặc quết lớp dầu mỏng lên bánh ướt rồi rắc hẹ tươi thái nhỏ lên trên. Một số nơi, người bán còn cho thêm chút tép khô, mộc nhĩ hoặc thịt băm cho món ăn đa dạng, hấp dẫn”, chị Uyên tiết lộ.

Để thưởng thức bánh đập, thực khách lấy tay đập nhẹ vào chiếc bánh, khiến cho bánh vỡ thành nhiều miếng nhỏ, đồng thời làm lớp bánh tráng dính chặt vào bánh ướt bên trong. Thực khách có thể ăn bánh đập trực tiếp mà không cần dùng đũa.

Bánh đập có phần nước chấm ngon. Ảnh: @deliciousthaidesert

Ở Quảng Ngãi, người ta thường ăn bánh đập với mắm nêm hoặc xì dầu, nước mắm chua ngọt. Đặc biệt, người lớn hay trẻ nhỏ đều có thể thưởng thức bánh đập vì món này dễ ăn, giá lại bình dân, ăn sáng, trưa hay xế chiều đều hợp.

“Điều thú vị là món bánh đập không có bất kỳ loại thịt nào, nguyên liệu đơn giản nhưng ăn ngon và cuốn. Mỗi lần về quê, mình đều ra quán thưởng thức món này, có khi ăn hết 3-4 chiếc một lúc”, Hà My (hiện sống và làm việc ở TPHCM) bày tỏ.

Cô gái trẻ cũng nêu cảm nhận, bánh đập ngon nhất là khi ăn nóng. Độ giòn tan của lớp bánh tráng kết hợp với độ dẻo mịn của bánh ướt, cùng với phần nhân mỡ hẹ béo ngậy khiến món ăn trở nên đặc biệt, giúp du khách cảm nhận trọn vị.

b

Bánh đập có giá thành rẻ, chỉ từ 9.000 đồng. Ảnh: @kawai.food

Nếu có dịp tới Quảng Ngãi, du khách có thể tìm và thưởng thức món bánh đập ở một số quán ăn vỉa hè trong trung tâm TP như Lê Đại Hành, Nguyễn Công Phương… hay trong các khu chợ dân sinh của địa phương.

Mỗi suất bánh đập khá rẻ, khoảng 9.000 – 12.000 đồng, tùy nơi và tùy loại nhân. Trong khi ăn, du khách có thể quan sát quá trình làm bánh khéo léo của người đầu bếp.

Thảo Trinh

 

Nguồn: Dulichvn

Sắc gốm miền Kinh Bắc

Nếu lúa là linh hồn của văn minh nông nghiệp, thì gốm được xem là “ngôn ngữ” đầu tiên mà cư dân lúa nước dùng để thể hiện đời sống tinh thần. Trong dòng chảy đời sống đương đại, sắc gốm miền Kinh Bắc với những tên tuổi như Phù Lãng, Luy Lâu, Hiên Vân đang thăng hoa như một bản giao hòa giữa truyền thống và hiện đại, giữa hồn đất với sự sáng tạo tài hoa của đôi tay và tâm thức người Việt.


Mộc mạc gốm Phù Lãng (Quế Võ).

Mộc mạc men da lươn gốm Phù Lãng

Làng gốm Phù Lãng (Quế Võ) nằm bên dòng sông Cầu hiền hòa, mang trong mình hơn 700 năm lịch sử làm gốm. Đây là một trong những làng nghề cổ của xứ Kinh Bắc-Bắc Ninh. Nghề gốm Phù Lãng hình thành và phát triển vào khoảng thời Trần, từ thế kỷ XIV. Truyền rằng, ông tổ nghề gốm Phù Lãng là Lưu Phong Tú.

Không như Bát Tràng men trắng hoa lam, gốm Phù Lãng nâu trầm, mộc mạc, dân dã nhưng đầy sức sống và nổi danh với những sản phẩm men da lươn độc đáo với nhiều sắc độ như nâu đen, vàng nhạt, vàng thẫm, vàng nâu…

Phương pháp chế tác đặc trưng của Phù Lãng là kỹ thuật đắp nổi theo hình thức chạm bong (chạm kép) làm nên những sản phẩm gốm dùng trong tín ngưỡng, gia dụng và đồ trang trí mang tính điêu khắc cao. Theo các bậc cao niên ở làng, mỗi sản phẩm gốm Phù Lãng đạt yêu cầu phải mang sắc da lươn vàng óng hoặc màu cánh gián đặc trưng, khi gõ có âm thanh vang trong. Điểm đặc biệt người Phù Lãng vẫn kiên trì nung gốm bằng củi để tạo ra những vết táp tự nhiên trên bề mặt gốm mà không phương pháp hiện đại nào thay thế được. Ngày nay, các thế hệ nghệ nhân và thợ trẻ của làng nghề vẫn ngày đêm vẫn miệt mài thổi hồn vào đất, giữ lấy chất men quê bằng sự tận tâm và lòng yêu nghề bền bỉ.

Trầm ấm gốm Luy Lâu

Không chỉ là trung tâm chính trị, văn hóa thời Bắc thuộc, vùng Dâu- Luy Lâu (Thuận Thành) còn là nơi phát tích của gốm Luy Lâu là dòng gốm cổ từng giao thương với Ấn Độ và Trung Hoa từ hơn 2.000 năm trước. Những hiện vật gốm được phát hiện tại di chỉ khảo cổ Luy Lâu và khu vực lân cận cho thấy nơi đây từng là cái nôi của sản xuất gốm vùng đồng bằng sông Hồng.

Sự bồi lấp của dòng sông Dâu cổ cùng biến thiên lịch sử và sự mai một của nghề thủ công đã khiến gốm Luy Lâu thất truyền từ thế kỷ XVII. Phải mất hơn 300 năm, tại vùng đất cổ ấy, nhờ sự miệt mài của họa sĩ, nghệ nhân Nguyễn Đăng Vông và các cộng sự mới lại vực dậy một “giấc mơ gốm” tưởng đã hóa tro tàn.

Với kỹ thuật men tro xanh ô-liu, đỏ sậm đặc trưng, gốm Luy Lâu không chỉ mang vẻ đẹp mỹ thuật, mà còn ẩn chứa chiều sâu lịch sử. Bằng chính tay nghề và lòng tin của mình qua những lần thử nghiệm trong lò nung, nghệ nhân đã lấy từ tro cây dâu bản địa, kết hợp với đất bãi, sỏi đá núi và vỏ sò điệp từ biển cả để làm nên men gốm Luy Lâu riêng biệt. Từ những chiếc bình, lọ, đến những biểu tượng văn hóa Việt như: Đầu rồng thời Lý, nghê cổ, hoa sen, rồng phượng, đều mang hơi thở của ngàn xưa và sự sáng tạo của hôm nay. Gốm Luy Lâu từng được giới thiệu tại các sự kiện APEC, WTO và hiện diện trong các bộ sưu tập tại Pháp, Đức, Nhật Bản, Hoa Kỳ.

Sự trở lại của gốm Luy Lâu không chỉ là sự hồi sinh một nghề cổ, mà là minh chứng sống động về sức sống bền bỉ của văn hóa Việt. Trên vùng đất từng là kinh đô cổ của xứ Giao Chỉ, nơi hội tụ của đạo Phật, Nho giáo và tín ngưỡng bản địa, những sản phẩm gốm Luy Lâu như tiếng vọng quá khứ, nhắc nhở hậu thế về một nền văn minh từng rực rỡ và một khát vọng gìn giữ tinh hoa của đất.

Gốm Hiên Vân lưu giữ vẻ đẹp ký ức

Gốm Hiên Vân là biểu tượng cho một hướng đi mới sáng tạo từ căn cốt dân tộc. Dòng gốm này do cố họa sĩ Bùi Hoài Mai sáng lập từ năm 2004, mang triết lý “phục hưng gốm Việt theo lối đương đại”. Gốm Hiên Vân không sản xuất đại trà, không chạy theo thị trường mà đi theo lối nghệ thuật cá nhân hóa. Mỗi tác phẩm như một khối cảm xúc, có tính điêu khắc, lặng lẽ kể chuyện bằng hình thể và màu men.

Gốm Hiên Vân mang dáng dấp cổ điển, với lớp men sâu thẳm, được phát triển từ kỹ thuật chế tác thời Lý-Trần-Lê-Mạc. Dáng gốm Hiên Vân không chạy theo hiện đại mà giữ cốt lõi truyền thống với chất men tro cổ truyền được nâng cấp theo tiêu chuẩn mới, khả năng chịu nhiệt cao hơn, sắc độ phong phú hơn, và mỗi sản phẩm đều là một cá thể độc lập, như một mảnh thời gian cô đọng. Và chính trong hành trình kể tiếp câu chuyện truyền thống, người nghệ sĩ sáng tạo đã tìm cách giao thoa giữa cái cũ và cái mới. Vì thế, gốm Hiên Vân không chỉ là vật dụng hay đồ trang trí mà còn như một kỷ vật của gốm Việt xưa – nay.

Những làng gốm Kinh Bắc, dù cổ như Phù Lãng, phục dựng như Luy Lâu, hay đương đại như Hiên Vân đều chung một khát vọng kể câu chuyện quê hương bằng thứ ngôn ngữ sâu lắng nhất. Đó là câu chuyện của sự quện hòa giữa đất, nước, lửa cùng sức sáng tạo tài hoa của bàn tay và khối óc. Từ Luy Lâu thâm trầm, Phù Lãng mộc mạc đến Hiên Vân thanh khiết, mỗi dòng gốm là một phần của bản sắc, một tiếng vọng của quá khứ gửi về hiện tại. Không chỉ màu men, kiểu dáng hay kỹ thuật tạo hình, mỗi sản phẩm gốm còn là ký ức của hồn đất, là ngôn ngữ sáng tạo của đôi tay, là hơi thở của văn hóa Việt…

V.Thanh

 

Nguồn: Dulichvn

TIN MỚI NHẤT