Du lịch trong nước

Du lịch trong nước, tin tức du lịch trong nước, các tour du lịch trong nước, các địa điểm du lịch trong nước hấp dẫn được chúng tôi tổng hợp và đưa tin hàng ngày đến cho khách du lịch trên khắp mọi miền đất nước có được thông tin du lịch trong nước để có những thông tin hữu ích nhất cho mình và gia đình khi quyết định chọn chuyến du lịch trong nước cho mình và người thân

Hà Nội công nhận điểm du lịch Thụy Lâm

Ngày 14/4, UBND Thành phố Hà Nội ban hành Quyết định số 2014/QĐ-UBND về việc công nhận điểm du lịch Thụy Lâm, xã Thụy Lâm, huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội.


Nghi lễ rước vua tại lễ hội đền Sái.

Theo Quyết định, UBND Thành phố Hà Nội công nhận điểm du lịch Thụy Lâm, địa chỉ tại xã Thụy Lâm, huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội; giao UBND xã Thụy Lâm có trách nhiệm thực hiện tổ chức quản lý, khai thác, phát triển điểm du lịch theo đúng quy định của Luật Du lịch và các văn bản pháp luật liên quan.

Các Sở, ngành: Du lịch, Văn hóa và Thể thao, Nông nghiệp và Môi trường, Xây dựng, Khoa học và Công nghệ, Y tế, Tài chính, Công an Thành phố, UBND huyện Đông Anh, UBND xã Thụy Lâm có trách nhiệm hướng dẫn, tổ chức quản lý, khai thác và đầu tư xây dựng điểm du lịch Thụy Lâm theo đúng quy định pháp luật và Thành phố Hà Nội, đảm bảo phát triển bền vững, hiệu quả.

Phó Chủ tịch UBND huyện Đông Anh Nguyễn Thị Tám cho biết, mảnh đất Thuỵ Lôi nằm ở vị trí phía Bắc của Kinh đô Cổ Loa và Kinh đô Thăng Long, nơi đây có vị trí khá đặc biệt với núi Sái – Đền Sái nơi ghi đậm dấu tích những trận chiến ác liệt và chiến công oai hùng của danh tướng Lý Thường Kiệt, vị tướng tài danh đã chỉ huy quân dân Đại Việt đánh tan quân xâm lược nhà Tống trên chiến tuyến sông Cầu ở thế kỷ XI, kìm hãm vó ngựa quân Nguyên Mông ở thế kỷ XIII.

Phó Chủ tịch UBND huyện Đông Anh Nguyễn Thị Tám cho biết, mảnh đất Thuỵ Lâm nằm ở vị trí phía Bắc của Kinh đô Cổ Loa và Kinh đô Thăng Long, có vị trí khá đặc biệt với núi Sái – Đền Sái nơi ghi đậm dấu tích những trận chiến ác liệt và chiến công oai hùng của danh tướng Lý Thường Kiệt, vị tướng tài danh đã chỉ huy quân dân Đại Việt đánh tan quân xâm lược nhà Tống trên chiến tuyến sông Cầu ở thế kỷ XI, kìm hãm vó ngựa quân Nguyên Mông ở thế kỷ XIII.

Xét về thế quân sự, với khoảng cách không xa, lại có các gò nên Đền Sái như một ụ luỹ phòng vệ từ xa cho thành Cổ Loa về phía Bắc. Vị thế đó có ý nghĩa lớn trong bố phòng quân sự, tạo nên ưu thế cho thành Cổ Loa khi quân dân Âu Lạc kháng chiến chống lại quân xâm lược Triệu Đà.

Năm 1010, vua Lý Công Uẩn dời đô từ Hoa Lư về Đại La xây dựng Kinh thành Thăng Long; năm 1011, vua Lý đã đến Đền Sái và cho rước duệ hiệu đức Huyền Thiên từ Đền Sái về xây đền ở cạnh hồ Tây phía Bắc thành Thăng Long (tức đền Quán Thánh) tôn vinh là vị thần trấn giữ phía Bắc cho Kinh thành Thăng Long.

Di tích lịch sử Đền Sái được công nhận di tích cấp quốc gia vào năm 1986 với tục lệ “Rước Vua giả”, tương truyền Vua An Dương Vương được đức thánh Huyền Thiên Trấn Vũ giúp trừ yêu tinh để xây thành, để nhớ ơn đã xây dựng đền Kim khuyết cung (Đền Sái ngày nay), hàng năm Vua đều xa giá về bái yết, nhưng về sau thấy việc đi lại hao tốn tiền của Nhân dân nên đã cho phép Nhân dân làng Thụy Lôi “Thực hành nghi vệ Thiên tử, xưng quan tước” để bái yết Thánh Huyền Thiên thay Vua… Từ đó hình thành lễ hội Rước Vua giả, được truyền từ đời này qua đời khác cho đến ngày hôm nay.

Cùng với lễ hội Cổ Loa, lễ hội Đền Sái đã được ghi danh vào danh mục di sản phi vật thể quốc gia và được các thế hệ người dân của huyện gìn giữ, lưu truyền, tôn tạo, hiện hữu trong đời sống vật chất, tinh thần, trở thành nguồn lực vô giá cho hôm nay và mai sau.

Đây chính là những tiềm năng, lợi thế to lớn để phát triển du lịch của huyện, nhất là trong điều kiện toàn cầu hóa hiện nay, du lịch Đông Anh đang từng bước phát triển mạnh mẽ, trở thành điểm đến hấp dẫn, thân thiện, đóng góp đáng kể cho phát triển kinh tế – xã hội, trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của huyện trong thời gian tới.

Hạnh Phúc

 

Nguồn: Dulichvn

Gà nướng cơm lam

Một món ăn dân dã được chế biến đơn giản nhưng phải khéo lắm mới tạo ra hương vị gây thương nhớ. Và có lẽ, phải thưởng thức khi ngồi giữa khung cảnh thiên nhiên thì mới cảm hết độ ngon của món ăn.


Món cơm lam gà nướng tại Đà Lạt. Ảnh: Minh họa

Ăn ở Đà Lạt

Quán gà Tam Nguyên đón khách từ 10h sáng đến 12h trưa. Khách muốn ăn phải đặt bàn trước một ngày và chuyển khoản đặt cọc. Chủ quán nhận được tiền cọc sẽ xác nhận giờ ăn và khách buộc phải đến đúng giờ, nếu đến trễ thì… không được ăn. Một bữa ăn gồm có gà nướng nguyên con, heo nướng vỉ, bắp cải luộc, mướp xào và cơm lam.

Những lời đồn về quán ăn “chảnh” nhất Đà Lạt được mọi người truyền tai nhau. Chúng tôi được hai người bạn rủ đi ăn thử. Quy trình diễn ra như sau: đặt ăn – chuyển khoản – hẹn giờ – đúng giờ có mặt – ăn cơm, uống rượu.

Chủ quán là đôi vợ chồng già sống chậm với những nguyên tắc riêng. Họ xem khách đến nhà như những người bạn đang cần một chỗ dừng chân, thưởng thức ẩm thực. Quán không có nhân viên, chỉ có hai vợ chồng tự nấu nướng, bưng bê, dọn dẹp nên không thể tiếp quá nhiều khách.

Sở dĩ quy trình đặt chỗ và thời gian thưởng thức món ăn có vẻ làm khó khách như vậy vì món cơm lam tính luôn cả thời gian ngâm gạo mất tổng cộng 8 tiếng mới hoàn thành.

Món gà muốn ngon phải đảm bảo hai yếu tố: nhiệt độ và thời gian. Dù 1 con gà hay 5 con gà thì vẫn phải dùng đúng một lượng than nhất định để đảm bảo nhiệt độ. Thời gian nướng gà tầm 3 tiếng để xương chín, thịt không khô mà da lại giòn. Nghệ thuật nấu nướng nằm ở sự khắt khe đó.

Những món ăn được chăm chút cần được thực khách thưởng thức bằng những giác quan tinh tế nhất và vào thời điểm thích hợp nhất. Nếu khách đến sớm, thịt chưa kịp chín; đến trễ, gà sẽ bị khô hoặc phải nướng lại làm mất đi vị ngon.

Chúng tôi ăn đến đâu, dùng tay xé thịt gà và xé vỏ ống tre đến đó. Quả thực, cái cảm giác ăn các món nướng dân dã bằng tay luôn mang đến niềm vui thích tột độ. Mùi thơm của bếp than vấn vít trên mấy đầu ngón tay. Chưa kể, ăn bằng tay còn gợi về cảm giác ngày thơ bé thường vào bếp nhón thức ăn mới nấu của bà, của mẹ.

Quán ven đường Đắk Lắk

Lần thứ hai, trong một chuyến thăm Buôn Ma Thuột, trên đường vào thác Dray Nur. Khi đó tầm giữa trưa, để tránh đi chơi thác giữa trời nắng nóng, chúng tôi dừng chân ở một quán ven đường có treo bảng gà nướng cơm lam. Quán đơn sơ được dựng lên giữa rừng cây bằng mấy chiếc cột nhà, mái tôn, bên trong đặt vài bộ bàn ghế cho khách dùng bữa và treo vài chiếc võng cho khách ngả lưng.

Vì đã từng thưởng thức món gà nướng cơm lam ngon không chỗ nào chê ở Đà Lạt, thú thật, tôi không đặt nhiều kỳ vọng ở một quán nước đơn sơ thế này, dẫu biết rằng món gà nướng cơm lam là đặc sản của người dân tộc Ê Đê ở Đắk Lắk.

Thế mà, món ăn bày trên bàn ngon hơn sự tưởng tượng của tôi gấp nhiều lần. Chủ quán là hai vợ chồng người dân tộc Ê Đê nên chế biến món này theo cách nguyên bản, không thay đổi cho hợp khẩu vị với khách phố.

Lớp da gà vừa mỏng vừa giòn. Phần thịt hương vị nguyên bản không qua tẩm ướp. Cơm lam được làm từ những hạt gạo dẻo thơm, nướng vùi trong lửa qua một ống tre nén chặt lại bằng lá chuối.

Ngẫm lại hai kỷ niệm với món gà nướng cơm lam, tôi nhận ra món ăn này sẽ kém ngon nếu thiếu đi khung cảnh. Bằng chứng là ngoài hai lần đó, tôi đã ăn gà nướng cơm lam thêm nhiều lần nữa ở nhà hoặc trong nhà hàng chuyên các món đặc sản địa phương, chẳng lần nào thấy thực sự ngon miệng cả. Nhớ lại, hai lần đó, chúng tôi vừa thưởng thức bữa trưa vừa ngắm đất trời, cỏ cây, giữa làn gió mát, thi thoảng còn nghe tiếng lao xao của đất trời.

Ăn các món dân dã, ngồi ở một không gian dân dã, gần gũi với thiên nhiên hoặc mang đậm nét văn hóa vùng miền sẽ làm tăng thêm hương vị của món ăn vì món ăn đâu chỉ là thực phẩm mà còn là một phần của văn hóa truyền thống. Ngồi ăn món gà nướng cơm lam giữa khung cảnh thiên nhiên tạo nên một trải nghiệm ẩm thực vô cùng đặc biệt và khó quên.

Lê Ngọc

 

Nguồn: Dulichvn

Độc đáo nghề luyện kim cổ ở Đồng Nai

Không chỉ là vùng đất có công nghiệp phát triển mạnh mẽ, Đồng Nai còn sở hữu kho tàng di sản văn hóa độc đáo. Trong đó, nghề luyện kim cổ đã để lại nhiều dấu ấn về trình độ, kỹ thuật, cũng như tinh thần sáng tạo của cộng đồng dân cư Đồng Nai.


Người dân và du khách tham quan triển lãm Nghề luyện kim cổ ở Đồng Nai và tìm hiểu về bảo vật quốc gia Tượng đồng tê tê Long Giao. Ảnh: M.Ny

Việc giới thiệu các hiện vật ở Triển lãm Nghề luyện kim cổ tại Bảo tàng Đồng Nai góp phần giúp người dân và du khách, nhất là thế hệ trẻ, tiếp cận với văn hóa cư dân cổ Đồng Nai, hình thành ý thức bảo tồn và phát huy giá trị di sản.

Tinh hoa của vùng đất Biên Hòa – Đồng Nai

Vùng đất Đồng Nai từ hàng ngàn năm trước đã chứng kiến sự phát triển mạnh mẽ của nghề luyện kim. Những di tích khảo cổ học tìm thấy tại Long Giao, Suối Chồn, Cái Vạn… đã cho thấy vùng đất này từng là một trung tâm luyện kim có quy mô lớn và kỹ thuật cao, với nhiều công cụ và đồ dùng được đúc bằng đồng thau tinh xảo. Không chỉ sử dụng kỹ thuật đúc để chế tác các công cụ như: rìu, giáo, lao, mũi tên, lục lạc, lưỡi câu…, mà cư dân cổ còn tạo ra những tác phẩm nghệ thuật tinh xảo.

Triển lãm Nghề luyện kim cổ ở Đồng Nai diễn ra từ ngày 11/4 đến ngày 30/5 tại Bảo tàng Đồng Nai mở cửa miễn phí, phục vụ nhu cầu tham quan, tìm hiểu văn hóa lịch sử của các tầng lớp nhân dân trong và ngoài tỉnh.

Trong tác phẩm Nghề luyện kim cổ ở Đồng Nai của tác giả Nguyễn Giang Hải – Huỳnh Văn Tới do Nhà xuất bản Đồng Nai ấn hành cho biết, không gian Đồng Nai của nghề luyện kim và đồng cổ được xác định là một vùng văn hóa rộng lớn thuộc lưu vực hệ thống sông Đồng Nai tương ứng với địa bàn của các tỉnh, thành Đông Nam Bộ hiện nay. Việc phát hiện ngày càng nhiều di tích và di vật khảo cổ liên quan trực tiếp đến nghề luyện kim ở Đồng Nai đã khẳng định sự tồn tại của một nền kỹ nghệ luyện kim đồng thau trong lưu vực sông Đồng Nai ở thiên niên kỷ thứ II-I trước công nguyên.

Hai trong những minh chứng tiêu biểu nhất chính là Tượng đồng tê tê Long Giao được phát hiện cùng địa điểm với bộ sưu tập Qua đồng Long Giao được xem là những di tích điển hình nhất trong các di tích tiền sử – sơ sử ở lưu vực sông Đồng Nai. Trong đó, Tượng đồng tê tê Long Giao là hiện vật gốc, độc bản, độc đáo từ hình thức và kích thước đến kỹ thuật đúc đồng điêu luyện, không chỉ có giá trị lịch sử, văn hóa, nghệ thuật, thể hiện dấu ấn về một trung tâm luyện kim, đúc đồng tại vùng đất Đồng Nai thời đại đồng thau – sơ kỳ sắt, mà còn là hiện tượng độc đáo trong giai đoạn nhà nước sớm ở miền Đông Nam Bộ.

Bên cạnh những di sản còn lại như tượng đồng tê tê Long Giao, Qua đồng Long Giao, nhiều hình ảnh trưng bày trong Triển lãm Nghề luyện kim cổ ở Đồng Nai đã giới thiệu quy trình chế tác, kỹ nghệ luyện kim, đúc đồng. Nhiều hiện vật rèn vũ khí như: quạt lò, bếp, kìm, đe, búa; hay sưu tập nghề thủ công kim hoàn, nghề đúc gang như: cân điện tử, hũ nấu cám vàng, bay làm khuôn, khuôn lưỡi cày…, trong đó có bộ sưu tập dụng cụ nghề kim hoàn của ông Nguyễn Văn Cầu, nguyên Hội trưởng Hội Kim hoàn Đồng Nai. Các hiện vật được tổ chức thành không gian trải nghiệm, góp phần đưa nghề xưa hòa nhịp với hiện tại.

Đồng Nai hiện có 4 hiện vật, nhóm hiện vật được Thủ tướng Chính phủ công nhận là bảo vật quốc gia gồm: bộ sưu tập Qua đồng Long Giao (15 tiêu bản), tượng đồng tê tê Long Giao, tượng thần Vishnu Bình Hòa và bộ sưu tập Đàn đá Bình Đa. Đây là vốn văn hóa vô giá và là niềm tự hào, vinh dự của vùng đất Biên Hòa – Đồng Nai.

Quảng bá văn hóa cư dân cổ Đồng Nai

Tham gia vào Triển lãm Nghề luyện kim cổ ở Đồng Nai, Phó chủ nhiệm Câu lạc bộ (CLB) Di vật, cổ vật Biên Hòa Nguyễn Mộng Điệp chia sẻ, CLB đã giới thiệu nhiều sản phẩm đúc đồng quý giá, được sưu tầm và gìn giữ qua nhiều giai đoạn lịch sử khác nhau. Những hiện vật này không chỉ thể hiện trình độ kỹ thuật của các nghệ nhân xưa, mà còn phản ánh dòng chảy văn hóa, xã hội của vùng đất Biên Hòa – Đồng Nai nói riêng, Nam Bộ nói chung.

“Việc đưa các cổ vật đến bảo tàng trưng bày, phục vụ công chúng không chỉ giúp người dân thêm hiểu, thêm yêu di sản quê hương, mà còn là cầu nối quan trọng quảng bá, giáo dục văn hóa và lịch sử địa phương. Thông qua triển lãm, CLB mong muốn kêu gọi cộng đồng cùng chung tay bảo tồn nghề luyện kim truyền thống – vốn là một phần không thể thiếu trong dòng chảy văn hóa Đồng Nai” – ông Điệp nói.

Theo Phó giám đốc Bảo tàng Đồng Nai Nguyễn Văn Minh, việc tổ chức Triển lãm Nghề luyện kim cổ ở Đồng Nai nhằm tuyên truyền, quảng bá đến nhân dân trong và ngoài tỉnh về những thành tựu văn hóa của cư dân cổ Đồng Nai, trong số những thành tựu đó đã từng hiện hữu “một dòng chảy đúc đồng, một nghề luyện kim cổ”. Qua các bảo vật quốc gia và những hình ảnh liên quan giúp người xem có cái nhìn trực quan sinh động, bao quát hơn về các giá trị di sản văn hóa thuộc văn hóa Đồng Nai nói chung và giá trị văn hóa quốc gia vùng đất Biên Hòa – Đồng Nai nói riêng.

Ly Na

Nguồn: Dulichvn

Phum sóc rộn ràng đón Tết Chôl Chnăm Thmây

Tết Chôl Chnăm Thmây của đồng bào Khmer năm 2025, sẽ diễn ra từ ngày 14 đến ngày 16/4 với nhiều hoạt động ý nghĩa, vui tươi. Trong niềm vui được mùa, đồng bào Khmer đang đón Tết ấm áp, đậm đà bản sắc dân tộc.


Không khí tết rộn ràng, sung túc

Có dịp về với đồng bào Khmer ở các tỉnh Cà Mau, Sóc Trăng, Bạc Liêu… mới cảm nhận được không khí đón Tết truyền thống của đồng bào. Những ngày qua, khi đi từng phum, sóc sẽ dễ dàng cảm nhận được không khí rộn ràng, náo nức chuẩn bị đón Tết cổ truyền của đồng bào Khmer. Các gia đình Khmer, ngoài giờ lao động, sản xuất, đều tranh thủ sửa soạn, dọn dẹp, trang hoàng lại nhà cửa khang trang, sạch đẹp.

Một gia đình Khmer ở xã Vĩnh Trạch Đông, TP Bạc Liêu, tỉnh Bạc Liêu làm bánh gừng đón tết. Ảnh: Nguyên Du

Theo phong tục, trước tết ít ngày, nhiều người vào chùa vệ sinh, làm mới lại nơi cất giữ hài cốt của tổ tiên, ông bà nhằm thể hiện đạo hiếu của con cháu và cầu mong sẽ được phù hộ những điều tốt đẹp trong năm mới.

Khác những năm trước, gia đình bà Thạch Thị Ngọc Phượng ở ấp Cái Giá, xã Hưng Hội, huyện Vĩnh Lợi, tỉnh Bạc Liêu đón Tết Chôl Chnăm Thmây năm nay, rộn ràng, sung túc hơn. Ngoài gói bánh, mời hàng xóm đến chung vui, bà còn mua dàn karaoke để giải trí trong dịp này. “Năm nay, kinh tế gia đình tôi khấm khá, nên đón tết cũng lớn hơn, tươm tất hơn”, bà Phượng khoe.

Kéo co, bịt mặt đập nồi, nhảy bao bố là những trò chơi dân gian được bà con Khmer yêu thích. Ảnh: Nguyên Du

Theo bà Phượng, cuộc sống gia đình trong những năm gần đây khá đủ đầy, nhờ lúa màu liên tục được mùa, được giá. Bên cạnh sự nỗ lực của gia đình, có được kết quả này còn có sự giúp đỡ, quan tâm, tạo điều kiện của chính quyền địa phương trong phát triển sản xuất.

Anh Triệu Thanh Thal ở ấp Giồng Giữa A, xã Vĩnh Trạch Đông, TP Bạc Liêu cho biết: Vì vậy, gia đình tôi đã tạm gác công việc ở TP Hồ Chí Minh để được sum họp bên người thân, họ hàng trong những ngày tết Chôl Chnăm Thmây. “Ngoài việc được tham gia các nghi lễ, hoạt động vui chơi trong dịp tết thì đây còn là cơ hội để giữ “lửa” hạnh phúc gia đình thông qua những phút giây cùng nhau dọn nhà, chuẩn bị cúng tổ tiên, làm các món bánh truyền thống… Từ đó, vun đắp thêm tình yêu thương, nhắc nhở con cháu biết trân trọng, giữ gìn những giá trị tốt đẹp của tết Chôl chnămthmây”, anh Thal chia sẻ.

Các chùa trang hoàng rực rỡ đón Tết

Với người Khmer, chùa là nơi để đồng bào thực hiện các nghi lễ tôn giáo, tín ngưỡng và sinh hoạt văn hóa truyền thống tốt đẹp vào dịp lễ, tết. Do đó, không khí Tết Chôl Chnăm Thmây vào những ngày này ở tất cả các ngôi chùa Phật giáo Nam tông Khmer trên địa bàn tỉnh Bạc Liêu cũng không kém phần trang trọng, vui tươi.

Chùa Hộ Phòng Cũ TX Giá Rai, tỉnh Bạc Liêu sơn phết các công trình nghệ thuật kiến trúc mừng tết Chôl Chnăm Thmây. Ảnh: Nguyên Du

Tại các chùa như Hộ Phòng Mới, TX Giá Rai, chùa Xiêm Cán TP Bạc Liêu hay Cái Giá Giữa huyện Vĩnh Lợi, tỉnh Bạc Liêu tết đã tràn về trong sắc màu rực rỡ của cờ hoa, vẻ đẹp của các công trình nghệ thuật kiến trúc. Cùng với đó, các nghi lễ quan trọng như: lễ rước Đại lịch, lễ đắp núi cát, lễ tắm Phật, lễ cầu siêu được các chùa chuẩn bị chu đáo để phần lễ diễn ra trang trọng và góp phần bảo tồn, phát huy những nét đẹp tín ngưỡng tôn giáo.

Quý sư sãi thực hiện nghi lễ tắm Phật. Ảnh: Nguyên Du

Điểm nhấn trong dịp Tết Chôl Chnăm Thmây năm nay là chùa làm sân khấu để rước phạm thiên và là nơi biểu diễn văn nghệ; tổ chức nhiều trò chơi dân gian kéo co, đua vỏ lãi,…

Hòa thượng Tăng Sa Vong, Phó Chủ tịch Hội Đoàn kết sư sãi yêu nước tỉnh Bạc Liêu cho biết, Những năm qua được sự quan tâm, hỗ trợ, tạo điều kiện của Đảng, Nhà nước các cấp từ Trung ương đến địa phương, Giáo hội Phật Giáo Việt Nam các cấp, trong đó, có Hội Đoàn kết sư sãi yêu nước tỉnh đã tổ chức nhiều hoạt động tích cực, đạt được nhiều thành quả to lớn trên tất cả lĩnh vực tiếp tục tạo uy tín, vị thế của Phật giáo như ngày nay. Đặc biệt, Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh, Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc tỉnh các Sở, ngành và chính quyền địa phương đã tập trung tổ chức thực hiện, triển khai có hiệu quả các chương trình, dự án phát triển kinh tế xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh, thực hiện tốt an sinh xã hội cho nên đời sống vật chất tinh thần của đồng bào, sư sãi Khmer không ngừng cải thiện và nâng lên về mọi mặt. Các văn hóa lễ hội của đồng bào được quan tâm và tổ chức trọng thể đúng theo nghi lễ, phong tục tập quán của đồng bào.

Chùa là nơi diễn ra nhiều nghi thức, hoạt động phong phú của đồng bào Khmer trong dịp Tết Chôl Chnăm Thmây. Ảnh: Nguyên Du

Riêng năm 2024, tỉnh Bạc Liêu đã hỗ trợ vận chuyển và đóng mới nhiều ghe Ngo chùa KosThum từ Campuchia về chùa với kinh phí 550 triệu đồng; hỗ trợ sửa chữa lò hỏa táng chùa Chệt Sĩa 150 triệu đồng; tiếp nhận nhiều đề xuất hỗ trợ sửa chữa, đầu tư, xây dựng theo nhu cầu của các chùa Phật giáo Nam tông Khmer, dự kiến hỗ trợ thêm nhiều công trình trong năm 2025.

Ngoài ra, được sự quan tâm, tạo điều kiện của tỉnh, có 21 chùa Phật giáo Nam tông Khmer được cải tạo, trùng tu, xây dựng đúng với kiến trúc, văn hóa truyền thống của đồng bào Khmer Nam Bộ với tổng kinh phí trên 20 tỷ 686 triệu đồng, từng bước đáp ứng nhu cầu trong sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo, từ đó không chỉ tạo được niềm tin, niềm phấn khởi trong đồng bào, sư sãi mà còn góp phần bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống của đồng bào dân tộc.

Tết Chôl Chnăm Thmây được tổ chức sau vụ mùa thu hoạch, mừng mùa tươi tốt và cầu một năm mới bình an, đời sống ấm no, sung túc. Ảnh: Nguyên Du

Dịp Tết Chôl Chnăm Thmây năm 2025, chính quyền và các sở, ban, ngành tại các tỉnh có đông đồng bào Khmer sinh sống đã và đang tổ chức các đoàn đi thăm hỏi, tặng quà các điểm chùa, Ban quản trị, Ban hoằng pháp, các vị sư, sãi, achar, hộ nghèo, hộ cận nghèo, cán bộ hưu trí, gia đình chính sách, thương binh, liệt sĩ, người có công, Mẹ Việt Nam Anh hùng, Anh hùng lực lượng vũ trang là người dân tộc Khmer… vừa chúc Tết vui tươi vừa động viên đồng bào Khmer tiếp tục làm ăn phát triển kinh tế.

Nguyên Du

Nguồn: Dulichvn

Vui cùng Tết cổ truyền Bunpimay – Lào

Diễn ra vào tháng Tư dương lịch hằng năm, Tết Bunpimay là một trong những lễ hội quan trọng nhất trong năm của cộng đồng người Lào ở huyện Buôn Đôn (Đắk Lắk).


Đây không chỉ là ngày hội của một cộng đồng, mà còn góp phần vun đắp tình đoàn kết hữu nghị đặc biệt giữa nhân dân hai nước Việt Nam – Lào.

Từ sáng sớm, đông đảo bà con là người Việt gốc Lào đang sinh sống tại huyện Buôn Đôn và du khách đã tập trung về tại đảo Ây Nô (Trung tâm Du lịch cầu treo Buôn Đôn, xã Krông Na) để tham dự Ngày hội văn hóa các dân tộc huyện Buôn Đôn và Tết Bunpimay – Lào Phật lịch 2568 năm 2025.

Người dân trong trang phục truyền thống, tay nâng niu chiếc bè kết hoa, trang trí đẹp mắt cùng tề tựu để chung vui, cầu chúc cho nhau sức khỏe và những điều tốt đẹp nhất.

Là thế hệ người Lào thứ ba sinh sống tại xã Krông Na, anh Y Nô Ly Kbuôr cảm thấy rất vui mừng khi hằng năm Tết Bunpimay được UBND huyện Buôn Đôn tổ chức giúp bà con người Việt gốc Lào trên địa bàn vui Tết cổ truyền của dân tộc. Anh mong muốn thông qua Tết Bunpimay sẽ tuyên truyền nét đẹp văn hóa Lào đến du khách gần xa, qua đó thu hút bạn bè, du khách đến với Buôn Đôn.

Người dân tham gia Lễ hội hoa đăng, thả bè hoa trôi theo dòng nước để xả xui, xua đi những điều không lành trong năm cũ.

Năm nay Tết Bunpimay diễn ra trong hai ngày 12 và 13/4/2025, với những nghi lễ truyền thống như: Lễ mừng năm mới; Lễ hội hoa đăng; Lễ tắm Phật; Lễ buộc chỉ cổ tay; đắp tháp cát; Lễ diễu hành, rước Nàng Chúa Xuân Nang Sangkhane. Trong nắng vàng rực rỡ, mọi người tịnh tâm, nghe những lời cầu chúc sức khỏe đầu năm, chắp tay cầu nguyện bình an cho năm mới. Cùng tham gia Lễ hội hoa đăng, mang những chiếc bè kết hoa, thắp nến cháy sáng thả trôi theo dòng nước để xả xui, xua đi những điều không lành trong năm cũ. Tiếp đó, thực hiện nghi thức tắm Phật linh thiêng. Đặc biệt, người dân, du khách tham dự được cột chỉ cổ tay cầu chúc sức khỏe và hạnh phúc. Rồi tất cả mọi người có mặt cùng chung tay đắp tháp cát, biểu trưng, ước nguyện cho thành quả lao động, sự phồn thịnh trong năm mới.

Dưới những tán cây lớn tại Trung tâm Du lịch cầu treo Buôn Đôn, ngày Tết cổ truyền của cộng đồng người Việt gốc Lào thêm rộn ràng khi người dân và du khách cùng hòa mình vào điệu múa Lăm Vông uyển chuyển, đẹp mắt theo giai điệu của ca khúc “Hoa đẹp Chăm pa”. Đặc biệt, một trong những hoạt động không thể thiếu là hội té nước. Để tỏ lòng tôn kính, người trẻ tuổi thường té nước vào người lớn tuổi để chúc sức khỏe sống lâu và cầu thịnh vượng; bạn bè té nước vào nhau để cầu chúc cho năm mới mọi sự tốt lành. Hội té nước diễn ra vô cùng vui nhộn, náo nhiệt, với những tiếng cười giòn tan để đón chào một năm mới tươi sáng, may mắn.

Người dân và du khách cùng hòa mình vào điệu múa Lăm Vông uyển chuyển.

Đến với Tết Bunpimay – Lào và Ngày hội văn hóa các dân tộc huyện Buôn Đôn, người dân và du khách không chỉ có cơ hội tìm hiểu những nét văn hóa phong phú, đặc sắc của người Việt gốc Lào ở huyện Buôn Đôn, mà còn có cơ hội trải nghiệm du lịch thân thiện với voi, tham quan Hội chợ văn hóa trưng bày các gian hàng ẩm thực, thổ cẩm, sản phẩm OCOP. Đặc biệt, được thưởng thức chương trình biểu diễn nghệ thuật “Buôn Đôn – Huyền thoại một vùng đất”, kể lại câu chuyện truyền thuyết và đời sống của người dân các dân tộc Buôn Đôn bằng âm nhạc, vũ đạo và ánh sáng; chương trình “Rực rỡ sắc màu – Trình diễn pháo hoa nghệ thuật”…

Bên cạnh đó, triển lãm lưu động “Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam – Những bằng chứng lịch sử và pháp lý” đã cung cấp các thông tin, bằng chứng lịch sử, bằng chứng pháp lý về chủ quyền biển, đảo Việt Nam, cũng như giới thiệu về những hoạt động bảo vệ chủ quyền và cuộc sống của cán bộ, chiến sĩ Quân chủng Hải quân Việt Nam. Qua đó, góp phần nâng cao tinh thần đoàn kết, ý thức trách nhiệm của mỗi người dân trong việc bảo vệ chủ quyền biển, đảo thiêng liêng của Tổ quốc.

Là cựu chiến binh từng tham gia kháng chiến giúp nước bạn Lào, ông Đinh Công Trình, Chủ tịch Hội hữu nghị Việt Nam – Lào huyện Krông Ana chia sẻ: Khoảng thời gian ở bên nước bạn, ông nhận được sự giúp đỡ của bà con người Lào từ hạt muối, nước, thậm chí được bà con chăm sóc lúc ốm đau. Hôm nay tham dự lễ hội khiến ông cảm giác như được tri ân, nhớ lại công ơn của bà con dân tộc Lào và mong ước tình hữu nghị đặc biệt giữa hai nước mãi mãi xanh tươi, đời đời bền vững. Cũng theo ông Trình, trong số 99 hội viên của Hội Hữu nghị Việt Nam – Lào huyện Krông Ana, có gần 80 hội viên tham gia Tết Bunpimay năm nay. Với nội dung và hình thức tổ chức phong phú, ngày Tết đã mang lại niềm vui, sự hứng khởi cùng những ấn tượng rất tốt đẹp trong lòng các hội viên.

Theo Phó Chủ tịch UBND huyện Buôn Đôn Lê Văn Nuôi, Tết Bunpimay – Lào Phật lịch 2568 năm 2025 không chỉ là dịp để cộng đồng người Lào thể hiện nét đẹp văn hóa truyền thống, lòng biết ơn tổ tiên mà còn là cơ hội để thắt chặt hơn nữa mối quan hệ hữu nghị đặc biệt giữa hai dân tộc Việt – Lào. Đây cũng là dịp để đồng bào các dân tộc gặp gỡ, giao lưu, học tập, trao đổi kinh nghiệm trong công tác bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa truyền thống, thắt chặt tình đoàn kết gắn bó. Đồng thời, giới thiệu, quảng bá những tiềm năng phát triển văn hóa, du lịch sinh thái của huyện Buôn Đôn; tôn vinh giá trị văn hóa của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên, qua đó tạo sức hấp dẫn, thu hút nhà đầu tư xúc tiến các hoạt động liên doanh, liên kết, hợp tác phát triển kinh tế, xã hội và du lịch của huyện Buôn Đôn.

Huyền Diệu

 

Nguồn: Dulichvn

Bắt mắt, thơm ngon món ăn từ thanh trà Bình Minh – Vĩnh Long

Lần đầu tiên được tổ chức với quy mô lớn, Ngày hội Thanh trà diễn ra tại xã Đông Thành, TX Bình Minh, tỉnh Vĩnh Long đã thu hút đông đảo người dân, du khách và các đơn vị doanh nghiệp tham gia.


Ngày hội có nhiều hoạt động phong phú như: Hội thi ẩm thực, công diễn xác lập kỷ lục Việt Nam với 135 món ăn chế biến từ thanh trà, trưng bày sản phẩm OCOP, trình diễn sản xuất tàu hũ ky…

Ngày hội không chỉ tôn vinh, quảng bá thanh trà-trái cây đặc sản của Bình Minh, góp phần phát huy giá trị kinh tế của loại cây đặc trưng này mà còn lan tỏa nét đẹp văn hóa đặc trưng của Vĩnh Long nói riêng và vùng ĐBSCL nói chung.

Trong đó, hội thi ẩm thực có 20 đội tham gia, mỗi đội nấu 7 món từ thanh trà (1 món dự thi chấm điểm, 6 món trưng bày xác lập kỷ lục). Các món ăn kết hợp với trái thanh trà được chế biến đa dạng, đặc sắc, bắt mắt, mang đậm hương vị địa phương.

Theo BTC, việc xác lập kỷ lục Việt Nam với món ăn chế biến từ thanh trà thể hiện ghi nhận, trân trọng tinh thần lao động cần cù, chăm chỉ của người nông dân trên vùng đất Vĩnh Long. Sự kiện còn khẳng định thành quả lao động vẫn luôn được tôn vinh, luôn mang đến những giá trị mới, làm phong phú thêm đời sống.

Bà Nguyễn Thị Quyên Thanh- Tỉnh ủy viên, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Vĩnh Long, cho biết: Thanh trà ở TX Bình Minh nói riêng và tỉnh Vĩnh Long nói chung không chỉ mang lại giá trị kinh tế mà còn góp phần vào việc xây dựng thương hiệu nông sản của tỉnh nhà. Lãnh đạo tỉnh kỳ vọng, thông qua Ngày hội Thanh trà, TX Bình Minh sẽ trở thành một trong những điểm đến du lịch hấp dẫn và là một trong những điểm tham quan không thể thiếu trong chương trình du lịch của du khách khi đến Vĩnh Long, góp phần vào việc thực hiện chỉ tiêu 2,15 triệu lượt khách du lịch trong năm 2025 và doanh du đạt 1.150 tỷ đồng theo Nghị quyết Tỉnh ủy đề ra.

Đại diện tổ chức Kỷ lục Việt Nam trao bảng xác lập kỷ lục 135 món ẩm thực chế biến có nguyên liệu thanh trà Bình Minh.

Các món ăn từ thanh trà được chế biến tỉ mỉ, công phu.

Đội thi giới thiệu món ăn từ thanh trà.

Ngày hội còn là dịp để giới thiệu các sản phẩm du lịch đặc trưng đến đông đảo du khách.

Trái thanh trà đã mở ra cơ hội phát triển du lịch và đưa nông sản ở Vĩnh Long vươn xa.

Khách đến tham quan ngày hội còn được thưởng thức các món ăn miễn phí như bánh dân gian Nam Bộ, các món chế biến từ thanh trà, khoai lang tím…

Ban tổ chức trao giải cho các đội thi chế biến món ăn từ thanh trà.

Phi Long (thực hiện)

Nguồn: Dulichvn

Lào Cai: Có những hoạt động gì tại Lễ hội 5 mùa tổ chức ở Sa Pa?

Trong năm 2025, trên địa bàn thị xã Sa Pa sẽ diễn ra hơn 30 sự kiện, hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể thao, du lịch đặc sắc, hấp dẫn, được tổ chức xuyên suốt các mùa. Qua đó góp phần giới thiệu, quảng bá các sản phẩm du lịch và thúc đẩy du lịch phát triển mạnh mẽ trên địa bàn.


Một góc thị xã Sa Pa từ trên cao. Ảnh: Duy Anh.

Từ năm 2020 đến nay, việc tổ chức Lễ hội 5 mùa ở thị xã Sa Pa đã trở thành thương hiệu khi nhắc đến mảnh đất xinh đẹp này. Theo đó, Lễ hội 5 mùa gồm: Lễ hội mùa Xuân, Lễ hội mùa Hè, Lễ hội mùa Thu, Lễ hội mùa Đông và Lễ hội mùa tình yêu với nhiều sự kiện, hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể thao, du lịch nổi bật.

Theo Kế hoạch số 150/KH-UBND ngày 1/4/2025 của UBND thị xã Sa Pa, Lễ hội 5 mùa và các hoạt động xúc tiến du lịch năm 2025 sẽ tiếp tục được tổ chức trên địa bàn. Trong đó, mở đầu năm 2025 là chuỗi 11 sự kiện trong Lễ hội mùa Xuân gồm: Lễ hội Xòe dân tộc Tày tại xã Mường Bo; Lễ hội Grâus Taox dân tộc Mông tại thôn Cát Cát; Lễ hội Róong Poọc dân tộc Giáy; Lễ Quét làng dân tộc Xa Phó tại xã Liên Minh; Ngày hội Văn hóa dân tộc Dao tại xã Ngũ Chỉ Sơn; các trò chơi dân gian phục vụ Nhân dân và du khách du Xuân tổ chức tại Sân Quần và Công viên Văn hóa các dân tộc; trưng bày Hội báo Xuân Ất Tỵ thị xã Sa Pa; Đêm thơ nguyên tiêu; trải nghiệm không gian văn hóa các dân tộc Sa Pa; Giải Pickleball tranh Cup Fansipan; Giải bóng chuyền hơi nam, nữ mở rộng.

Phố đêm Sa Pa. Ảnh: Duy Anh

Lễ hội mùa Hè “Sa Pa – Xứ sở tình yêu” năm 2025 sẽ diễn ra 12 sự kiện đặc sắc: Lễ hội Đền Mẫu Thượng (từ ngày 29 – 31/3); Lễ hội Hoa hồng Fansipan tại Khu du lịch cáp treo Fansipan Sa Pa (từ ngày 26/4 kéo dài đến hết tháng 6/2025); Lễ hội đường phố “Sa Pa – Sắc màu hội tụ” (từ ngày 25 – 27/4); tái hiện “Chợ tình Sa Pa” tại Công viên Văn hoá các dân tộc Sa Pa (từ 21 giờ ngày 26/4 và các ngày thứ 7 hàng tuần); trải nghiệm Không gian văn hoá các dân tộc (bắt đầu từ ngày 29/4 – 2/5); chương trình khai mạc “Sa Pa – Xứ sở của tình yêu” tại Sân Quần (20 giờ ngày 29/4); chương trình nghệ thuật “Vũ khúc Sa Pa” tại Sân Quần (20 giờ ngày 30/4); chương trình nghệ thuật “Khúc hát mùa Hè” tại Sân Quần (20 giờ ngày 1/5); Ngày hội trên Danh thắng núi Hàm Rồng (từ ngày 30/4 – 4/5); Giải chạy “Sa Pa – mùa nước đổ” lần thứ IV (dự kiến tháng 5/2025); Ngày quốc tế Yoga (tháng 6/2025); Lễ hội Vó ngựa trên mây lần thứ 8 (từ ngày 29/6 – 7/7).

Tiếp nối là 6 sự kiện trong Lễ hội mùa Thu “Sa Pa – Ngày hội mùa vàng”: trải nghiệm hoa lay ơn thóc tại Khu du lịch cáp treo Fansipan (tháng 7/2025); Ngày hội Văn hoá bản Mông Cát Cát (cuối tháng 8/2025); Giải đua xe đạp “Sa Pa – Đua trên mùa vàng” (tháng 8/2025); Đêm hội Trăng Rằm (ngày 4/10); Giải chạy Marathon vượt núi Việt Nam 2025 (dự kiến từ ngày 19 – 21/9); Lễ hội Mùa vàng bản Mây tại Khu du lịch cáp treo Fansipan (từ ngày 16/8 – 5/9).

Đến Sa Pa, du khách không thể bỏ lỡ các hoạt động tại Lễ hội mùa Đông “Sa Pa – Thiên đường tuyết rơi” với 4 sự kiện diễn ra từ tháng 10 – 12/2025: Lễ hội thổ cẩm tại Công viên văn hoá các dân tộc (từ 1/10 – 1/11); Festival Mây và Núi tại Khu du lịch cáp treo Fansipan (từ 15/11 – 31/12); tái hiện Tết cổ truyền dân tộc Mông (tháng 12/2025) và chương trình nghệ thuật Count-down Chào năm mới 2026 (20 giờ ngày 31/12).

Quảng trường trung tâm thị xã Sa Pa. Ảnh: Duy Anh

Lễ hội 5 mùa là chuỗi hoạt động tuyên truyền, quảng bá thương hiệu du lịch Sa Pa nhằm thu hút, kéo dài thời gian lưu trú của khách du lịch khi đến đây. Qua đó giúp địa phương quảng bá cảnh quan thiên nhiên, bảo tồn bản sắc văn hóa dân tộc; thúc đẩy liên kết, hội nhập quốc tế; góp phần tăng doanh thu du lịch, tạo động lực phát triển kinh tế – xã hội địa phương.

Trong năm 2024, ngành du lịch tỉnh Lào Cai đón khoảng 8 triệu lượt khách du lịch mang lại nguồn đạt 27.000 tỷ đồng (tăng 12,4% so cùng kỳ). Trong đó, riêng thị xã Sa Pa chiếm khoảng 4,4 triệu lượt khách du lịch với tổng doanh thu 15.500 tỷ đồng, đạt 100% so với kế hoạch giao, tăng 2.793 tỷ đồng so với năm 2023.

Cũng trong năm 2024, Sa Pa đã vào top 10 điểm đến thịnh hành nhất thế giới 2024 do nền tảng du lịch trực tuyến hàng đầu thế giới Tripadvisor bình chọn; một khu du lịch trên địa bàn được bình chọn là “Điểm đến du lịch có thắng cảnh thiên nhiên hàng đầu thế giới – năm 2024”

Trung Kiên

 

Nguồn: Dulichvn

Tìm hiểu ẩm thực vùng đất đang gây sốt trong phim ”Địa đạo”

Ra mắt thời gian gần đây, bộ phim “Địa đạo: Mặt trời trong bóng tối” đang thu hút mọi người bởi nhắc đến địa danh căn cứ Bình An Đông (Củ Chi). Nếu có dịp ghé thăm Củ Chi, mọi người có thể khám phá những món ăn đặc sắc nơi đây.


Phúc An

 

Nguồn: Dulichvn

Đồng Tháp: Khám phá làng nghề dệt khăn rằn trăm tuổi

Làng dệt khăn rằn tại ấp Long Tả, xã Long Khánh A, huyện Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp đã tồn tại và phát triển hơn 100 năm qua. Trải qua bao thăng trầm, khăn rằn trở thành hình ảnh quen thuộc như một nét văn hoá đậm đà bản sắc của người dân Nam Bộ.


Làng nghề nằm trên cù lao giữa sông Tiền thuộc ấp Long Tả, xã Long Khánh A được xem là “thủ phủ” dệt khăn rằn của cả vùng đồng bằng sông Cửu Long, sản phẩm của làng phân phối khắp cả nước và xuất khẩu.

Khăn rằn Nam Bộ bắt nguồn từ khăn krama của người Khmer gắn liền người dân miền sông nước Cửu Long. Trải qua nhiều thăng trầm, khăn rằn là hình ảnh thân quen như một nét văn hóa in đậm trong tiềm thức người dân. Về miền Tây, khách du lịch dễ dàng bắt gặp hình ảnh đeo khăn rằn lên cổ hay quấn quanh đầu.

Nghề dệt khăn rằn đã gắn bó hơn 100 năm với người dân ấp Long Tả, xã Long Khánh A.

Làng nghề dệt khăn rằn phát triển cực thịnh những năm đầu thập niên 90, cung cấp khăn rằn truyền thống cho nhân công cắt lúa, cấy lúa ngoài đồng. Bởi tính tiện dụng như lau mồ hôi, che nắng, chống bụi nên khăn rằn không thể thiếu với đời sống, sinh hoạt của nông dân. Theo chia sẻ của một số người dân làm nghề dệt khăn rằn, thời điểm đó, dệt bằng tay năng suất thấp làm không đủ bán. Tiểu thương phải trả tiền trước đến mùa lúa mới có hàng.

Tuy nhiên, do nguyên liệu làm khăn rằn lúc đầu còn thô sơ nhất là chỉ sợi, nên phải hồ qua bột gạo nửa ngày, phơi ba nắng để sợi dày dặn. Trước khi dệt, lại phải nhúng sợi chỉ đơn loại mảnh qua nước nên người thợ thường xuyên bị nước ăn da, đầu cổ, tóc ướt đẫm. Quá trình dệt, mỗi người thợ ngồi suốt trên khung cửi từ 5h đến cuối chiều. Công việc cực nhọc song tiền công của người thợ ngày trước khá eo hẹp.

Để dệt một chiếc khăn rằn, người thợ phải làm qua nhiều công đoạn.

Để làm nên chiếc khăn với 2 màu chủ đạo là đen, trắng hoặc nâu, trắng, người thợ phải mất nhiều công đoạn là xả, nhuộm, hồ chỉ, mắc khung cửi và dệt. Có một điều đặc biệt mà chỉ những ai am hiểu về chiếc khăn rằn mới biết, đó là khăn dùng càng lâu thì vải càng mềm, khả năng thấm nước càng tốt.

Không đơn thuần là một phụ kiện, khăn rằn Nam Bộ đại diện cho phong cách sống mộc mạc, gần gũi và hòa hợp với thiên nhiên của người dân nơi đây. Trong các sự kiện, lễ hội truyền thống của đồng bào Nam Bộ, chiếc khăn rằn thường được sử dụng để làm điểm nhấn cho trang phục, gắn kết người dân với lịch sử, văn hóa vùng đất này.

Hiện, nhiều người lớn tuổi ở miền Nam vẫn giữ thói quen xài khăn rằn dù trên thị trường có rất nhiều mẫu mã khăn khác. Ngoài dòng khăn truyền thống, làng dệt Long Khánh còn tạo ra những sản phẩm khăn choàng du lịch, sử dụng khăn để may trang phục, túi xách, mũ…

Khăn rằn ngày nay đã có nhiều màu sắc để du khách lựa chọn.

Để phù hợp với xu thế hiện nay và đáp ứng nhu cầu của nhiều tầng lớp, lứa tuổi khác nhau, người dân đã làm khăn rằn với nhiều màu sắc phong phú như xanh lá cây, xanh dương, đỏ chứ không chỉ với 2 màu chủ đạo là trắng, đen như trước. Những gam màu này vừa giữ được vẻ truyền thống, vừa phù hợp với sở thích và phong cách của nhiều đối tượng du khách.

Chiếc khăn rằn cho khách du lịch đòi hỏi độ dày dạn, đa dạng mẫu mã, màu sắc bắt mắt. Từ ba màu ca rô truyền thống, làng nghề làm ra gần trăm mẫu mã khác nhau kết hợp thêu logo, biểu tượng sếu, hoa hồng.

Khăn rằn được du khách nước ngoài yêu thích.

Để không ngừng đáp ứng nhu cầu tiêu dùng, đa dạng thị trường, mẫu mã sản phẩm, thời gian qua, làng nghề dệt khăn rằn Long Khánh đã không ngừng cải tiến, sáng tạo, phù hợp với thị hiếu du khách trong và ngoài nước.

Với những giá trị về truyền thống và văn hoá, gắn bó sâu sắc với đời sống người dân Nam Bộ, nghề dệt khăn rằn Long Khánh hơn trăm năm tuổi, tại huyện Hồng Ngự, đã được công nhận di sản văn hóa phi vật thể quốc gia.

Thuỳ Vân

 

Nguồn: Dulichvn

Hưng Yên: Giữ gìn nét truyền thống của làng nghề hương xạ thôn Cao

Với lịch sử gần 300 năm, làng hương xạ thôn Cao, xã Bảo Khê, thành phố Hưng Yên (tỉnh Hưng Yên), không chỉ thu hút du khách bởi vẻ đẹp rực rỡ của những bó hương đa sắc màu mà còn bởi những giá trị văn hóa đậm đà được truyền nối qua nhiều thế hệ.


Làng nghề hương xạ thôn Cao có truyền thống lịch sử gần 300 năm.

Được biết đến như cái nôi của nghề làm hương từ thế kỷ XVIII và là một trong những điểm du lịch làng nghề nổi tiếng, nghề làm hương nơi đây đã trở thành một phần không thể thiếu trong đời sống tinh thần của người dân địa phương và cả những tín đồ yêu thích vẻ đẹp của các sản phẩm thủ công truyền thống.

Theo các bậc cao niên thôn Cao, vào khoảng thế kỷ XVIII, bà Đào Thị Khương, người con gái tài sắc của làng xa xứ lấy chồng đã học được nghề làm hương xạ. Sau này, bà truyền nghề lại cho dân làng, từ đó, các thế hệ người dân làng Cao tiếp nối nghề cổ truyền, đến nay cũng phải gần 300 năm.

Để tưởng nhớ tới công ơn của bà, nhân dân thôn Cao lấy ngày 22/8 âm lịch làm ngày giỗ Tổ nghề, dân làng tề tựu tại nhà thờ để thắp nén hương tưởng nhớ đến bậc tiền nhân đã có công lao mang lại ấm no, hạnh phúc cho dân làng.

Làng hương xạ thôn Cao thu hút nhiều du khách đến tham quan, trải nghiệm làm nghề.

Dù đã trải qua nhiều năm làm nghề, nhưng người dân làng hương xạ vẫn lưu giữ được những bí quyết truyền thống, bảo đảm cho chất lượng hương ngày càng tốt, tạo nên hương thơm đặc trưng.

Tiếp nối thế hệ cha truyền con nối, mỗi dòng họ hay mỗi gia đình làm hương ở đây lại có một bài thuốc thảo mộc riêng như: Quế chi, hoàng đàn, hồi, lá hương, đinh hương, cam thảo…, làm nên mùi hương đặc trưng riêng, tạo nên “hồn cốt” của mỗi thương hiệu, góp phần giữ gìn, lưu truyền những giá trị văn hóa đậm đà phong vị truyền thống của dân tộc.

Để làng nghề tồn tại và phát triển, đòi hỏi các quy trình sản xuất hương ở thôn Cao được thực hiện rất tinh tế, tỉ mỉ, chi tiết trong từng công đoạn pha chế, se hương, nhúng hương, phơi và đảo hương, đóng gói.

Nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng, người dân nơi đây không ngừng cải tiến mẫu mã, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm, quảng bá sản phẩm rộng rãi.

Vì thế, hương xạ ở đây có hình thức đẹp, nhiều mẫu mã như hương vòng, hương nén…, có mùi thanh tao nhẹ nhàng, cháy rất đều lại đậu tàn nên được ưa chuộng, xuất đi các tỉnh và một số nước.

Ông Nguyễn Như Khanh, Chủ tịch Hiệp hội Làng nghề hương thôn Cao chia sẻ, ngày nay, nghề làm hương ở thôn Cao ngày càng phát triển, sản xuất ra các mặt hàng phục vụ đời sống tâm linh cho người dân địa phương và trong cả nước. Sản phẩm hương của làng nghề thôn Cao đã góp phần làm nên nét đẹp văn hóa trong đời sống tinh thần của người dân.

Ông Khanh cũng cho biết, nghề làm hương ở thôn Cao đã trải qua hàng trăm năm. Người làm hương ở thôn Cao theo truyền thống của cha ông, đời nối đời. Con cháu được truyền nghề và cũng cần phải học theo bố mẹ từ nhỏ mới có thể làm ra được những sản phẩm hương bảo đảm về chất lượng và hình thức, mẫu mã.

Ở thôn Cao, ai cũng nhận thức được trách nhiệm giữ gìn và phát triển nghề hương xạ truyền thống.

“Có những đoàn du khách đã đến đây vừa để tham quan, mua sản phẩm tận gốc, vừa trải nghiệm các công đoạn làm hương như se hương nén, quấn hương vòng… Họ đều nói vui rằng, có lẽ phơi hương là công đoạn họ dễ học nhất”, ông Khanh cho hay.

Trước sự biến đổi của xã hội, nghề làm hương không bị mai một mà ngày càng được mở rộng phát triển.

Ông Khanh cũng cho biết thêm, nghề làm hương đem lại công việc và thu nhập ổn định nên ngày nay, nhiều người trẻ ở thôn Cao đã quan tâm đến việc giữ gìn và phát triển nghề sản xuất hương.

Hiện toàn xã có khoảng 180 hộ làm các công việc liên quan đến hương, tạo việc làm cho khoảng 500 lao động. Riêng số lao động làm việc tại làng nghề vào dịp trước Tết Nguyên đán cổ truyền khoảng 1.000-1.200 lao động.

Theo ông Khanh, nghề nào cũng có khó khăn. Hương có năm bán chạy, có năm thị trường ế ẩm. Tuy nhiên, nhờ sự yêu nghề và đoàn kết, cả làng luôn cố gắng vượt qua.

“Người dân làng Cao sống nhờ nghề này, nên ai cũng có trách nhiệm giữ gìn và phát triển nghề làm hương truyền thống”, ông Khanh bày tỏ.

Trung Hưng

 

Nguồn: Dulichvn

TIN MỚI NHẤT