Điểm đến du lịch

Những địa điểm du lịch hấp hẫn những địa điểm du lịch trong nước, địa điểm du lịch nước ngoài được chúng tôi tổng hợp và đưa tin đến Quý bạn đọc đam mê du lịch có cái nhìn tổng quan nhất về các địa danh du lịch để quyết định cho mình cho những chuyến du lịch ý nghĩa nhất

Đến Đà Lạt trải nghiệm loại hình du lịch nhà vườn

(TITC) – Đà Lạt (Lâm Đồng) từ lâu đã nổi tiếng là “Thành phố ngàn hoa”, “Xứ hoa Anh Đào”, “Thành phố mù sương” hay “Thành phố ngàn thông” với khí hậu mát mẻ quanh năm.

 

 

Do diện tích sản xuất nông nghiệp lớn, chủ yếu là rau, hoa và quả ôn đới nên người dân Đà Lạt phối hợp với các đơn vị kinh doanh du lịch đầu tư phát triển mô hình du lịch nhà vườn (loại hình giúp du khách có dịp trải nghiệm các sản phẩm nông nghiệp công nghệ cao). Loại hình du lịch này đã góp phần đa dạng hóa sản phẩm du lịch và đem lại hiệu quả kinh tế cho thành phố.

 

Trang trại Langbiang (42 Xô Viết Nghệ Tĩnh) có diện tích sử dụng 20ha, gồm 3 khu sản xuất rau, hoa, quả sạch với các sản phẩm chủ yếu gồm: hoa giống (bằng phương pháp cấy mô), hoa chậu, hoa cắt cành, hoa nghệ thuật… Đây cũng là nơi cung cấp dịch vụ tư vấn trồng hoa. Đến đây, du khách sẽ được nghe thuyết minh và tìm hiểu sản phẩm hoa cắt cành giống mới, dâu tây, rau và các loại hoa được trồng và chăm sóc theo công nghệ nhà kính đạt chuẩn châu Âu. Ngoài ra, du khách còn có dịp trải nghiệm công việc trồng, chăm sóc, cắt, tỉa rau, hoa cùng nhân công của nhà vườn, ngắm hoa trong phòng khách và các sản phẩm hoa nghệ thuật cao cấp.

 

Nhà vườn Organic (xã Xuân Thọ) là một trong những nhà vườn áp dụng công nghệ sản xuất các sản phẩm đạt chuẩn Organic (hữu cơ) của châu Âu. Trải rộng trên diện tích khoảng 4ha, Organic là nơi sản xuất hơn 100 loại rau, củ, quả theo phương thức canh tác khép kín và không sử dụng hoá chất. Bởi vậy, các sản phẩm của Organic rất đảm bảo vệ sinh, có thể ăn trực tiếp. Tại đây, bên cạnh việc tham quan, học hỏi kiến thức về sản xuất các sản phẩm nông nghiệp của nhà vườn, du khách còn có dịp tham gia các lớp học dạy chế biến các loại salat.

 

Với địa hình bằng phẳng, đất đai màu mỡ và có nguồn nước suối chảy qua, làng hoa Thái Phiên (phường 12) là địa điểm lý tưởng để trồng các sản phẩm hoa cắt cành trồng trong nhà kính, nhà lưới theo quy trình công nghệ cao như: hoàng anh, lay-ơn, cúc đỏ, cẩm tú cầu, ly ly, cẩm chướng, hoa hồng… Ngoài ra, nơi đây còn trồng atiso, loại cây chủ lực của Đà Lạt.

 

Đến Thái Phiên, đưa tầm mắt lướt qua những khu nhà lưới, nhà kính nằm bên những rừng thông xanh ngát, du khách sẽ thấy bạt ngàn các loài hoa đủ màu sắc nằm đan xen nhau như tô điểm thêm sức sống cho đất trời Tây Nguyên. Mỗi năm, làng hoa Thái Phiên đón hơn 50 đoàn khách trong và ngoài nước đến tham quan, nghiên cứu, thưởng thức hoa.

 

Làng hoa Vạn Thành (phường 5) cung cấp hơn 80% sản lượng hoa của thành phố, trong đó, hoa hồng là loại hoa chủ lực. Mặc dù làng có địa hình chủ yếu là đồi núi dốc dạng bậc thang nhưng bằng phương pháp truyền thống là triết, ghép cành và lai giống giữa hồng trong nước với hồng nhập từ Hà Lan, người dân làng Vạn Thành đã tạo ra nhiều chủng loại hoa hồng đẹp như: hồng nhung, hồng cánh sen, hồng phấn, hồng vàng ánh trăng, hồng song tỉ… Bước vào vương quốc hoa hồng, du khách không chỉ có dịp chiêm ngưỡng những bông hoa hồng đủ màu sắc mà còn tận hưởng hương thơm hoa hồng dìu dịu.

 

Vườn Thương (khu du lịch hồ Tuyền Lâm, phường 3) có diện tích 1,5ha, bao gồm 2 khu. Khu nhà vườn cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe bằng các loại dược liệu truyền thống. Khu trồng cây thuốc là nơi ươm trồng và chăm sóc khoảng 500 loại cây dược liệu quý như vân chi, linh chi, cỏ ngọt… đặc biệt là sâm Ngọc Linh. Bên cạnh đó, Vườn Thượng còn cung cấp các dịch vụ khác như: homestay, ăn uống, tham quan, bán các sản phẩm đặc trưng của nhà vườn, đặc biệt là dịch vụ bắt mạch miễn phí.

 

Trại Hầm (135E Hoàng Hoa Thám, phường 10) nổi tiếng về sản phẩm cà phê chồn, mỗi năm thu hút hơn 1.000 lượt khách tham quan, trong đó khách quốc tế chiếm 10%. Với diện tích khoảng 2,5ha, trại Hầm bao gồm 3 khu: khu trồng cà phê moka, khu nuôi chồn và khu thưởng thức cà phê. Đây là trang trại đầu tiên tại Đà Lạt nuôi chồn bằng những hạt cà phê moka chín mọng để tạo ra sản phẩm cà phê chồn chất lượng cao. Cà phê chồn ở trại Hầm đã được kiểm định từ khâu trồng, chăm sóc, thu hoạch cho đến chế biến, đạt hiệu quả kinh tế cao.

 

Tham quan trại Hầm, du khách ngoài dịp thưởng thức hương vị cà phê chồn còn được nghe diễn giải về quy trình sản xuất, chế biến cà phê chồn cũng như tham gia vào tiệc nướng ngoài trời, xem biểu diễn cồng chiêng hay dịch vụ homestay. Lúc ra về, du khách còn được chủ trang trại tặng một chiếc ly in hình của mình cùng dòng chữ chứng nhận đã thưởng thức cà phê chồn tại trại Hầm.

 

Loại hình du lịch nhà vườn tại Đà Lạt phát triển không những thu hút lượng khách đến Đà Lạt ngày càng đông mà còn góp phần làm phong phú hệ thống sản phẩm du lịch ở Lâm Đồng.

 

Thanh Hải

Nguồn: Vietnamtourism.gov.vn

Bún bò – món ngon xứ Huế níu chân du khách

(TITC) – Cố đô Huế được biết đến không chỉ bởi nét đẹp cổ kính, không gian thơ mộng trữ tình, với những điện đài sơn son thiếp vàng mà còn nổi tiếng với nghệ thuật ẩm thực cầu kỳ, tinh tế và đặc sắc.

 

Đầu bếp Anthony Bourdain của kênh truyền hình CNN đã từng đến Huế và có nhận xét “Nếu du khách đã từng đến Huế, miền Trung Việt Nam mà không ghé vào chợ Đông Ba để thưởng thức bún bò Huế thì quả thật là một sự đáng tiếc. Một món ăn ngon với thịt lợn và xương bò. Đây là món súp ngon nhất thế giới mà tôi từng thưởng thức”.

 

Ở Huế, món ăn này được gọi đơn giản là “bún bò”, trong khi ở các địa phương khác gọi là “bún bò Huế” để chỉ xuất xứ của món ăn.

 

Bún bò Huế có nguyên liệu chính là bún, thịt bắp bò, giò heo, chả (thịt bò quết nhuyễn), tiết luộc cùng nước dùng có màu đỏ đặc trưng. Thành phần tuy đơn giản là thế nhưng dưới cách chế biến tài tình, tinh tế đến mức cầu kỳ của người Huế thì bún bò đã trở thành một thương hiệu riêng của đất cố đô, chính điều đó đã tạo cho món ăn sức hấp dẫn đối với du khách trong và ngoài nước.

 

Cũng như nhiều món ăn đặc trưng của Huế, cách chế biến bún bò rất cầu kỳ. Đầu tiên, được coi là “linh hồn” của món bún bò chính là nước lèo, nước được hầm từ xương bò với một vài loại củ, nước lèo ngon thì phải trong và khi nếm chỉ thấy vị ngọt của nước xương thịt hầm – đạt được hai yêu cầu đó đã là khó, lại thêm để cho thực khách gật gù với món ăn mình đang thưởng thức thì người nấu phải có một bí quyết nêm gia vị, mà cụ thể là nghệ thuật nêm mắm ruốc đúng liều lượng để tạo mùi thơm phảng phất và vị ngọt đậm đà cho món ăn. Tinh dầu của sả có mùi thơm nồng, đủ mạnh để trung hòa mùi mắm ruốc và giúp cho mùi giò heo luộc vừa chín tới, mùi thịt bò trộn cùng mùi mắm ruốc, tiêu, hành, nước mắm trở nên dịu và ngạt ngào thơm. Tuy nhiên, không phải “một ngày như mọi ngày”, với một nồi bún Huế, người nấu phải ý tứ theo mùa. Mùa hè thì vị muối nhạt hơn, còn mùa đông Huế đặc biệt với mưa dầm dề, lạnh cắt thịt da, người nấu bún phải chú ý nêm vị đậm hơn, bên cạnh đó, mùi thơm của sả cũng làm ấm lòng thực khách dù ngoài trời mưa tầm tã.

 

Bún thì nơi nào cũng có chứ không riêng gì Huế. Thế nhưng, Con bún (sợi bún) Huế được người làm nhào, nặn, quết, vắt bằng tay nên có hình dạng to hơn bún Bắc và bún Nam. Bún ngon phải là bún được làm bằng bột gạo pha chút bột lọc với tỷ lệ vừa phải để cho con bún ướt, ngon và dai hơn. Ngoài ra, phụ liệu không thể thiếu cho món ăn này là rau sống. Rau sống để ăn kèm với bún bò bao gồm hoa chuối thái mỏng ngâm nước có pha nước chanh để được trắng, rau muống cọng chẻ nhỏ, rau quế, tía tô, húng lủi, giá đỗ, chanh. Đặc biệt, khi ăn bún bò Huế, không thể thiếu chút ớt chưng cay nồng rất đậm chất Huế.

 

Là một trong những món ăn mang đậm hương vị đặc trưng của vùng đất cố đô, bún bò Huế càng được biết đến sau khi được Tổ chức Kỷ lục châu Á công nhận đây là món ăn đạt kỷ lục châu Á theo bộ tiêu chí “Giá trị ẩm thực châu Á” năm 2012. Ngày nay, dù ở bất kỳ đâu trên mảnh đất hình chữ S này du khách cũng có thể có cơ hội thưởng thức một bát bún bò Huế. Tuy nhiên, được thưởng thức món ăn này tại chính quê hương sinh ra nó mới có thể cảm nhận được hết sự cầu kỳ, tỉ mẫn của con người cũng như nét tinh túy của ẩm thực vùng đất kinh kỳ.

Phạm Thanh

Nguồn: Vietnamtourism.gov.vn

9 hồ nước nổi tiếng nhất Việt Nam

Với vẻ đẹp thơ mộng, say lòng người cùng quang cảnh hùng vĩ, hồ Thác Bà, hồ Ba Bể, hồ Đại Lãi, hồ Trị An… luôn là điểm dừng chân lý thú của du khách.

Hồ Thác Bà, Yên Bái

 

Hồ Thác Bà là một trong ba hồ nước nhân tạo lớn nhất Việt Nam. Hồ cách Hà Nội 160 km theo quốc lộ 2 hoặc quốc lộ 32 về phía tây bắc. Đây là nguồn cung cấp nước cho nhà máy thủy điện Thác Bà (thuộc hai huyện là Lục Yên và Yên Bình – Yên Bái).

 

 

Hồ Thác Bà có hơn 1.300 đảo lớn nhỏ tạo nên nhiều hang động. Đến đây, ngoài “đặt vé” một chỗ trên thuyền thuyền phám phá lòng hồ, thưởng thức cảm giác làm cần thủ hay nằm dài ngắm bầu trời cao vút, bạn đừng quên ghé thăm khu vực làng ven hồ. Nơi vẫn giữ được nét hoang sơ cùng bản sắc văn hóa của các dân tộc Tày, Nùng, Mông, Dao, Phù Lá, Cao Lan…

 

Hồ Ba Bể, Bắc Kạn

 

Ba Bể là một trong một hồ nước ngọt lớn nhất thế giới nằm trong vườn quốc gia Ba Bể. Về địa hình, hồ như một khối nước khổng nằm giữa lưng chừng vùng núi đá vôi. Ba nhánh của hồ thông nhau được gọi tên là Pé Lầm, Pé Lù và Pé Lèng.

 

 

Những trải nghiệm không nên bỏ qua tại đây là chèo thuyền trên hồ, khám phá các hang động và chiêm ngưỡng dòng thác hùng vĩ ở thượng nguồn.

 

Hồ Hoàn Kiếm, Hà Nội

 

Hồ Hoàn Kiếm hay hồ Gươm là một hồ nước ngọt nằm giữa thủ đô Hà Nội. Hồ gắn với truyền thuyết trả gươm cho Rùa Vàng của vua Lê Lợi vào thế kỷ 15.

 

 

Giữa hồ có Tháp Rùa, cạnh hồ có đền Ngọc Sơn. Xung quanh hồ còn có những di tích lịch sử khác như tượng vua Lý Thái Tổ, cầu Thê Húc, tháp Bút, đền Bà Kiệu…

 

Hồ Tây, Hà Nội

 

Hồ Tây, còn có tên hồ Mù Sương (Dâm Đàm), hồ Trâu Vàng (Kim Ngưu hồ), Đầm Xác Cáo,Tây Hồ, là hồ lớn nhất nội thành Hà Nội.

 

 

Đến hồ Tây vào bất kỳ thời điểm nào, bạn đều khám phá những nét đẹp không nơi nào có. Ngoài tham quan hồ, một số di tích khác gần đó bạn có thể khám phá là làng Nghi Tàm, làng Nhật Tân, đền Sóc thờ Thánh Gióng, đền Đồng Cổ, đền Quán Thánh, chùa Trấn Quốc, phủ Tây Hồ…

 

Hồ Tơ Nưng, Gia Lai

 

 

Hồ Tơ Nưng hay biển Hồ cách trung tâm thành phố Pleiku 6km về hướng Bắc. Hồ nguyên là miệng núi lửa đã ngưng hoạt động. Có khá nhiều truyền thuyết tuyệt đẹp gắn với sự ra đời của hồ. Đến nay, hồ Tơ Nưng như là hạt ngọc của Pleiku, nơi mà bất cứ ai đã đặt chân đến vùng đất Tây Nguyên đều không thể ghé qua.

 

Hồ Lắk, Đắk Lắk

 

Hồ Lắk nằm ở thị trấn Liên Sơn (hay Lạc Thiện) huyện Lắk, cạnh tuyến đường giao thông giữa Buôn Ma Thuột và Đà Lạt, cách thành phố Buôn Ma Thuột khoảng 56 km về phía Nam theo quốc lộ 27. Đây là hồ nước ngọt tự nhiên lớn nhất tỉnh Đăk Lăk và lớn thứ hai Việt Nam (sau hồ Ba Bể).

 

 

Hồ Lăk quyến rũ du khách với vẻ đẹp hùng vĩ của những dạy núi lớn bao quanh và buôn Jun, một buôn làng nổi tiếng của người M’Nông. Xung quanh hồ còn có những kiến trúc lịch sử như biệt điện của vua Bảo Đại, nhà dài của người M’Nông.

 

Hồ Biển Lạc, Bình Thuận

 

Hồ Biển Lạc tọa lạc ở huyện Tánh Linh và một phần ở huyện Đức Linh. Quanh hồ là rừng già nguyên sinh và bạt ngàn rừng cao su nên được ví như “biển lạc giữa rừng”.

 

 

Đến hồ Biển Lạc, du khách có thể ngồi thuyền dạo chơi giữa bốn bề trời nước mênh mông cùng với núi rừng bát ngát, thưởng thức những đặc sản trên những chiếc bè nuôi cá hay thưởng thức những thành phẩm mà mình câu được.

 

Hồ Trị An, Đồng Nai

 

Hồ Trị An là một hồ nước nhân tạo, nằm trên dòng sông Đồng Nai, thuộc tỉnh Đồng Nai, hồ là nơi chứa nước cung cấp cho nhà máy thủy điện Trị An.

 

 

Hồ Trị An có vẻ đẹp sơn thủy hữu tình của nước, của cây xanh và những hòn đảo nhỏ. Một chuyến khám phá lòng hồ trên thuyền hay các sản vật như cá lăng, cá chuột khiến bạn càng thêm yêu mến vẻ đẹp của đất nước. Ngoài ra, nếu có thời gian, bạn đừng quên khám phá ngọn thác gắn với truyền thuyết đẹp về người phụ nữ chung thủy hay rừng quốc gia Nam Cát tiên ở thượng nguồn.

 

Hồ Dầu Tiếng, Tây Ninh – Bình Dương

 

 

Hồ Dầu Tiếng là một trong những hồ nước nhân tạo lớn nhất của Việt Nam và Đông Nam Á. Cũng như các hồ khác, hồ Dầu Tiếng hùng vĩ và thanh bình với mặt nước rộng, những dãy núi xanh in bóng cùng hàng loạt sản vật đặc trưng của vùng đất này.

Nguồn: Vietnamtourism.gov.vn

Lễ cầu an của người Ba Na

Lễ cầu an theo tiếng Ba Na gọi là Puh hơ drih được tổ chức với ý nghĩa xua đuổi những điều xấu, dịch bệnh khỏi buôn làng. Là dịp để người Ba Na thể hiện tinh thần đoàn kết, góp phần giáo dục con cháu bảo tồn nét văn hoá truyền thống của dân tộc mình.

 

Nét đẹp văn hóa của người Ba Na

 

Lễ hội cầu an là loại hình văn hóa tín ngưỡng độc đáo của tộc người Ba Na ở Tây Nguyên nói chung, vùng Ba Na – Hơ Moong (Kon Tum) nói riêng, thể hiện sự tôn kính của đồng bào đối với các bậc thần linh. Lễ hội có từ xa xưa, truyền lại cho con cháu, bắt nguồn từ truyền thuyết ngày xưa trong làng bị đại dịch, không có thuốc men, dân làng chết nhiều. Người dân đã bắt dê làm vật tế thần, cầu mong thần linh xua đuổi tà ma. Kể từ khi đó hết dịch bệnh, không còn ai chết nữa nên lễ hội được duy trì hàng năm.

 

Nghệ nhân A Thút, xã Hơ Moong, huyện Sa Thầy, tỉnh Kon Tum cho biết: “Theo quan niệm của người Ba Na, lễ hội Puh hơ drih là phong tục tập quán từ lâu đời, một trong những nét đẹp văn hóa của người Ba Na chúng tôi. Lễ hội được tổ chức trong khoảng thời gian tháng 11 – 12 dương lịch hàng năm vào thời điểm thu hoạch mùa màng xong với mong muốn cầu cho dân làng ấm no, khỏe mạnh, tránh khỏi chiến tranh, dịch bệnh, xua đuổi các thế lực siêu nhiên xấu, các loại ma xấu, xua đuổi những xui xẻo, tai họa đến với dân làng… Để buôn làng yên bình, khỏe mạnh, dân làng ăn cơm mới được no đủ không bị đói, cầu cho mùa màng bội thu. Lễ cầu an do hội đồng già làng chủ trì”.

 

Tỏ lòng thành kính với các bậc thần linh

 

Anh Hoàng Đình Chung, chuyên viên phòng Di sản Văn hóa, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Kom Tum cho biết: Trước khi tổ chức lễ hội, Già làng tổ chức cho dân trong buôn phát dọn đường đi sạch sẽ, sửa sang nhà Rông, bến nước, dọn vệ sinh các con đường trong buôn. Để chuẩn bị cho lễ hội, người dân chuẩn bị 4 hình nộm người làm bằng các vật liệu, sản vật sẵn có trong tự nhiên hay từ những sản phẩm nông nghiệp. Tùy vào điều kiện kinh tế mà dân trong buôn cúng cho Yang (thần linh) những lễ vật hiến sinh phù hợp. Thông thường, lễ vật cúng thần của người Ba Na có thể là những con bò, heo, dê, gà… Tuy nhiên, những năm gần đây, bà con Ba Na thường chọn con dê làm con vật hiến sinh. Theo quan niệm của đồng bào, dê là con vật có râu, linh thiêng, là anh của các súc vật trong làng. Ngoài con dê thì cây nêu cũng là vật dụng không thể thiếu trong lễ cúng cầu an, đồng bào cho rằng cây nêu trên đỉnh có gắn biểu tượng con chim lạc là biểu hiện của hòa bình, ấm no, hạnh phúc.

 

Vào ngày lễ hội, tất cả thành viên trong buôn đều tập trung trước nhà Rông để làm lễ cúng thần. Già làng là người chủ trì buổi lễ. Già làng cầm khiên, đao đi đầu, bên cạnh là một thanh niên đeo mặt nạ cầm mác; tiếp sau là 4 thanh niên mang theo hình nộm. Tiếp nữa là 2 thiếu nữ, mỗi người cầm cây lá đót. Cuối cùng là đội cồng chiêng và đi sau là toàn thể dân trong buôn. Giờ phút được chờ đợi nhất của lễ hội đó là lúc Già làng làm lễ cầu khấn các thần linh phù hộ, người dân làm các động tác hú gọi xua đuổi tà ma trong tiếng cồng chiêng nổi lên dồn dập. Việc xua đuổi những con ma xấu diễn ra cho đến khi đoàn người đi hết khắp buôn làng, đuổi dồn về cuối buôn. Lúc này, tất cả các đạo cụ như: Hình nộm, lá đót, mặt nạ… được dân làng bỏ lại, rồi đoàn người quay về tập trung tại nhà Rông. Ngay sau phần lễ, tất cả dân làng cùng đánh cồng chiêng với vũ điệu xoang truyền thống của người Ba Na, trình diễn trang phục cổ truyền, uống rượu cần, liên hoan ẩm thực và hát dân ca.

 

Ông Đặng Văn Hải (Tổ dân phố 14, Văn Quán, Phúc La, Hà Nội) chia sẻ những cảm xúc sau khi được tham dự lễ hội: “Tôi thấy rất vui và phấn khởi khi mà đồng bào các dân tộc thiểu số vẫn giữ được bản sắc văn hóa của dân tộc mình một cách nguyên sơ và chân thực. Vì thời chiến tranh tôi cũng đã được tham gia lễ hội này và tôi thấy buổi lễ tái hiện của đồng bào ngày hôm nay đúng với bản chất ban đầu mà tôi tham dự”.

 

Lễ hội cầu an hiện nay vẫn được lưu giữ và bảo tồn. Lễ hội cũng là dịp để đồng bào Ba Na giới thiệu những nét văn hóa đặc sắc, thể hiện tinh thần đoàn kết, giáo dục con cháu bảo tồn những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc mình nói riêng và dân tộc Việt Nam nói chung và góp phần quảng bá cho khách du lịch trong và ngoài nước biết đến.

 

 

Nguồn: Vietnamtourism.gov.vn

Xuân về trẩy hội chùa Hương

Đã thành thông lệ từ hàng trăm năm nay, vào những ngày đầu xuân, du khách thập phương lại nô nức về trảy hội chùa Hương. Chuyến hành trình linh thiêng về miền đất Phật là một trong những lễ hội xuân gây tiếng vang lớn nhất ở miền Bắc và trở thành nét văn hóa mang đậm bản sắc Việt.

 

Chùa Hương là cách nói trong dân gian, trên thực tế chùa Hương hay Hương Sơn là cả một quần thể văn hóa – tôn giáo, gồm hàng chục ngôi chùa thờ Phật, những ngôi đền thờ thần, những ngôi đình thờ tín ngưỡng nông nghiệp… Trung tâm chùa Hương nằm ở ven bờ phải sông Đáy thuộc xã Hương Sơn, huyện Mỹ Đức, cách trung tâm Hà Nội chừng hơn 50km.


Theo truyền thuyết thì ở vùng “linh sơn phúc địa này” vào thế kỷ đầu tiên đã có công chúa Diệu Thiện tục gọi là chúa Ba ứng thân của Bồ Tát Quán Thế Âm đã vào tu hành 9 năm, đắc đạo thành Phật đi cứu độ chúng sinh. Bởi vậy mà hàng năm, mỗi độ xuân về hoa mơ nở trắng núi rừng Hương Sơn, hàng triệu phật tử cùng tao nhân mặc khách khắp 4 phương lại nô nức về trảy hội.


Ở trong chùa có lễ dâng hương, gồm hương, hoa, đèn, nến, hoa quả và thức ăn chay. Trước ngày mở hội một ngày, tất cả các đền, chùa, đình, miếu đều khói hương nghi ngút, không khí lễ hội bao trùm cả xã Hương Sơn.


Lễ hội chùa Hương là lễ hội kéo dài nhất miền Bắc cũng như cả nước (từ mùng 6 tháng giêng cho tới hết tháng 3 âm lịch). Đỉnh cao của lễ hội là từ rằm tháng riêng đến 18 tháng hai âm lịch. Do mỗi mùa lễ hội thu hút con số du khách lên tới hàng triệu nên đây là thời điểm mà danh thắng chùa Hương bỗng trở nên đông đúc và ồn ào hơn bao giờ hết. Từ thời nhà Nguyễn, danh sĩ Phan Huy Chú trong một lần về đây vãn cảnh đã từng nói: “Nơi đây là lễ hội vui nhất nước Nam”.

 

Phần lễ chùa Hương thực hiện rất đơn giản, có nghiêng về “thiền”. Nhưng ở chùa ngoài lại thờ các vị sơn thần thượng đẳng với đủ màu sắc của đạo giáo. Đền Cửa Võng là “chân long linh từ” thờ bà chúa Thượng Ngàn, là người cai quản cả vùng rừng núi xung quanh với cái tên là “tì nữ tuý Hồng” của sơn thần tối cao. Chùa Bắc Đài, chùa Tuyết Sơn, chùa Cả và đình Quân thờ ngũ hổ và tín ngưỡng cá thần.


Chùa Trong có lễ dâng hương, gồm hương, hoa, đèn, nến, hoa quả và thức ăn chay. Lúc cúng có hai tăng ni mặc áo cà sa mang đồ lễ chay đàn rồi mới tiến dùng đồ lễ lên bàn thờ. Trong lúc chạy đàn, hai vị tăng ni múa rất dẻo và đẹp mắt. Từ ngày mở hội cho đến hết hội, chỉ thỉnh thoảng mới có sư ở các chùa trên đến gõ mõ tụng kinh chừng nửa giờ tại các chùa, miếu, đền. Còn hương khói thì không bao giờ dứt.

 

Phần hội chùa Hương mang đậm nét thanh tịnh của miền đất Phật, tạo nên sự hài hòa giữa con người và cảnh vật, không gian. Xuôi theo dòng nước, đường vào chùa Hương tấp nập hàng trăm thuyền qua lại. Có lẽ cảm giác ngồi trên những con đò nhỏ, men theo thung lũng suối Yến là thi vị nhất. Tới đây, người ta mới cảm nhận được những nét đẹp của chùa Hương, giống như những lời thơ của thi nhân Chu Mạnh Trinh từng ca ngợi:

 

“Bầu trời cảnh bụt
Thú Hương Sơn ao ước bấy lâu nay
Kìa non non, nước nước, mây mây
Đệ nhất động” hỏi rằng đây có phải”…

 

Tiếp đó là hành trình vãn cảnh chùa chiền, leo núi, tham quan hang, động. Cuộc leo núi tạo ra trong con người tâm lý kỳ vọng, muốn vươn đến và chinh phục đỉnh cao. Và sự kỳ vọng đó hẳn sẽ làm cho con người thêm phần sảng khoái tin yêu cuộc đời này hơn.

 

Trong quần thể chùa Hương có con đường lên động Hương Đài khá quanh co, thuyền phải đi sâu vào trong các hẻm núi, theo những lối mòn, leo qua khoảng hơn trăm bậc đá thì tới cửa động. Từ đây có thể phóng tầm mắt bao quát cả một vùng thắng cảnh Hương Sơn trùng điệp núi non. Trên vách núi, những gốc mơ cổ thụ bám chặt vào đá, khung cảnh nơi này hoang sơ hơn so với dọc hai bên bờ dòng suối Yến.


Không mất quá nhiều thời gian, chỉ tầm từ sáng sớm tới chiều là du khách hoàn toàn có thể khám phá hầu hết những nơi đẹp và linh thiêng nhất của chùa Hương. Vậy là đủ cho một chuyến hành trình tìm về sự bình yên, tự tĩnh lặng và thâm trầm chốn thiền phật.


Xuân mới đang về và vẫn như bao năm cũ, mỗi người con Việt Nam hay cả những người con xa xứ lại háo hức lên kế hoạch về miền đất Phật, để dâng lên nén hương tỏ lòng thành kính, để hòa mình vào thiên nhiên trời đất bao la, thả hồn bền dòng suối Yến thơ mộng và tìm cho riêng mình khoảng lặng bình yên trong tâm hồn.

Nguồn: Vietnamtourism.gov.vn

Hấp dẫn bãi tắm Bình Minh, Quảng Nam

Cách trung tâm huyện Thăng Bình về phía đông gần 10km, xã Bình Minh ngoài những tiềm năng lớn về khai thác, đánh bắt hải sản còn có một bãi tắm đẹp và thơ mộng. Nhiều du khách đến đây đều có chung nhận xét, đây là bãi tắm lý tưởng, nếu biết đầu tư khai thác sẽ là điểm đến hấp dẫn và đầy triển vọng.

(Ảnh minh họa)

 

Không những chỉ có một bãi tắm, hơn 9km bờ biển của Bình Minh, chỗ nào cũng có thể xây dựng thành bãi tắm với bờ biển dài, còn nguyên vẻ đẹp hoang sơ, là tiềm năng to lớn để địa phương kêu gọi đầu tư, phát triển du lịch sinh thái gắn với nghỉ dưỡng…

 

“Mực cát” vùng lộng

 

Bãi tắm chính của Bình Minh được huyện Thăng Bình đầu tư vào năm 1998 với các hạng mục gồm nhà để xe, khu tắm nước ngọt và công trình vệ sinh. Sau khi đầu tư, huyện giao lại cho UBND xã Bình Minh sử dụng để khai thác phục vụ du khách. Qua 15 năm từ khi hình thành, du khách trong và ngoài tỉnh đã biết đến bãi tắm Bình Minh. Cứ mỗi mùa hè, lượng khách đến tắm và thưởng thức các món đặc sản tươi ngon của vùng bãi ngang ngày càng đông. Đây là bãi tắm tuyệt đẹp với bãi cát trắng mịn màng, bờ biển thoai thoải, đặc biệt là làn nước ở đây trong xanh như ngọc. Ai lần đầu đến biển, nhìn làn nước trong xanh với bãi cát trắng mịn, làn gió nồm thổi mơn man cũng có một cảm giác muốn đắm mình vào biển, được vẫy vùng trong làn nước mát rượi để quên hết những mệt nhọc…

 

Không chỉ giữ nguyên vẻ đẹp hoang sơ, bãi tắm Bình Minh được biết đến với nhiều món hải sản tươi ngon, đặc biệt là mực cơm Bình Minh. Đây là loại hải sản được khai thác gần bờ và chỉ riêng vùng biển ngang mới ngon. Loại  mực này được ngư dân Bình Minh khai thác ở vùng biển lộng, gọi theo ngư dân là “mực cát” vì loại hải sản này sống ở vùng biển gần bờ trong những khu vực có cát, cũng loại mực cơm nhưng khi khai thác ở những khu vực đáy biển có bùn thì không ngon bằng. Khi đánh bắt được mực cơm, ngư dân cẩn thận dùng các dụng cụ bảo quản riêng cho mực, giữ mực không va chạm nhiều, giữ nguyên cho da mực không trầy tróc và nhấp nháy các chấm sao. Mực cơm tươi rói được đưa thẳng vào các nhà hàng tại bãi tắm. Tại đây, các cơ sở thực hiện công đoạn hấp mực theo cách truyền thống, đơn giản nhưng đảm bảo độ tươi ngon của loại “mực cát” này. Mực vừa luộc xong, còn nguyên túi, ửng hồng, tươi rói, căng mọng, thực khách dùng tay bốc con mực cơm còn nghi ngút khói, chấm vào chén nước mắm nhỉ giã ít gừng và ớt, kèm theo rau húng, chuối chát… Chính loại mực này đã góp phần làm nên giá trị “thương hiệu” của bãi tắm Bình Minh.

 

Văn hóa tâm linh

 

Ngoài những món hải sản tươi ngon, du khách tới Bình Minh có thể tranh thủ tham quan và tìm hiểu những nét văn hóa đặc sắc của làng chài vùng bãi ngang này. Đó là những hoạt động văn hóa tâm linh được truyền từ đời này qua đời khác. Cách bãi tắm khoảng 100m về phía bắc, lăng thờ cá ông được ngư dân 2 làng Tân An và Hà Bình xây dựng khá lâu, hướng về phía biển. Đây là nơi táng cá ông mỗi khi “Ông” lụy vào bờ. Thi thể “Ông” cá được ngư dân khâm liệm cẩn thận, cả vạn ghe đều có mặt để làm lễ nghinh ông linh đình và mai táng chu đáo xung quanh lăng. Tục thờ cá ông được ngư dân địa phương gìn giữ và xem đây là một tín ngưỡng trong nghề đi biển. Theo quan niệm của ngư dân, cá ông là vị thần biển, luôn giúp đỡ họ mỗi khi gặp nạn…

 

Một phong tục văn hóa đặc sắc khác mà du khách cũng rất quan tâm mỗi khi đến biển Bình Minh vào những ngày đầu năm âm lịch, từ mùng 4 cho đến rằm tháng Giêng, du khách sẽ được xem lễ hội cầu ngư trang trọng, thành kính cùng với các đội chèo, điệu hát bả trạo truyền thống. Đây là lễ hội được tổ chức trước những ngày chuẩn bị xuất bến của ngư dân, cầu cho mưa thuận gió hòa, tôm cá đầy thuyền. Hát bả trạo trong lễ hội cầu ngư của xã Bình Minh là một loại hình văn hóa dân gian đặc sắc, đã được Bộ VH-TT&DL xếp hạng văn hóa phi vật thể cấp quốc gia cùng với các địa phương khác của tỉnh vào năm 2013. Bên cạnh đó, cứ hai năm một lần, vào 1.4 nhân kỷ niệm ngày Bác Hồ về thăm làng cá, huyện Thăng Bình lại tổ chức lễ hội văn hóa miền biển. Địa điểm tổ chức chủ yếu là bãi tắm Bình Minh cho các xã biển trong huyện với những môn thi đấu thể thao mang đậm nét văn hóa vùng biển, trở thành một điểm hẹn sinh hoạt văn hóa chung cho ngư dân trong huyện…

 

Kết nối nhiều điểm du lịch

 

Nằm ở một vị trí rất thuận lợi có thể kết nối với nhiều điểm du lịch nổi tiếng khác của tỉnh, bãi tắm Bình Minh có thể là điểm tắm biển hoặc nghỉ dưỡng cuối cùng trong một tour mà du khách chọn, hoặc xuất phát từ đây có thể đi nhiều điểm khác như Cù Lao Chàm (Hội An)  khoảng 5 hải lý. Cũng từ bãi tắm Bình Minh, du khách có thể dọc theo đường Thanh niên ven biển đến biển Kỳ Hà – Chu Lai hoặc ngược ra phía bắc qua cầu Cửa Đại đến phố cổ Hội An. Từ đây chạy khoảng 15km lên Phật viện Đồng Dương ở xã Bình Định Bắc chiêm ngưỡng kinh thành cổ Indrapura của người Chăm, dấu tích của một vương triều hưng thịnh tồn tại hơn 100 năm trị vì vào thế kỷ thứ X, trên đường đi ghé thăm lăng Bà Chợ Được (xã Bình Triều), nơi diễn ra lễ hội rước cộ Bà Chợ Được vào ngày 11 tháng Giêng hàng năm…

 

Có thể nói, bãi tắm Bình Minh đang trở thành tâm điểm kết nối du lịch của cả một hệ thống những địa danh, những làng nghề nổi tiếng của huyện Thăng Bình và cả những địa danh của các huyện lân cận khi đường dẫn và cầu Cửa Đại thông tuyến, cùng với đường cứu hộ – cứu nạn chạy qua, nối liền xã Bình Minh với các TP.Hội An, Tam Kỳ. Một tín hiệu khả quan khi bãi tắm Bình Minh đang được các nhà đầu tư tìm đến, trong đó nhà đầu tư lớn có tiềm lực đã được UBND tỉnh thỏa thuận địa điểm và cấp giấy phép đầu tư là Công ty TNHH Châu Á – Thái Bình Dương với diện tích thỏa thuận là 6ha, tổng vốn đầu tư ban đầu là 70 tỷ đồng, gồm các hạng mục nhà lễ tân, khu hội nghị, khu tắm biển, nhà hàng, khu nghỉ dưỡng cao cấp, bể bơi, sân tennis…  Hy vọng các dự án trên sớm được triển khai để bãi tắm Bình Minh trở thành điểm đến hấp dẫn hơn, thành trung tâm du lịch của Thăng Bình, kết nối với nhiều địa danh du lịch trong tương lai gần./.

 

Nguồn: Vietnamtourism.gov.vn

Độc đáo chợ phiên Mốc 9

Chợ Mốc 9 hay còn gọi là chợ mốc 358 Bạch Đích thực chất là chợ cửa khẩu nhưng lại họp theo phiên, giống như nếp sinh hoạt của cư dân vùng cao Tây Bắc. Nếu không đúng phiên, cửa khẩu dù vẫn hoạt động bình thường nhưng khu chợ vắng bóng kẻ mua, người bán.

 

Từ thành phố Hà Giang, theo đường Quốc lộ 4C đi Quản Bạ-Yên Minh, đi hơn 70km “đường xoắn ốc” với những khúc cua tay áo gai người, đến địa phận xã Na Khê, cách thị trấn Yên Minh chừng 20 cây số sẽ có một ngã ba, rẽ về bên trái, theo con dốc sâu hút và con đường nhỏ chừng gần 20 cây số nữa là đến cửa khẩu Bạch Đích.Mốc 9 là tên gọi cũ của Mốc 358 thuộc địa bàn xã Bạch Đích, huyện Yên Minh. Chợ Mốc 9 nằm ngay bên chân mốc và đi thêm 10 bước chân nữa là chạm barier cửa khẩu Bạch Đích. Đây là cửa khẩu nhỏ, là nơi giao thương đi lại của người dân địa phương giữa 2 huyện: Yên Minh, Hà Giang và Ma Ly Pho, Trung Quốc. Vì là cửa khẩu địa phương nên nếu không có những buổi chợ phiên, hoạt động giao thương thường ngày sẽ vô cùng vắng vẻ. Vào những ngày phiên, chợ Mốc 9 lại mang một màu sắc đặc biệt, bởi đây là khu chợ duy nhất của 8 thôn bản thuộc xã Bạch Đích và cũng là chợ phiên duy nhất cho người dân giáp biên phía bên kia biên giới sang giao lưu buôn bán và mua sắm. Hàng hóa ở chợ phiên Mốc 9 vô cùng đa dạng, từ hàng ăn, quần áo giầy dép, vật dụng gia đình, hàng điện tử, bánh kẹo, thực phẩm nông thổ sản cho đến máy móc công cụ sản xuất nông nghiệp, máy xay xát, phân bón….. Đây cũng là phiên chợ để những người bán buôn ở  các chợ thuộc huyện Yên Minh và các huyện xung quanh đến lấy hàng, trao đổi trong không khí vô cùng đông vui, tấp nập.

Đối với những du khách đến đây, mỗi khu chợ đều có sức hút mạnh mẽ. Đặc biệt với chợ Mốc 9, du khách đến đây có thể tìm hiểu cuộc sống, văn hóa sinh hoạt của người dân 2 bên đường biên giới. Khám phá những điều thú vị ẩn sau điệp trùng núi đá hùng vỹ, thỏa mãn cảm giác làm chủ tay lái trên cung đường mang tên Hạnh phúc, tìm hiểu cuộc sống, con người vùng Cao nguyên đá Đồng Văn là trải nghiệm tuyệt vời đối với hàng vạn người yêu du lịch trong và ngoài nước. Tuy nhiên, việc khám phá một phiên chợ độc đáo, khác biệt ở ngay nơi mà những phiên chợ đã thành đặc sản như chợ phiên Mốc 9, cũng không phải dễ dàng bởi lịch họp phiên vào những ngày thân và ngày dần trong tháng tính theo âm lịch, vốn là loại lịch không phổ biến đối với những người thích xê dịch. Nó cũng không giống những chợ phiên thứ bảy, chủ nhật hay những phiên chợ lùi ở vùng Cao nguyên đá thường họp vào các ngày ứng với những con linh vật có sừng theo âm lịch. Cũng bởi vậy mà việc tham gia và khám phá phiên chợ Mốc 9 vẫn luôn là điều mới mẻvới dân phượt.

 

Nguồn: Vietnamtourism.gov.vn

Gốm Phù Lãng – một nét Kinh Bắc xưa

Nằm bên dòng sông Cầu thơ mộng, làng gốm Phù Lãng một thời nhộn nhịp trên bến dưới thuyền. Ngày nay về đây, du khách vẫn vô cùng háo hức vì được thấy lại một nét Kinh Bắc xưa qua hoạt động của làng nghề.

 

Nguyên sơ đất và lửa

 

Làng gốm Phù Lãng thuộc xã Phù Lãng, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh, cách Hà Nội khoảng 60km. Phù Lãng nằm bên bờ sông Cầu và có nhiều bến đò ngang suốt ngày chở khách qua lại. Theo sử sách còn ghi lại, nghề gốm Phù Lãng được hình thành và phát triển ở đây vào khoảng thời Trần, thế kỷ XIV. Hiện nay, tại Bảo tàng Lịch sử Việt Nam, một số nhà sưu tập còn lưu giữ và trưng bày một số sản phẩm gốm Phù Lãng có niên đại khoảng thế kỷ 17 – 19. Đó là sản phẩm gốm men nâu và những sắc độ của nó như men da lươn, vàng nhạt, vàng thẫm, vàng nâu…

 

Bước chân vào làng Phù Lãng, điểm du khách dễ nhận ra nhất là những nét riêng biệt điển hình của một làng gốm. Những ngôi nhà gạch trần, mái ngói nhấp nhô dọc hai bên con đường làng đổ bê tông quanh co, lắt léo. Sản phẩm của nghề gốm được xếp đầy sân nhà, bờ ruộng, dọc các lối đi. Những bức tường rào được xếp từ những chiếc vại, chiếc bình bị nung hỏng, rêu xanh phủ đầy, chen với cỏ mọc tạo thành một vẻ đẹp mộc mạc và độc đáo không phải nơi nào cũng có được.

 

Trò chuyện với du khách, Nghệ nhân Phạm Văn Thành ở xóm Chùa, thôn Phấn Trung, xã Phù Lãng, cho biết: “Nét đặc trưng nổi bật của gốm Phù Lãng là sử dụng phương pháp đắp nổi theo hình thức chạm bong, còn gọi là chạm kép, màu men tự nhiên, bền và lạ; dáng của gốm mộc mạc, thô phác nhưng khỏe khoắn, chứa đựng vẻ đẹp nguyên sơ của đất với lửa, và rất đậm nét của điêu khắc tạo hình”.

 

Ở Phù Lãng hiện nay có khoảng 30 lò gốm vẫn còn duy trì nghề truyền thống theo kiểu nung thủ công bằng củi. Một lò thường nung được 1.000 sản phẩm và phải đốt lửa liền trong 3 ngày 3 đêm. Vì vậy những sản phẩm đạt tiêu chuẩn phải có màu da lươn vàng óng hay màu cánh gián, khi gõ vào sản phẩm có tiếng vang.

 

Hành trình khám phá

 

Gặp chúng tôi trên đường làng là một nhóm học sinh đến từ Trường Tiểu học Đại Kim (Hà Nội), các em được nhà trường tổ chức cho đi tham quan làng gốm Phù Lãng để có thêm nhiều kiến thức về nghề làm gốm thủ công. Cô giáo Nguyễn Thùy Mai cho biết: “Các em rất thích thú khi đến đây vì được tự mình tay mình làm ra một tác phẩm, dù chưa đẹp nhưng chắc chắn sẽ bổ ích hơn rất nhiều nếu chỉ học trên sách vở”.

 

Sản phẩm gốm mỹ thuật của Phù Lãng hiện nay cũng đã được nhiều doanh nghiệp đến từ Nhật Bản, Hàn Quốc, Canada, Italia… đặt hàng với số lượng không hề nhỏ. Đặc biệt mặt hàng gốm trang trí của Phù Lãng rất được khách hàng quốc tế yêu thích bởi nét đặc trưng là sử dụng phương pháp đắp nổi theo hình thức chạm bong, mà người Phù Lãng gọi là chạm kép các đề tài truyền thống- tứ linh, cảnh sinh hoạt và phong cảnh làng quê…

 

Hiện nay có khá nhiều tour du lịch đưa khách nước ngoài đến với làng gốm Phù Lãng. Anh Peter Anderson – một du khách đến từ Phần Lan cho biết: “Tôi rất thích thú với cách làm gốm thủ công ở Phủ Lãng, hiện nay nhiều sản phẩm gốm được làm công nghiệp, nhưng cách làm như ở đây vẫn giữ được những kỹ thuật nguyên gốc từ vài trăm năm trước”.

 

Sau khi thăm Phù Lãng, các hướng dẫn viên sẽ dẫn khách đến một ngôi chùa vô cùng nổi tiếng là chùa Bút Tháp ở huyện Thuận Thành gần đó, chiêm ngưỡng ngôi chùa và thưởng thức cơm trưa. Nhiều du khách thích thú thưởng thức các đặc sản địa phương như bánh đúc ăn với tương Đình Tổ, bánh gio, cháo thái…

 

Nguồn: Vietnamtourism.gov.vn

Phố Hội mê hoặc trong Tết Nguyên Tiêu

Phố Hội vào rằm tháng Giêng đón Tết Nguyên Tiêu càng trở nên đông đúc, rộn ràng, có tiếng ca bài chòi hồ hởi, tiếng đàn bầu, đàn nhị hợp ca tha thiết những ca khúc quê hương.

 

Sông Hoài đêm nay cũng được thắp sáng bởi hàng trăm chiếc đèn hoa đăng. Tất cả tạo nên một phố Hội đầy âm sắc của vùng đất xứ Quảng.

 

Khi tiếng trống sân bài chòi vang lên, tiếng hô của người hát làm bước chân của du khách nhanh hơn để kịp đến thưởng thức những làn điệu dân ca, nghe hát đối đáp với những thẻ bài có cái tên rất lạ như tám giây, bảy giày, mỏ, nghèo,… mà chất chứa trong đó là những câu ca về quê hương, đất nước.

 

Tết Nguyên Tiêu là ngày rằm đầu tiên của năm tính theo lịch âm. Phố Hội xưa là nơi sinh sống của nhiều người Hoa nên dù cuộc sống phát triển, những người dân các thế hệ sau này vẫn giữ nếp mừng Tết Nguyên Tiêu cho đến ngày nay.

 

Cùng với sự nỗ lực của chính quyền địa phương, ngày Tết Nguyên Tiêu phố Hội đang trở nên mang nhiều âm sắc với nhiều hoạt động được rải khắp theo suốt chiều dài phố cổ.

 

Rộn ràng nhất vẫn là khu vực gần Chùa Cầu với sân bài chòi chật kín người chơi đến tận khuya, tiếng trống hát bội ngày Nguyên Tiêu cũng rộn vang hơn trong câu xướng. 

 

Với những nỗ lực của người dân và chính quyền địa phương, bài chòi và hát bội đang dần trở thành một hoạt động thường niên vào đêm 14 âm lịch hàng tháng. Ghé thăm Hội An Tết Nguyên Tiêu, đêm rằm đầu tiên của năm mới, tinh thần của những người làm công việc lưu giữ văn hóa quê hương cũng phấn khởi hơn, ông Ba, người đánh trống hát bội cho hay: “Mới được đưa vào hơn nửa năm nay nhưng bà con ủng hộ nhiều lắm, du khách cũng háo hức. Mình phải gìn giữ để  sau này con cháu vẫn còn nghe và biết hát bội, hát dân ca”.

 

Đi xa về phía chợ, ở những con phố chính, du khách có thể bất ngờ khi nghe được những âm thanh tha thiết được hợp tấu bởi đàn nhị, sáo, ghita. Đó là những người nhạc công mà bạn có thể tìm thấy trước một ngôi nhà cổ, một bảo tàng đang chơi những bài ca đầy ngẫu hứng. Tiếng hát mượt mà của cô gái nhỏ trong lớp học hát dân ca đêm nay cũng cuốn chân người du khách dừng lại, lắng nghe câu ca xứ Hoài. Hay hình ảnh hai ông cụ với áo dài, ngồi đánh cờ với 2 ngọn nến cũng khiến phố Hội thật da diết làm sao! Bởi đó điều là hình ảnh của quê hương, của những ngày tưởng chừng xưa cũ, nay bỗng trở về, tại hiện lại ngay trên con đường phố cổ.

 

18 giờ, các công trình chiếu sáng công cộng ở khu phố cổ được tắt, các nhà trong khu vực này cũng được quy định hạn chế ánh sáng điện thì cũng là lúc những chiếc đèn lồng đỏ, vàng được thắp sáng. Hội An bấy giờ lung linh hơn bao giờ hết. Du khách có thể tìm đến những quán cà phê, nhà hàng với nhiều không gian cổ kính, hiện đại khác nhau. Nhưng thích nhất khi đến phố Hội lúc này là đi dạo dọc bờ sông Hoài, ngắm hàng trăm chiếc đèn hoa đăng lấp lánh trên mặt sông, hay bắt gặp những cô cậu bé trong chiếc áo bà ba đi rao bán nhưng mâm đèn. Đến đây bạn sẽ hiểu, cuộc sống hiện đại gần như không ảnh hưởng đến nơi này, những hình ảnh các bà các mẹ quảy gánh chuối vẫn còn đó, những cô cậu bé hồn nhiên vẫn được tìm thấy ở phố Hội sông Hoài.

 

Đi dọc theo các tuyến phố cổ, du khách còn có thể được thưởng thức những món ăn dân dã đúng cách xứ Quảng. Đó là ngồi vỉa hè, ăn trong ánh sáng của đèn dầu, đèn bão, ăn bánh bèo (loại bánh làm từ bột gạo) bằng xiên tre, hay ghé vào hít hà mùi bắp nướng, bánh khoai nướng đang được các chị trở đều tay trên bếp than hồng. Có như vậy, bạn mới thưởng thức trọn vẹn những âm, sắc, vị của Hội An đang giữ trong mình.

 

Nguồn: Vietnamtourism.gov.vn

Những cung đường mùa Xuân

Đón năm mới tại những danh thắng của đất nước, với cả chiều dài lịch sử và sự hùng vĩ của thiên nhiên, mang lại cho lữ khách nguồn năng lượng tươi mới.

Ba ngày đầu năm mới là ba ngày chúng tôi lên kế hoạch cho một chương trình “phượt” khá “phiêu lưu”. Nói là “phiêu lưu” bởi hành trình chúng tôi sẽ đi hứa hẹn là những cung đường hiểm trở nhưng khung cảnh cũng vô cùng nên thơ, từ Mẫu Sơn (Lạng Sơn), thác Bản Giốc (Cao Bằng) đến hồ Na Hang (Tuyên Quang).

 

 

Một chút băn khoăn về đường sá khi thiếu hụt thông tin về tuyến Lạng Sơn – Cao Bằng (quốc lộ 4A qua Đông Khê, Thất Khê), hay Ba Bể – Na Hang (tỉnh lộ 279). Tuy nhiên, với quyết tâm và khát khao khám phá, đoàn vẫn hăm hở lên đường. Hơn 20 người, từ trẻ em 5 tuổi đến cụ già 80, đều phấn chấn với chuyến đi đầu năm.

 

Trong đoàn, không kể các thành viên gạo cội của OCD và gia đình, còn có các thành viên không thể thiếu trong mỗi chuyến phượt của OCD: thân sinh của chị Nam Phương (Tư vấn trưởng OCD) – ông Tuế, 80 tuổi, kho từ điển sống về những địa danh gắn liền với những sự kiện lịch sử, bà Diệp – người thêu lá cờ cắm trên hầm Đờ Cát trong chiến thắng Điện Biên, vợ chồng anh Trần Trọng Thành – người khai sinh phần mềm đọc sách Alezza, và Tống Thanh Hà – VIEBA…

 

Sau chặng đầu tiên lên tới đỉnh Mẫu Sơn, chúng tôi, dù không được hoàn toàn thỏa mãn với ước mơ thưởng sương, ngắm tuyết trong một ngày Đông nắng chói, vẫn thưởng thức một đỉnh Mẫu Sơn rất khác với tưởng tượng. Đến với thác Bản Giốc (Cao Bằng) và động Ngườm Ngao vào ngày thứ hai.

 

Thác Bản Giốc có dòng nước trắng xóa từ trên độ cao gần 100m đổ xuống ào ào qua mấy tầng thác mờ hơi nước. Những núi đá vôi sừng sững hai bên như góp phần làm nổi bật vẻ đẹp hoang sơ, kỳ vĩ của dòng thác. Bản Giốc được mệnh danh là thác nước đẹp nhất Việt Nam, lớn nhất Đông Nam Á và là thác tự nhiên lớn thứ tư thế giới trong các thác nước nằm trên một đường biên giới các quốc gia.

 

Ngoài hai phần thác có thể dễ dàng quan sát phía dưới, nhiều người mạo hiểm leo theo con đường mòn để lên chiêm ngưỡng phần tầng hai và tầng ba của thác, nơi có những con suối nhỏ chảy xiết như chưa bao giờ ngừng lại…

 

Không rộng lớn và hoành tráng như các đệ nhất động Phong Nha, Thiên Đường…, nhưng trong Ngườm Ngao có rất nhiều nhũ đá hình thù lạ và đặc biệt là cây Bạc với thân lóng lánh như cái tên của nó. Cách đó không xa là thác Bản Giốc, một cảm giác nao lòng chợt đến với các thành viên trong đoàn khi được tận mắt nhìn thấy ngọn thác hùng vĩ và đẹp nhất Việt Nam.

 

Nỗ lực đến với hồ Na Hang của chúng tôi không thành do điều kiện đường sá. Đổi lại, đoàn có một buổi du ngoạn hồ Ba Bể (Bắc Cạn), một trong số rất ít các hồ nước ngọt tự nhiên lớn và đẹp trên thế giới.

 

Du thuyền trên hồ giữa một ngày mùa Đông, khi khung cảnh núi rừng yên ắng, mặt hồ phẳng lặng, mang đến cho mỗi chúng tôi những cảm xúc thật khác lạ. Nằm trong danh sách 16 hồ nước đẹp nhất thế giới do Hãng Thông tấn MSN (Mỹ) bình chọn, hồ Ba Bề cuốn hút tất cả những du khách thích đắm mình vào thiên nhiên.

 

Họ có thể trải nghiệm sự kỳ vĩ của hang động với triệu triệu nhũ đá tuyệt đẹp ở động Puông; đứng lặng người trước thác Đầu Đẳng hùng vĩ và hoang sơ; hay thấy bóng mình in trên mặt nước Ao Tiên quanh năm phẳng lặng, để dường như cảm nhận được truyền thuyết các nàng tiên hạ trần tắm trong ao xanh nước biếc…

 

Ngoài ra, bạn còn có thể tham quan rất nhiều địa danh khác như điểm du lịch Phya Khao, Kim Hỷ, động Nàng Tiên, thác Nà Đăng, bản Pác Ngòi, suối Thác Giềng… Thưởng thức tiếng đàn tính của bà con dân tộc Tày…

 

Không chỉ những điểm dừng chân, mỗi ngọn đèo như đèo Bông Lau (quốc lộ 4A – nổi tiếng với trận chiến Thu Đông 1947), đèo Mã Phục, đèo Tài Hồ Sìn, đèo Cao Bắc, đèo Gió (quốc lộ 3), dù hiểm trở không kém những ngọn đèo trong “tứ đại đèo Tây Bắc” mà chúng tôi đã đi qua như Pha Đin, Ô Quy Hồ hay Khau Phạ… nhưng luôn để lại những cảm giác khó quên về sự nên thơ, vào lúc hoàng hôn hay trong đêm tối.

 

Trong đó, đèo Mã Phục là con đèo đẹp nhất trong các con đèo trên trục đường quốc lộ 3 từ Phủ Lỗ đến cửa khẩu Tà Nùng, cách Cao Bằng 22km, thuộc xã Quốc Toản, huyện Trà Lĩnh, là ranh giới giữa huyện Hòa An và huyện Trà Lĩnh. Đèo cao 620m, vượt qua bảy vòng dốc để đến được đỉnh, có thể đắm mình ngắm những cánh đồng hoa tam giác mạch tim tím trải dài bất tận trong bức tranh sắc màu của mùa Xuân.

 

Nói như Nhâm, người thường xuyên “ngụp lặn” trong các dự án tư vấn chiến lược cho khách hàng, ba ngày mải mê với các cung đường và thách thức sau tay lái, chúng tôi thực sự “làm mới” mình để đón một năm mới đầy thách thức.

 

Các thành viên bé nhất đoàn, trải qua ba ngày đường khá vất vả, ốm, sốt nhưng khi được hỏi “Có đi nữa không?”, vẫn gật đầu “Có chứ”. Sau chuyến đi, dù mệt mỏi, tất cả chúng tôi đã nạp đầy năng lượng cho một chuyến đi dài cả năm 2015.

 

Nguồn: Vietnamtourism.gov.vn

TIN MỚI NHẤT