Điểm đến du lịch

Những địa điểm du lịch hấp hẫn những địa điểm du lịch trong nước, địa điểm du lịch nước ngoài được chúng tôi tổng hợp và đưa tin đến Quý bạn đọc đam mê du lịch có cái nhìn tổng quan nhất về các địa danh du lịch để quyết định cho mình cho những chuyến du lịch ý nghĩa nhất

4 thiền viện nổi tiếng nhất Việt Nam

Không chỉ mang đến cảm giác an nhiên tự tại, Trúc Lâm Tây Thiên,Trúc Lâm Phương Nam, Trúc Lâm Đà Lạt, Trúc Lâm Yên Tử còn say đắm lòng người với bức tranh sơn thủy hữu tình, cảnh quan tuyệt đẹp.

Thiền viện Trúc Lâm Tây Thiên (Vĩnh Phúc) thuộc dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử tọa lạc tại xã Đại Đình, huyện Tam Đảo, cách Hà Nội khoảng 85 km về phía tây.

 

 

Truyền thuyết kể rằng, khoảng thế kỷ thứ 3, có một vị hòa thượng tên là Khương Tăng Hội dừng chân ở đây, dựng chùa truyền giáo, vì thế nơi đây là cái nôi của Phật giáo Việt Nam.

 

Thiền viện được khởi công xây dựng từ ngày 4/4/2004, hoàn thành vào ngày 25/11/2005 với kinh phí 30 tỷ đồng. Đây là thiền viện được xây dựng nhanh nhất với kinh phí thấp nhất. Lý do của đều này là nhờ sự góp công của người dân, các thợ thủ công và các làng nghề. Về thiết kế, thiền viện mang đậm dấu ấn, kiến trúc chùa Việt Nam đương đại với cổng Tam Quan, những họa tiết, chi tiết điêu khắc tinh tế và sắc sảo.

 

Thiền viện Trúc Lâm Phương Nam nằm trong khu di tích lịch sử Lộ Vòng Cung, TP Cần Thơ. Thiền viện được công xây dựng vào ngày 16/7/2013, tổng diện tích là 38.016 m2, kinh phí khoảng 145 tỷ. Với diện tích như vậy, đây là thiền viện lớn nhất miền Nam.

 

 

Chính điện lợp ngói tám mái theo theo phong cách nhà Trần. Tổ điện lợp ngói bốn mái theo phong cách Lý triều. Lầu trống, gác chuông lợp ngói mười hai mái… Ngoài tượng Phật Thích Ca bằng đồng, toàn bộ hệ thống tượng thờ tại đây đều bằng gỗ thủy tùng.

Đặc biệt, khuôn viên thiền viện được bày trí các gian nhà rất cân đối gồm Quan Âm điện, Di Lặc điện (Thủy tạ), chùa Một Cột, giảng đường, khách đường, trai đường, thư viện, phòng đông y Nam dược…

 

Thiền viện Trúc Lâm Đà Lạt là một công trình kiến trúc độc đáo bên cạnh hồ Tuyền Lâm. Chính điện có diện tích 192 m2. Giữa điện thờ tượng Phật Thích Ca cao khoảng 2 m, tay phải cầm cành hoa sen. Bên phải là Bồ Tát Văn Thù cưỡi sư tử. Bên trái là Bồ Tát Phổ Hiền cưỡi voi trắng 6 ngà. Phía bên phải của chính điện là lầu chuông với quả đại hồng chung nặng khoảng 1,1 tấn.

 

 

Thiền viện hút du khách với vẻ uy nghiêm của một ngôi chùa nổi tiếng, không gian thoáng đãng và những thảm hoa rực rỡ khoe sắc. Ngoài viếng cảnh chùa, nếu thích, du khách có thể đăng ký tour khám phá vẻ đẹp hồ Tuyền Lâm với mặt nước mênh mông, tiểu đảo đầy thông hay khám phá Đà Lạt từ trên cao với hệ thống cáp treo nối đèo Robin với thiền viện.

 

Thiền viện Trúc Lâm Yên Tử còn gọi là Chùa Lân, Long Động Tự thuộc thôn Nam Mẫu, xã Thượng Yên Công, thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh. Đây là ngôi chùa do vua Trần Nhân Tông cho tôn tạo, xây dựng vào năm 1293. Tương truyền ngày đó, ba vị sư tổ Trúc Lâm là Trần Nhân Tông, Pháp Loa và Huyền Quang thường đến đây thuyết pháp.

 

 

Chùa nằm trên một quả đồi có hình dáng một con lân nằm phủ phục. Hiện ngõ chùa vẫn còn lưu dấu tích xưa với ngõ dài, rộng, hai bên có nhiều tháp mộ các nhà sư.

 

Các công trình chính của chùa gồm chính điện, nhà thờ Tổ, lầu trống, lầu chuông, nhà tăng, La Hán đường… Đặc biệt, chùa có tượng đồng Thích ca mâu ni nặng gần 4 tấn và tượng Bồ Đề Đạt Ma làm bằng gỗ dáng hương nặng khoảng 3,2 tấn. Ngoài ra, nơi đây cũng có quả cầu được trung tâm Sách kỷ lục Việt Nam xác định là quả cầu Như ý lớn nhất Việt Nam.

Nguồn: Vietnamtourism.gov.vn

Chùa Bà Đanh – di tích nổi tiếng tại Hà Nam

Chùa Bà Đanh được biết đến rộng rãi không phài vì ngôi chùa này đông người tìm về hành hương hay đông khách thăm quan du lịch mà di tích này được biết đến bởi câu ví von “Vắng như chùa Bà Đanh”.

 

“Vắng như chùa Bà Đanh” dường như đã trở thành “thương hiệu” và là câu quen thuộc của người dân miền Bắc khi diễn tả một sự vắng vẻ, hiu quạnh. Vì sự quen thuộc và nổi tiếng đó mà chùa Bà Đanh được người ta biết đến nhiều, mặc dù những người đó chưa chắc đã thực sự đến đây.


Từ Hà Nội, đi thẳng quốc lộ 1 đến thành phố Phủ Lý rồi rẽ phải qua cầu Hồng Phú vào quốc lộ 21, đi khoảng 10 km, đến cầu treo Cấm Sơn sẽ nhìn thấy ngôi chùa cổ kính thấp thoáng hiện ra sau những bóng cây, nhìn ra con sông Đáy hiền hòa.


Chùa Bà Đanh còn có tên chữ là Bảo Sơn tự, là danh thắng của đất Kim Bảng, tỉnh Hà Nam. Cũng như bao ngôi chùa khác ở vùng đồng bằng Bắc Bộ là thờ Phật, chùa Bà Đanh còn tín ngưỡng thờ Tứ Pháp (Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Điện, Pháp Phong là Thần mây, Thần mưa, Thần sấm, Thần sét) một tín ngưỡng thờ thiên nhiên rất gần gũi với đời sống nông nghiệp ở nước ta.


Còn về tên gọi chùa Bà Đanh thì theo truyền thuyết của địa phương, chùa thờ nữ thần linh thiêng trông coi việc điều mưa khiển gió, giúp dân trừ lũ lụt, đem lại mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu nên được gọi là chùa Đức Bà làng Đanh, gọi tắt là chùa Bà Đanh như tên gọi ngày nay. Câu so sánh “Vắng như chùa Bà Đanh” có từ bao giờ và vì sao lại có sự so sánh đó đến nay vẫn còn là thắc mắc của nhiều người. Có nhiều cách lý giải về câu nói này nhưng ý kiến được cho là chuẩn xác nhất là do chùa Bà Đanh nằm ở vị trí u tịch, xa dân cư, ba mặt là sông, rừng rậm chắn, lối đi độc đạo, lại có nhiều thú dữ nên không ai dám vào. Cách duy nhất an toàn là chèo thuyền qua sông Đáy nhưng vì bất tiện nên người hành hương thưa thớt.


Ngày nay, đường đi đã thuận lợi hơn nhiều do đó khách tìm về thăm quan, hành hương cũng không còn vắng vẻ như xưa.

 

Đi qua chiếc cầu treo Cấm Sơn khá bề thế bắc qua sông Đáy, vòng lên một đoạn đường đê vắng vẻ, sẽ bắt gặp tấm biển bằng đá ghi “Di tích lịch sử văn hoá chùa Bà Đanh và núi Ngọc”. Lối dẫn vào chùa hiện đã trải nhựa phẳng lì, hai bên đường đi là hàng nhãn, vải xanh rợp bóng. Cổng tam quan của chùa được xây dựng khá uy nghi, hoành tráng. Cổng có ba gian, hai tầng, ở trên là gác chuông, ở dưới là hệ thống cửa gỗ hoa văn đơn giản. Tuy nhiên cổng này chỉ mở khi chùa có đại lễ, những ngày thường du khách phải đi qua hai cổng nhỏ hai bên với mái ngói cong như hình bán nguyệt. Bước qua cánh cửa cổng khép hờ là khuôn viên rộng rãi, lát gạch tinh tươm rất sạch sẽ. Trong khuôn viên chùa có đặt nhiều chậu cây cảnh, giỏ phong lan tạo và đặc biệt là những hàng cau khẳng khiu vươn cao.

 

Cũng giống kiến trúc của nhiều ngôi chùa vùng đồng bằng Bắc Bộ, chùa Bà Đanh là một quần thể kiến trúc liên hoàn gồm nhà bái đường, nhà thượng điện, nhà trung đường, phủ thờ Mẫu, nhà tổ…, ngôi chùa thuộc dòng Phật giáo Đại Thừa này có những nét riêng độc đáo. Trong chùa không chỉ có tượng Phật mà còn có tượng của Đạo giáo như Thái Thượng Lão Quân, Nam Tào, Bắc Đẩu, các tượng Tam Phủ, Tứ Phủ, Pháp Vũ.


Nếu đến thăm quan, vãn cảnh chùa, du khách nên dành thời gian chiêm ngưỡng pho tượng Bà Đanh, được tạc theo tư thế tọa thiền trên chiếc ngai đen bóng với khuôn mặt đẹp, hiền từ, đầy nữ tính, gần gũi và thân thiết. Sự hài hoà giữa pho tượng và chiếc ngai tạo nên vẻ hấp dẫn của nghệ thuật điêu khắc chùa Bà Đanh.


Năm 1994, Chùa Bà Đanh đã được Bộ VHTTDL công nhận là Di tích lịch sử cấp quốc gia. Nhiều năm nay, người ta đã không còn thấy cảnh vắng vẻ, hiu quạnh ở ngôi chùa này, câu “vắng như chùa bà Đanh” trước đây giờ đã được cải biên thành: “Ngày xưa vắng ngắt vắng ngơ. Bây giờ tấp nập như chùa Bà Đanh”…

 

Nguồn: Vietnamtourism.gov.vn

Kỳ thú bãi Ông Địa

Đó là nơi biển hát tình ca, đá khoe dáng, trùng dương phơi sắc, ngàn mây lả lơi bên bờ cát vàng mênh mang. Đến nơi này, người thứ lữ sẽ chìm trong không gian khoáng đãng với bức tranh thiên nhiên toàn mỹ tựa cõi bồng lai chốn hồng trần!

 

Nằm gối đầu trên mép sóng, trải dọc đường Nguyễn Thông – con đường độc đạo nối thành phố Phan Thiết với Mũi Né, bãi đá Ông Địa (phường Hàm Tiến, Phan Thiết, Bình Thuận) là địa danh hấp dẫn níu chân du khách gần xa đến tham quan, thưởng ngoạn.

 

Dưới chân ngọn núi Rạng nhấp nhô như những triền sóng, hàng trăm và cũng có thể hàng ngàn năm qua, những con sóng bạc đầu cứ lặng lẽ vỗ vào bãi tung bọt trắng xóa càng khiến bức tranh toàn cảnh thêm phần liêu trai. Đã bao đời qua,  tiếng gió vi vu, tiếng sóng rì rầm như muốn nối dài câu chuyện huyền tích của một địa danh cũng như tô đậm sự kiến tạo, đẽo gọt hình hài cho ngàn vạn khối đá không ngừng nghỉ của bà mẹ tạo hóa. 

 

Dưới gốc phi lao cổ thụ nhoài mình về phía biển, cụ Năm Gánh, cư dân cố cụ trong vùng, cho biết căn nguyên của tên gọi bãi đá Ông Địa bắt nguồn từ việc hàng trăm năm trước, ngư dân trong vùng phát hiện tảng đá có hình thù rất giống Ông Địa, cũng từ đó bãi bờ hao hao chết tên “bãi Ông Địa” đến bây giờ. “Tiếng là bãi Ông Địa nhưng kỳ thực đá ở đây muôn hình vạn trạng, đủ sắc màu, hình dáng nên khách du lịch gần xa rất thích đến chụp hình, ngoạn cảnh” – cụ Gánh bộc bạch.

Từ trên đồi cao nhìn xuống, bãi đá Ông Địa trông tựa mê trận thạch đồ. Đá xám, biển xanh, cát vàng… hòa quyện với nhau tạo thành bức tranh thiên nhiên đa sắc quyến rũ đến lạ. Rảo bước dưới làn nước mát lạnh, trong vắt, cảm giác thật vi diệu khi được ngắm những ghềnh đá, khối đá có dáng như đàn thủy quái khổng lồ, lúc tựa hòn vọng phu, phụ tử… Sóng gió cùng nắng mưa khéo đẽo gọt nhiều khối đá vô tri vô giác như có sức sống, linh hồn. Tiếp tục dấn bước sẽ thấy có khối đá ở bãi Ông Địa có dáng thế rồng bay phượng múa, khối tựa chiến thuyền chở muôn vạn hùng binh. Lúc này những cơn gió tinh nghịch luồn qua các khe đá phát ra âm thanh vi vu, du dương tựa tiếng sáo thiên thai…

 

Người dân vùng biển Hàm Tiến kể rằng bãi Ông Địa rất thiêng. Trước khi dong thuyền ra khơi đánh bắt, ngư dân thường ghé bãi khấn cầu Ông Địa cho được may mắn với tay lưới trĩu nặng. Các bà, các chị hàng cá khi gánh hàng ra chợ cũng hay van vái bán nhanh được giá… và những ai có lòng thành đều được ý toại. Không chỉ hàm chứa tín ngưỡng dân gian, bãi Ông Địa còn ru hồn người bởi khung cảnh bình yên của hàng trăm chiếc thuyền thúng nằm e ấp bên sóng bên đá. Cùng đó là những mẻ lưới ăm ắp cá tôm của ngư dân sau đêm trường gắn mình với biển. Còn gì bằng khi được ngồi cùng những đứa con của biển trên những chiếc bàn đá thênh thang thưởng thức các món hải đặc sản nức tiếng ở vùng như cá kè, cá bò hòm, cá ông binh… được nướng lửa hồng thơm ngậy, nhất là khi được các lão ngư khoản đãi những chuyện biển dã kỳ thú…

Không có cảnh xô bồ, chặt chém. Cũng chẳng có nạn ô nhiễm, mất vệ sinh hay toan tính thiệt hơn. Bãi Ông Địa với những cư dân địa phương chân chất, hào sảng quả là điểm dừng chân lý tưởng cho những ai khát khao được đắm mình trong tình đất, tình người nơi đầu sóng ngọn gió!

Nguồn: Vietnamtourism.gov.vn

Đặc sắc du xuân về miền đất thờ Tản Viên Sơn Thánh

Nằm cách trung tâm Thủ đô chưa đầy 60km về phía Tây Bắc, huyện Ba Vì cuốn hút du khách bởi cảnh quan thiên nhiên tươi đẹp, di tích lịch sử có giá trị và nhiều nét văn hóa truyền thống độc đáo vẫn còn được lưu giữ cho đến ngày nay.

 

Năm 2015, Lễ  hội Tản Viên Sơn Thánh khai hội cùng hoạt động khai trương du lịch huyện Ba Vì đang trở thành điểm nhấn thú vị cho hành trình du lịch tâm linh của người Việt.


Gần 100 di tích thờ đức thánh Tản


Sở hữu hàng trăm di tích nổi tiếng, thế nhưng nhắc đến Ba Vì du khách thường điểm tên gần 100 di tích thờ Tam Vị Đức Thánh Tản Viên Sơn với nhiều giá trị tiêu biểu về không gian, kiến trúc nghệ thuật. Về với miền du lịch tâm linh thờ Đức Thánh Tản, du khách sẽ được viếng thăm đình Tây Đằng, đình Quang Húc, đình Đông Viên, đình Thanh Lũng, đền Trung Cung, rồi tiếp bước đến cụm di tích đền Thượng, đền Trung, đền Hạ trên đỉnh núi Ba Vì thuộc địa phận 2 xã Minh Quang và Ba Vì – nơi phát tích của truyền thuyết Tản Viên Sơn cũng như tục thờ Tam Vị Tản Viên.

 

Bước tới đền Thượng, nơi còn gọi là chính cung Thần điện, du khách sẽ được ngắm mái lộ thiên lợp ngói nghiêng bên cửa hang, mái sau ngầm dưới lòng tảng đá lớn. Theo truyền thuyết và Ngọc phả có liên quan cho rằng, đền Thượng có từ thời An Dương Vương, đền thờ Tam Vị Tản Viên Sơn Thánh nằm trên núi thắt cổ bồng, có hình tròn như cái tán gọi là núi Tản Viên. Để xây dựng đền Thượng, Nhà nước phong kiến đã phải huy động nguồn nhân lực rất lớn ở hai bên bờ sông Đà, theo truyền thuyết kể lại, dân chúng nối tay nhau chuyển vật liệu từ sông Đà lên đỉnh núi Tản để xây đền Thượng. Đền toạ lạc trên đỉnh núi Ba Vì ở độ cao 1.227m, thuộc địa phận xã Ba Vì, huyện Ba Vì.


Cũng nằm trong cụm di tích với thờ nơi phát tích Đức Thánh Tản, nhưng đền Trung lại khoác lên mình vẻ đẹp khác. Đền Trung có kiến trúc kiểu chữ TAM, phỏng quẻ Càn trong Kinh dịch. Đây là ngôi đền có quy mô lớn, hoành tráng tạo thành một quần thể di tích liên quan đến sự tích Thánh Tản Viên – Sơn Tinh, là ngôi đền có một vị thế đẹp nhất trong các ngôi đền thờ Tản Viên ở sườn Tây núi Ba Vì. Đền Trung tọa lạc ở lưng chừng núi phía Tây Ba Vì (khoảng cốt 600m) thuộc xã Minh Quang, huyện Ba Vì. Cuốn Ngọc Phả “Sự tích Đức Thánh Tản” lưu giữ tại đền Và (Đông Cung) do Quản giám bách thân Nguyễn Hiển sao lại năm Vĩnh Hựu thứ 3 (1737) có ghi đền Trung là nơi thờ bà Ma Thị, mẹ nuôi của Tản Viên.

 

Đền Hạ còn gọi là Tây Cung. Đền có kiến trúc kiểu chữ TAM tọa lạc dưới chân núi Tản ven bờ sông Đà thuộc địa phận xã Thủ Pháp xưa, nay là xã Minh Quang, huyện Ba Vì. Theo các nhà nghiên cứu, đền Hạ xuất hiện muộn hơn so với đền Trung và đền Thượng. Ngày 21/2/2008, đền Thượng, đền Trung, đền Hạ được Bộ VHTT&DL xếp  hạng theo Quyết định số 02/2008/ QĐ- BVHTTDL.


Vẻ đẹp mới của di tích


Tọa lạc trên núi cao, trải qua hàng trăm năm tồn tại, các di tích đã bị xuống cấp nghiêm trọng. Năm 2007, UBND TP Hà Nội đã giao nhiệm vụ cho Tổng Công ty Vinaconex lập quy hoạch bảo tồn và phát huy giá trị cụm di tích đền thờ Tản Viên Sơn Thánh. Và đến giữa tháng 5/2010 việc lập Quy hoạch chi tiết xây dựng tỷ lệ 1/2000 bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá trị Khu di tích lịch sử văn hóa đền thờ Tản Viên Sơn Thánh đã được triển khai.


Từ đó đến nay, từ hình ảnh của những di tích xuống cấp, rất nhiều công trình đã được hoàn thiện, tạo ra vẻ đẹp huyền bí nhưng không kém phần quyến rũ cho cụm di tích đền Thượng, đền Hạ và đền Trung. Thành công lớn nhất trong công tác tu bổ, tôn tạo di tích đầu năm 2015 là việc hoàn thiện hạng mục bài trí đồ thờ trong di tích. Bức tượng đức thánh Tản – một trong bốn vị thần tứ bất tử của Việt Nam đã được khởi đúc, nghênh rước từ Nam Định về khu di tích đền Thượng, trước sự chứng kiến ngưỡng mộ của các vị lãnh đạo T.Ư và TP, các nhà khoa học cùng hàng ngàn người dân. Ở di tích đền Trung và đền Hạ. các hạng mục điện chính, Nhà Mẫu, nhà Tả –  hữu vu, sân hành lễ, sân rồng, Nghi môn, miếu thờ Thủy thần… cũng đã được hoàn thiện tạo thêm vẻ đẹp huyền ảo cho công trình di tích.

 

Nhìn lại khối công việc của huyện Ba Vì làm được trong những năm qua cho di tích có thể thấy nhiều điểm đáng mừng. Tuy nhiên, theo đánh giá chung dự án tu bổ, tôn tạo di tích ở nơi đây vẫn còn chậm tiến độ, do hoạt động kêu gọi xã hội hóa gặp nhiều khó khăn, nhiều doanh nghiệp, cá nhân đã đăng ký với UBND TP Hà Nội song lại không gửi kinh phí ủng hộ. Chính vì vậy, những công việc thực hiện các hạng mục như: Nghi môn, Cổng tứ trụ, Nhà hóa vàng, nhà quản lý tại dự án đền Hạ; Vận động các doanh nghiệp, cá nhân thực hiện các hạng mục còn lại của dự án đền Trung, lối lên đền Thượng… lại được đặt lên vai những người làm văn hóa, lãnh đạo huyện Ba Vì.

 

Mở hội đón khách


“Đến hẹn lại lên” vào ngày Rằm tháng Giêng hàng năm, Nhân dân Ba Vì mở hội tưởng nhớ đức thánh Tản. Trải qua thời gian, nhiều nghi thức truyền thống của lễ hội bị thất truyền, mai một. Thế nhưng, với quyết tâm cao, đến nay, UBND huyện Ba Vì nhiều giá trị vật thể và phi vật thể vốn có của di tích được khôi phục, lễ hội được đầu tư lên cấp vùng. Chính vì vậy, 3 tháng diễn ra lễ hội, hàng chục ngàn du khách đã về hành hương cùng lễ hội, ngắm vẻ đẹp núi rừng hùng vĩ, chiêm nghiệm tấm lòng mến khách của bà con nơi đây.


Năm 2015, UBND huyện Ba Vì tổ chức khai hội Tản Viên Sơn kết hợp với khai trương du lịch huyện Ba Vì vào ngày 4/3/2015 tức ngày 14 tháng Giêng năm Ất Mùi, địa điểm tại đền Trung. Đây có thể coi là một bước đột phá lớn trong công tác quản lý và khai thác tiềm năng du lịch của huyện nhà, phát triển du lịch sinh thái gắn với du lịch văn hóa tâm linh. Để rồi từ đó thúc đẩy các hoạt động của các đơn vị Du lịch Ao Vua, du lịch Khoang Xanh – Suối Tiên, Thiên Sơn – Suối Ngà, Tản Đà, Du lịch Đầm Long, Vườn Quốc Gia Ba Vì, Hồ Tiên Sa; Du lịch Long Việt; Nhà nghỉ công đoàn Suối Hai; du lịch Cao Sơn… thêm phần hiệu quả. 

 

Trên cơ sở quy hoạch chi tiết được duyệt, các đơn vị hoạt động du lịch đã không ngừng đầu tư cơ sở hạ tầng đảm bảo những điều kiện lý tưởng cho du khách khi ghé chân đến Ba Vì. Những thành tích nổi bật là: Làm đường giao thông nội bộ, cải tạo nâng cấp nhà ăn, phòng nghỉ, khách sạn, hội trường, bể bơi, bãi để xe, khu vui chơi giải trí. Các đơn vị có sự đầu tư cơ sở vật chất lớn, đó là: Du lịch Ao Vua, Đầm Long, Khoang Xanh – Suối Tiên, Thiên Sơn – Suối Ngà, Tản Đà, Hồ Tiên Sa, Vườn Quốc Gia Ba Vì, Du lịch Long Việt với tổng mức đầu tư trên 400 tỷ đồng. Những năm qua đã đầu tư xây dựng xong tuyến đường 415 đi Đền Hạ và Đền Trung với số vốn là 64 tỷ đồng và đã hoàn thiện thủ tục chuẩn bị đầu tư nâng cấp 2 tuyến đường: tuyến đường từ đường 87 đi khu du lịch Ao Vua với số vốn đầu tư 45 tỷ đồng, đường Vườn quốc gia đi đến khu du lịch Thiên Sơn – Suối Ngà, du lịch Long Việt với số vốn đầu tư 38 tỷ đồng…


Về Ba Vì là để trở về không gian thuở xưa với mái nhà tranh, giường tre, phản gỗ hoặc nếu muốn phòng ở tiện nghi, sang trọng… là được khám phá một hành trình văn hóa tâm linh đặc sắc của vùng núi thắt cổ bồng. Những người đã từng đến hoặc chưa từng đến Ba Vì luôn luôn ghi dấu về một vùng đất giàu giá trị lịch sử văn hóa, với những người dân luôn thân thiện, mở rộng tấm lòng đón chào du khách.

Nguồn: Vietnamtourism.gov.vn

Rộn ràng không khí tết trên bản người Mông

Cứ mỗi độ xuân về, khi những cơn mưa phùn lất phất bay trong tiết trời se lạnh cũng là lúc bản người Mông rộn ràng đón tết, vui xuân, tấp nập chuẩn bị cho một cái tết sum vầy no ấm bên người thân và gia đình.

 

Đi giữa mùa xuân Tây Bắc ngắm nhìn những triền núi phủ trắng sắc hoa đang đắm chìm trong không gian huyền ảo của những đám sương mù dày đặc, ta có cảm giác như mình đang trôi giữa một biển mây bềnh bồng, bí ẩn đến vô cùng. Điểm xuyết trong đó là không khí tưng bừng, rộn ràng sắc xuân đang lan tỏa trên khắp các bản làng. Người người đón tết, nhà nhà đón tết, từ người già đến trẻ nhỏ đều thường trực nụ cười tươi vui. Tất cả tạo nên một bức tranh xuân vô cùng ấm áp, lung linh và sặc sỡ sắc màu.


Không giống như phong tục truyền thống trên cả nước, Tết cổ truyền của người Mông thường diễn ra từ ngày 30/11 âm lịch hàng năm, tức là trước Tết Nguyên đán khoảng 1 tháng. Vào những ngày này, bao trùm toàn bộ không gian nơi đây là những âm thanh thân thuộc, rộn ràng của tiếng chày giã bánh hòa quyện với  tiếng vui đùa, reo hò của trẻ em khi chơi các trò chơi truyền thống như ném pao, chơi quay, múa ô, đánh cù…


Tết của người Mông kéo dài trong 3 ngày. Họ quan niệm công cụ lao động cũng giống như những người bạn gắn kết với gia đình mình, vì thế, các công cụ hàng ngày đều được họ dán giấy và đưa lên bàn thờ như một sự tri ân, tôn trọng những “người bạn” trong lao động, sản xuất đã giúp họ làm nương, làm vườn để sản xuất lương thực, thực phẩm cho gia đình.


Đặc biệt hơn, khoảnh khắc giao thừa của đồng bào Mông được tính bằng tiếng gà gáy đầu tiên. Ngày 30 họ phải tự tay thay cái giấy rồi dán lông gà vào, sau đó mới quét nhà cửa đón năm mới. Không dùng chổi chít, phải dùng bằng lá cây giăng hoặc cây tre. Như thế mới có thể vứt bỏ hết những điều không tốt trong năm cũ và đón chào những vận may sắp tới. Tới đêm, nhà nhà lại quây quần bên bếp lửa, cùng nhau ôn lại những câu chuyện của năm cũ, hay ngồi hát những bài hát truyền thống đón xuân, ngồi chờ khoảnh khắc đặc biệt nhất trong năm. Vào ngày này, công việc chuẩn bị được tất cả các thành viên trong gia đình san sẻ với nhau. Những người phụ nữ tranh thủ hoàn thiện những đường thêu cuối cùng trên bộ váy, áo mới để cả nhà kịp diện đón Tết. Còn cánh đàn ông làm hết mọi việc từ cho lợn gà ăn đến nấu cơm chuẩn bị thực phẩm cho gia đình.

 

Từ ngày mùng 4, người Mông mới bắt đầu chơi Tết… Đây cũng là lúc không khí trong bản người Mông nhộn nhịp nhất với những trò chơi truyền thống như đánh quay, ném pao, múa xòe,… Tiếng nói cười rộn ràng tràn ngập khắp các nẻo đường. Đâu đây trên khắp các ngóc ngách, bản làng, tiếng hát du dương cùng tiếng khèn vang vọng như mê hoặc lòng người, thúc giục bước chân của những đôi trai gái tìm đến với nhau. Trong bộ trang phục dân tộc nổi bật, các chàng trai thi nhau thổi khèn, tiếng khèn ai càng du dương kết hợp với điệu nhảy càng dẻo sẽ được nhiều cô gái để ý. Vì vậy, không chỉ là dịp lễ tết đặc biệt mà Tết cổ truyền còn là nơi gắn kết tình cảm, kết nối nhân duyên cho những chàng trai, cô gái trên mảnh đất xinh đẹp này.

 

Đồng bào Mông ăn tết trong 3 ngày còn hoạt động vui chơi thì kéo dài trong cả tháng. Trong những ngày Tết chính, mọi người trong khắp thôn bản tìm đến gia đình chúc tụng nhau. Mâm cỗ luôn được gia đình chuẩn bị trước và sẵn sàng tiếp khách.


Nếu tết của người kinh không thể thiếu bánh chưng thì trong mâm cỗ tết của người Mông, ngoài các loại thịt, bánh dày là thực phẩm không thể thiếu. Bánh dày thể hiện sự công phu của những con người quanh năm gắn bó với ruộng nương, gói ghém những ước vọng về một cuộc sống ấm no, hạnh phúc .Những hạt nếp đã được giã mịn và quyện vào nhau sẽ được gói lại bằng lá chuối theo hình tròn. Sau khi hoàn thành, người Mông bày 6 cặp bánh dày lên bàn thờ, tượng trưng cho 12 tháng trong một năm với ý nghĩ dâng lên trời đất và vị thần mùa màng.


Trong ngày đầu năm mới, đồng bào đến nhà nhau chúc Tết, thưởng thức rượu ngô, bánh dày. Người Mông rất mến khách, họ quan niệm nếu Tết có khách lạ đến chơi cả năm sẽ gặp may mắn. Vì vậy, khách đến nhà người Mông trong dịp Tết luôn được đón tiếp rất chu đáo, được mời ăn, mời rượu và mời ngủ tại nhà. Trước khi ra về, người Mông còn mừng tuổi cho khách những chiếc bánh dày do chính tay họ làm ra.

 

Nếu có dịp lên Sơn La dịp tết, chắc hẳn không khí ấm áp hay những trò chơi tết truyền thống ở nơi đây sẽ mãi in sâu trong tâm trí mỗi người. Đó không chỉ là một phong tục cổ truyền của dân tộc mà còn mang một ý nghĩa sâu sắc với niềm động viên tinh thần vô giá cho người dân nơi đây để họ có thêm sức mạnh bước vào một năm mới tốt lành, một mùa vụ bội thu, no ấm, cùng giúp nhau phát triển kinh tế trên chính mảnh đất quê hương mình

Nguồn: Vietnamtourism.gov.vn

Cờ người- Điểm nhấn độc đáo trong các lễ hội mùa xuân

Không giống như không khí nhộn nhịp, tưng bừng của những môn thể thao như bóng đá, bóng chuyền hay đấu vật, chơi cờ người thường  tụ hội rất đông người xem nhưng tất cả đều cố giữ im lặng để người chơi không bị phân tán.

 

Người bình luận không được phép nói trước, khi quân cờ đi rồi mới bình luận về nước đi và ý đồ của mỗi đội. Trong cả quá trình diễn ra trận đấu, cùng với những nước đi trong chiến lược cầm quân của mỗi đội, người người sẽ được hòa mình theo những âm thanh rộn ràng của tiếng chiêng, tiếng trống. Cờ xí, võng lọng bay phấp phới trong nắng xuân hồng, cùng với áo mão của “ba quân tướng sĩ” đã làm sống lại hình ảnh triều đình vua quan thời phong kiến.


Hấp dẫn nhất trong các cuộc thi đấu cờ người chắc chắn là lúc bước vào tàn cuộc. Lúc này thế trận của các “quân cờ” cũng quyết liệt và dữ dội nhất. Cuộc đấu trí càng căng thẳng hơn khi mỗi nước cờ đều có tiếng trống thúc giục. Nếu quân cờ chưa đi thì trống cái bên ngoài lại thúc giục một lần nữa. Bên nào có quân tướng bị chiếu bí là thua. Vì thế, người cầm quân phải thật sự bình tĩnh và tỉnh táo mới có thể đem về chiến thắng cho đội mình.

 

Cờ người đẹp ở sự bình dị mà tinh tế, trầm tĩnh mà mang đậm nét truyền thống hào hùng của dân tộc. Bởi lẽ đó mà, trò chơi dân gian này thường không hấp dẫn ngay từ đầu mà nó thường ngấm từ từ, khiến người xem phải tập trung theo dõi, không thể bỏ qua chi tiết nào. Và có lẽ, chính bởi những nét đặc trưng đó mà cờ người đã trở thành một thú vui tao nhã trong mỗi dịp lễ tết của người dân Việt Nam. Không chỉ là một trò chơi dân gian truyền thống mà cờ người đã tạo nên điểm nhấn thú vị và đậm đà nét mộc mạc của làng quê Việt trong không khí tưng bừng với sắc xuân trên mọi miền đất nước.


Trải qua những thăng trầm của thời gian và lịch sử, cờ người vẫn luôn giữ cho mình thần thái đặc trưng với vẻ đẹp truyền thống của một trò chơi dân gian trí tuệ. Đây là dịp để mỗi người chơi được sống lại với những trận chiến oanh liệt trong lịch sử với niềm tự hào về những chiến công hiển hách của dân tộc. Tính tao nhã và ý nghĩa truyền thống sâu đậm khiến trò chơi dân gian này có sức sống lâu bền trong cuộc sống, gắn kết hi vọng về bao điều tốt đẹp sẽ đến trong năm mới, mang lại niềm tin và hạnh phúc cho mọi người.

Nguồn: Vietnamtourism.gov.vn

Ai lên xứ Lạng mùa xuân

Không đâu lại thấy hương vị mùa xuân làm thay da đổi thịt nhiều như xứ Lạng. Núi non trong nắng sớm chỉ bàng bạc như khói, màu xanh đơn điệu đã được thay thế bằng sắc hoa đào, hoa mận, hoa lê. Khoảnh khắc mùa xuân về phơi phới trên vùng cao lâu nay vẫn làm đắm say lòng người như thế…

“Đồng Đăng có phố Kỳ Lừa
Có nàng Tô Thị có chùa Tam Thanh
Ai lên Xứ Lạng cùng anh
Bõ công bác mẹ sinh thành ra em
Tay cầm bầu rượu nắm nem
Mải mê quên hết lời em dặn dò”

 


Câu ca ấy đã đi vào tiềm thức bao thế hệ người dân xứ Lạng, vẽ nên khung cảnh miền đất nơi biên ải với những danh lam thắng cảnh say đắm lòng người. Có dịp ghé thăm phố Kỳ Lừa, núi Nàng Tô Thị, động Tam Thanh du khách sẽ cảm nhận sâu sắc về đất và người nơi biên cương địa đầu Tổ quốc. Mảnh đất với những con người dung dị, mến khách, với vẻ đẹp núi non điệp trùng, với hang động kỳ huyền ảo, những phố phường sầm uất người bán mua, với sự tích về Nàng Tô Thị hóa đá chờ chồng – biểu tượng cao đẹp về lòng thuỷ chung son sắc của người phụ nữ Việt Nam để lại ấn tượng khó phai.


Nét đẹp vùng biên, chợ phiên xứ Lạng


Khi những hạt mưa xuân lớt phớt bay, cây cối đua nhau đâm chồi nẩy lộc, đất trời Xứ Lạng bừng sắc xuân. Đến Lạng Sơn vào dịp đầu xuân du khách sẽ được đắm chìm trong không khí vui tươi của những lễ hội đầu năm mang sắc thái riêng, độc đáo của xứ Lạng. Những chàng trai, cô gái dân tộc Tày, Nùng háo hức trong những bộ quần áo đẹp nhất xuống chợ ngày xuân. Chợ phiên xứ Lạng là một trong những nét đặc sắc, hấp dẫn du khách từ những vùng miền đến với Lạng Sơn.


Đến với chợ phiên ở Lạng Sơn, du khách sẽ được tìm hiểu những nét văn hóa, phong tục của các dân tộc thiểu số nơi vùng cao biên giới. Trong ký ức tuổi thơ của mỗi người dân Xứ Lạng, chợ phiên là hình ảnh những cô gái miền sơn cước duyên dáng trong chiếc áo Tày, Nùng xuống chợ. Họ đẹp như bông hoa tỏa hương giữa núi rừng biên cương. Ngày phiên chợ, trên khắp bản làng vùng cao, rộn ràng, ai nấy đều chuẩn bị những bộ quần áo đẹp nhất để xuống chợ. Các mế thoăn thoắt quẩy những gánh hàng kĩu kịt xuống chợ. Họ xuống chợ không chỉ để bán, mua mà là dịp để gặp bạn bè, người thân. Đến chợ phiên ta bắt gặp cảnh mua bán tấp nập, người ta mang đến chợ nào sản phẩm nông nghiệp như mớ rau, con cá, măng rừng và mua những đồ dùng thiết yếu mà nhà nông không thể tự sản xuất được đó là nông cụ phục vụ cho sản xuất nông nghiệp. Đặc sắc riêng của những phiên chợ vùng cao nói chung và chợ phiên Xứ Lạng nói riêng còn là nơi gặp gỡ, giao lưu.

 

Đến với chợ phiên Xứ Lạng, du khách được nghe làn điệu Sil, lượn mộc mạc giản dị như tính cách và tâm hồn con người trên mảnh đất biên cương nơi địa đầu Tổ quốc. Ở một góc chợ từng tấp trai, gái say sưa cất lên từng điệu Sli, điệu lượn. Họ quen nhau, gặp gỡ rồi nên vợ nên chồng bởi những phiên chợ. Đến chợ để được gặp bạn bè, gặp người thuơng để cùng nhau nhâm nhi chén rượu nồng. Chỉ đơn giản vậy thôi mà người ta mong ngày phiên đến lạ.


Vẻ đẹp quyến rũ của hoa rừng xứ Lạng


Theo quốc lộ 1A, từ Hà Nội qua Bắc Giang, qua ải Chi Lăng đến thành phố Lạng Sơn, du khách sẽ không khỏi ngỡ ngàng trước vẻ đẹp của những cành hoa đào, hoa lê, hoa mận cứ đua nhau khoe sắc. Sắc đỏ của hoa đào, trắng của hoa mận đan xen điểm xuyết cho vẻ đẹp nơi núi rừng miền sơn cước ngày xuân. Mùa xuân về, trên khắp các bản làng của người dân tộc Tày, Nùng rộn ràng không khí đón tết, vui xuân. Đất trời xứ Lạng đẹp như thiếu nữ Tày căng tràn sức xuân.


Mẫu Sơn – nơi có độ cao 1450m, vùng núi quanh năm có mây mù bao phủ. Ở vùng núi linh thiêng này mọi thứ ở đây đều trở nên đặc biệt với những ai lần đầu tiên đặt chân đến. Mọi mệt mỏi, lo âu, phiền muộn đều tan biến như có phép màu nhiệm. Đầu xuân, phong cảnh Mẫu Sơn thật tươi đẹp với đủ các loài hoa, loài cây không phải nơi nào cũng có, cũng trồng được. Bên cạnh những cây hoa Cẩm tú cầu, hoa Đào, hoa Đỗ quyên.. thì Đào chuông (thuộc họ đỗ quyên) là một loài hoa khoe sắc rực rỡ nhất mỗi độ xuân về. Theo quan niệm phong thủy, hoa đào có thể trị bách quỷ và là biểu tượng cho sự đổi mới và sức sinh sôi phát triển mạnh mẽ nên khi Tết đến xuân về mỗi gia đình đều chọn cành đào đẹp nhất để cắm trong nhà cầu mong cho những điều tốt đẹp, no đủ.

 

Sẽ không có gì phấn khích bằng đầu xuân năm mới 2015 này được thưởng ngoạn và ghi lại những khoảnh khắc đẹp bên những cánh hoa đào nở như hình những quả chuông nhỏ xíu đang reo trước gió như vang lên lời chúc mừng năm mới đối với du khách gần xa về với Mẫu Sơn. Vẻ đẹp hoang sơ nhưng đầy lãng mạn với muôn sắc hoa nở rộ ở những nơi xa xôi của Tổ quốc khiến không ít người ngỡ ngàng. Những ngôi nhà nhỏ chìm lẫn trong làn khói mơ màng, những em bé, cụ già vùng cao hòa hợp với phong cảnh núi rừng, sắc hoa đua nở nơi nơi… là những hình ảnh hút hồn bất cứ ai.

 

Nguồn: Vietnamtourism.gov.vn

Độc đáo hội chọi dê trên rẻo cao Tây Bắc

Đã trở thành truyền thống, năm nào cũng vậy, khi tiết trời ấm áp, sau khi đón một cái Tết đầm ấm, đồng bào Tày xã Vĩnh Yên (Bảo Yên – Lào Cai) lại nô nức xuống núi xem hội chọi dê do địa phương tổ chức, mỗi năm chỉ có một lần.

 

Hội chọi dê là một nét văn hóa của đồng bào Tày vùng Tây Bắc mỗi khi Tết đến xuân về. Hội thi chào đón sự hiện diện của mùa xuân ấm áp, mừng một năm no ấm về với từng bản làng, cầu cho năm mới mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt, nhà nhà khỏe mạnh. Năm nay, năm Ất Mùi, hội chọi dê của đồng bào càng thêm náo nức và ý nghĩa…

 

Con dê là con vật lành của đồng bào vùng cao nói chung và đồng bào Tày Vĩnh Yên nói riêng. Trong suốt cuộc mưu sinh trên núi cao, con dê luôn là con vật giúp đồng bào thoát nghèo, làm giàu. Con dê dễ nuôi, dễ chăn thả và phù hợp với địa bàn sống của cư dân nơi đây. Vì thế, hội chọi dê hằng năm là dịp để khẳng định thành quả lao động của đồng bào sau một năm lao động vất vả. Đây cũng là dịp để đồng bào chia sẻ với nhau kinh nghiệm chăn nuôi dê và gia súc để mùa sau có được thành quả lớn hơn.

 

Hội chọi dê là dịp để đồng bào các dân tộc nơi đây như: Tày, H’mông, Dao, Kinh ở trong xã Vĩnh Yên và các xã lân cận Nghĩa Đô, Xuân Hòa thể hiện tinh thần đoàn kết khi họ cùng nhau sinh sống trên một địa bàn, một rẻo đất. Điều đó tạo nên sự đa sắc màu trong một hội thi hiếm có này.

 

Để có được hội chọi dê tưng bừng, ngay từ đầu năm, người dân Vĩnh Yên trong các bản Tày, bản H’mông, Dao, Kinh đã phải nuôi dê chọi. Dê chọi là giống dê đực khỏe mạnh, chân to, đầu to, sừng dài, lông đen rậm. Dê chọi được nuôi thả trên núi liên tục và cho ăn nhiều loại lá rừng để đảm bảo sức khỏe cũng như sự phát triển của đôi sừng. Đến gần ngày diễn ra hội thi, dê chọi được nhốt riêng chuồng và được chăm sóc rất chu đáo để có cơ hội giành được phần thắng. Hầu hết các bản đều tham gia chọi dê. Vì thế, không khí chuẩn bị ở mỗi bản khá khẩn trương.

 

Ngày chọi dê đến, địa điểm diễn ra ở một bãi đất rộng gần trụ sở của xã. Bất luận trời mưa hay nắng, đồng bào từ các xã lân cận, từ trong các bản Mông, bản Dao, bản Tày nô nức xuống núi đến xem hội, một hội thi khá hấp dẫn và độc đáo đối với họ.

 

Trên “xới”, những chú dê với những cặp sừng dài và nhọn đang đấu những cú nổ lửa. Tiếng lách cách của những cặp sừng dê va vào nhau sau mỗi pha giao đấu khiến cho người xem hò reo không ngớt. Những miếng hiểm như kẹp sừng, bẻ sừng, kẹp chân, quật ngã của những chú dê làm nóng không gian xới đấu.

 

Hội chọi dê của đồng bào Vĩnh Yên mỗi dịp xuân về thể hiện sức sống đang trào dâng nơi rẻo cao Tây Bắc. Sức mạnh và tinh thần đoàn kết một lòng của đồng bào nơi đây hòa chung với sức xuân, sức sinh sôi nơi núi rừng này đang thấm vào lòng người./.

Nguồn: Vietnamtourism.gov.vn

Câu chuyện trên những cung đường Việt Nam

(TITC) – Mới đây, đoạn clip mang tựa đề “The Road Story Viet Nam” (tạm dịch: Câu chuyện trên những cung đường Việt Nam) của hai anh em người Nga Georgy Tarasov và Daniil Tarasov đã chinh phục trái tim những người dân Việt Nam và cộng đồng mạng quốc tế.  

Phượt bằng xe máy (Hình ảnh được cắt ra từ clip)

Là những người đam mê khám phá, Georgy cùng em trai của mình là Daniil đã đi du lịch đến nhiều quốc gia trên thế giới và Việt Nam là quốc gia Đông Nam Á đầu tiên họ đặt chân đến. Trên mỗi hành trình, họ luôn mong muốn được truyền tải những cảm xúc cá nhân đến với độc giả qua ống kính máy quay. Và khung cảnh thơ mộng, hữu tình của dải đất hình chữ S đã truyền cảm hứng để 2 anh em thực hiện thành công đoạn clip “The Road Story Viet Nam”. Với những góc quay chân thực nhưng đầy sáng tạo, đoạn clip đã ghi lại những hình ảnh và trải nghiệm sống động của hai anh em trong suốt 45 ngày chu du trên khắp các vùng miền đất Việt.

Bằng đủ các phương tiện, từ tàu hỏa, xe máy, xe đạp, chèo thuyền cho đến đi bộ, cả hai đều có những khoảnh khắc tuyệt vời ở rất nhiều địa danh. Đó là một Hà Nội phồn hoa, đô hội nhưng cũng gần gũi, thân thương với những cây cầu mang trong mình cả chiều dài lịch sử; những con người năng động, nhiệt thành hay những cơn mưa ngập phố khiến lòng đầy suy tư và hoài niệm. Đó còn là cuộc sống nơi những miền quê xa xôi với những cánh đồng lúa chín vàng óng trải dài tít chân trời, những chú trâu thong dong gặm cỏ mang theo ước vọng no ấm của người nông dân; là bóng dáng của những người lao động lam lũ nhưng hiền lành, chân chất, giàu lòng nhân ái; là nụ cười hồn nhiên, trong trẻo của những đứa trẻ vùng cao… Người xem còn thích thú với hình ảnh chàng trai Nga đội nón lá, quần áo lấm lem “phượt” trên những cung đường phía Bắc với tất cả say mê và nụ cười luôn hiện hữu trên gương mặt. Mọi cảnh đẹp trên đất nước Việt Nam hiện lên giản dị, vô cùng gần gũi và thân thuộc.

Cây đa giếng nước (Hình ảnh được cắt ra từ clip)

Trên trang cá nhân của mình, người anh Georgy cho biết 45 ngày ở Việt Nam là hành trình thú vị nhất mà anh từng trải qua cho đến lúc này. Việt Nam là một đất nước xinh đẹp với những ngọn núi hùng vĩ, những cánh rừng bạt ngàn, những bãi biển trong xanh hay đơn giản chỉ là khung cảnh lãng mạn hai bên đường. Trong đó, anh đặc biệt ấn tượng với vẻ đẹp của vịnh Hạ Long – một trong 7 kỳ quan thiên nhiên mới của thế giới với hệ thống đảo đá và hang động kỳ vĩ. Ngoài ra, trong chuyến đi, khi được biết 2 anh em là người Nga, rất nhiều người Việt Nam đã chào đón họ và nói rằng người Việt Nam và người Nga mãi là bạn bè thân thiết của nhau. Georgy rất cảm động bởi tình cảm nồng hậu và mến khách mà nhân dân Việt Nam dành cho nước Nga.

Sau khi được đăng tải trên mạng xã hội, clip “The Road Story Viet Nam”  đã thu hút rất nhiều lượt xem với nhiều bình luận, chia sẻ cùng những lời khen ngợi: “Đẹp tuyệt và đầy cảm hứng! Chắc chắn tôi sẽ ghé thăm nơi này”, “Cảm ơn đã giúp tôi nhớ lại những kỷ niệm về Việt Nam”, “Clip tuyệt nhất về du lịch Việt Nam mà tôi đã từng xem”… 

Phạm Phương

Nguồn: Vietnamtourism.gov.vn

Sắc Xuân Hà Nội

Cùng với cả nước, sắc Xuân cũng đã ngập tràn trên từng góc phố, hàng cây, trên từng con đường, ở những địa danh du lịch nổi tiếng của Thủ đô.

Trong những ngày đầu Xuân Ất Mùi 2015, phóng viên báo Du lịch đã ghi lại những khoảnh khắc đáng nhớ về sắc Xuân Hà Nội 2015.

Du khách thăm Văn Miếu – Quốc Tử Giám

Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh thu hút đông đảo du khách

Dưới chân tượng đài Lý Thái Tổ

Đông đảo du khách thập phương đến Đền Quán Thánh

Trình diễn trống hội tại lễ hội gò Đống Đa 2015

Thiếu nữ trên cầu Thê Húc

Du khách tham quan đền Ngọc Sơn

Gặp gỡ ngày Xuân

Nét chữ ngày Xuân 

Mạnh Sơn – Bá Phúc thực hiện

Nguồn: Vietnamtourism.gov.vn

TIN MỚI NHẤT