Điểm đến du lịch

Những địa điểm du lịch hấp hẫn những địa điểm du lịch trong nước, địa điểm du lịch nước ngoài được chúng tôi tổng hợp và đưa tin đến Quý bạn đọc đam mê du lịch có cái nhìn tổng quan nhất về các địa danh du lịch để quyết định cho mình cho những chuyến du lịch ý nghĩa nhất

Hà Nội và những gánh hàng rong

Ít ai biết được hàng rong có từ bao giờ. Chỉ thấy rằng, khi nói đến cuộc sống của thành phố ngàn năm tuổi này, người ta không thể không nhắc đến hàng rong, như một nét riêng của văn hóa Hà thành.

Hà Nội 36 phố phường với những mái ngói xô nghiêng, với những gánh hàng rong bạc màu rêu phong của phố cũ. Theo thời gian, Hà Nội đã thay cho mình một màu áo mới. Những bức tường rêu phong nơi phố cổ không còn như xưa. Thay vào đó là những dãy nhà cao tầng, là những khu trung tâm thương mại rộng lớn.

 

Những gánh hàng rong trên đường phố Hà Nội thời Pháp thuộc


Người ta chỉ còn nhìn thấy một Hà Nội xa xưa trong đáy hồ Gươm, hồ Tây và những gánh hàng rong. Người Hà Nội như nhìn thấy chính họ ở một thời đã qua. Hà Nội có thể già đi. Nhưng những gánh hàng rong chẳng bao giờ cũ.


Khi mọi người còn đang yên giấc, đâu đấy đã nghe thấy những tiếng rao, nhiều người đã thành thói quen cứ nghe thấy những âm thanh đó là biết giờ dậy chuẩn bị một ngày mới. Rồi tiếng rao khản đặc cất lên nặng nề, dấu hiệu của sự mệt mỏi sau một ngày bôn ba trên khắp mọi nẻo đường là khi đồng hồ đã chỉ 11 giờ đêm.


Nhiều người cho rằng, ở một khía cạnh nào đấy, những tiếng rao, những gánh hàng rong là một phần không thể thiếu của đời sống đô thị. Không cần bước chân xuống đường, những người dân đô thị vẫn mua sắm được đủ thực phẩm cần thiết cho sinh hoạt của gia đình từ những gánh hàng rong. Với đôi quang gánh trên vai, những người bán rong lang thang trên các đường phố rao bán đủ các loại hàng mà người mua cần đến. Hầu hết người bán hàng đều là dân tỉnh lẻ hoặc vùng lân cận Hà Nội. Việc ruộng đồng không đủ, vào những ngày nông nhàn họ rủ nhau ra thành phố kiếm sống bằng những gánh hàng rong.

 


Hàng ngày, cứ sáng sớm khi trời còn tờ mờ chưa tỏ bóng người, họ đã phải thức dậy lấy hàng rồi toả đi các ngả. Với số tiền ít ỏi kiếm được từ những gánh hàng rong mỗi ngày, những người phụ nữ ấy đã gánh trên vai cả gánh nặng cuộc đời, gánh thêm cả tương lai của những đứa con trai, con gái và cả một chút gì văn hóa đất kinh kỳ.

 

Thật thú vị biết bao, giữa trưa hè oi bức, được ăn bát tào phớ màu trắng ngà, mát lạnh, sóng sánh nước đường mà người bán khéo léo múc trong chiếc thùng gỗ nhỏ, mỗi bát chỉ vài lượt óc đậu mỏng tang. Hay giữa tiết thu hanh hao nắng và se se lạnh, được ngồi nhón từng nhúm cốm vòng xanh mướt thơm mùi hương lúa mới trong mảnh lá sen già mua của cô hàng cốm, bỏ vào miệng như thấy cả hương trời đất lan tỏa qua những hạt cốm dẹt, deo dẻo, mỏng manh. Rồi những tối mùa đông giá rét, ngồi quanh gánh hàng ngô nướng, khoai nướng trên vỉa hè mà hít hà, mà xuýt xoa trên tay bắp ngô non vừa nướng trên lò than hoa đỏ rực mà thấy ấm lòng, quên đi cái rét căm căm thổi đến từ phương Bắc.

 

Hà Nội có thể già đi, nhưng những gánh hàng rong chẳng bao giờ cũ


Cứ để ý sẽ thấy, hàng rong Hà Nội đẹp theo mùa. Khi những ngày hạ đã vắt sang thu cho đến tận chớm đông, nhiều người thích ngắm những gánh hàng hoa, trên ấy bồng bềnh những đóa sen đỏ cuối mùa, nhưng đài sen xanh như níu kéo ánh mặt trời gay gắt, những đóa cúc vàng hơn màu nắng. Thu vào sâu hơn nữa, người Hà Nội sẽ được ngắm phố với màu xanh của hàng cốm, màu hồng của hồng…

 

Theo thời gian, Hà Nội chuyển mình thay áo mới, những phố vắng khi xưa giờ chen chúc xe và người. Khi những nhà hàng, những quán ăn sang trọng, những quán cà phê và đủ mọi thứ đèn mọc lên như nấm giữa cái thành phố nhộn nhịp này, những gánh hàng rong như sợi xích của thời gian lưu giữ lại những nếp văn hóa thắm đượm cái tình, cái hồn của người Việt.


Và chắc chắn, trong ký ức, trong tâm hồn những đứa con Hà Nội, hình ảnh gánh hàng rong và những tiếng rao khuya đã in dấu rất sâu, đã cũ kỹ và êm đềm, như khúc nhạc đằm sâu trong bản tình ca xưa, ngàn năm vẫn còn da diết… Nên có người đi xa, nửa đêm thao thức nhớ tiếng “Khúc ơ….” tuổi thơ mà ứa cả nước mắt trong giấc mơ khắc khoải vọng quê hương. Có người đi xa, một ngày kia quay trở về thành phố, gặp gánh hàng hoa buổi sớm như gặp lại cố nhân, mà cứ thế trong lòng rưng rưng mãi.

 

Nguồn: Vietnamtourism.gov.vn

Bản Hon – Điểm du lịch văn hóa cộng đồng dân tộc Lự

Bản Hon, xã Bản Hon, huyện Tam Đường (tỉnh Lai Châu) có hai dân tộc Lự và Mông cùng sinh sống, trong đó dân tộc Lự chiếm 89,4%, Mông chiếm 8,5%, còn lại là dân tộc khác.

Đầu năm 2013, Bản Hon được Ủy ban Nhân dân tỉnh Lai Châu ký quyết định là một trong sáu điểm du lịch văn hóa cộng đồng hấp dẫn đưa vào khai thác.

Với hơn một trăm ngôi nhà sàn được bảo tồn nguyên trạng, cùng với nghề dệt và tập tục sinh hoạt văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc đồng bào Lự, Bản Hon nằm cách trung tâm thành phố Lai Châu hơn 10km và nằm trên tuyến du lịch “vòng cung Tây Bắc,” cách điểm du lịch Sa Pa không xa, đường đi thuận lợi, là lợi thế giúp Bản Hon thu hút khách du lịch.

 

Đường liên thôn bản đã được bê tông hóa 100%, thuận tiện cho việc đi lại của người dân và du khách khi đến thăm Bản Hon. (Ảnh: Thanh Hà/TTXVN)

 

157 hộ người Lự đang sinh sống ở Bản Hon, với hàng trăm ngôi nhà sàn được bảo tồn nguyên trạng. (Ảnh: Thanh Hà/TTXVN)

 

Đến với Bản Hon, khách du lịch sẽ được khám phá và trải nghiệm cuộc sống sinh hoạt, lao động của người dân bản địa. (Ảnh: Thanh Hà/TTXVN)

 

Trang phục truyền thống của người Lự với đường nét hoa văn độc đáo được làm bởi những bàn tay khéo léo của người phụ nữ. (Ảnh: Thanh Hà/TTXVN)

 

Nguồn: Vietnamtourism.gov.vn

Huyền thoại hồ Thang Hen

Cách thành phố Cao Bằng khoảng 30 km theo Tỉnh lộ 205, địa danh hồ Thang Hen thuộc xã Quốc Toản (Trà Lĩnh) được nhắc đến như một trong những địa chỉ du lịch sinh thái nổi bật, hấp dẫn, với phong cảnh thơ mộng, hữu tình gắn liền với những truyền thuyết, sự tích kỳ bí.


 

Huyền thoại về hồ Thang Hen là một sự khám phá thú vị đối với du khách. Theo truyền thuyết dân gian, ngày xưa ở Cao Bằng có một chàng trai tên là Sung thông minh, tuấn tú. Chàng thi đỗ làm quan và được vua ban thưởng bảy ngày vinh quy bái tổ. Về quê, chàng kết hôn cùng nàng Boóc xinh đẹp. Mải quyến luyến bên người vợ mới cưới, chàng quên mất ngày trở về kinh. Đến đêm thứ Bảy chàng mới sực nhớ, vội chia tay vợ và bố mẹ chạy về kinh. Giữa đêm tối trong rừng hoang, chàng chạy được 36 bước chân thì ngã đầu đập vào núi rồi chết. 36 bước chân của chàng ngày nay là 36 cái hồ lớn nhỏ với những tên gọi khác nhau của tiếng địa phương thuộc huyện Trà Lĩnh. Tương truyền rằng nơi chàng nằm xuống chính là hồ Thang Hen ngày nay.

 

Hiện nay, quần thể hồ Thang Hen có 36 hồ tự nhiên, mỗi hồ cách xa nhau vài chục hoặc vài trăm mét. Các hồ đều có bờ ngăn riêng, tuy nhiên, tất cả đều thông nhau bởi các hang động ngầm dưới lòng đất. 36 hồ nước ngọt tự nhiên này nằm trong một thung lũng rộng lớn tiếp giáp giữa xã Quốc Toản (Trà Lĩnh) và xã Ngũ Lão (Hòa An). Những tên hồ được đặt theo tiếng địa phương như: Thang Vạt, Nà Ma, Thang Loỏng, Thang Hoi… có từ hàng trăm năm nay. Trong đó, Thang Hen là hồ lớn nhất trong quần thể 36 hồ. Hồ Thang Hen có chiều dài gần 2.000 m, rộng 500 m, được bao quanh bởi những tán rừng già xen lẫn những mỏm đá tai mèo và có độ sâu tới 40 m. Tên của hồ Thang Hen theo tiếng địa phương có nghĩa là “đuôi ong”, bởi từ trên cao phóng tầm mắt nhìn xuống, du khách sẽ liên tưởng hình dáng của hồ có hình tựa như đuôi con ong. Các hồ tự nhiên này có nhiều đặc sản do thiên nhiên ban tặng với hơn 100 loại cá lớn, nhỏ khác nhau, như tôm, tép, cá chép vây đỏ, cá nheo…

 

Thang Hen có phong cảnh sơn thủy hữu tình với những hàng cây xanh vươn mình trên vách đá cheo leo, soi bóng xuống mặt nước xanh ngát, uốn vòng theo lòng thung lũng mấp mô những mỏm đá ngầm. Vào buổi sáng, từ đỉnh núi phóng tầm mắt xuống lòng hồ có thể thấy những đám mây lướt qua hệt như những dải lụa trắng tung bay trong gió. Phía đầu nguồn của hồ có một cái hang rộng gọi là hang Thang Hen. Miệng hang sâu 200 m, rộng khoảng 5 – 6 m, cao chừng 5 m thông thẳng lên đỉnh núi. Nước từ trong hang chảy ra quanh năm không dứt. Mỗi ngày hồ Thang Hen đều có 2 đợt thủy triều lên và xuống. Đặc biệt vào khoảng tháng 9 – 10, thời kỳ lập thu, trong một đêm, nước hồ Thang Hen bị rút cạn chỉ trong vài ba giờ đồng hồ. Không kể mùa lũ hoặc mùa khô, nước trong hồ Thang Hen quanh năm xanh ngắt. Khu vực hồ Thang Hen có bờ vực đá dựng đứng sâu từ 5 m – 30 m, trên núi đá có những loại cây gỗ quý hiếm như nghiến cổ thụ có tuổi thọ hằng trăm năm và nhiều giống hoa lan rừng, các loại thực vật đa dạng phong phú cùng với nhiều loại thú hoang dã như khỉ vàng, gà gô, chim gáy rừng…

 

Chỉ mất một giờ đi xe máy hoặc ôtô, du khách có thể đến Thang Hen để được tận hưởng không khí mát lành, ngắm cảnh sông nước, núi rừng hùng vĩ, thơ mộng, chèo thuyền từ hồ này sang hồ khác, thưởng thức các món ăn đậm đà bản sắc dân tộc từ sản phẩm của hồ và được nếm hương vị rượu thơm ngon nồng ấm chưng cất từ ngô và men lá theo phương pháp cổ truyền của dân tộc Tày.

 

Nguồn: Vietnamtourism.gov.vn

Sàng Ma Sáo – điểm hẹn hấp dẫn

Người dân thân thiện, mến khách, cảnh quan thiên nhiên hùng vĩ với những dãy núi trùng điệp, bạt ngàn rừng già nguyên sinh bên những thửa ruộng bậc thang quyến rũ bốn mùa, xã Sàng Ma Sáo (Bát Xát) đã trở thành điểm đến hấp dẫn du khách.


 

Con đường từ trung tâm huyện Bát Xát đến xã Sàng Ma Sáo không xa, nhưng do đang trong quá trình sửa chữa, nên việc đi lại gặp đôi chút khó khăn. Tuy nhiên, khi đã đặt chân đến xã Sàng Ma Sáo, vẻ đẹp của thiên nhiên, con người nơi đây sẽ là những bù đắp xứng đáng cho bạn. Nhắc tới ruộng bậc thang, người ta hay nói tới vẻ đẹp của ruộng bậc thang ở Y Tý (Bát Xát), Mù Cang Chải (Yên Bái), nhưng ít ai biết, ở Sàng Ma Sáo, ruộng bậc thang cũng đẹp mê hồn. Những tràn ruộng bậc thang nơi đây trải dài, nằm ngay dưới chân núi Nhìu Cồ San thơ mộng. Trong bất kỳ thời điểm nào, ruộng bậc thang Sàng Ma Sáo cũng toát lên những vẻ đẹp mộc mạc, quyến rũ. Vào mùa nước đổ, đứng trên dãy Nhìu Cồ San nhìn xuống, chúng ta dễ dàng liên tưởng đến những chiếc gương khổng lồ phản chiếu bức tranh sơn thuỷ hữu tình. Còn vào mùa lúa chín, ruộng bậc thang Sàng Ma Sáo đẹp chẳng kém gì những nơi tôi từng đến. Cùng tôi đi dọc các cung đường Lào Cai chụp ảnh, anh bạn tôi phải thốt lên: “Ngay đây thôi, chẳng cần phải đi đâu xa, chúng ta cũng có thể chụp được những bức ảnh như ý. Trong tương lai, vẻ mộc mạc, hoang sơ nơi đây chắc chắn sẽ thu hút du khách tới tham quan”.  

 

Không chỉ có ruộng bậc thang hấp dẫn du khách, Sàng Ma Sáo còn có bạt ngàn rừng già trên núi Nhìu Cồ San. Theo tiếng địa phương, Nhìu Cồ San có nghĩa là Núi Sừng Trâu, tên gọi này xuất phát từ việc những ngày trời nắng, không có sương mù bao phủ, đứng từ xa chúng ta có thể nhìn thấy đỉnh núi có hình dáng giống như một chiếc sừng trâu. Núi Nhìu Cồ San có độ cao hơn 2.300 mét so với mực nước biển. Nhìn bên ngoài, Nhìu Cồ San cũng không khác nhiều so với Phan Xi Păng, Ngũ Chỉ Sơn, quanh năm mây trắng che phủ… Thế nhưng, trong núi Nhìu Cồ San là cả một hệ động, thực vật vô cùng quý hiếm. Dưới những tán rừng già Nhìu Cồ San, quanh năm khí hậu mát mẻ, người dân vùng cao Sàng Ma Sáo đã tận dụng trồng thảo quả. Cũng nhờ cây thảo quả, cuộc sống đồng bào Sàng Ma Sáo ngày càng no ấm hơn.

 

Với những tiềm năng du lịch vốn có, trong tương lai không xa, Sàng Ma Sáo sẽ trở thành điểm đến hấp dẫn du khách bốn phương, góp phần phát triển kinh tế – xã hội của địa phương, xoá đói, giảm nghèo, nâng cao đời sống nhân dân.

 

Nguồn: Vietnamtourism.gov.vn

Bình Minh đảo Bình Ba hoang sơ

Là một trong số ít hòn đảo còn giữ được vẻ đẹp khá hoang sơ, đảo Bình Ba thuộc xã Cam Bình, thành phố Cam Ranh, tỉnh Khánh Hòa đang trở thành điểm đến được nhiều du khách trong nước lựa chọn.

Hòn đảo nhỏ được ví như bức tường chắn sóng gió cho eo vịnh Cam Ranh và từng là hòn đảo chuyên nuôi tôm hùm nổi tiếng.

 


Để ra đảo, bạn có thể ra bến thuyền ở cảng Ba Ngòi (cách bến xe Cam Ranh 5 km) có 4 chuyến mỗi ngày (chuyến sớm nhất khởi hành từ 7 giờ sáng và cứ cách khoảng 3 tiếng lại cho một chuyến xuất phát); hoặc nếu muốn nhanh hơn bạn có thể chọn đi xuồng cao tốc, ra tới đảo chỉ mất khoảng 20 phút.

Nhiều người đi về ca ngợi bãi Nồm đẹp nhất Bình Ba, nhưng trải nghiệm của cá nhân người viết lại thấy bãi Nhà Cũ mới thực sự ấn tượng. Đứng trên cao nhìn bao quát sẽ thấy bãi cát trắng mịn màng, thoai thoải ôm lấy làn nước biển trong xanh, điểm vào đó những khối đá lớn đủ hình thù kỳ lạ như hình voi, rùa…

Bãi Nhà Cũ hoang sơ vẫn chưa bị các dịch vụ ăn uống tràn xuống bãi Nồm. Mới chỉ một góc nhỏ chẳng ồn ào, gọi là đủ phục vụ nhu cầu tối thiểu cho du khách. Lúc tắm biển lên có quả dừa, chai nước giải khát, cái bánh hay ít hải sản tươi sống lót dạ.

Đặc biệt, bãi này có những rạn san hô dày đặc. Vì thế đến đây bạn đừng quên mang theo kính lặn, chỉ cần úp mặt xuống làn nước trong sẽ thấy sắc màu đại dương hiện ra, cả san hô lẫn với những đàn cá nhiều màu vun vút bơi.

Bãi Nồm cũng đẹp với bãi cát hình cánh cung, hai đầu là những biển trong xanh. Chơi ở bãi Nồm có nhiều dịch vụ cho bạn lựa chọn, triền cát cũng đủ rộng cho những cú sút bóng.

Còn bãi Chướng cách cầu cảng chừng khoảng 30 phút đi bộ là nơi lý tưởng nhất để ngắm bình minh Bình Ba. Nhớ đến từ 5 giờ sáng, bạn sẽ có được trải nghiệm thú vị nhất trong ngày trên đảo, khi mặt trời từ từ lấp ló rồi nhô hẳn lên đỏ rực cả một vùng nước vùng trời. Vừa ngắm bình minh lên vừa nghe tiếng sóng vỗ rì rào là một cảm giác khoan khoái, thư thái vô cùng.

Bình minh lên, hãy xách máy ảnh đi lang thang, khám phá mọi ngóc ngách cuộc sống của đảo nhỏ, lên đỉnh núi ngắm toàn bộ quang cảnh Bình Ba hay thăm quan những di tích từ thời Pháp thuộc như bệ súng thần công, lô cốt…

Nếu đi theo nhóm, hãy hỏi mua tôm hùm, mực, cá, ốc của ngư dân đảo và tổ chức một bữa tiệc vui vẻ, tưng bừng ngay sát bãi biển. Vừa thưởng thức tiệc BBQ hải sản ven biển vừa nghe tiếng sóng rì rào vỗ bờ, hay chu đáo hơn mang theo đàn guitar để cùng nhau nghêu ngao, đó sẽ là những khoảnh khắc khó quên khi rời khỏi nơi đây.

Người dân Khánh Hòa có câu “Yến sào Hòn Nội, vịt lội Ninh Hòa, tôm hùm Bình Ba, nai khô Diên Khánh.” Vì thế, đã mất công đến Bình Ba rồi bạn chớ quên món đặc sản tôm hùm được nuôi trên đảo này.

Ngoài ra, nhum (cầu gai) nướng, dùng muỗng nạo phần thịt chấm muối tiêu chanh thực vô cùng béo và bổ dưỡng; cả ốc vú nàng, ốc mặt trăng, mực một nắng… nữa nhé, đừng bỏ lỡ kẻo tiếc.

 

 

Nguồn: Vietnamtourism.gov.vn

Cù Lao Chàm – Khu dự trữ sinh quyển thế giới

(TITC) – Cù Lao Chàm thuộc xã đảo Tân Hiệp, thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam, nằm cách bờ biển Cửa Đại khoảng 15 km, là một cụm đảo với 8 hòn đảo lớn nhỏ: Hòn Lao, Hòn Dài, Hòn Mồ, Hòn Khô mẹ, Hòn Khô con, Hòn Lá, Hòn Tai và Hòn Ông.

Không chỉ chứa đựng một kho tàng về văn hóa, lịch sử đặc trưng của một cụm đảo đẹp, hoang sơ và hấp dẫn, Cù Lao Chàm còn hiện diện đầy đủ hệ sinh thái đa dạng đại diện cho vùng cửa sông, ven bờ và biển đảo cũng như tập trung cao nhất về thành phần loài, các quần thể, quần xã sinh vật từ trên rừng đến đại dương bao la. Trên đảo là hệ động thực vật khá phong phú, đặc biệt có loài chim Yến quý hiếm cư ngụ cùng nhiều loài động vật hoang dã. Dưới biển có nhiều ghềnh đá, nhiều dãy san hô lấp lánh tạo nên những khu vườn thuỷ cung huyền ảo với trăm nghìn loài cá cùng các loài hải sản miền nhiệt đới.

 

 

 Theo thống kê của Ban quản lý đảo, tại khu vực rừng đặc dụng Khu dự trữ sinh quyển Thế giới (DTSQ) có 499 loài thuộc 352 chi, 115 họ của 5/6 ngành thực vật bậc cao có mạch của hệ thực vật Việt Nam. Ngoài ra, kết quả khảo sát ở độ cao dưới 100m còn phát hiện hơn 288 loài cây thuốc nam xen lẫn trong những cánh rừng với những cây cổ thụ như gõ mật, lim xanh, dầu lôn, chò nâu, huỷnh, bời lời đỏ… cùng một số loài thực vật quý hiếm khác như lan nhung, trầm hương…

 

Tại vùng lõi khu DTSQ, có hơn 311ha rạn san hô, với khoảng 300 loài, san hô mềm chiếm ưu thế, độ phủ trung bình rạn san hô 41%; có 50ha thảm cỏ biển, với 5 loài đặc trưng, độ phủ trung bình 15 – 25 %; 76 loài rong biển, hơn 270 loài cá, 97 loài thân mềm, 11 loài động vật da gai….

 

Ngoài ra, tại khu vực vùng đệm của khu DTSQ được che phủ chủ yếu bởi rừng dừa nước và một số cây ngập mặn khác như đước đôi, vẹt dù, ráng đạ, ô rô và cây tra biển phân bố ở dọc các dòng sông, các cồn cát, bãi bồi ven sông, ven biển. Hệ thống rừng ngập mặn được ví như cửa ngõ quan trọng kiểm soát chất lượng nước trước khi tác động đến các hệ sinh thái, môi trường biển Cù Lao Chàm. Rừng dừa nước không chỉ đóng vai trò lọc sạch nước, tạo môi trường nuôi dưỡng ấu trùng của các loài thủy sản mà còn tạo được không gian sinh thái đặc sắc, gắn liền với các làng nghề truyền thống góp phần tạo ra một điểm đến thu hút sự quan tâm đặc biệt của du khách.

 

Đến với Cù Lao Chàm, du khách sẽ được hoà mình trong bầu không khí trong lành của biển cả với những bãi cát vàng, làn nước xanh, thâm nhập cuộc sống dân dã trong sự đón tiếp nồng hậu của cư dân các làng chài; chiêm ngưỡng vẻ đẹp quyến rũ của các địa danh mang nhiều huyền thoại như bãi Hương, bãi Làng, hang Bà, Âu thuyền, chùa Hải Tạng; khám phá những rặng san hô đa sắc màu hay chinh phục những ngọn đồi hùng vĩ, tham gia vào đêm lửa trại và thưởng thức các món ăn đặc sản địa phương rất nổi tiếng như cua đá, hải sâm, ốc gai, sò điệp, ốc hương…

 

Với những giá trị nổi trội đặc trưng về tài nguyên thiên nhiên và nhân văn phong phú, Cù Lao Chàm được UNESCO công nhận là Khu dự trữ sinh quyển thế giới vào ngày 26/5/2009.

 

Theo báo cáo của BQL khu DTSQ Cù Lao Chàm, nếu năm 2009, lượng khách đến đây mỗi năm chỉ khoảng vài nghìn người thì đến năm 2013 con số này đã tăng lên khoảng 176.000 lượt khách. Riêng 4 tháng đầu năm 2014, Cù Lao Chàm đã đón hơn 40 nghìn lượt khách tham quan, du lịch; cao điểm, có ngày Cù Lao Chàm đón khoảng 2 – 3 nghìn lượt khách.

 

Phạm Thanh

 

Nguồn: Vietnamtourism.gov.vn

Cột cờ Lũng Cú

Lũng Cú – mảnh đất địa đầu Tổ quốc, thuộc huyện Đồng Văn (Hà Giang), cách thành phố Hà Giang khoảng 200 km.

Đến đây, du khách sẽ có dịp được tận hưởng bầu không khí trong lành, tìm hiểu về những nét văn hóa truyền thống đặc sắc của một số dân tộc.

 

 

Từ thành phố, theo Quốc lộ 4C ngược lên phía Đông Bắc khoảng 160 km, du khách sẽ đến xã Đồng Văn, huyện Đồng Văn. Từ đây, tiếp tục xuôi theo con đường trải nhựa nối liền hai xã Lũng Cú – Đồng Văn khoảng 40 km, du khách sẽ đến với đỉnh Lũng Cú.

 

Từ xa, Lũng Cú hiện ra thật sinh động với một vùng đất 3/4 là đá, nổi bật lên là cột cờ Tổ quốc có hình dáng giống cột cờ Hà Nội, trông xa giống như một ngọn tháp; xung quanh là phong cảnh núi rừng hùng vĩ, trùng điệp… Cột cờ Lũng Cú được dựng trên đỉnh núi Rồng (Long Sơn), dưới chân cột có khắc phù điêu mang rõ nét hoa văn của trống đồng Ðông Sơn, lá cờ Tổ quốc tung bay trong gió và in bóng xuống mặt hồ Lô Lô xanh biếc tạo nên cảnh đẹp thanh bình. Giữa lưng chừng núi Rồng có một cái hang khá rộng và đẹp, đồng bào ở đây gọi là hang Sì Mần Khan.

 

Xã Lũng Cú có 9 thôn, bản: Lô Lô Chải, Séo Lủng, Tả Giá Khâu, Cẳn Tằng, Thèn Ván, Thèn Pả, Sì Mần Khan, Sán Chồ, Sán Sà Phìn và có đường biên giới tiếp giáp với nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa hơn 16 km. Tại đây, vào mùa đông, thời tiết rất lạnh và thi thoảng có tuyết rơi. Trong số 9 thôn, bản của Lũng Cú thì Séo Lủng thuộc phần đất thượng cùng cực bắc với bên trái là thung lũng Thèn Ván sâu thăm thẳm, bên phải là dòng Nho Quế – dòng sông bắt nguồn từ Mù Cảng (Vân Nam – Trung Quốc) đổ về Ðồng Văn, Mèo Vạc (Hà Giang).

 

Bà con dân tộc ở Lũng Cú chủ yếu là làm nương và làm ruộng bậc thang. Riêng đồng bào dân tộc Mông và Lô Lô vẫn bảo tồn nghề dệt truyền thống với các công đoạn làm sợi lanh, dệt vải.

 

Lũng Cú còn bảo lưu được những hiện vật lịch sử, văn hóa quý giá tiêu biểu từ thời Hùng Vương. Theo sử sách ghi lại, vào thời Tây Sơn, Hoàng đế Quang Trung đã cho đặt ở nơi biên ải này một chiếc trống lớn, thời đó tiếng trống là phương tiện thông tin nhanh nhất, vị trí đặt trống của nhà vua là Trạm Biên phòng tiền tiêu Lũng Cú bây giờ. Chính vì vậy, người Lô Lô ở Lũng Cú bây giờ sử dụng thành thạo trống đồng có nguồn gốc từ trống đồng Ðông Sơn.

 

Là vùng đất của chè Shan, rượu mật ong, rượu ngô, đào phai, hoa lê, tuyết trắng và món thắng cố trong buổi chợ phiên… cùng những nét văn hóa truyền thống đặc sắc của các dân tộc như: Mông, Lô Lô, Giáy… Lũng Cú thật sự mang trong mình nét đẹp mê hồn, hấp dẫn biết bao du khách. Quả thật, nếu có dịp đến đây vào mùa xuân, du khách vừa được tận hưởng bầu không khí trong lành, vừa được nghe tiếng đàn môi tâm tình gọi bạn, tiếng khèn của người Mông say mê, quyến rũ và tiếng trống đồng âm vang bên bếp lửa bập bùng.

 

Nguồn: Vietnamtourism.gov.vn

Làng bên kia sông

Khám phá phong cảnh làng quê bên ngoài di sản Hội An sẽ hứa hẹn mang đến cho khách trải nghiệm mới lạ về một vùng sông nước, thôn quê. Chỉ với chiếc xe đạp và niềm đam mê là có thể rong ruổi mọi ngóc ngách xóm thôn để tận hưởng cảm giác sảng khoái tự do, chợt nhận ra bên kia sông Hoài vẫn còn bao điều thú vị.

 

 

Cẩm Kim là bến ghé đầu tiên với làng mộc Kim Bồng. Thuyền vừa cập bến đã nghe tiếng đục đẽo, khoan cắt vang lên từ các xưởng mộc trong làng vọng lại. Những âm thanh như nhịp điệu cuộc sống tạo hồn riêng cho mảnh đất.  Tham quan làng, du khách không chỉ được chiêm ngưỡng những tác phẩm gỗ được chạm trổ tinh xảo từ đôi tay tài hoa của người thợ Kim Bồng mà còn được nghe những câu chuyện nghề dù qua hàng trăm năm lịch sử vẫn được người dân nơi đây truyền tụng như niềm tự hào của làng. Rời làng mộc Kim Bồng, con đường bê tông rộng rãi đưa du khách đến với một địa danh không kém phần nổi tiếng – chợ Nồi Rang (xã Duy Nghĩa, Duy Xuyên), nơi hội tụ của các sản vật quanh vùng. Tương truyền, đây là điểm nghỉ chân trung chuyển của những chuyến đò xuôi ngược trên dòng Thu Bồn – Cửa Đại ra biển hàng trăm năm về trước. Chợ Nồi Rang đặc biệt không chỉ ở lịch sử lâu đời và địa danh gắn liền với sản phẩm nồi đất mà được biết đến như là nơi bán mua một thứ hàng độc đáo là tro bếp được người dân quanh vùng mua về bón hoa màu, ruộng lúa. Ngoài ra, chợ cũng là điểm trao đổi các loại hàng hóa, gia cầm, nông sản địa phương nên luôn mang đến cho du khách sự tò mò thích thú. Thời gian gần đây, địa danh Nồi Rang đã được nhiều công ty lữ hành đưa vào khai thác du lịch như là điểm tham quan mới bên ngoài di sản nhằm mang đến cho du khách những trải nghiệm khác lạ về cuộc sống người dân quê xứ Quảng.

 

Cũng trên tuyến đường sông, ngôi làng Triêm Tây (Điện Phương, Điện Bàn) giống như cánh cổng chưa được hé mở. Triêm Tây luôn mang đến cho du khách những bất ngờ thú vị về sự khác biệt cũng như tiềm năng du lịch của mình. Ngoài khu du lịch sinh thái nhà vườn Triêm Tây đã khai trương hoạt động vào tháng 6.2013, dự án du lịch cộng đồng Triêm Tây cũng đang được UBND huyện phối hợp với Tổ chức Lao động quốc tế triển khai, hứa hẹn sẽ là điểm đến thú vị để kết nối với các điểm du lịch quanh vùng.

 

Nguồn: Vietnamtourism.gov.vn

Nơi tái hiện hình ảnh Đà Lạt xưa

Những chàng trai cô gái người Lạch với trang phục thổ cẩm sặc sỡ nhảy múa quanh bếp lửa hồng. Những hoạt động văn hóa truyền thống của đồng bào Cờ Ho Nam Tây nguyên như lễ hội cầu mưa, cúng Giàng, ăn trâu đã được chính những người con đồng bào Lạch dưới chân núi LangBiang huyền thoại tái hiện một cách sinh động.

 

Đó là không gian tại Nhà hàng Đà Lạt xưa (31b Khe Sanh, Đà Lạt) vừa được khai trương để phục vụ du khách.

 

Đúng như tên gọi của nó, một Đà Lạt xưa đang được minh họa lại bằng ngôi nhà sàn mái tranh, cầu thang gỗ tọa lạc trên mái đồi cao hướng ra bìa rừng xanh thẳm. Trong nhà sàn cũng được trưng bày bộ sưu tập những vật dụng sinh hoạt của cư dân bản địa xưa như đàn đá, cồng chiêng, trống cổ, nồi đồng, chiêng ché, dụng cụ săn thú… Nhiều món ẩm thực nơi đây cũng mang đậm chất truyền thống của đồng bào Tây Nguyên như cơm lam, thịt nướng, rượu cần, rau rừng…  Sau những giờ tham quan Đà Lạt mộng mơ, đến với không gian Đà Lạt xưa du khách vừa được thưởng thức các món ăn mang hương vị cao nguyên vừa được xem các sơn nữ múa hát và độc tấu các nhạc cụ dân tộc như đàn tơ rưng, đàn đá, chil put… 

 

Với việc ra đời không gian Đà Lạt xưa đã góp phần bảo tồn và phát huy nét văn hóa đặc sắc của cư dân trên Cao nguyên Lâm Viên xưa. Ngoài ra, nơi đây cũng góp phần làm phong phú và đa dạng thêm cho các sản phẩm dịch vụ du lịch của Đà Lạt.

 

Nguồn: Vietnamtourism.gov.vn

Cổ kính cố đô Hoa Lư

Hoa Lư được chọn là kinh đô đầu tiên của Nhà nước phong kiến tập quyền khi Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi Hoàng Đế năm 968.

Hơn 1.000 năm trước đây, năm 968, sau khi bình định 12 sứ quân, Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi Hoàng đế, lấy hiệu Tiên Hoàng đế, đặt tên nước là Đại Cồ Việt, chọn Hoa Lư làm kinh đô. Sở dĩ Đinh Tiên Hoàng chọn Hoa Lư để định đô bởi nơi đây có vị trí vô cùng hiểm trở với hệ thống núi đá trùng điệp và hiểm trở làm tường thành, sông bao làm hào để phòng thủ quân sự. Vì thế, Hoa Lư còn được gọi là “kinh đô đá”.

 

 

Nằm cách thủ đô Hà Nội gần 100 km về phía Nam, cố đô Hoa Lư (Ninh Bình) thuộc xã Trường Yên, huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình là quần thể di tích lịch sử, văn hóa quốc gia đặc biệt quan trọng. Đây cũng là kinh đô đầu tiên của nhà nước phong kiến Trung ương tập quyền ở Việt Nam với các dấu ấn lịch sử: thống nhất giang sơn, đánh Tống – dẹp Chiêm và phát tích quá trình định đô Hà Nội. Năm 1010 vua Lý Thái Tổ dời kinh đô từ Hoa Lư về Thăng Long, Hà Nội. Sau này, tuy các triều vua Lý, Trần, Lê, Nguyễn không còn đóng đô ở Hoa Lư nữa nhưng vẫn cho tu bổ và xây dựng thêm ở đây nhiều công trình kiến trúc như đền, lăng, đình, chùa, phủ…

 

Tuy được chọn làm kinh đô của nước Đại Cồ Việt chỉ một thời gian không dài – trong 42 năm, nhưng tại Hoa Lư đã diễn ra rất nhiều sự kiện liên quan đến vận mệnh của đất nước. Đây từng là thành trì quân sự vững chắc của ba triều đại liên tiếp trong lịch sử: nhà Đinh, nhà Tiền Lê và nhà Lý, tính từ đời vua Đinh Tiên Hoàng đến Lý Thái Tông.

 

Theo sử sách và tài liệu thì kinh đô Hoa Lư xưa là 1 cung điện nguy nga, tráng lệ, được bao bọc bởi những ngọn núi đá hình vòng cung, cảnh quan kỳ vĩ cùng những hồ, đầm… tạo cho cảnh quan nơi đây vừa có nét duyên dáng, mềm mại, lại vừa có những nét kỳ bí.

 

Trải qua thời gian hơn 10 thế kỷ, cố đô Hoa Lư hầu như đã bị tàn phá, đổ nát. Hiện nay, quần thể di tích Hoa Lư có gần 30 di tích, trong đó, 2 di tích tiêu biểu là đền vua Ðinh và đền vua Lê. Xung quanh khu vực này còn có một số đình, chùa cổ với hàng nghìn năm tuổi cũng là một phần kiến trúc trong khu cung điện chính, đều có sức hấp dẫn riêng.

 

Để tri ân các vị anh hùng dân tộc, triều hậu Lê đã trùng tu, xây dựng lại đền vua Đinh – thờ Đinh Tiên Hoàng. Đền được xây theo kiểu “Nội công ngoại quốc”, cách chân núi Mã Yên khoảng vài trăm mét. Trải qua hơn bốn thế kỷ, ngôi đền vẫn giữ được vẻ uy nghi, trầm mặc với nhưng công trình: ngọ môn quan, hồ sen, núi Giả, vườn hoa, nghi môn ngoại, nghi môn nội. Đền có ba toà: tòa ngoài là bái đường, tòa giữa gọi là Thiên Hương thờ tứ trụ triều đình của nhà Đinh: Đinh Điền, Nguyễn Bặc, Trịnh Tú, Lưu Cơ. Toà trong cùng thờ Đinh Tiên Hoàng ngự ở chính điện, hai bên thờ 3 hoàng tử Đinh Liễn, Đinh Toàn và Đinh Hạng Lang. Các lối đi, trụ cổng, tường của ngôi đền đều phủ rêu phong cùng thời gian. Xung quanh là những khu vườn cây trái xanh tươi. Trước cửa đền chính có đặt Long Sàng làm bằng đá nguyên khối, với đôi nghê đá hai bên rất sống động. Các hình trang trí, hoa lá, hình các con vật… được chạm khắc xung quanh long sàng rất tinh xảo.

 

Cách đền vua Ðinh không xa là đền vua Lê, thờ Lê Ðại Hành (tức Lê Hoàn). Ông là một tướng lĩnh giỏi dưới triều Đinh, người có công dẹp loạn, thống nhất đất nước nên đã được vua Đinh phong quan Thập Đạo Tướng Quân (chức võ quan cao cấp nhất thời Đinh). Lê Hoàn được tôn lên làm vua sau khi vua Đinh băng hà. Ông là vị vua đầu tiên của nhà Tiền Lê. Đền Lê có quy mô nhỏ và đơn sơ hơn. Trong cung của đền có ba pho tượng: Hoàng đế Lê Đại Hành ở gian giữa ngồi trên ngai, hoàng hậu Dương Vân Nga ở gian bên trái và vua Lê Long Đĩnh ở gian bên phải. Trong đền còn giữ được nhiều dấu tích kiến trúc cổ với những mảng chạm trổ công phu, điêu luyện. Tại đây, người ta đã tìm thấy di tích nền cung điện cũ cùng một số đồ gốm sứ cổ. Những hiện vật quý này được lưu giữ tại phòng bảo tàng của khu đền.

Ngay trước đền vua Đinh, là núi Mã Yên có hình dáng giống cái yên ngựa. Sau khi leo lên 265 bậc lên trên đỉnh núi là lăng mộ vua Đinh. Lăng Đinh Tiên Hoàng được xây bằng đá xám, nằm trên đỉnh núi, xung quanh cây cối tươi mát. Sau khi thắp hương tưởng niệm, từ đây du khách có thể phóng tầm mắt có thể ngắm quần thể di tích Hoa Lư như một bức tranh thủy mặc.

 

Về với Hoa Lư, du khách sẽ được đắm mình trong những cảnh đẹp thiên nhiên ban tặng cho vùng đất thiêng này, chiêm ngưỡng những di tích còn lại của kinh đô Hoa Lư xưa; tìm hiểu thêm về nền kiến trúc, nghệ thuật, kinh tế, văn hóa xã hội của người Việt thời đó. Đây còn là dịp để mọi người tri ân các bậc tiền nhân, được nghe kể những câu chuyện thú vị về các vị vua nông dân giản dị – những anh hùng dân tộc đã có công dựng nước và giữ nước.

 

Cố đô Hoa Lư không chỉ là quần thể di tích quốc gia đặc biệt quan trọng mà còn là một trong 3 khu vực hợp thành quần thể danh thắng Tràng An, địa danh vừa được UNESCO chính thức ghi danh vào danh mục Di sản Thế giới ngày 23/6/2014.

 

Nguồn: Vietnamtourism.gov.vn

TIN MỚI NHẤT