Điểm đến du lịch

Những địa điểm du lịch hấp hẫn những địa điểm du lịch trong nước, địa điểm du lịch nước ngoài được chúng tôi tổng hợp và đưa tin đến Quý bạn đọc đam mê du lịch có cái nhìn tổng quan nhất về các địa danh du lịch để quyết định cho mình cho những chuyến du lịch ý nghĩa nhất

Khám phá “viên ngọc xanh” giữa biển Vân Đồn

Lãng mạn và yên bình là cảm giác của không ít du khách khi đến tham quan tắm biển ở bãi Sơn Hào (Quan Lạn, Vân Đồn), một điểm đến tuyệt đẹp nằm giữa vùng biển Vân Đồn còn giữ được vẻ nguyên sơ, thơ mộng của cảnh quan.

 

Nằm trên hòn đảo du lịch Quan Lạn (xã Quan Lạn, huyện Vân Đồn), đây là bãi tắm đẹp, hoàn toàn tự nhiên với dải cát dài khoảng 3km, nước biển trong xanh, cảnh quan thơ mộng, hữu tình. Sơn Hào còn hút khách bởi cảnh quan độc đáo của thảm thực vật phong phú, rừng phi lao thơ mộng bên bờ biển. Một trải nghiệm thú vị nhất khi tới đây là dạo mát trên bãi cát trắng dài thưởng thức không khí trong lành mỗi sớm, cưỡi những con sóng lớn hoặc ngồi trong rừng thông ngắm bình minh, hoàng hôn xuống biển khi chiều về. Du khách ưa khám phá có thể tìm tới bãi đá tròn, ngắm bàn chân tiên ở ghềnh đá cạnh bãi tắm, nghe truyền thuyết từ những ngư dân trên đảo.

 

Ngoài ra, Sơn Hào còn được tô điểm bởi cảnh quan những khu nhà sàn ẩn khuất trong rừng phi lao, hệ thống 8 biệt thự kiểu Bungalow kiến trúc đẹp sát bãi biển, khu biệt thự trong rừng… Để đảm bao an toàn cho du khách, gần đây, Sơn Hào được đầu tư hệ thống phao tiêu biển báo, xuồng cứu hộ, lực lượng cứu hộ 8 người thường trực, xuồng cứu hộ… Vì thế, tháng 6-2014 Sơn Hào vừa được công nhận là bãi tắm đầu tiên trong tỉnh đạt chuẩn phục vụ khách du lịch theo quy định mới.

Nguồn: Vietnamtourism.gov.vn

Lễ Khao lề Thế lính Hoàng Sa

(TITC) – Vào khoảng đầu thế kỷ 17 thời các chúa Nguyễn, nhận thấy tầm quan trọng của việc mở mang bờ cõi và nguồn tài nguyên quý giá ở vùng biển Đông của Tổ quốc, đặc biệt là tại 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, các chúa Nguyễn đã thành lập “đội Hoàng Sa” gồm 70 dân đinh giỏi nghề đi biển ở các làng An Vĩnh và An Hải tại vùng cửa biển Sa Kỳ (nay thuộc huyện Sơn Tịnh và Bình Sơn) và làng An Vĩnh, An Hải trên đảo Lý Sơn, tỉnh Quảng Ngãi để giương buồm vượt sóng ra khơi tìm kiếm hải vật, sản vật, đo đạc thủy trình, tuần phòng trên biển đảo, đồng thời cắm cột mốc, dựng bia chủ quyền trên quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa.

 

Cứ vào tháng 2 hoặc tháng 3 âm lịch, đội lính này nhận lệnh ra đi và đến tháng 8 âm lịch trở về cửa Eo (nay là cửa Thuận An thuộc tỉnh Thừa Thiên – Huế) để nộp các loại hải vật quý giá cho triều đình. Đội Hoàng Sa sau này được củng cố thành Thủy quân Hoàng Sa (kiêm quản “đội Bắc Hải”, có nhiệm vụ khai thác vùng biển Hoàng Sa, Trường Sa). Đội Bắc Hải chủ yếu chiêu mộ các ngư dân làng Tứ Chính (tỉnh Bình Thuận). Trong suốt 3 thế kỷ hoạt động, đã có hàng vạn người lính Thủy quân Hoàng Sa vượt qua biết bao sóng gió, bão tố để thực thi nhiệm vụ giữ gìn chủ quyền lãnh thổ ở 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Do tính chất nguy hiểm của những chuyến đi biển, không phải người lính nào cũng có may mắn trở về đất liền an toàn. Theo ghi chép trong gia phả của các tộc họ có người đi lính Hoàng Sa trên đảo Lý Sơn thì đã có rất nhiều người lính ra đi không trở về. Hình ảnh những khu mộ chiêu hồn không xác người (mộ gió) của các tộc họ Phạm Quang, Phạm Văn, Võ Văn… trên đảo Lý Sơn là một minh chứng bi hùng.


Để tưởng nhớ những người lính đã hy sinh khi làm nhiệm vụ và ý nguyện cầu bình an cho những lính mới, vào tháng 2 âm lịch hàng năm, người dân đảo Lý Sơn lại tổ chức Lễ Khao lề Thế lính Hoàng Sa thu hút sự tham gia của các tộc họ có người đi lính trên đất đảo. Khao lề là lệ khao định kỳ hàng năm, còn thế lính là nghi lễ cúng thế mạng cho những người lính thủy quân Hoàng Sa. Lễ Khao lề Thế lính Hoàng Sa còn để cúng tế tổ tiên, tế lễ và tưởng nhớ những người đi lính Hoàng Sa, Trường Sa đã khuất.


Khi tiến hành Lễ Khao lề Thế lính Hoàng Sa ở các tộc họ, tộc trưởng sẽ là người chủ tế. Các tộc họ tiền hiền, hậu hiền hoặc trưởng các chi phái là bồi tế (người giúp chủ tế hành lễ). Ngoài ra còn có thầy phù thủy (thầy pháp) là người điều hành lễ tế.


Chiều ngày 19/2 âm lịch (khoảng 17h), con cháu các tộc họ tập trung tại nhà thờ họ để dự lễ nhập yết với các lễ vật gồm trầu, rượu, cau, hoa quả, giấy cúng, nhang đèn. Vị trí đứng bái của các thành viên ban tế lễ được qui định cụ thể. Trưởng tộc là người chủ tế đứng ở bàn thờ chính giữa, hai người bồi tế đứng sau và hành lễ theo chủ tế. Bàn thờ bên đông là trưởng, thứ chi phái 1; bàn thờ bên tây là trưởng, thứ chi phái 2. Ngoài ra còn có đông xướng, tây xướng là người phụ trách xướng nghi thức trong lúc tế, đứng đối diện nhau. Trong buổi tế lễ còn có 6 – 8 người đứng hai bên phụ trách việc dâng hương, dâng rượu gọi là chấp sự. Nhạc lễ trong lễ tế gồm trống cái, chiêng, trống bồng, cặp sinh tiền, kèn, chiêng, chập chõa. Một hồi trống vang lên, lễ nhập yết chính thức bắt đầu. Sau khi trưởng tộc đọc văn tế và thực hiện nghi thức dâng rượu, con cháu sẽ lần lượt vào bái lạy tổ tiên. Lễ nhập yết kéo dài trong khoảng 1 giờ, sau đó, các tộc họ chuẩn bị sửa sang lễ vật cho buổi tế chính.


Đúng 0h ngày 20/2 âm lịch, Lễ Khao lề Thế lính Hoàng Sa chính thức bắt đầu bởi 0h được xem là thời khắc linh thiêng, chuyển giao giữa hai ngày, mọi lời nguyện cầu vào thời điểm này sẽ hiệu nghiệm. Thầy pháp điều hành lễ tế, trưởng tộc và trưởng các chi phái đứng hầu thần. Lễ vật trong lễ tế chính thường có: trầu, rượu, hoa quả, thịt, cá, gạo, muối, mắm, nếp nổ, bánh khô…; và đặc biệt là chiếc thuyền tre có đế làm bằng thân cây chuối gắn đầy đủ buồm, cờ, phướn; hình nộm (hình nhân thế mạng) bằng khung tre dán giấy ngũ sắc và linh vị ghi tên tuổi của những người trong họ tộc đã hy sinh khi đi lính Hoàng Sa.

 

Thả thuyền lễ và hình nhân thế mạng

 

Sau khi cúng tế và làm các nghi thức bùa phép trước đàn thờ, gửi tên tuổi và linh hồn người sống sắp đi lính vào hình nộm, cúng phát lương, phát hịch, đốt vàng bạc cho binh lính, thầy pháp sẽ đặt các hình nộm vào thuyền và bắt đầu lễ rước ghe bầu. Đi đầu là những thanh niên mang cờ, phướn; tiếp theo là bốn thanh niên khiêng thuyền lễ; theo sau là thầy pháp, tộc trưởng, trưởng các chi phái và đoàn người gồm bà con trong tộc họ, những người trong làng cùng đội chiêng trống. Tại cửa biển trên đảo, sau khi thầy pháp vái tạ tứ phương, chiếc thuyền được đem thả xuống nước với ý nghĩa sinh mạng và tàu thuyền của đội lính Hoàng Sa đã được hiến tế cho thần linh, mọi rủi ro được xua đuổi và những người lính ra khơi trở sẽ về bình an. Kết thúc lễ tế (khoảng rạng sáng ngày 20), mọi người sẽ quay lại nhà thờ họ dự tiệc đãi.


Bên cạnh Lễ Khao lề Thế lính Hoàng Sa tại các tộc họ, trong những năm gần đây, chính quyền địa phương cùng các tộc họ còn cùng tổ chức Lễ Khao lề Thế lính của cộng đồng dân cư đảo Lý Sơn vào cuối tháng 3 âm lịch hàng năm với qui mô lớn hơn, thu hút đông đảo du khách và người dân các địa phương về dự. Lễ Khao lề Thế lính Hoàng Sa đảo Lý Sơn được tổ chức ở Âm linh tự hoặc đình làng An Vĩnh với các nghi lễ tương tự như ở các tộc họ, kết hợp với các sinh hoạt văn hóa như: lễ cầu siêu, hội hoa đăng, hát bội, múa lân, lễ rước và lễ hội đua thuyền tứ linh truyền thống. Công việc chuẩn bị cho buổi lễ do Ban khánh tiết làng An Vĩnh và ban quản lý di tích Âm linh tự phụ trách.


Tháng 4/2013, Lễ Khao lề Thế lính Hoàng Sa đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng Di sản Văn hóa phi vật thể cấp quốc gia, loại hình Tập quán xã hội và tín ngưỡng. Lễ hội không chỉ góp phần khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với 2 quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa mà qua đó còn bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa, đồng thời giáo dục truyền thống tự tôn dân tộc và các giá trị nhân văn sâu sắc đến mọi tầng lớp nhân dân.
 

Phạm Phương – Thu Giang

 

Nguồn: Vietnamtourism.gov.vn

Vườn Quốc gia Phước Bình: Điểm du lịch sinh thái-cộng đồng hấp dẫn

Vườn quốc gia (VQG) Phước Bình, nằm trên địa bàn xã Phước Bình, huyện Bác Ái, có địa hình trải dài ở độ cao từ 300m đến 1.926m so với mặt nước biển nên hệ sinh thái có giá trị bảo tồn đa dạng sinh học và cảnh quan cực kỳ tuyệt đẹp.

Đặc biệt, nơi đây còn giữ được những nét văn hoá độc đáo của người Raglai để phát triển các loại hình du lịch sinh thái, du lịch cộng đồng. Với lợi thế đó, VQG Phước Bình là một điểm du lịch sinh thái hấp dẫn đối với nhiều du khách trong và ngoài nước.

 

 

Trải nghiệm cùng thiên nhiên kỳ thú

 

Từ Tp.Phan Rang-Tháp Chàm, vượt chặng đường hơn 60km đến với điểm dừng chân lý thú VQG Phước Bình, chúng tôi như bị “hút hồn” trước quang cảnh núi rừng, uốn lượn bên dòng sông Tô Hạp. Không ngoài giới thiệu của bạn bè gần xa, khí hậu Phước Bình phảng phất của xứ sở cao nguyên. Mặc dù là mùa khô hạn nhưng rừng Phước Bình vẫn xanh ngắt và suối nước có phần cạn hơn để lộ những gầm đá khổng lồ. Tiếng dội từ những thác nước hùng vĩ, hòa tiếng chim rừng tạo thanh âm huyền hoặc của núi rừng.

 

Anh Nguyễn Trung Chiến, cán bộ Phòng Phát triển du lịch- Trung tâm Giáo dục môi trường và Dịch vụ môi trường rừng (VQG Phước Bình) đưa chúng tôi tham quan. Qua từng khu vực, anh chậm rãi giới thiệu cho chúng tôi về sinh cảnh chung của VQG và những tên núi, tên suối của Phước Bình. VQG Phước Bình có tổng diện tích 19.814 ha, trong đó có 10.486 ha phân khu bảo vệ nghiêm ngặt; 8.108 ha phân khu phục hồi sinh thái; 1.090 ha phân khu hành chính, dịch vụ và 11.082ha diện tích vùng đệm. Trong khu vực VQG hình thành 14 kiểu rừng, có 1.322 loài thực vật, 327 loài động vật, nhiều loài có tên trong Sách đỏ Việt Nam và danh lục đỏ quốc tế.

 

Trong quần thể thiên nhiên kỳ thú của mình, VQG Phước Bình đã định hướng một số tuyến du lịch để du khách tham khảo. Chẳng hạn như tuyến du lịch đi bộ dã ngoại suối Đa Nhông- thác Đá Bàn- thác Ba Tầng dài 11km, đưa du khách tìm về thượng nguồn các con suối trong vòng một ngày. Dọc tuyến, du khách sẽ men theo các dòng suối, quan sát một số loài linh trưởng, bướm và tìm hiểu nhiều cây thuốc quý, đặc biệt là mật nhân, cao khai… và cả phong lan. Tuyến đi bộ dài hơn chinh phục thác Đá Đen, thác Hầm Xe Lửa trên vùng hồ sinh thái Đa Mây dài 20km; vượt 18km đường rừng chinh phục hòn Chan ở độ cao 1.400m… Các tour này kéo dài từ 2-3 ngày, địa hình hiểm trở tạo cho du khách cảm giác như được hòa mình vào thiên nhiên, sống cùng thiên nhiên.

 

Một loại hình du lịch nữa ở Phước Bình đặc biệt dành riêng cho những du khách ưa mạo hiểm là bơi thuyền trên sông Cái. Tour này được VQG triển khai một số lần cho cả khách trong nước và quốc tế. Tuyến này dài 10km đi qua những trạng thái sông với tốc độ dòng chảy khác nhau, cho du khách cảm giác yên bình như đi trong hồ; rồi lao mình qua ghềnh thác, thách thức cùng dòng chảy xiết.

 

Hướng phát triển du lịch tạo sinh kế cho cộng đồng

 

Vùng đệm của VQG Phước Bình có cộng đồng nhiều dân tộc sinh sống, nhiều nhất là đồng bào Raglai với bản sắc văn hóa độc đáo, gợi mở hướng du lịch sinh thái kết hợp văn hoá Raglai bản địa. Ông Pi-năng Sơn, Trưởng thôn Bố Lang là người thường xuyên cùng cán bộ VQG hướng dẫn tour cho du khách. Ông Sơn cho hay: Bụng người Raglai hiền hòa. Khách đến tham quan VQG nhiều đoàn về thôn cùng sinh hoạt với người làng. Chúng tôi chơi đàn Cha-pi, khèn hơi, mã la mừng người mới đến và tự hào kể cho du khách nghe về chiến tích bẫy đá Pi-năng Tắc. Khách du lịch còn thích thú với những đồ dùng thủ công do chính tay người Raglai chúng tôi làm từ dây rừng và cây rừng như gùi, nỏ, cung tên, rổ, nia… Các hoạt động liên quan đến du lịch như thế này cũng tạo cho không ít gia đình có thêm nguồn thu nhập.

 

Ông Nguyễn Công Vân, Giám đốc VQG Phước Bình cho biết: VQG Phước Bình có thể tổ chức rất nhiều hoạt động du lịch sinh thái-cộng đồng như tham quan rừng nguyên sinh, tắm nước suối trong xanh; du thuyền trên suối ngắm cảnh; đi bộ tham quan rừng với sự hướng dẫn của người dân địa phương; ngủ qua đêm tại nhà sàn của đồng bào; thưởng thức các món ăn địa phương; tìm hiểu các hoạt động văn hoá, sản xuất, đời sống người bản địa; đi bộ hoặc đạp xe đạp qua các bản làng; thăm và khám phá những nét có một không hai trong văn hoá của người Raglai-Chu ru. Chính điều này tạo động lực để cộng đồng dân cư ở Phước Bình cùng tham gia phát triển các dịch vụ du lịch, phát triển kinh tế, tăng thu nhập từ các sản phẩm du lịch.

 

Để tạo bứt phá trong du lịch, VQG Phước Bình đã đầu tư cơ sở lưu trú với 15 phòng (2-3 giường/phòng) phục vụ nhu cầu nghiên cứu của chuyên gia và nghỉ dưỡng cho du khách; nhà trưng bày các tiêu bản động vật, thực vật quý hiếm sinh sống trong các khu rừng của VQG; khu trưng bày các sản phẩm thủ công mỹ nghệ của đồng bào các dân tộc bản địa. Đồng thời, thành lập một Trung tâm giao dịch về du lịch và dịch vụ du lịch đặt tại Văn phòng VQG Phước Bình nhằm chủ động đón khách du lịch.

 

Trong hướng thúc đẩy kinh tế du lịch, VQG Phước Bình còn tạo lập nhiều sinh kế cho cộng đồng địa phương, với quan điểm chia sẻ lợi ích cùng người dân vùng đệm để thực hiện hiệu quả mục tiêu bảo tồn và phát triển bền vững tài nguyên môi trường. Trước mắt, VQG sẽ tập huấn cho một nhóm người địa phương tham gia hướng dẫn các tour sinh thái-văn hóa-lịch sử, trải nghiệm văn hóa cộng đồng; liên kết với doanh nghiệp tạo đầu ra ổn định cho sản phẩm thủ công mỹ nghệ của đồng bào Raglai và Chu-ru; bảo tồn và phát triển nghề làm thuốc của người địa phương, đưa sản phẩm cây thuốc trở thành đặc sản du lịch phục vụ du khách…

 

Có thể thấy rằng, phát triển du lịch sinh thái dựa trên các thế mạnh về rừng, về cộng đồng bản địa kết hợp các tour, tuyến du lịch khác trong tỉnh đã tạo ra sản phẩm du lịch hấp dẫn, mang tính đặc thù của VQG Phước Bình. Nhờ đó, những năm gần đây, lượng khách đến với VQG Phước Bình tăng nhiều hơn. Trong năm 2013, VQG Phước Bình đón gần 600 khách trong nước và quốc tế cùng hàng trăm lượt khách trong tỉnh. Riêng trong dịp lễ 30/4 và 1/5/2014, đã có trên 350 khách du lịch chọn VQG Phước Bình làm điểm dừng chân tham qua, nghỉ dưỡng.

 

Gần đây, Phước Bình càng được biết đến nhiều hơn khi VQG Phước Bình đang “sở hữu” đàn bò tót và bò tót lai trên 10 con. Khách vãng lai có người ví tìm về Phước Bình là tìm về xứ sở bò tót! Thiên nhiên kỳ thú đã tạo nét riêng cho sức hút của du lịch sinh thái gắn với du lịch văn hóa cộng đồng ở VQG Phước Bình. Và như vậy, Ninh Thuận tự hào có thêm một địa chỉ “đỏ” trên bản đồ du lịch Việt Nam.

 

Nguồn: Vietnamtourism.gov.vn

Suối Đa Nhông – Dải lụa vắt ngang núi rừng Phước Bình

Với không gian tĩnh lặng, nước suối trong lành hòa quyện với vẻ đẹp hoang sơ, quyến rũ của núi rừng, suối Đa Nhông luôn là điểm đến hấp dẫn du khách tham quan, nghỉ dưỡng mỗi dịp cuối tuần.

Suối Đa Nhông còn có tên gọi khác là Gia Nhông theo tiếng dân tộc Raglai, nằm cách TP. Phan Rang – Tháp Chàm khoảng 70km xuôi về hướng quốc lộ 27 đi Đà Lạt, đến ngã ba quốc lộ 27B rẽ phải theo hướng Tây Bắc. Suối Đa Nhông nằm trong hệ thống vườn thực vật Vườn Quốc gia Phước Bình – nơi lưu giữ sự đa dạng của nhiều loài động thực vật quý hiếm.

 

 

Suối Đa Nhông được thiên nhiên ưu ái ban tặng những giá trị tuyệt tác không chỉ về mặt du lịch sinh thái mà còn có giá trị về mặt nghiên cứu sinh học, góp phần làm phong phú hệ thống du lịch tỉnh nhà và tạo nên nét độc đáo riêng cho hệ thống Vườn Quốc Gia Phước Bình.

 

Đến với suối Đa Nhông, du khách có thể chiêm ngưỡng vẻ đẹp hoang sơ quyến rũ cùa dòng suối mát lạnh để chìm đắm lòng mình, du dương trong không gian thanh bình, vắng lặng của cảnh lạc núi rừng. Ngoài ra, nơi đây thích hợp cho các buổi dã ngoại, cắm trại, đi bộ trekking khám phá núi rừng, tìm hiểu về cuộc sống cư dân bản địa hay hòa mình vào dòng suối mát lạnh, tai văng vẳng theo tiếng nhạc của những cô gái Raglai vang vọng hòa trong tiếng suối róc rách len lỏi chảy qua từng phiến đá.

 

Con đường dẫn du khách vào khu vực suối dài gần 2km, du khách phải trải qua các bậc thang đường rừng, lúc lên cao, lúc xuống thấp, hai bên là những hàng cây to vươn cao lên đón ánh nắng mặt trời, những nhành lan rừng khoe sắc dưới những tán cây rậm rạp. Du khách có dịp trải nghiệm khám phá nét độc đáo của loài hoa này. Càng đến gần khu vực suối, tiếng suối càng vang vọng rõ hơn, mỗi lúc một lớn dần. Tiếng suối chảy trong khu rừng vắng hòa trong tiếng nói cười của du khách, tạo nên bản hòa âm thật đặc sắc.

 

Suối Đa Nhông cao khoảng 3m, nơi có độ sâu cao nhất là 5m, nhiệt độ nước vào buổi sáng khoảng 5-100C. Nơi đây thích hợp cho du khách tắm vào buổi trưa và hấp dẫn du khách với các màn lộn nhào từ trên đá xuống khu vực sâu nhất của suối.

 

Vào mùa mưa dòng suối Đa Nhông tung bọt trắng xóa, những chỗ sâu nước chảy cuồn cuộn kêu rít lên như muốn tranh giành để chảy nhanh về phía hạ nguồn, nơi có dòng sông Cái đón nhận. Du khách sẽ có cơ hội ngắm nhìn thỏa thích dòng suối chảy, chụp những bức hình đẹp cho nhật ký du lịch của mình.

 

Vào mùa khô, nước suối chảy nhẹ qua những vách đá, phiến đá lớn nhỏ sẽ thích hợp cho khách tham quan đắm mình trong những dòng nước mát lạnh, du dương trong tiếng đàn Chapi vang vọng khắp núi rừng.

 

Suối chảy dài hàng km trước khi đổ về hạ nguồn là sông Cái, đứng trên khu vực núi cao, du khách có dịp chiêm ngưỡng vẻ đẹp tuyệt mỹ của dòng suối, như dải lụa mềm vắt ngang khu vực rừng núi Phước Bình. Dòng suối trắng xóa len lỏi qua từng khu vực đá, những hàng cây, bụi rậm theo từng tầng từng tầng trông rất đẹp.

Nguồn: Vietnamtourism.gov.vn

Trang phục của dân tộc Bố Y ở Lào Cai

Người Bố Y mặc áo ngắn năm thân xẻ nách phải, cổ, ống tay áo, chỗ cài cúc được trang trí và viền vải khác màu hoa văn sặc sỡ.

Áo của phụ nữ Bố Y có hai loại, áo trong và áo ngoài. Áo trong (pủ đy) là loại áo kiểu tứ thân mở ngực, có một chiếc cúc đồng cài giáp cổ. Hai vạt áo trước có hai túi nhỏ cân xứng nhau để đựng tiền và đồ. Đây là loại trang phục cố truyền của phụ nữ Bố Y, ngày nay rất ít người sử dụng nó mà cất kỹ trong hòm, khi chủ nhân quá cố sẽ mặc để sang bên kia thê giới.

 

Trong khi đó, áo ngoài của đồng bào Bố Y (pủ pấp) được làm bằng vải thô, nhuộm chàm dài khoảng 60 cm và rộng chừng 55 cm. Áo may kiểu tứ thân không có cúc cài, chỉ có một đôi dây vải, một chiếc đính phía dưới vạt áo trái, một chiếc đính nơi xẻ tà nách bên phải, khi mặc áo chúng được buộc lại với nhau.

 

Trang phục phụ nữ Bố Y đẹp hơn, đặc sắc hơn là nhờ chiếc khăn đội đầu, váy và tạp dề. Khăn đội đầu (ba can) được làm bằng vải nhuộm chàm dài 300 cm, rộng 35 cm. Hai đầu khăn được khâu vắt mép bằng chỉ màu ghi, cạnh mép khăn dùng chỉ màu khâu thưa để đường chỉ nổi rõ có tính chất trang trí cho khăn

 

Váy của phụ nữ Bố Y được dệt nhiều màu sắc như xanh, đỏ, tím, ghi và chàm. Cách mặc váy truyền thống của phụ nữ Bố Y: trước hết đặt váy to vào giữa bụng và buộc dây sau lưng, sau đó đặt váy nhỏ vào giữa lưng và buộc dây trước bụng. Bộ váy truyền thống của phụ nữ Bố Y thực chất là hai mảnh vải xếp nếp khép lại, khi mặc tạo kẽ hở (váy hở) ở hai bên hông để đi lại dễ dàng. Trước đây, họ thường mặc váy trong các dịp lễ hôi, cưới xin, thì nay, tập tục đó đang dần bị mai một.

 

Tạp dề (vẩy dao) bằng vải thô nhuộm chàm dài khoảng 115cm, rộng 80cm. Tạp dề được đeo ngoài áo và váy trong những dịp lễ tết, hội hè, cưới xin gồm hai phần: yếm che và dây đeo. Yếm che bằng vải chàm, giữa yếm có thêu họa tiết hoa văn hình con cua cách điệu. Dây đeo bằng vải chàm được đính hai bên cạnh nhỏ của tạp dề. Khi dùng buộc vòng qua cổ. Dây buộc sau lưng được đính trên hai cạnh to của tạp dề, khi dùng buộc thắt sau lưng.

 

Cũng giống như cách làm đẹp của phụ nữ dân tộc khác, phụ nữ Bố Y thường trang bị cho mình nhiều loại phụ kiện thời trang đi kèm như dây chuyền, vòng cổ, vòng tay. Trong lễ, tết họ mặc áo dài liền váy kiểu chui đầu. Cổ áo ny rộng xuống tới bụng có thuê hoa văn hình hoa lá đối xứng, ống tay viền vải khác màu ở cửa tay. Bên trong mặc váy nhiều nếp gấp kiểu Hmông Hoa. Đầu đội khăn chàm đen có thêm hoa văn bằng chỉ màu, trong khi đó, tóc được búi ngược lên đỉnh đầu.

 

Cách ăn mặc của dân tộc Bố Y ngày nay khiến nhiều người cho rằng nó giống với người Nùng, thậm chí phụ nữ nhóm Tu Dí ăn mặc theo kiểu người Hán nhưng áo có ống tay rời.

 

Trong khi phụ nữ thường vận trang phục cầu kỳ thì nam giới khá đơn giản với áo cổ viền, loại áo cánh ngắn, tứ thân,quần lá tọa màu chàm bằng vải tự dệt.

 

Mặc dù trong quá trình lịch sử, người dân tộc Bố Y bị nhiều trào lưu văn hóa khác du nhập nhưng họ vẫn giữ được nét riêng độc đáo, đó là lối mặc và trang trí đi kèm với Xiêm và phong cách áo dài mang tính thẩm mỹ riêng./.

 

Nguồn: Vietnamtourism.gov.vn

Khám phá du lịch Phú Yên – dấu ấn riêng từ biển

Nằm trên dải đất miền Trung, Phú Yên được xem là một trong những tỉnh có phong cảnh thiên nhiên “sơn thủy hữu tình” với nhiều thắng cảnh kỳ thú, độc đáo và hấp dẫn. Sự đa dạng về địa hình, cảnh quan thiên nhiên cùng với bề dày lịch sử văn hóa đã tạo cho nơi đây tiềm năng du lịch với những nét đặc trưng riêng.

Những thắng cảnh độc đáo

 

Với bờ biển dài 190km, thiên nhiên đã ban tặng riêng cho Phú Yên hàng chục bãi tắm thơ mộng trên bờ cát trắng. Nét đẹp chung của hầu hết các bãi tắm ở đây là có sự kết hợp hài hòa giữa núi non và biển cả. Bên những rặng phi lao và rừng dừa xanh ngát là những bãi cát trắng mịn, thoai thoải, nước biển luôn trong xanh và lặng sóng. Nhiều nơi mang vẻ đẹp tự nhiên hoang sơ kỳ thú như: Đầm Cù Mông, vịnh Xuân Đài, vịnh Vũng Rô…

 

 

Không chỉ cuốn hút du khách ở những bãi biển đẹp, về với Phú Yên du khách sẽ được thả mình vào những trải nghiệm khó quên. Từ thành phố Tuy Hòa, theo quốc lộ 1A về hướng Bắc khoảng 40km, đến thị trấn Chí Thạnh rẽ phải về phía Đông khoảng 11km là đến Gành đá đĩa. Gành rộng khoảng 50m và trải dài hơn 200m. Nhìn từ xa, Gành trông như những chồng đĩa trong lò gốm hay những bậc tam cấp nhô ra ngoài biển. Du khách có thể dạo chơi trên những tầng đá, cảm nhận vị mặn của biển, cái rát nhẹ của gió, cảm giác ồn ào của những đợt sóng đập mạnh vào bờ, hay ngắm những đoàn thuyền trên biển. Đối với những người yêu nhiếp ảnh thì đây quả là một điểm đến lý tưởng…

 

Một địa danh khác gắn với truyền thuyết về nàng tiên tên Loan, cưỡi chim ô thước dạo chơi vùng trời Nam. Khi đến vùng đất này, nàng nảy sinh tình yêu với chàng trai nghèo nên ở lại trần gian đó chính là danh thắng cấp Quốc gia đầm Ô Loan. Vào lúc bình mình, khi mặt trời vừa nhô lên từ những triền núi thấp, đầm Ô Loan trông như chú chim khổng lồ đang trong tư thế sẵn sàng tung cánh bay vút lên bầu trời. Cũng góc nhìn ấy, khi hoàng hôn xuống, đầm tựa như con chim đang xoải cánh tìm chốn bình yên… Nếu bạn muốn ngắm bình minh tại một nơi tuyệt đẹp để có được xúc cảm tuyệt vời giữa không gian đầy sắc màu ở Việt Nam thì có lẽ chỉ có ở Phú Yên mà thôi. Đến nơi đây, du khách tìm về với Bãi Môn – Mũi Điện, ở lại qua đêm, tận hưởng không khí trong lành và chờ đón ánh bình minh đầu tiên trên dải đất liền Việt Nam. Ngoài ra, đứng trên ngọn hải đăng có trên 100 năm tuổi ta có thể nhìn bao quát đại dương mênh mông; đặt chân lên cột mốc ghi tọa độ số 0 (Điểm cực Đông) của Tổ quốc…

 

Không chỉ lợi thế ở vẻ đẹp thiên nhiên, Phú Yên còn là một vùng đất có bề dày lịch sử và chiều sâu văn hóa với sự đan xen, giao thoa của nền văn hóa Việt – Chăm… Cùng với đó là các sinh hoạt văn hóa truyền thống gắn liền với tâm thức về biển như: Lễ hội cầu ngư, hò bá trạo… Tất cả làm cho diện mạo du lịch của Phú Yên có sự hòa kết giữa giá trị thiên nhiên với giá trị nhân văn.

 

Thưởng thức những món ăn mang hương vị của biển

 

Đến với Phú Yên ngoài việc thưởng ngoạn các danh thắng, di tích, lễ hội… mà không thưởng thức những món ăn gắn liền với phong vị của biển thì chuyến đi của du khách chưa trọn vẹn. Cá ngừ đại dương, có lẽ là món ăn được nhắc nhiều nhất mỗi khi du khách đến với Phú Yên. Đây là món ăn được ưa chuộng của nhiều nước châu Á, nhất là các nước Nhật Bản, Đài Loan… Du khách có thể cảm nhận được vị ngọt lịm của thịt cá ngừ đại dương đỏ tươi được thái thành lát mỏng và to, chấm với mù tạc, xì dầu… Ngoài ra, mắt cá còn là một món ăn có mùi vị độc đáo và bổ dưỡng.

 

Nếu muốn tự tay mình trở thành “đầu bếp” du khách có thể tìm đến đầm Ô Loan, lên thuyền theo các thợ lặn ra giữa đầm, mang thêm gia vị, thức uống và bếp lò để thưởng thức món sò huyết Ô Loan. Còn có thú nào hơn cảnh ngồi trên khoang thuyền, tự tay mình nướng lấy những chú sò mà mình thích nhất, rồi cho vào miệng cảm nhận vị ngọt thơm, béo béo mịn màng nơi đầu lưỡi…

 

Ngoài ra, khi đến với Phú Yên, ta sẽ còn được thưởng thức nhiều món ăn hấp dẫn gắn liền với những địa danh sinh ra chúng như: Cốm nếp Phong Hậu, bánh tráng Hòa Đa, cá mú Sông Cầu, tôm hùm Vũng Rô …

 

Với tiềm năng du lịch mang dấu ấn riêng từ biển và con người giàu lòng nhân hậu, mến khách, tương lai không xa Phú Yên sẽ trở thành điểm hẹn văn hóa, thể thao, du lịch mới của quốc gia và khu vực./.

 

 

Nguồn: Vietnamtourism.gov.vn

Vịnh Triều Dương (Bình Thuận) – Đểm đến hấp dẫn

Thuộc xã Ngũ Phụng, huyện Phú Qúy, tỉnh Bình Thuận, với chiều dài bờ biển khoảng 2km, vịnh Triều Dương là nơi có có bãi biển đẹp, cát trắng mịn với nước biển trong xanh, êm đềm.

Chập chùng xa xa là hàng dương xanh ngát rì rào hòa quyện với tiếng sóng vỗ bờ tạo nên âm thanh dập dìu, thơ mộng làm say lòng bao du khách dừng chân nơi đây. Không gian yên tĩnh, khí hậu trong lành, mát mẻ cùng những rặng dừa xanh trĩu quả, ngọt nước là minh chứng về một hình ảnh đẹp và yên bình của huyện đảo Phú Quý.

 

 

Buổi chiều ở Vịnh Triều Dương là khoảng thời gian thích hợp nhất để bạn đắm mình trong làn nước biển xanh trong mát lạnh, những con sóng vỗ nhẹ tạo cảm giác thư giãn thích thú và dễ chịu. Bãi cát trắng trải dài lấp lánh dưới ánh nắng dịu nhẹ cùng làn gió mang vị mặn của biển khiến người ta cảm thấy tâm hồn tươi mát và thoải mái hơn, đặc biệt mỗi khi hoàng hôn xuống hình ảnh thấp thoáng của làng chài Phú Quý được phác họa nên một bức tranh thật đẹp của cuộc sống thanh bình nơi đây.

 

Đến với Phú Quý sẽ giúp du khách phương xa được khám phá và cùng trải nghiệm cuốc sống yên bình của người dân hải đảo, cùng giăng lưới thả câu, cùng kéo lưới lên để gỡ những con cá, con mực tươi roi rói còn giãy đành đạch trong lòng bàn tay.

 

 

Vịnh Triều Dương còn là nơi hội tụ, vui chơi của người dân trên đảo vào những dịp lễ, tết…Là một hòn đảo còn hoang sơ được thiên nhiên ưu ái khí hậu mát mẻ quanh năm và có nhiều bãi tắm đẹp, với kế hoạch phát triển du lịch của địa phương đã được tỉnh phê duyệt, trong tương lai không xa chắc chắn huyện Đảo Phú Qúy sẽ là điểm thăm quan, nghỉ dưỡng của nhiều du khách phương xa./.

 

Nguồn: Vietnamtourism.gov.vn

Pâng Loóng – điệu múa vui nhộn của người Cao Lan

Múa Pâng Loóng (hay còn gọi là múa gõ muống) – một điệu múa đơn giản, âm thanh vui nhộn nhưng có ý nghĩa quan trọng trong đời sống đồng bào là nét văn hóa đặc trưng hấp dẫn trong Lễ mừng cơm mới của người Cao Lan (Yên Bái).

Điệu múa này ra đời từ rất lâu và đến nay vẫn được lưu truyền trong đồng bào dân tộc Cao Lan. Điệu múa Pâng Loóng mang tính ước lệ cao, miêu tả lại quá trình làm nương của người Cao Lan, từ lúc tra hạt cho đến lúc thu hoạch mang về giã thành gạo. Lúa nếp được lấy về để làm đồ cúng lễ phải là những bông nếp to, đều. Thóc nếp được rang qua lửa rồi đưa vào giã trong một chiếc muống được làm từ thân cây gỗ rừng mang hình thuyền độc mộc.

 

 

Nhạc cụ sử dụng cho điệu múa này chủ yếu là bộ gõ bao gồm trống và các ống tre. Loại nhạc cụ này tạo nên ấn tượng sôi động và khó quên trong lòng người xem.

 

Pâng Loóng là sự kết hợp khéo léo giữa người nam, người nữ và những thanh âm phát ra từ bộ gõ mà ai cũng có thể tham gia được. Là điệu múa không hạn chế về số lượng, tuổi tác và giới tính nên mỗi dịp tổ chức múa Pâng Loóng đã tạo sự vui tươi, phấn khởi cho những người già.

 

Còn đối với nam thanh nữ tú thì đây là cơ hội để các bạn tâm sự hẹn hò. Khi múa, các “diễn viên” không chuyên sẽ cầm các ống tre đứng xung quanh muống rồi gõ vào muống với tiết tấu nhanh và mạnh mẽ. Cứ đều đặn như thế, họ say sưa cùng nhịp gõ, có khi họ gõ đến nửa đêm, trong ánh lửa bập bùng rồi mọi người thay nhau gõ muống, người thì nấu cháo, người thì làm bánh cùng nhau ăn và vui chơi, tạo không khí phấn khởi sau một mùa bội thu cho cả làng, cả bản.

 

Tiếng gõ muống, tiếng nhạc đệm từ những nhạc cụ truyền thống chính là một phần quan trọng tạo nên sự khác lạ, thu hút trong điệu múa Pâng Loóng. Người dân hò reo theo giai điệu rộn ràng của tiếng chày, tiếng muống làm cho không khí thêm náo nhiệt.

 

Múa Pâng Loóng được người Cao Lan lưu truyền và gìn giữ từ bao đời nay. Sau một mùa bội thu, người dân Cao Lan lại tụ họp với nhau múa điệu Pâng Loóng để tạ ơn trời đất, thần linh đã cho người dân một năm mưa thuận, gió hòa, mùa màng tốt tươi và cũng là để chúc phúc cho vụ mùa tới.

 

Pâng Loóng là một cuộc vui, một nét đẹp trong sinh hoạt văn hóa đã thấm sâu vào đời sống văn hóa, văn nghệ, nghi thức trong cộng đồng người Cao Lan bao đời nay. Điệu múa này đã trở thành cầu nối tâm linh giữa đất trời và lòng người, thể hiện khát vọng chinh phục thiên nhiên của những người dân lao động hiền lành, chất phác./.

Nguồn: Vietnamtourism.gov.vn

Hạ Long – Một trong những vùng biển tuyệt vời ở Việt Nam

Truyền thuyết kể lại rằng, ngày xửa ngày xưa, trên bầu trời Vịnh Hạ Long, nơi tiên giới có một vị thần Rồng sinh sống.

Khi giặc ngoại bang theo đường biển xâm lược Việt Nam, Ngọc Hoàng sai Rồng thần tạo những lớp thành luỹ tự nhiên để bảo vệ con người. Thần Rồng tuân lệnh, liền bay xuống bờ biển Hạ Long, miệng phun châu, đuôi quẫy nước tạo nên từng dãy núi đá chặn đứng quân giặc xâm lược. Khung cảnh hoang sơ này ngày nay được biết đến với tên gọi “Vịnh Hạ Long” – “Hạ Long” theo tiếng Việt có nghĩa là “nơi rồng hạ xuống”.

 

 

Một cách giải thích khác, dưới góc độ khoa học (và tất nhiên là kém thú vị hơn) về Vịnh Hạ Long, đó là khung cảnh nơi đây được hình thành do tác động bào mòn của gió và sóng biển. Tuy nhiên, dù lý giải như thế nào thì vẻ đẹp lộng lẫy nơi đây vẫn không thể nào bàn cãi. Giữa vùng nước nông của Vịnh Bắc Bộ mọc lên hàng ngàn đảo đá thẳng đứng như domino, một số đảo núi lại nằm nghiêng những góc nghiêng không tưởng.

 

“Theo quan niệm truyền thống của người Việt, rồng là loài vật bảo vệ con người” – Ông Vo Tan (nguyên bản tiếng Anh không có dấu nên không rõ là Võ Tân hay Võ Tần, Võ Tấn – người dịch), một hướng dẫn viên hơn 20 năm ở Vịnh Hạ Long, giải thích – “Tôi đã từng được nhìn một bức ảnh Vịnh Hạ Long chụp từ trên cao. Và đúng là nhìn nó cũng khá giống một con rồng thật!”.

 

Khi đi thuyền thăm Vịnh Hạ Long, bạn sẽ dễ dàng hiểu được vì sao những đảo đá lại có những cái tên như hòn Gà Chọi, hòn Ngón Tay, hòn Trinh Nữ v.v.. Chúng được đặt tên theo trí tưởng tượng phong phú của những ngư dân sống cả đời trên biển. Những hòn đảo đá này không thích hợp cho con người sinh sống nhưng lại là nơi lý tưởng cho nhiều loài sinh vật khác. Từ trên cao, những con đại bàng biển lao xuống nước quắp lấy cá, mang theo con mồi còn đang quẫy rồi lao vụt lên không trung. Ở dưới nước, những con sứa trôi về các hốc nằm im lìm dưới các vách đá…

 

Một truyền thuyết địa phương khác có kể về một sinh vật nguy hiểm sống dưới biển Hạ Long, một con rắn biển khổng lồ giống với con quái vật hồ Lốc-nét. Tôi đã hỏi ông Tan không biết nếu một cuộc chiến xảy ra giữa Rồng thần và rắn khổng lồ thì bên nào sẽ thắng. “-Tất nhiên Rồng thần sẽ thắng!” – Người hướng dẫn viên cười – “Trong những câu chuyện truyền thuyết của Việt Nam, người tốt luôn luôn thắng!”.

 

Nguồn: Vietnamtourism.gov.vn

Tràng An – Nơi hội tụ nhiều giá trị đặc biệt

Thiên nhiên thật ưu ái khi ban tặng cho Ninh Bình một khu danh thắng tuyệt đẹp như Khu du lịch sinh thái Tràng An- nơi được ví như một Vịnh Hạ Long trên cạn, một bảo tàng địa chất ngoài trời với hệ thống hang động hết sức phong phú.

Giờ đây, người dân Ninh Bình càng tự hào hơn khi Tràng An đã chính thức được UNESCO công nhận là di sản thế giới hỗn hợp đầu tiên của Việt Nam ở cả tiêu chí văn hóa và thiên nhiên.

 


Cảnh quan Tràng An có vẻ đẹp đặc biệt giống như một rừng đá vôi được nâng lên và chia cắt tạo thành một cảnh quan đá vôi hùng vĩ có góc thẳng đứng bao phủ bởi rừng cây uốn lượn quanh là các thung lũng hẹp và những hẻm núi tạo thành một mạng lưới đường thủy kéo dài và vùng đồng bằng ngập nước.


Phong cảnh thiên nhiên nơi đây tuyệt đẹp, chỉ hơn chục phút hòa mình vào không gian mây trời non nước, thuyền nhỏ sẽ đưa du khách lách vào một nhánh sông hẹp bốn bề bao bọc bởi những dãy núi có đỉnh nhọn vút, vách dốc thẳng đứng như những thác đá, nước trong xanh có thể nhìn thấy vô vàn cây thủy sinh đung đưa dưới đáy cứ ngỡ có lối ra, người lái thuyền đưa du khách tiếp tục tiến sâu vào bên trong để khám phá một không gian liên tục thay đổi, lúc thuyền lọt thỏm giữa hai vách đá sừng sững vây sát, lúc lại vòng ra một vùng sông nước thoáng đãng, mây bay thật kỳ diệu.

 

Không chỉ vậy, khu hang động Tràng An còn được ví như một bảo tàng địa chất ngoài trời với địa hình được bao bọc bởi toàn bộ những dãy núi đã vôi hình cánh cung ở giữa vùng chiêm chũng ngập nước. Trên đỉnh các núi đá vôi phổ biến dạng địa hình casto, đá tai mèo rất có giá trị trong nghiên cứu khoa học địa chất, biến đổi khí hậu, hiện tượng biển tiến, biển thoái. Dưới chân các núi đá vôi là một hệ thống hang động hết sức phong phú. Theo thống kê hiện nay chỉ tính riêng số hang động xuyên thủy đã khảo sát là 48 hang, xen lẫn 31 thung hẹp, trong đó có những hang xuyên thủy dài hàng cây số như hang Địa linh, hang Tối, hang Sáng, hang Nấu rượu, hang Phi, hang Sơn Dương….


Cùng với hệ thống hang động, hơn 30 thung ngập nước là điểm nhấn đáng lưu ý. Mỗi thung là một bức tranh thủy mặc khác nhau về núi và nước, vừa hùng vĩ vừa thơ mộng hữu tình. Môi trường thiên nhiên đa dạng và hài hòa giữa phong cảnh núi non sông nước hang động, rừng rậm  bao phủ nhiều chim muông và thú quý tạo nên cảnh sắc non xanh nước biếc, là nơi mà di sản thiên nhiên và con người gần gũi, quan hệ mật thiết với nhau.

 

Vẻ đẹp vừa kỳ diệu lại thanh thản, bí ẩn nhưng trầm mặc của Tràng An còn bởi đây là kinh đô của nhà nước phong kiến đầu tiên của Việt Nam. Nơi đây được đánh giá là khu vực có vẻ đẹp tự nhiên độc đáo vào loại quý hiếm trên thế giới. Với lối xây thành tận dụng lợi thế của thiên nhiên, lấy núi làm thành, lấy sông làm hào, nối những dãy đá vôi với nhau bằng các tường thành nhân tạo dựng nên một kinh đô, kinh thành vững chãi, một kinh đô đá độc đáo hiếm hoi khiến nhân loại phải thán phục.


Hiện tại, tuy kinh thành Hoa Lư xưa không còn nữa, nhưng sự hiện hữu của những di tích gắn liền với ba triều đại Đinh, Lê và Lý như đền thờ vua Đinh Tiên Hoàng, đền thờ vua Lê Đại Hành, những dấu tích của thành Đông, thành Bắc, thành Dền, thành Nam… vẫn được bảo tồn khá nguyên vẹn tạo nên một không gian văn hóa Hoa Lư huyền thoại.

 

Nằm trong quần thể danh thắng Tràng An cũng đã được UNESCO xét duyệt di sản còn có chùa Bái Đính, hay khu văn hóa tâm linh núi chùa Bái Đính là một phần trong quần thể di sản. Chùa nằm trong núi Bái Đính ở xã Gia Sinh- Gia Viễn- Ninh Bình.


Nơi đây không chỉ đơn thuần là một khu chùa thờ phật tổ, thờ thần núi và chúa Thượng Ngàn mà còn gắn với Lễ tế cờ khi vua Quang Trung ra Thăng Long đại phá quân Thanh. Chùa Bái Đính mới xây nằm ngay cạnh ngôi chùa cổ, mảnh đất có hơn nghìn năm lịch sử. Bước sang thời hiện đại, Bái Đính còn là một di tích cách mạng thuộc chiến khu Quỳnh Lưu thời kháng Nhật, đánh pháp.

 

Dự án mở rộng chùa Bái Đính thành một khu chùa nằm trong hạng mục mở rộng tôn tạo và phát huy giá trị lịch sử của di tích cố đô Hoa Lư được hoàn thành vào năm 2010 trong dịp Đại lễ 1000 năm Thăng Long – Hà Nội. Đây được xem là khu chùa có quy mô lớn nhất Việt Nam. Tương lai nơi đây trở thành một khu văn hóa tâm linh hấp dẫn với nhiều kỷ lục Việt Nam và khu vực. Kiến trúc hoành tráng đồ sộ nhưng đậm chất Á Đông của chùa Bái Đính phù hợp với tâm lý khát vọng vươn lên của người Việt. Chùa Bái Đính là ngôi chùa lớn nhất Đông Nam Á, ngôi chùa của kỷ lục Việt Nam hứa hẹn sẽ là một trung tâm Phật giáo.

 

Ngoài vùng quần thể hang động Tràng An, khu danh thắng Tam Cốc Bích Động và cố đô Hoa Lư vừa là trung tâm vừa là vùng lõi của di sản. Từ đây, khu sinh thái Tràng An có hệ thống đường thủy thông với Tam Cốc Bích Động  và cả hai khu danh thắng này có nhiều nét tương đồng có thể mở rộng cho một tour khám phá du lịch đầy thú vị. Nằm trên địa phận xã Ninh Hải- huyện Hoa Lu- xã Ninh Bình, Tam Cốc Bích Động  vẫn giữ được nét nguyên sơ thiên tạo, đẹp và cổ kính với lối kiến trúc độc đáo, chùa và động đan xen. Bích Động được mệnh danh là Nam Thiên Đệ Nhị động với nhiều hang động mây nước hòa quyện cùng với những di tích lịch sử, văn hóa nổi tiếng trong và ngoài nước như đền Thái Vi, chùa Bích động, hang động Tam Cốc, động Tiên

 

Từ tháng 9 năm 2012, hồ sơ quần thể danh thắng Tràng An đã được trình lên tổ chức UNESCO. Trong những tiêu chí của UNESCO đưa ra, Tràng An có hai giá trị tiêu chí nổi bật đó là tiêu chí thứ 7 về giá trị địa chất địa mạo và tiêu chí thứ 9 về giá trị thẩm mĩ.


Tiêu chí thứ 7 của UNESCOquy định, di sản là những giá trị nổi bật đại diện cho những giai đoạn quan trọng của lịch sử trái đất, bao gồn cả việc ghi chép lại cuộc sống, các quá trình địa chất lớn đang tiếp diễn trong sự phát triển của các địa mạo hay những đặc điểm địa chất và địa hình lớn.


Trong khi đó, tiêu chí thứ 9 về giá trị thẩm mỹ, di sản chứa đựng những hiện tượng thiên nhiên siêu việt hay khu vực có vẻ đẹp thiên nhiên khác thường và tầm quan trọng thẩm mỹ.


Đây là những tiêu chí rất phù hợp với danh thắng Tràng An. Theo các chuyên gia, hiện nay trên thế giới có khoảng trên 200 di sản thiên nhiên. Trong đó 27 di sản thiên nhiên mang tính hỗn hợp về cảnh quan thiên nhiên và địa chất địa mạo. Chính vì vậy giải pháp nhấn mạnh yếu tố văn hóa qua khảo cổ học là hướng đi bền vững cho khu di tích Tràng An để được công nhận là Di sản thiên nhiên thế giới như hiện nay.


Ở Việt Nam có hai di sản cùng loại hình với quần thể danh thắng Tràng An là Phong Nha Kẻ Bảng và Vịnh Hạ Long. Tuy nhiên quần thể danh thắng Tràng An có điểm đặc biệt khác hẳn với hai di sản trên đó là có dấu chân cư trú của người Việt cổ thời tiền sử thể hiện sự định cư lâu dài của con người. Bằng chứng khảo cổ học  đã chứng minh nơi đây 5000- 6000 năm chính là một vùng biển.


Từ biển cả đã biến thành núi non hùng vĩ, từ những dãy đá vôi nguyên vẹn đã trở thành hơn 500 hang động lớn nhỏ thuộc nhiều thế hệ khác nhau có độ tuổi lâu nhất tới 32 triệu năm dưới tác động của sự thay đổi mực nước biển toàn cầu và chuyển động thăng trầm của vỏ trái đất.


Lãnh đạo tỉnh Ninh Bình khẳng định, trong suốt quá trình xây dựng quần thể danh thắng Tràng An trở thành di sản thiên nhiên thế giới, tỉnh kiên quyết gìn giữ nguyên trạng cảnh quan môi trường sinh thái, môi trường xã hội nơi đây để phát triển loại hình tham quan nghỉ dưỡng kết hợp với loại hình văn hóa tâm linh đồng thời chống mọi biểu hiện tận dụng để khai thác cạn kiệt sản phẩm du lịch.


Có thể nói, quần thể danh thắng Tràng  An có những giá trị về cảnh quan thiên nhiên hùng vĩ, kỳ thú riêng biệt và nổi trội đã lưu giữ những dấu ấn về lịch sử tự nhiên, dấu ấn về văn hóa với những di chỉ khảo cổ học tiền sử và lịch sử, lưu truyền những giá trị văn hóa truyền thống.


Năm vừa qua,  gần 4,5 triệu lượt du khách đã tìm về  nơi đây mang lại cho ngành du lịch tỉnh hơn 900 tỷ đồng. Con số này được kỳ vọng sẽ tăng lên nhanh chóng khi Tràng An đã có tên trên bản đồ du lịch thế giới – điểm đến của thiên nhiên, nơi hội tụ những giá trị di sản bền vững.

 

 

 

Nguồn: Vietnamtourism.gov.vn

TIN MỚI NHẤT